• KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  Phạm Hồng Thái

    Những Huyền Thoại và Ý Nghĩa của Tuổi Thìn trong Năm Giáp Thìn

     3d rendering illustration for happy chinese new year 2024 the dragon zodiac sign with flower, lantern, asian elements, red and gold on background. ( Translation :  year of the dragon 2024 ) stock photo

    Rồng đã tồn tại từ thời xa xưa với những câu chuyện kỳ bí và những truyền thuyết đầy màu sắc. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, quyền lực và sự thịnh vượng. Trong những nền văn minh khác nhau trên thế giới, rồng được tưởng tượng với những khả năng phi thường như biết bay, khạc ra lửa và hô mưa gọi gió…

    Rồng phương Đông được tôn sùng và thờ cúng trong các quốc gia châu Á, nhưng hình ảnh của chúng thay đổi tùy theo địa lý và thời đại. Ở Việt Nam, rồng được mô tả với hình ảnh mềm mại, hiền hòa, thường xuất hiện trong kiến trúc và nghệ thuật dân gian. Trong khi đó, rồng phương Tây thường được xem là biểu tượng của sự độc ác và hủy diệt, được tưởng tượng với khả năng khắc ra lửa và gây ra tai họa.

    Cũng theo truyền thuyết, rồng được chia thành bốn loại tượng trưng cho bốn yếu tố của thiên nhiên: lửa, nước, đất và gió. Bên cạnh đó, rồng còn có chín đứa con, mỗi đứa con mang một ý nghĩa riêng biệt và được tôn vinh theo cách khác nhau.

    Trong hệ thống 12 con giáp, con Rồng đứng ở vị trí thứ năm và là linh vật duy nhất trong bộ tứ linh được tôn sùng.

    Năm Giáp Thìn (1904, 1964, 2024) là năm con Rồng theo Âm lịch. Những người sinh năm này thường được coi là mạnh mẽ, sáng tạo và giàu trí tưởng tượng. Đối với những người sinh vào năm Giáp Thìn và các năm kết hợp như Bính Thìn, Mậu Thìn, Canh Thìn và Nhâm Thìn, con Rồng mang lại sức mạnh, quyền lực và may mắn trong cuộc sống.

    Ngoài ra, tuổi Thìn cũng có những kết hợp tốt và xấu với các tuổi khác. Những người tuổi Thìn thường hợp với tuổi Dậu, Tý và Thân, trong khi kỵ những người tuổi Tuất, Sửu và Mùi.

    Màu sắc

    Về màu sắc, người tuổi Thìn thường hợp với màu xanh lá cây, đỏ, hồng và tím, tạo nên một sức hút đặc biệt và tạo nên may mắn cho cuộc sống.

    Tính cách

    Những người sinh năm Giáp Thìn thường có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán và tự tin. Họ là những người có tham vọng lớn và luôn nỗ lực để đạt được mục tiêu của mình. Họ cũng rất sáng tạo và giàu trí tưởng tượng, luôn có nhiều ý tưởng mới mẻ và độc đáo.

    Sự nghiệp

    Những người sinh năm Giáp Thìn thường rất thành công trong sự nghiệp. Họ là những người thông minh, nhanh trí và có khả năng giải quyết vấn đề tốt. Họ cũng rất chăm chỉ và luôn nỗ lực hết mình để đạt được mục tiêu của mình. Những người này thường phù hợp với các công việc đòi hỏi sự sáng tạo, độc lập và khả năng lãnh đạo.

    Tình yêu và gia đình

    Những người sinh năm Giáp Thìn thường rất chung thủy và tận tụy trong tình yêu. Họ luôn hết lòng vì người mình yêu và luôn cố gắng vun vén cho gia đình. Họ cũng rất yêu thương con cái và luôn cố gắng dành thời gian cho gia đình.

    Sức khỏe

    Những người sinh năm Giáp Thìn thường có sức khỏe tốt. Họ là những người năng động và luôn cố gắng giữ gìn sức khỏe của mình. Tuy nhiên, họ cũng nên chú ý đến chế độ ăn uống và luyện tập thể dục để duy trì sức khỏe tốt.

    Những người nổi tiếng sinh năm Giáp Thìn:

    – Albert Einstein
    – Sigmund Freud
    – Adolf Hitler
    – Martin Luther King Jr.
    – Nelson Mandela
    – Bill Gates
    – Warren Buffett
    – Oprah Winfrey
    – Michael Jordan
    – Pele    

    Tóm lại, tuổi Thìn không chỉ là một con giáp trong hệ thống 12 con giáp mà còn là biểu tượng của sức mạnh, quyền lực và may mắn trong đời sống con người. Hình ảnh của con Rồng và những truyền thuyết xoay quanh nó đã và đang làm cho tuổi Thìn trở nên đặc biệt và có ý nghĩa sâu sắc trong lòng mỗi người.

    Thái Phạm

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  Phạm Hồng Thái

    HẠNH PHÚC

    Hạnh phúc được dịnh nghĩa là trạng thái cảm xúc tích cực, những khát vọng và ao ước trong mong muốn của hầu hết mọi người . Hạnh phúc có thể là những khi ta cảm thấy vui, hài lòng và mãn nguyện với những gì ta đang có trong cuộc sống.  Đó có thể là những giây phút bên gia đình, những buổi họp mặt, trò truyện, cười vui với bạn bè hay sự thành công, cuộc sống an toàn, điều may mắn hoặc đơn giản hơn là khi ta thưởng thức một bữa ăn ngon. Hạnh phúc cũng đến từ việc làm những điều mình yêu thích hay nhìn thấy/giúp cho người khác tìm được hạnh phúc.  Tuy nhiên, hạnh phúc không chỉ dừng lại khi ta có một cuộc sống dễ dàng, thoải mái vật chất mà còn là sự cân bằng giữa tâm hồn và trí tuệ. 

    Khi mọi người nói về ý nghĩa thực sự của hạnh phúc, họ có thể đang nói về cảm giác của họ ở thời điểm hiện tại hay cảm giác của họ về cuộc sống nói chung. Chính bởi hạnh phúc là một từ ngữ có định nghĩa rất rộng rãi nên các nhà tâm lý học và các nhà khoa học xã hội thường sử dụng từ ngữ “Pursuit happiess) khi họ nói về trạng thái cảm xúc này. “Pursuit happiness” có xu hướng tập trung vào cảm xúc của một cá nhân về cuộc sống của họ ở hiện tại. Hai thành phần chính của hạnh phúc hay pursuit happines là:

    • Sự cân bằng của cảm xúc dù ở tâm trạng tích cực hay tiêu cực, mặc dù hạnh phúc thường gắn liền với cảm xúc tích cực hơn những cảm xúc tiêu cực.
    •  Sự hài lòng trong cuộc sống: Điều này liên quan đến mức độ ta cảm thấy hài lòng với các lãnh vực khác nhau trong cuộc sống gồm những mối quan hệ trong công việc, chức vị, xã hội, v.v. và những thứ mà ta cho là quan trọng. 

    Tuy nhiên, hạnh phúc không phải lúc nào cũng đơn giản như vậy. Đôi khi, chúng ta phải trải qua những thử thách, những gian nan và thất bại để đạt được hạnh phúc thực sự. Những lúc khó khăn chính ấy là cơ hội để chúng ta phát triển và trưởng thành, để hiểu rõ hơn về bản thân và giá trị của cuộc sống. Bởi vậy, hạnh phúc không chỉ đến từ những niềm vui trần tục, mà còn từ sự mạnh mẽ, kiên nhẫn và lòng biết ơn của con người.

    Tóm lại, để đạt được hạnh phúc thực sự, chúng ta cần phải tự hỏi lòng mình, phải hiểu rõ điều gì thực sự quan trọng và mang lại ý nghĩa trong cuộc sống của chúng ta. Đôi khi, chúng ta bị lạc lối trong cuộc sống vật chất, mất hướng đi và mục tiêu. Điều quan trọng là phải nhìn sâu vào bên trong, khám phá những giá trị đích thực của bản thân và xây dựng cuộc sống dựa trên những ý nghĩa đó.

    Hạnh phúc không phải là một điểm đến mà là hành trình chúng ta phải trải qua, là quá trình chúng ta phát triển và trưởng thành từng ngày. Đó là sự cân bằng giữa niềm vui và nỗi buồn, giữa thành công và thất bại. Khi chúng ta hiểu được điều này, chúng ta sẽ biết trân trọng những gì mình có, sống hết mình trong từng khoảnh khắc và tìm thấy ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Đó mới chính là hạnh phúc đích thực mà mỗi người đều khao khát.

    Hạnh phúc không chỉ đơn thuần là trạng thái tinh thần cá nhân mà còn liên quan chặt chẽ đến mối quan hệ và cộng đồng xung quanh. Một phần quan trọng của hạnh phúc là khả năng kết nối và chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn với người khác. Trong một xã hội, sự hỗ trợ và liên kết giữa mọi người đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường sống tích cực và hạnh phúc cho tất cả mọi người.

    Ngoài ra, còn một khía cạnh quan trọng khác của hạnh phúc là khả năng chấp nhận và sống chân thành với bản thân. Khi chúng ta có thể chấp nhận mình và yêu thương bản thân mình, chúng ta mới có thể tạo ra một tâm hồn bình an và hạnh phúc. Quá trình này thường đòi hỏi sự tự thấu hiểu, kiên nhẫn và lòng nhân từ đối với chính bản thân mình.

    Triết gia cổ đại Aristotle cho rằng hạnh phúc là mong muốn duy nhất của con người, còn tất cả những mong muốn khác của con người đều tồn tại như một cách để đạt được hạnh phúc. Ông tin rằng có bốn cấp độ hạnh phúc: Sự hài lòng, sự so sánh & thành tích của những đóng góp tích cực và từ việc đạt được sự thỏa mãn. 

    Thai Pham

  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  LỊCH SỬ,  Việt Hải

    HÁT QUAN HỌ BẮC NINH-ÂM NHẠC DÂN GIAN-CA TRÙ BẮC PHẦN

    Trước tiên khi nói về nghệ thuật ca trù thì ca trù có nhiều tên gọi, tùy từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò và hát ca công. Đây là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt.

    Ca trù là một hình thức “ca nhạc thính phòng”, thịnh hành từ thế kỷ 15, vốn là một loại ca nhạc trong cung đình, được sử dụng cho các buổi hát chúc thọ vua chúa và các buổi lễ trong triều đình, qua thời gian, ca trù dần dần phát triển rộng ra dân gian qua giới quan lại, đại gia, một số tầng lớp sĩ phu nho học giàu sang… và trở nên thông dụng. Tuy vậy ca trù khác với các loại hình dân ca khác ở chỗ nó có yêu cầu rất nghiêm ngặt quy định về số câu, số chữ, lời văn, quy định về đối ngẫu … có lẽ vì vậy mà ca trù vẫn được thưởng thức tập trung phần lớn ở tầng lớp có học thức cao rộng trong xã hội xưa.

    Chữ trù có nghĩa là thẻ tre. Những người đào hát thường dùng các thanh tre làm phách khi hát và người nghe dùng “trù” (cái thẻ tre) để thưởng cho những chỗ hát hay, cuối cùng đếm thẻ để bình giá và thưởng tiền, vì thế mà có tên gọi là Ca trù. Tư liệu sớm nhất có nói đến những chữ Ca Trù và Ả Đào là vào thế kỷ XV, căn cứ vào bài thơ  Nghĩ hộ tám giáp bài văn thưởng cho cô đào được giải  sáng tác trước năm 1500 của Tiến sĩ Lê Đức Mao, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Bài thơ này chép trong Lê tộc gia phả (A.1855) có hai lần nhắc đến 2 chữ ca trù, cho biết: hát cửa đình là hát để thờ thần trong dịp đầu xuân và việc hát ca trù đã có dùng thẻ để thưởng cho đào nương (ả đào). Như vậy, đình Đông Ngạc, Hà Nội là nơi diễn ra lệ hát Cửa đình từ rất sớm. Và đây cũng là nơi gìn giữ được tục lệ thưởng đào rất đặc sắc.

    Nghệ thuật ca trù được quốc tế công nhận:

    Ca trù đã được Hội đồng thẩm định di sản của UNESCO đánh giá như sau:

    Ca trù đã trải qua một quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo phường. Những giáo phường này đã duy trì các cộng đồng có quan hệ mật thiết, tạo nên nét đặc trưng cho ca trù. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị nghệ thuật của nó đối với văn hóa Việt Nam.

    Ca trù độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ và thể thơ riêng biệt. Theo các nghệ nhân dân gian, ca trù có 56 thể thức hoặc giai điệu khác nhau, mỗi loại này được gọi là thể cách. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu như thể ca sĩ nắn nót, trau chuốt từng chữ. Nhạc cụ được tinh giản với sự tương phản âm sắc đã làm tôn vẻ đẹp của từng thành phần tham gia hoà tấu.

    Tham gia biểu diễn ca trù có ít nhất 3 người:

    Một ca sĩ luôn là nữ (gọi là “đào” hay “ca nương”) hát theo lối nói và gõ phách lấy nhịp (phách là một nhạc cụ làm bằng gỗ hoặc tre, được gõ bằng 2 que).

    Một nhạc công nam giới (gọi là “kép”) đệm đàn đáy cho người hát. Đán đáy là một loại đàn cổ, dài, với 3 sợi dây tơ và 10 phím đàn.

    Ngoài ra, còn có một người chơi trống hoặc đánh trống chầu (gọi là “quan viên”, thường là tác giả bài hát). Sự tán thưởng mà “quan viên” dành cho người hát, hoặc bài hát được biểu lộ qua cách đánh trống. “Quan viên” đánh vào thành trống nhiều lần biểu lộ chỗ đắc ý. Nếu không hài lòng với người hát, “quan viên” đánh hai nhịp trống.

    Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ và sự tham gia từ phía khán giả là rất cần thiết. Hát ca trù là nghệ thuật hát thơ, có một hệ bài bản phong phú quy định cho từng lối hát thờ, hát chơi và hát thi. Lời lẽ, ca từ của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca trù có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi anh hùng, triết lý giáo huấn… đã thu hút sự tham gia sáng tác, thể nghiệm tài năng của nhiều văn sĩ và trí thức. Có hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ trong các bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối hợp nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách… mới thấy hết vẻ đẹp và giá trị của loại hình nghệ thuật này.

    Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, đến giữa năm 2009 có 63 câu lạc bộ với khoảng 769 người (bao gồm 513 đào nương và 256 kép đàn và người đánh trống chầu) ở 14 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Ðịnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TP. Sài Gòn) trên cả nước có hoạt động thường xuyên và có kế hoạch luyện tập truyền nghề ca trù. Tuy nhiên, số nghệ nhân có thể hát được từ 10 làn điệu trở lên là rất hiếm. Tại Viện Âm nhạc hiện đã lưu trữ được 7 điệu múa ca trù và 42 bài bản ca trù. Các văn bản Hán Nôm về ca trù là 26 bản và khoảng 25 cuốn sách về ca trù.

    Ca trù được công nhận là đã có đóng góp lớn vào văn hóa Việt Nam. Từ ca trù, một thể thơ độc đáo ra đời và trở nên có vị trí sáng giá trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Đó là thể thơ hát nói, được ưa chuộng qua nhiều thế kỷ. Ngoài ra, đàn Đáy và Phách đã trở thành những nhạc khí đặc trưng của ca trù, góp phần đưa ca trù trở nên một thể loại thanh nhạc kinh điển của Việt Nam. Với chiều dài về lịch sử, chiều sâu của nghệ thuật và mang bản sắc dân tộc rõ rệt ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới.

    Lối hát Ca Trù được công nhận là Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể: (L’opéra de Ca Tru est un patrimoine culturel immatériel):

    Ca trù là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Theo các nhà nghiên cứu khảo cổ, lịch sử, mỹ thuật, âm nhạc, vào thế kỷ XV, Ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, Ca trù đã ngày càng thẩm nhập vào hầu hết các cuộc diện của đời sống từ quá khứ và hẳn đã khẳng định tư cách độc lập và độc đáo của nó trong bức tranh chung của văn hóa dân tộc. Nghệ thuật Ca trù diễn ra trong các không gian ở đình làng, đền thờ thần, nhà thờ tổ nghề, dinh thự và ca quán thính phòng. Cùng với đó là các hình thức hát thờ, hát thi, hát cúng tế lễ lạc, hát ca tài tử, không những đóng góp vào sinh hoạt của cộng đồng làng xã, của giới trí thức mà còn góp phần vào các hoạt động lễ tiết của quốc gia trong khuôn khổ của văn nghệ đón tiếp ngoại giao.

    Ca trù được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể (intangible cultural heritage) cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại năm 2009. Phú Thọ nằm trong 17 tỉnh, thành vùng lan tỏa của Ca trù. Phú Thọ là một trong những vùng sớm được tiếp nhận và sử dụng lối hát Ca Trù trong các dịp lễ hội, đình đám, vui chơi giải trí và nó cũng là một sản phẩm tinh thần trong đời sống sinh hoạt văn nghệ dân gian của công chúng, tồn tại song hành với các làn điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo ở vùng trung du đất Tổ. Trong 2 năm (năm 2013 – 2015), địa bàn tỉnh Phú Thọ thực hiện việc kiểm tra di sản văn hóa trong phạm vi tỉnh, trong đó có sự kiểm nhận đối với di sản Ca trù. Kết quả kiểm tra này cho thấy di sản văn hóa phi vật thể Ca trù đang được lưu giữ, thực hành ở thôn Trinh Nữ, xã Bình Bộ, huyện Phù Ninh và một số Câu lạc bộ hát dân ca địa phương.

    Về Lịch Sử Và Nghệ Thuật Ca Trù…

    Lịch sử và Nghệ thuật ca trù là công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Diện, ca trù được trình bày khá rõ nét, nhiều chi tiết quan trọng cần biết về ca trù, được ghi nhận trong luận án tiến sĩ của ông, in lần đầu năm 2007. Quyển sách này đã được tái bản ra mắt bạn đọc toàn quốc nhân kỷ niệm tròn 1 năm ngày nghệ thuật ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại (vào 01/10/2009). Thư tác này của nhà biên khảo Nguyễn Xuân Diện đã cho biết thêm rất nhiều chi tiết về loại hát Ca trù trong thư mục mà tác giả đã cho biết thêm bảy quyển sách khác có nội dung về nghệ thuật ca trù theo những thể thức khác, và lại còn liệt kê ra trên bảy chục văn bia viết bằng chữ Nôm đang được tàng trữ tại Viện Hán Nôm.

    Nhờ đó, có nhiều khám phá mới mà từ trước đến nay chúng ta chưa được biết. Có những nghi vấn về Ông Tổ của Ca trù, về lúc nào danh từ “Ca trù” được dùng lần đầu tiên thì luận án văn hóa âm nhạc này đã đưa ra những bằng chứng đáng tin cậy. Mặc dầu đề tài luận án đặt trọng tâm vào nguồn tư liệu Hán Nôm về việc nghiên cứu ca trù,  có lẽ tác giả sách nên ghi thêm một phụ lục vào những bài viết đáng kể về ca trù của các tác giả ngoại quốc như Samuel Baron vốn am tường về nghệ thuật ca trù, và cũng nên có một bảng ngữ vựng về những thuật ngữ chuyên môn trong nghệ thuật ca trù.

    Ca trù chỉ một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi ca trù cũng đã được tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán Nôm chữ “trù” trong “ca trù” 歌 籌đều dùng chữ “trù” 籌. Theo đó Trù籌là thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số tiền (hoặc quy định ngầm với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền), dùng để thưởng cho đào và kép ngay trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc thưởng này chính là vị quan viên (khách nghe hát), sử dụng trống chầu (gọi là cầm chầu). Đó là nguồn gốc của tên gọi ca trù; cũng là thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy nhiên ca trù, với ý nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đã nói ở trên thì chỉ có ở hát ca trù ở đình đền, tức là hát thờ.

    Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học ca trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói. Đây là một bộ môn nghệ thuật ca nhạc “thính phòng” được hình thành trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc phần, người nghe cũng tham gia vào cuộc hát bằng việc cầm chầu. Ca trù còn có những cái tên khác như: hát cửa đình, hát nhà trò (hát ở đình, đền, miếu), hát cửa quyền (trong cung phủ), hát nhà tơ (hát ở dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), hát ả đào, hát cô đầu (hát ở các ca quán)…

    Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ thuật lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt Nam. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Thật vậy, nghệ thuật ca trù là một di sản văn hóa đặc trưng của Việt Nam. Đặc sắc ở sự phong phú làn điệu, thể cách, cả không gian, thời gian biểu diễn và phương thức thưởng thức; đặc sắc còn vì từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết với lễ nghi, phong tục, với những sinh hoạt dân gian, với công chúng. Ca trù làm người ta nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi ngông, chơi sang, rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo của những danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Tản Đà…Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà thơ, nhà báo, họa sĩ) với Ả đào – mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và thưởng thức các tác phẩm của mình.

    Cũng theo TS. Nguyễn Xuân Diện trong tác phẩm khảo cứu Vị Trí Của Hát Nói (hay Ca Trù) Trong Dòng Văn Học Chữ Nôm, do Viện Nghiên cứu Hán-Nôm/ Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm, Huế, 2006, các chi tiết quan trọng vê ca trù được ghi nhận như sau…

    Nguồn gốc Hát nói:

    Hát nói là một thể thi ca dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ môn nghệ thuật ca trù và trở nên một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt Nam nói chung, văn học chữ Nôm nói riêng. Trước nay cũng đã có một số công trình bài viết nghiên cứu về thơ hát nói ca trù và cũng đã có nhiều vấn đề của hát nói được làm sáng tỏ và khẳng định. Tuy nhiên vị trí và tầm vóc của hát nói trong văn học sử nói chung và trong dòng văn học chữ Nôm nói riêng thì vẫn chưa được khẳng định một cách mạnh mẽ.

    Tên gọi, gốc gác, đặc điểm của thể hát nói

    Trước đây, học giả Nguyễn Văn Ngọc trong Ðào nương ca nhắc rằng có người cho là hát nói là lối nói sử. Trương Tửu trong Văn nghệ bình dân Việt Nam cũng viết rằng điệu hát nói là những điệu nói sử. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ðức Mậu cho biết năm 1900 đã có tài liệu nói về ca trù và gọi hát nói là nói Nôm. Tuy nhiên, về vấn đề này, các tài liệu Hán Nôm cũng vẫn còn cho những thông tin đáng chú ý, góp phần làm sáng tỏ hơn nữa về tên gọi, gốc gác, đặc điểm của thể loại này. Sách Ca trù thể cách viết về hát nói như sau:

    “Tiếng đàn của hát nói thuộc cung Nam. Nếu nữ hát thì gọi là hát nói, nam hát thì gọi là Hà nam. Lối văn này, xưa và nay đều có. Lối văn

    này, mối bài chỉ có 11 câu mà thôi. Câu 1 và 2 gọi là tổng mạo. Câu 3 và 4 gọi là Thừa đề. Câu 5 và 6 thì dùng lối thất ngôn, hoặc cổ thi,

    hoặc quốc âm; như là treo cái ý của toàn bài vào giữa bài thơ, để nói hết cái đại ý của toàn bài. Các câu 7, 8, 9 đều nối theo cái ý của câu 5

    và 6 mà phô diễn thêm ra, để làm rõ ý nghĩa. Câu 11 là tổng kết ý nghĩa trong cả bài, mà cũng là một câu kết thúc. Cũng có khi đến đây,

    lại thêm hai câu hoặc 4 câu nữa, liền sau đó nói dông dài thêm cái dư ý của bài thơ, ấy là muốn dẫn cho dài thêm. Người trong làng ca gọi là

    Hát nối.” (trang 12b)…”

    Theo sách trên thì thể thơ lục bát là một thể thơ được sử dụng phổ biến trong ca trù. Và thể thơ này lại được sử dụng chủ yếu trong làn điệu hát của ca trù. Các điệu hát được các nhà nghiên cứu ghi nhận là các điệu ca trù cổ đều có ca từ là thơ lục bát. Ðó là các làn điệu: Bắc phản, Chừ khi, Cung bắc, Dịp ba cung bắc, Ðại thạch, Hãm, Hồng hạnh, Non mai, Thư phòng, Mưỡu, Ngâm vọng và Thổng.

    Trong các lối hát truyền thống như chèo, quan họ cũng sử dụng thơ lục bát trong nhiều làn điệu. Ðiều này càng cho thấy sự gần gũi của ca trù với các lối hát chèo và quan họ, nếu xét dưới góc độ thanh điệu ca từ. Tuy vậy cùng sử dụng thể thơ lục bát, nhưng các lối hát truyền thống này cũng đã tạo nên những vẻ đẹp khác nhau trong nhạc điệu làm phong phú cho vốn âm nhạc cổ truyền Việt Nam, và càng khẳng định sức sống của thơ lục bát trong văn học và văn hóa Việt Nam. Trong số các thể thơ được dùng trong ca trù, thể hát nói để lại số lượng tác phẩm lớn nhất, được ưa chuộng nhất. Hát nói đã gắn với những tên tuổi lớn trong lịch sử văn học Việt Nam như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà, Phan Bội Châu, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, …

    Nói thêm về thi nhân Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, ông đỗ Cử nhân (cùng khoa này có Nguyễn Khuyến đỗ Giải nguyên). Năm Mậu Thìn (1868), thời vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Tiến sĩ. Đường hoạn lộ, thuở ban đầu, Dương Khuê được bổ làm Tri phủ Bình Giang (Hải Dương), rồi thăng làm Bố chính. Vào đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ 19, tay lái buôn Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người Việt ở Bắc Kỳ để tự do sử dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông dâng sớ về triều xin có thái độ quyết liệt với người Pháp, bị vua Tự Đức phê là “bất thức thời vụ” (không biết thời cuộc), rồi bị giáng xuống chức Chính sứ sơn phòng lo việc khai hoang. Năm 1873, quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế, thì Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng. Năm 1878, nhân lễ “ngũ tuần khánh thọ ” của mình, vua Tự Đức xuống chỉ cho ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức vụ quan hành chính như: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình. Năm 1897, Toàn quyền Paul Doumer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guồng máy cai trị của Chính phủ bảo hộ, thì Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh.

    Khi ông mất (ngày 6 tháng 3 năm Nhâm Dần, 1902), nghe tin buồn bạn thân ra đi, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ bất hủ Khóc Bạn (Khóc Dương Khuê) khi tang viếng. Bài thơ được vào văn học sử. Bài thơ có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ lòng, gồm có 38 câu thơ. Mở đầu bài thơ là một tiếng than thở xót xa bùi ngùi:

    Bác Dương thôi đã thôi rồi,

    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

    Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ u uẩn thiết tha. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, cô đơn. Cuộc sống trở nên chán chường, vô nghĩa:, nhất là 2 câu sau rất phổ thông ở các bàn tiệc sau này:

    Ai chẳng biết chán đời là phải,

    Sao vội vàng đã mải lên tiên;

    Rượu ngon không có bạn hiền,

    Không mua không phải không tiền không mua.

    Khóc Dương Khuê (1839-1902) cho thấy một tình bạn đẹp và cảm động của giới nho gia thuở trước. Sau hơn một thế kỷ, chúng ta vẫn thấy nỗi bùi ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Ai chẳng biết chán đời là phải”…

    Tác phẩm của Dương Khuê để lại có một số bài ca trù, bài văn, câu đối, trướng… Có lẽ nên đề cập bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết,… bài ca trù nghe thanh thoát, bông đùa, dí dỏm và hóm hỉnh. Giới thiệu một bài ca trù dưới đây là bài ca trù tiêu biểu và nổi tiếng của nhà thơ Dương Khuê:

    Gặp Lại Cô Đầu Cũ

    Hồng Hồng Tuyết Tuyết,

    Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.

    Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!

    Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.

    Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,

    Kim quân hứa giá, ngã thành ông

    Cười cười nói nói thẹn thùng,

    Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.

    Riêng một thú Thanh Sơn đi lại,

    Khéo ngây ngây dại dại với tình.

    Đàn ai một tiếng dương tranh…

    Hà Nội tức cảnh

    Phất phơ ngọn trúc trăng tà

    Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

    Mịt mù khói tỏa ngàn sương

    Tiếng chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.

    (bài thơ này nằm trong cuốn Vân Trì thi thảo).

    Tham khảo một số sách báo và tiếp xúc với các nghệ nhân ca trù chúng ta được biết, trên thực tế ngoài hát nói đủ khổ (11 câu thơ) thì thể hát nói còn có một số biến thể khác như: Hát nói thiếu khổ (bài hát chỉ có 6 câu thơ); Hát nói dôi khổ tức là dôi thêm một hoặc nhiều khổ (mỗi khổ 4 câu thơ), Hát nói gối hạc (một vài câu thơ kéo dài ra, số chữ trong một câu thơ có thể lên tới 12, 18 hoặc thậm chí 24 chữ). Và hát nói thường hay đi kèm với hát mưỡu. Hát mưỡu ít khi được hát riêng rẽ với tư cách một bài hát trọn vẹn, mà thường được hát mở đầu hoặc kết thúc cho một bài hát nói. Do vậy khi hát mưỡu kết hợp với hát nói lại có các dạng Hát nói mưỡu tiền (hát mưỡu mở đầu rồi vào hát nói), Hát nói mưỡu hậu (hát mưỡu kết thúc sau khi hát nói); Hát nói mưỡu đơn (hát mưỡu bằng một câu thơ lục bát), Hát nói mưỡu kép (hát mưỡu bằng hai câu thơ lục bát).

    Thể hát nói trong thơ ca trù

    Trong nghệ thuật ca trù, thơ là một thành tố quan trọng. Ca trù có nhiều làn điệu, nhiều thể ca trù sử dụng các thể thơ quen thuộc và thuần Việt như lục bát, song thất lục bát. Trong số 34 thể ca trù mà thư tịch Hán Nôm có ghi nhận về lời thơ, thì các thể thơ được dùng là:

    – Thể lục bát: dùng trong 17 thể ca trù

    – Thể song thất lục bát: dùng trong 1 thể ca trù

    – Thể hát nói là thể riêng của ca trù

    – Thể thơ 7 chữ và một câu lục cuối bài: dùng trong 3 thể ca trù

    – Thể thơ 7 chữ và một câu lục bát cuối bài: dùng trong 1 thể ca trù

    – Thể thơ Ðường luật (thất ngôn, tứ tuyệt): dùng trong 8 thể ca trù

    – Thể phú: dùng trong 1 thể ca trù

    – Thơ Ðường luật trường thiên: dùng trong 2 thể ca trù (trong đó có bài Tỳ

    bà hành của Bạch Cư Dị).

    Nhắc lại, về thành phần trình diễn ca trù, với một chầu hát cần có ba thành phần chính:

    Một nữ ca sĩ (gọi là “đào” hay “ca nương”) sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp,

    Một nhạc công nam giới (gọi là “kép”) chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát

    Người thưởng ngoạn (gọi là “quan viên”, thường là tác giả bài hát) đánh trống chầu chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống. Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là “tức tịch,” nghĩa là “ngay ở chiếu.”

    Âm nhạc ca trù hay hát nói thì ca trù vừa là loại thanh nhạc (vocal music), vừa là loại khí nhạc (instrumental music). Có một ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, khá độc đáo và tinh vi. Vì là yếu tố thanh nhạc nên ca nương phải có giọng ca thanh thoắt, cao vút và âm vực rộng để ngân vang xa, khi hát phải biết ém hơi, nhả chữ và hát tròn vành rõ chữ, biết nảy hạt (đổ hột), đổ con kiến. Ca nương vừa hát, vừa gõ phách. Phải biết rành 5 khổ phách cơ bản, đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và giòn, lời ca và tiếng phách phải ăn khớp với nhau.

    Và vì sử dụng âm khí nhạc nên kép đàn dùng đàn đáy phụ họa. Bản đàn không nhất thiết phải đi theo bài hát, vì phải theo khổ đàn, nhưng khổ đàn – khổ phách – tiếng ca hợp nhau, hài hòa nhuần nhuyễn. Có những cách đàn ca chân phương- theo lề lối hay hàng hoa- sáng tạo và bay bướm. Quan viên là người cầm chầu, tiếng trống chầu vừa chấm câu khi tham gia vào cuộc diễn tấu, nhưng có tính chất phê phán, khen chê đúng chỗ, để khích lệ ca nương – kép đàn, giúp cho thính giả biết được đoạn nào hay – thật hay và như thế được giáo dục âm nhạc trong cách nghe.

    Xét về một số tác phẩm nổi tiếng như sau…

    Bài bản ca trù có nhiều loại. Phổ thông nhất là hát nói, một thể văn vần có tính cách văn học cao. Những bài hát nói nổi tiếng phải kể đến:

    – Cao Bá Quát với “Tự tình”, “Hơn nhau một chữ thì”, “Phận hồng nhan có mong manh”, “Nhân sinh thấm thoắt”…

    – Nguyễn Công Trứ với “Ngày tháng thanh nhàn”, “Kiếp nhân sinh”, “Chơi xuân kẻo hết xuân đi”, “Trần ai ai dễ biết ai”…

    – Dương Khuê với “Hồng hồng, tuyết tuyết” tức “Gặp đào Hồng đào Tuyết”.

    – Chu Mạnh Trinh với Hương Sơn phong cảnh.

    – Tản Đà với “Gặp xuân”,”Xuân tình”, “Chưa say”

    – Nguyễn Khuyến với “Hỏi phỗng đá”, “Duyên nợ”

    – Nguyễn Thượng Hiền với “Chơi chùa Thầy”;

    – Trần Tế Xương với “Hát cô đầu”.

    Ngoài ra còn có những làn điệu cổ điển khác như “Tỳ bà hành” (bản diễn Nôm của Phan Huy Vịnh theo cổ bản của Bạch Cư Dị). Những điệu huê tình, gửi thư, bắc phản, hát giai… cũng thuộc thể ca trù.

    Theo như đã trình bày trên, thể thơ lục bát là một thể thơ được sử dụng phổ biến trong ca trù. Và thể thơ này lại được sử dụng chủ yếu trong làn điệu hát của ca trù. Các điệu hát được các nhà nghiên cứu ghi nhận là các điệu ca trù cổ đều có ca từ là thơ lục bát. Ðó là các làn điệu: Bắc phản, Chừ khi, Cung bắc, Dịp ba cung bắc, Ðại thạch, Hãm, Hồng hạnh, Non mai, Thư phòng, Mưỡu, Ngâm vọng, Thổng.

    Trong các lối hát truyền thống như chèo, quan họ cũng sử dụng thơ lục bát trong nhiều làn điệu. Ðiều này càng cho thấy sự gần gũi của ca trù với các lối hát… Xét tiếp về lối hát Ca trù – Hát  dân ca Bắc Ninh. Ca trù hay Hát nói là biến thể của song thất lục bát. Các nhà viết sách thời xưa cho rằng Hát nói là một hình thức biến đổi của thể ngâm Song thất lục bát: Trong hát nói có Mưỡu là những câu thơ lục bát, nhiều câu 7 chữ có vần bằng, vần trắc, có cước vận, yêu vận. Nhưng khi đã phát triển, Hát nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói lối,… Trong lối Hát ca trù có nhiều loại như: Dâng hương, Giáo trống, Gửi thư, Thét nhạc thì Hát nói là lối thông dụng và có tính văn chương lý thú nhất.

    Hát kể trong ca trù thường được mô tả là hát kể chuyện về một chuyện tình cảm trong thi ca văn học dân gian Việt Nam. Nói đến hát kể chuyện trong ca trù ví dụ như là bài Bèo Dạt Mây Trôi.  Cốt truyện được kể lại bằng lối hát của ca trù trong bài Dân Ca Quan Họ tiêu biểu này như sau:

    Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi,

    Anh ơi, em vẫn đợi… í i ì… bèo dạt

    Mây í i ì… trôi,

    chim sa, tang tính tình… í i ì…, cao vời

    Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ

    sao chẳng thấy anh…

    Một mảnh trăng treo, suốt năm canh,

    Anh ơi, trăng đã ngã… a á à… ngang đầu

    Thương nhớ… ờ ơ… ai, sao rơi… đêm sắp tàn… í i ì…

    trăng tà,

    Người ra đi có nhớ, (hay người xa có nhớ)

    là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời,

    sao chẳng thấy anh…

    Mòn mỏi thâu đêm, suốt năm canh

    Anh ơi, em vẫn đợi… í i ì… mỏi mòn

    Thương nhớ… ờ ơ… ai

    Sao rơi, trăng sắp tàn .. í i ì… trăng tà

    Cành tre đu trước ngõ

    Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh…

    Thương nhớ.. ờ ơ… ai

    Sao rơi, trăng sắp tàn .. í i ì… trăng tà

    Cành tre đu trước ngõ

    Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh.

    Hát dân ca Quan Họ vốn thịnh hành trong những ngày lễ Tết, vì cứ vào dịp trung tuần tháng giêng, khoảng từ 12 đến 14, ngay sau Tết Nguyên Đán, người dân vùng đất Quan Họ Bắc Ninh lại tổ chức lễ hội vui xuân đầu năm, là dịp để các liền anh, liền chị gặp mặt chúc tụng, hội hè và cũng là lúc để tiếng hát Quan Họ ở vùng đất kinh Bắc được ca vang khi du khách từ khắp nơi thưởng ngoạn văn nghệ  qua âm thanh Quan Họ vào mùa Xuân về, mùa Xuân cũng bao hàm ý nghĩa là mùa lễ hội Quan Họ, là không gian vui tươi của Quan Họ; môi trường trẩy hội tưng bừng Quan Họ là vào mùa Xuân. Nhân dịp Xuân 2020, Tết Nguyên đán Canh Tý, bài viết này chúng tôi xin kính gửi Hội Bắc Ninh tại Nam California, Hoa Kỳ. Việt Hải và Khánh Lan đại diện Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian xin kính chúc quý đồng hương Một Năm Mới nhiều hạnh phúc, an lành và thịnh vượng.

    Việt Hải & Khánh Lan

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  LỊCH SỬ,  TRẦN MẠNH CHI,  Viet-Hải

    Mùa xuân với Lễ hội Bắc Ninh vui ca Quan Họ

    Tập tục “Ăn Tết” theo người Việt chúng ta, là dịp những ngày Tết rơi vào thời điểm nông dân nghỉ ngơi nhàn hạ, mà nó được tính theo theo ngày âm lịch, và thi sĩ Nguyễn Bính trong bài thơ “Xuân Về”, ông ghi nhận:

    Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng

    Lúa thì con gái mượt như nhung

    Ðầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng

    Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng

    Dòng đầu “Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng”, theo như vậy là người ta chờ đón cái Tết cùng với mùa màng đang là dịp nông dân nhàn hạ. Và mỗi một năm khởi đầu từ Mùa Xuân, sau ngày Mùng Một Tết Nguyên Đán, nhiều làng bắt đầu mở hội, và những hội Xuân đó kéo dài suốt trong 3 tháng Tết ở khắp cả các nơi, ví dụ như ở Miền Bắc Việt Nam. Dịp trẩy hội mùa xuân trên quê hương quan họ. Du khách lữ thứ có thể thăm viếng những mái đình cổ kính, hay ngao du lênh đênh trên dòng sông Cầu, sông Đuống thơ mộng và để nghe những làn điệu dân ca mượt mà, hay đắm say lòng người mộ điệu trên vùng đất Bắc Ninh.

    Viếng thăm Làng Lim Trẩy Hội Mùa Xuân:

    Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền thống lâu đời ở xứ Bắc Ninh và dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hoá chung của dân tộc Việt, tiêu biểu cho loại hình thức dân ca trữ tình Bắc phần.

    Thơ rằng:

     Về làng Lim trẩy hội xuân

    Du xuân Bắc Ninh bao lần mãi nhớ.

    Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá – nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền thống lâu đời ở xứ Bắc và dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hoá chung của dân tộc Việt, tiêu biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ.

    Đôi nét về Hội Lim

    Hội Lim được cho là lễ hội đáng chú ý nhất tại Bắc Ninh nhân dịp đầu năm, đây là niềm vui của người dân địa phương. Lễ hội chính thức được tổ chức vào ngày 13/1 Âm lịch tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Hội Lim bao gồm những nghi lễ trang nghiêm, nhằm nhắc nhở lại  những làn điệu dân ca độc đáo quan họ, cùng các hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh truyền thống. Nhiều trò chơi dân gian diễn ra sôi nổi như đấu vật, đấu cờ, đánh đu, thi dệt cửi, ca thuyền…

    Hoạt động nổi bật nhất trong lễ hội vẫn là hát quan họ. Các liền anh, liền chị có dịp trình diễn những làn điệu quan họ trữ tình, âm vang trên chiếc thuyền hình rồng tại hồ nước sát bên cánh đồng làng Lim. Người tới trẩy hội thường là các nam thanh nữ tú, bởi đây được coi là dịp tìm bạn, tìm duyên.

    Vào mỗi dịp đầu xuân, người dân chào đón những lễ hội diễn ra hàng năm tại nhiều nơi, cùng một trong số những lễ hội truyền thống nổi bật mà ai cũng biết chính là Hội Lim Bắc Ninh. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, đấy là lễ hội lớn trong vùng, có thể nói sự sâu đậm nét văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Kinh Bắc.

    Về nguồn gốc của Hội Lim, theo lịch sử Hội Lim được truyền khẩu qua rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương.

    Hội Lim có truyền thống lâu đời, nó phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên căn bạn lễ hội truyền thống của các làng xã trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian khá phong phú. Như hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng.

    Sau đấy 40 năm, túc vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi. Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Ngày nay, hội Lim được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Do được mở rộng cả về diện tích lẫn quy mô không gian nên phải nói rằng hội Lim là một lễ hội lớn và được tổ chức công phu hằng năm.

    Hội Lim Bắc Ninh thờ ai?

    Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13 để có mặt tại hội Lim trong ngày chính hội.

    Lễ rước ở Hội Lim: Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội.

    Đầu xuân về làng Quan họ hòa mình vào hội Lim xứ Kinh Bắc

    Lễ hội này là nhằm vào sự tưởng nhớ nguồn cội, cầu chúc may mắn hay còn là nơi gặp gỡ giao duyên của bạn hữu gần xa. Và hội Lim chính là một hội xuân như thế. Người xưa có câu tháng Giêng là tháng ăn chơi, chắc vì thế cho nên mỗi độ tết đến xuân về cũng là lúc những lễ hội trên khắp cả nước diễn ra nhộn nhịp. Đi Hội xuân dường như là thú vui, là nét đẹp văn hóa còn được lưu truyền từ ngày xưa đến tận bây giờ. Nói về di sản quan họ trên quê hương Kinh Bắc được tiếp nối và trao truyền một cách liên tục là minh chứng rõ nét cho thấy tình yêu, sự trân quý dân ca quan họ của cộng đồng nơi đây. Mỗi vùng có cách làm khác nhau để gìn giữ vốn văn hóa cao quý, nếu bắc sông Cầu (Bắc Giang) có những lớp truyền dạy và liên hoan quan họ cho thiếu nhi, hỗ trợ trang phục cho liền anh, liền chị thì bờ nam sông Cầu (Bắc Ninh) có những cuộc thi hát quan họ trên truyền hình thu hút nhiều đối tượng tham gia. Hội Lim nay đã trở thành nổi tiếng, được người dân khắp các vùng ca ngợi, cũng như truyền tụng:

        Ba năm hai cái hội chùa,

        Nào ai có lỡ bỏ bùa cho ai.

        Già già, trẻ trẻ, gái trai,

        Đua nhau ăn mặc, hán hài đi xem.

        Hội Lim ai thấy chẳng thèm,

        Tổ tôm, bài điếm, giò nem thiếu gì.

        Đồn sắp có dệt cửi thi,

        Cao lâu trăm thức thiếu gì thức ngon.

    Về với đất Kinh Bắc chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng chừng 30km, bạn có thể về bất kỳ mùa nào trong năm nhưng để vào mùa du lịch đẹp nhất thì đó chính là mùa xuân và vào dịp lễ hội thì bạn có thể được thưởng thức những làn điệu dân ca mượt mà và độc đáo của đất Bắc Ninh. Về với Lễ Hội Lim là về với một bầu trời âm thanh, một khung cảnh bao gồm thơ và nhạc náo nức không gian đến xao xuyến lòng người. với những lời ca, tiếng hát hay nghe điệu hò câu thơ, còn nhớ những câu thơ ngày còn đi học nói về ngày hội Lim đầy ngẫu hứng. Hội Lim chính là hội chùa làng lim và đôi bờ sông Tiêu Tương. Một lễ hội không những mang lại vẻ đẹp của vùng đất thơ ca, trù phú mà còn là điểm đến tâm linh cho dịp đầu năm này. Mọi người có thể cùng nhau cầu chúc cho một năm ăn lên làm ra, phát tài, phát lộc,…

    Những lễ hội đầu xuân nhộn nhịp ở Bắc Ninh, vì Bắc Ninh vốn là trung tâm của vùng văn hóa Kinh Bắc trước kia, cái nôi của dân ca quan họ, đồng thời lưu giữ những giá trị văn hóa lâu đời, những lễ hội, phong tục truyền thống. Giữa xã hội ngày càng hiện đại và phát triển, Bắc Ninh vẫn giữ được nét cổ kính, giản dị, mang đậm màu sắc dân gian. Quê hương quan họ là điểm đến lý tưởng trong ngày tết cổ truyền để du khách có dịp ôn lại những nét văn hóa truyền thống.

    Hát quan họ trên thuyền ở Hội Lim, người ta nghe những làn điệu được gìn giữ từ bao đời nay và đã trở nên quen thuộc với những người yêu quan họ, yêu vùng giàu truyền thống. Kinh Bắc xưa nổi tiếng là vùng đất của những câu truyện cổ, những sự tích văn hoá. Vì truyền thống này mà nơi đây sở hữu nhiều lễ hội dân gian, trong đó lễ hội được nhiều người quan tâm nhất là Hội Lim tại thị trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh. Những làn điệu Quan họ được truyền giữ từ bao đời, qua bao kỳ hội luôn làm say lòng người bởi vẻ mặn nồng, nghĩa tình, e ấp từ lời từ điệu và càng đằm thắm hơn qua chất giọng đặc trưng của liền anh, liền chị xứ này. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm… cũng là một nét đẹp của quan họ Kinh Bắc…

    Về Kinh Bắc đón xuân cùng người quan họ

    Mỗi độ Tết đến, xuân về, trên vùng quê Kinh Bắc – Bắc Ninh lại ngập tràn sắc màu của lễ hội dân gian, cùng những làn điệu dân ca quan họ mượt mà, đằm thắm. Ai đã từng đến với vùng quê này vào những ngày xuân, sẽ cảm nhận rõ hơn sự đằm thắm, đậm đà của sắc xuân trên miền quan họ. Thời gian của quan họ là suốt bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Nhưng mùa xuân mới thực sự là mùa của quan họ. Mùa xuân, trên vùng quê Kinh Bắc mà như người xưa đã có câu “tháng giêng là tháng ăn chơi”, thời điểm này các làng vào đám (hội), nam thanh nữ tú đua nhau trẩy hội tưng bừng. Những “hội hề, đình đám” kéo dài trong suốt 3 tháng xuân, từ làng này, qua làng khác:

    “Mồng bốn là hội Kéo Co

    Mùng năm hội Ó chẳng cho nhau về

    Mồng sáu đi hội Bồ Ðề

    Mùng bảy trở về đi hội Ðống Cao”

    Người quan họ thường có câu nói cửa miệng rằng “Yêu nhau cái nết, trọng nhau cái tình và say nhau ở giọng hát câu ca”. Quan họ không chỉ để nghe, mà quan họ có tinh mới tường – tức là có chơi thì mới hiểu được người quan họ. Mỗi câu hát đều cho thấy ý tứ của người hát, mỗi ánh mắt, nụ cười không chỉ là sự làm duyên mà còn ẩn ý bao điều muốn nói. Các liền anh ngồi một bên, liền chị ngồi một bên, qua lời hát và cử chỉ người ta hiểu được tấm lòng của nhau.

    Khi Tết về hay Xuân sang khi nhắc đến những di sản truyền thống văn hóa Quan Họ Bắc Ninh lâu đời như Trẩy Hội Lim mùa xuân qua những bài hát câu thơ về quan họ, vào đầu xuân về làng Quan họ hòa mình vào hội Lim ở xứ Kinh Bắc, hãy nhớ bài thơ lãng mạn sau đây phổ biến trong dân trong dân gian. Hội Lim là lễ hội văn hoá nghệ thuật đặc sắc của những làng quê quan họ, hình thành từ xa xưa. Ngày hội đã thu hút nhiều thành phần, lứa tuổi từ khắp nơi về trẩy hội vui xuân, trong đó phần đông là trai thanh gái lịch. Đến hẹn lại lên, họ đến với nhau để ca hát, với người lớn tuổi thì đến hội là dịp tìm về tuổi xuân, với nam thanh nữ tú thì hội là dịp tìm bạn, tìm duyên. Sự kiện văn hoá độc đáo này trở thành tài sản vô giá trong kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam.  Với người Quan họ, ngày xưa khách đến phải là:

    Mấy khi khách đến chơi nhà,

    Lấy than, quạt nước tiễn trà người xơi.

    Trà này ngon lắm người ơi,

    Người xơi một chén cho tôi bằng lòng.

    Và đến lúc phải về, cuộc chia tay thật khó dứt, vì lời ca bao giờ cũng như níu chân khách lại qua cân nhắn nhủ: “Người ơi, người ở đừng về…”

    Bài dân ca Quan họ nổi tiếng này mà nhiều người biết đến qua tên là “Người ơi! Người ởi đừng về”, đây là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh do Xuân Tứ cãi biên từ bài Quan họ cổ điển Chuông Vàng Gác Cửa Tam Quan và bài hát được viết xuất xứ từ một bài thơ dân gian. Bài hát thường được cất lên vào lúc lễ hội tàn cuộc, nhất là khi từ giã nhau. Trong ý thơ chan chứa chan lời hò hẹn, nhắn nhủ khi ta nghe câu ca “Người ơi người ở đừng về”, xin dẫn lời trích toàn bài thơ Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh này như sau.

    Người ơi! Người ởi đừng về,

    Người ơi! Người ởi đừng về,

    Người về em vần (í i ì i), (Có mấy) khóc i thầm

    Đôi bên (là bên song như) vạt áo

    (Mà này cũng có a ướt đầm), Ướt đầm như mưa.

    Người ơi! Người ởi đừng về,

    Người về em vẫn (í i ì i có mấy) trông theo,

    Trông (ư ư) nước (tình chung là như) nước chảy,

    (Mà này cũng có trông a bèo.

    Trông bèo (là) bèo trôi.

    Người ơi! Người ởi đừng về.

    Người về, em vẫn (í i ì i)

    (Có mấy) tái (i) hồi yêu (a),

    (Em là) em (mong anh)

    Xin chớ (mà này cũng có a), đứng ngồi (đứng ngồi) với ai.

    Người ơi! Người ởi đừng về.

    Người ơi! Người ởi đừng về.

    Bài hát quan họ trên đây cũng là phần kết luận của bài viết này. Chúng tôi xin kính chúc quý độc giả bốn phương được An Khang và May Mắn nhân dịp đầu năm Xuân về.

    Trần Việt Hải & Trần Mạnh Chi.

    (Hình ảnh tham khảo internet).

  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  LỊCH SỬ,  Việt Hải

    Nhìn Lại Văn Hóa Kinh Bắc.

    (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

    Nhận thức được vai trò trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản Dân ca Quan họ, Ca trù trong những năm qua, được bảo tồn khá tốt. Bài viết này xoay quanh chủ đề âm nhạc truyền thống của vùng Việt Yên – Kinh Bắc. Xin vào đề.

    Xét về địa lý, Việt Yên nằm ở vị trí trung tâm trên con đường chiến lược của tỉnh Bắc Giang nối Lạng Sơn với Bắc Ninh và Thủ đô Hà Nội, vùng đất giàu tài nguyên ở nơi địa đầu cửa ải mà phía Đông Bắc đất nước, tọa lạc có sông Cầu là tuyến giao thông đường thủy huyết mạch cắt ngang địa hình, phân cách với tỉnh Bắc Ninh, nơi nối liền vùng hạ các tỉnh như Hải Dương, Hải Phòng với Bắc Ninh, Bắc Giang, và Thái Nguyên.

    Tóm lại, Việt Yên là huyện trung du nằm ở phía Tây tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 10 km. Diện tích tự nhiên 17.135 ha, gồm 19 xã, thị trấn. Cũng nên ghi nhận Việt Yên còn là vùng đất địa linh nhận kiệt, nơi sinh ra danh nhân văn hóa Thân Nhân Trung; Hán Quận công Thân Công Tài, nơi đang lưu giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tiêu biểu, nổi tiếng. Toàn huyện có trên 331 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 02 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 20 di tích cấp quốc gia và 71 di tích cấp tỉnh. Tiêu biểu như di tích cấp quốc gia đặc biệt chùa Bổ Đà – Nơi sở hữu và bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc: Bộ Mộc bản kinh Phật là bảo vật quốc gia, Lễ hội chùa Bổ Đà làdi sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, vườn tháp chùa Bổ Đà là vườn tháp lớn và đẹp nhất Việt Nam.

    Việt Yên còn sở hữu nhiều di sản văn hóa phi vật thể như hát Chèo, Tuồng cổ, đặc biệt là Dân ca Quan họ, Ca trù đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 30/9/2009. Đây là niềm vinh dự, tự hào vô cùng to lớn đối với người dân Việt Yên nói riêng và tỉnh Bắc Giang nói chung.

    Một trong những thành tựu nổi bật là hàng năm đã tổ chức liên hoan hát Quan họ của Việt Yên tại Lễ hội Chùa Bổ Đà. Tính từ năm 2000 – 2019, liên hoan hát Quan họ của huyện đã tổ chức được 19 lần. Thành quả ghi nhận như điều nghiên, ghi chép thu thanh 19 bài Quan họ dị bản tại làng Quan họ Trung Đồng. Đây là tư liệu đặc biệt quý cần phải lưu giữ và bảo tồn, phát huy, truyền dạy cho các thế hệ về sau.

    Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể Ca trù cần được bảo vệ tại  huyện Việt Yên giai đoạn 2014-2020. Huyện đã tổ chức và triển khai Đề án “Khôi phục lối hát đối đáp Quan họ” tới 100% các làng Quan họ ven sông Cầu thuộc các xã Tiên Sơn, Vân Hà, Ninh Sơn, Quảng Minh, Quang Châu, Vân Trung, thị trấn Nếnh.

    Về thành tựu bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Quan họ, Ca trù, sau khi được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại: 10 năm qua, môi trường thiên nhiên và xã hội của sinh hoạt văn hóa Quan họ là các thôn làng Quan họ được bảo tồn và phát triển. Các di tích lịch sử văn hóa và lễ hội truyền thống gắn với sinh hoạt văn hóa Quan họ được cơ quan liên hệ xếp hạng bảo tồn.

    Phong trào quần chúng tham gia vào việc bảo tồn, phát huy Dân ca Quan họ, Ca trù đã tập hợp các tổ chức, cá nhân trong và ngoài huyện chung tay góp sức tham gia. Đến nay toàn huyện có 18 làng Quan họ cổ. Nhắc đến quan họ, nhiều người chỉ nghĩ đến Bắc Ninh như một chỉ dẫn địa lý. Thế nhưng, ngay bên kia bờ bắc sông Cầu, mảnh đất Việt Yên cũng được coi là một trong những cái nôi khai sinh ra những câu giao duyên đằm thắm, mặn mà.

    Việt Yên cũng là huyện duy nhất của tỉnh Bắc Giang có 5 làng quan họ cổ thuộc danh sách 49 làng quan họ Kinh Bắc được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh vào năm 2009.

    Tại Việt Yên người dân nơi đây vẫn truyền nhau câu nói: “Trọng nhau vì nghĩa, mến nhau vì tài.” Đó chính là cái tình của người Quan Họ. Cái tình ấy được nâng niu, gìn giữ, đúc kết thành lời ăn nết ở của người dân Kinh Bắc; góp phần quan trọng làm nên sức sống, sức lan tỏa của quan họ trong đời sống đương đại, bà Đoàn Thị Mùi, một chị cho biết như thế.

    Người Kinh Bắc nói chung và người Việt Yên nói riêng vốn trọng chữ “tình.” Bởi vậy, mọi cử chỉ, lời nói đều rất cẩn trọng, ý nhị. Điều này được biểu hiện một cách tinh tế qua từng câu hát trong tổng số hơn 200 làn điệu Quan Họ cổ (với hàng ngàn dị bản) đang được lưu giữ, bảo tồn trong đời sống cộng đồng.

    Ngoài ra, các bậc cao niên cũng chỉ biết rằng, từ hàng trăm năm nay, trải qua bao biến thiên của thời cuộc, lịch sử, quan họ vẫn tồn tại, ngấm sâu trong đời sống người Kinh Bắc.

    Từ hàng trăm năm nay, trải qua bao biến thiên của thời cuộc, lịch sử, quan họ vẫn tồn tại, ngấm sâu trong đời sống người Kinh Bắc. Trong một số giai đoạn cụ thể (thập niên 1950s-1960s), do điều kiện lịch sử, nhiều sinh hoạt văn hóa truyền thống thu hút đông người tham gia (trong đó có Quan Họ) không diễn ra phổ biến, thường xuyên.

    Các nghệ nhân Quan Họ ở Việt Yên cho biết: “Trước đây, cổ nhân không gọi là “hát Quan Họ” như hiện nay mà gọi là “chơi Quan Họ.” “Hát Quan Họ” thì nhiều người thực hành được, nhưng “chơi” Quan Họ cho đúng bài bản, lề lối cổ thì không phải ai cũng làm được. Bởi lẽ, “chơi” quan họ mang sắc thái thanh tao, nền nã, lời ca vang ngân vừa phóng khoáng, vui thú vừa đắm đuối, nền nã”, liền chị Đàm Thị Mùi chia sẻ. Bà Mùi là Chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Quan Họ Nội Ninh.

    Một canh hát Quan Họ cổ thường có ba chặng. Ở chặng đầu tiên, các liền anh, liền chị thường hát theo đúng niêm luật, lề lối cổ. Chặng thứ hai là chặng vặt, người hát sử dụng các làn điệu phổ biến trong đời sống sinh hoạt. Chặng thứ ba được gọi là chặng giã, đòi hỏi cách hát lưu luyến, luyến láy trữ tình.

    Hơn nữa, người xưa cũng không gọi là “bài” Quan Họ như hiện nay. Thay vào đó, người Quan Họ gọi là “câu.” Thông thường, mỗi liền anh, liền chị thuộc từ 50 đến 70 “câu,” mỗi nghệ nhân “nằm lòng” hàng trăm “câu” Quan Họ.

    Một trong những không gian sinh hoạt truyền thống của quan họ cổ là “nhà chứa” (nơi truyền dạy, tiếp đón các anh hai, chị hai từ những nơi xa đến). Trong quá trình bảo tồn và phát triển, toàn huyện đã có hơn 15 “Nghệ sĩ xuất sắc“, hay “Nghệ nhân” hạng tài ba, ưu tú. Đây là những người có tài năng và thành tích xuất sắc trong việc nắm giữ và truyền dạy di sản Quan Họ, hay Ca Trù cho các lớpkế cận. Thực hiện sự hướng dẫn của Huyện, ngành Giáo dục tổ chức triển khai lồng ghép chương trình giảng dạy Dân ca Quan Họ vào trong trong hệ thống các trường Tiểu học và Trung học cơ sở trong toàn huyện. Với các kết quả hoạt động trên, Dân ca Quan Họ được bảo tồn bền vững và phát triển sâu rộng trong mọi thành phần xã hội, đặc biệt là gIớI thanh thiếu niên.

    Văn hóa phi vật thể, là gÌ?

    Di sản văn hóa phi vật thể (tiếng Anh: Intangible cultural heritage, tiếng Pháp: Patrimoine culturel immatériel) là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa có liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng thế giới, không ngừng bỏ mà được tái tạo và được bảo tồn và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

    Vào năm 2019 thì với việc “Kỷ niệm 10 năm Dân ca Quan Họ, Ca Trù” được UNESCO từ 2009 vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và những thành tựu khả quan trong việc bảo tồn và phát huy Dân ca Quan Họ, Ca Trù trong thời gian qua không chỉ là minh chứng cụ thể và sinh động sự cam kết của ngườI dân Việt Yên nói riêng và tỉnh Bắc Giang nói chung trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản của ngườI  loại, mà còn làm cho Dân ca Quan Họ, Ca Trù trở thành nguồn văn hóa xã hội quý báu của Việt Nam nói chung, hay Bắc Ninh nói riêng.

    Quan Họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Quan Họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan Họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan Họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn sẽ với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan Họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan Họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết.

    Những bài hát nhắc về Quan Họ phỏ thông như:

    Những bài hát Quan Họ phổ thông như: Năm liệu bảy lo, Trẩy Hội Xuân, Bèo dạt mây trôi, Xe chỉ luồn kim, Trống cơm, Cò lả, Lý giao duyên, Bạn tình ơi, Mười nhớ, Tìm em trong chiều Hội Lim, Gửi về Quan Họ, Cây trúc xinh, Dân ca Quan Họ, Nhớ về Hội Lim, Trầu cau Quan Họ, Lý tình tang, Người ơi người ở đừng về, Qua cầu gió bay, Ngồi tựa mạn thuyền, Song đào, Đêm qua nhớ bạn, Để nhện giăng mùng, Tương phùng tương ngộ, Hồng Hồng Tuyết Tuyết…

    Trích doạn bài ca trù Hồng Hồng Tuyết Tuyết

    Tuyết muốn lấy ông…

    Xưa …ngày xưa Tuyết muốn lấy ông

    Ông chê. Ông chê Tuyết bé Tuyết không biết gì

    Đến thì. Bây giờ Tuyết đã đến thì

    Ông muốn lấy Tuyết.

    Tuyết – Tuyết chê ông già

    Hồng Hồng Tuyết Tuyết

    Mới ngày nào còn chưa biết chi chi

    Mười lăm năm thấm thoát có xa gì

    Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu

    Ngã lãng du thời khanh thượng thiếu

    Khanh kim hứa giá, ngã thành ông

    Cười cười nói nói sượng sùng,

    Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại

    Riêng một thú Thanh Sơn đi lại

    Khéo ngây ngây

    Khéo ngây ngây dại dại với tình…

    Ví dụ bài ca Quan Họ phổ thông khác, xin trích đoạn lời bài hát: Người ở đừng về:

    Nữ:

    Em về em vẫn í ì i í i

    Nay có ó o mấy khóc ơ nay ở ớ khóc thầm là

    Đôi í ơ bên là đôi bên vạt áo

    Mà này cũng có a ướt đầm

    Ướt đầm như mưa

    Người ơi ngươi ở em về

    Nam:

    Người về tôi dặn í ì i í i

    Nay có ó o mấy lời này ở ớ nhời này là

    Sông í ơ sâu là sâu song bên chớ lội.

    Mà này cũng có a đo đầy.

    Đò đầy người chớ qua.

    Người ơi ngươi ở đừng về….

    Có khuynh hướng mới là nên cải tiến, đổi mới những bài ca Quan Họ cũ. Nhạc sĩ Đức Miêng đã có số “vốn liếng” đồ sộ với hơn 200 tác phẩm bao gồm ca cảnh, hoạt cảnh, Quan Họ lời mới và âm hưởng dân gian Quan Họ. Ông cho ra những sáng tác với ca từ mới cho Quan Họ.

    Nhạc sĩ Đức Miêng trình bày: “Chuyện này thì anh em nhà hát nói quá rồi. Thực ra tôi không phải là người đi đầu trong việc soạn ca từ mới cho Quan Họ. Việc này, các cụ đã làm từ rất lâu rồi, nói đúng hơn đó là một đặc tính cụ thể trong sáng tạo các làn điệu Quan Họ cổ… Người hát là người nghe nhưng đồng thời cũng là người sáng tác các làn điệu mới để đối lại bài bên kia ra. Cứ qua một mùa lễ hội, lại có thêm vài làn điệu mới đóng góp vào vốn Quan Họ cổ của dân tộc.”

    Thật vậy, người nhạc sĩ chủ trương với ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, giữ hồn bài ca, và biểu hiện nét tình tự dân tộc tronng bài ca Quan Họ mới, giúp chuyển tải những bài học nhân sinh sâu sắc cho thế hệ trẻ về sau này.

    Viết đến đây, tôi chạnh nhớ đến Nhạc sĩ Anh Bằng, có lần tôi tâm sự cùng ông, tôi vốn thích âm nhạc Quan Họ Kinh Bắc, những bài như Người ơi người ở đừng về, hay Hồng Hồng Tuyết Tuyết, tôi đề nghị ông “hóa phép” ra phiên bản nhạc mới.

    Ông chọn bài “Người ơi người ở đừng về“, bởi vì ông đọc qua lời thơ, ông có nguồn cảm tác ngay. Xin trích doạn bài viết của Nhạc sĩ Anh Bằng như sau…

    “Mới đây anh bạn Việt Hải ngỏ ý là tôi hãy phổ nhạc một bài dân ca Quan Họ, tôi bảo tôi chỉ phổ theo lối dân ca quê hương mà thôi. Vì dân ca Quan Họ cần những quy tắc về điệu hát và nhạc cụ chuyên môn, nó không phải phạm trù chuyên môn của tôi. Bài hát Quan Họ mà Việt Hải bàn luậnbài hát nổi tiếng mà nhiều người biết đến là Người Ở Đừng Về, đây là tên một bài hát dân ca Quan Họ Bắc Ninh do Xuân Tứ cãi biên từ bài Quan Họ cổ điển Chuông Vàng Gác Cửa Tam Quan và bài hát được viết xuất xứ từ một bài thơ dân gian. Bài hát thường được cất lên vào lúc hội tàn, nhất là khi từ giã nhau. Trong ý thơ chan chứa lời hò hẹn, nhằn nhủ khi ta nghe câu ca “Người ơi! Người ở đừng về”.

    (Hình minh họa Ngọc Khánh)

    Người ơi người ở đừng về

    Người về em vẫn khóc thầm

    Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa

    Người ơi người ở đừng về

    Người về em vẫn trông theo,

    Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi

    Người ơi người ở đừng về

    Người về em nhắn tái hồi

    Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai

    Việt Nam là quốc gia mà nền kinh tế và xã hội được phát triển từ nông thôn, do đó nếp dân sinh ở các xóm làng miền quê, tình yêu trai gái được ghi nhận qua nhiều trong vần thơ hay các câu đồng dao. Sự lãng mạn của trai gái bị nếp lễ giáo nho phong ràng buộc, hãy nghe tiếp đoạn cuối:

    Mình về, ta chẳng cho về,

    Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

    Câu thơ ba chữ rành rành:

    Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.

    Chữ Trung thì để phần cha,

    Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ Tình.

    Những bài dân ca Quan họ khác thịnh hành là: Ngồi tựa song đào, Tương phùng tương ngộ, Bèo dạt mây trôi, Ngồi tựa mạn thuyền, Đêm qua nhớ bạn…

    Sau đây xin đính kèm bản nhạc mà bài Người Ở Đừng Về mà tôi phổ thành nhạc như sau, dẫn ý lời trìch từ bài thơ nêu trên.

    Mình Ơi Em Chẳng Cho Về

    Người ơi người ở đừng về

    Người về em vẫn tỉ tê (mà) khóc thầm

    Người về em đứng em nằm

    Đôi bên vạt áo ướt đầm (mà) như mưa

    Người ơi nười ở đừng về

    Người về em vẫn kè kè (mà) trông theo

    Người ơi em vẫn trông theo

    Trong nước nước chảy trông bèo (mà) bèo trôi

    Mình ơi!

    Mình ơi đừng ở đừng có về nghe

    Mình về em nhắc lời thề (mà) nhớ thương

    Nhớ thương nhớ thương em vẫn nhớ thương

    Yêu em xin chớ chung giường (mà) với ai

    Mình ơi em chẳng cho về

    Em níu vạt áo em đề (mà) bài thơ

    Chữ Trung xin để phần cha

    Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta (là) chữ Tình

    Tình tình tình ơi hỡi tình ơi

    Tình tình tình ơi hỡi là tình

    Tình tình tình ơi hỡi tình ơi

    Tình tình tình ơi hỡi là tình

     (Anh Bằng).” Bài hát này được côNghệ sĩ Dân ca ba miền” Thúy Anh trình bày trong nét chút nũng nịu, chút làm dáng khiến các liền anh, liền ông lên cơn sốt tâm can thì phải? Nghe Thúy Anh ca xong anh Bằng và tôi tâm đắc rất vui. Phiên bản “Mình Ơi Em Chẳng Cho Về” của Nhạc sĩ Anh Bằng, với tôi có sự dễ thương nào đó, nó mang hồn tôi đến vùng trời Việt Yên- Kinh Bắc trong mộng tưởng, bởi vì tôi, trai nam kỳ chưa hề bước chân qua khỏi vĩ tuyến 17. Nhưng quê hương quá nhiều nơi đẹp đẽ, và văn hóa quê hương dường như đã ăn sâu vào dòng huyết quản của tôi tự thuở nào.

    (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

    Bài viết dựa vào nhiều nguồn tài liệu internet. Bài viết đăng trên báo Xuân cũa Hội Đồng Hương Bắc Ninh Nam California nhân dịp Tết Giáp Thìn 2024

    Việt Hải và Khánh Lan, 19/01/2024.

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  Vương Trùng Dương

    Trầm Tử Thiêng – Đỗ Thái Tần: Mối Tình Xa Xưa

    Người bạn cố tri Nguyễn Ngọc Chấn nhắn tin cho tôi chị Đỗ Thái Tần bị cancer vào giai đoạn cuối, có lẽ từ giã cõi trần trong nay mai. Trước khi qua đời, chị muốn nói lời cảm ơn với tôi về bài viết nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.

    Mấy hôm nay tôi bị cảm ho nên không liên lạc điện thoại. Thứ Tư (25/10) chị text cho tôi “Tôi phải vào Emergency 2 lần vì bị tắt tiếng, laryngitis nên đành phải text cho anh đây. Chỉ muốn nói lời cảm ơn anh đã viết bài về anh Lợi (Trầm Tử Thiêng)…”. Đọc những dòng text của chị vô cùng xúc động trước giờ tử sinh… Và không biết gì hơn chỉ cầu mong chị không bị đau đớn, ra đi thanh thản để gặp lại người xưa nơi cõi vĩnh hằng.

    Năm 1998, nhà in Westminster Press ra tờ Thế Giới Nghệ Thuật, khổ magazine, giấy láng, full color, chủ bút là Lâm Tường Dũ (cũng là chủ nhân tuần báo Tình Thương), và tôi làm tổng thư ký cả 2 tờ nầy. Với nội dung tờ TGNT thuần túy về lãnh vực nầy nên chọn đề tài cũng dễ để viết. Khi Lâm Tường Dũ đề nghị tôi viết về Trầm Tử Thiêng và nói ông nầy khó tính, đừng đề cập đến chuyện tình (dù chúng tôi cũng biết nhiều) chỉ viết về nhạc lính, quê hương và thân phận người Việt lưu vong, giữ bí mật không báo cho ông biết.

    Trầm Tử Thiêng (Nguyễn Văn Lợi), cùng quê hương với tôi ở Quảng Nam. Vào thời điểm cuối thập niên 50, anh có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp (thường gọi là bằng Diplôme) bằng nầy cũng có giá trị vì thi viết và vấn đáp khoảng 15 phần trăm trúng tuyển. Có mảnh bằng nầy cũng có cơ hội lập thân, nếu có chứng chỉ lớp Đệ Nhị, đủ điều kiện nộp đơn vào vài quân trường để được đào tạo thành sĩ quan QLVNCH. Trầm Tử Thiêng theo học trường Sư Phạm Thực Hành một năm ở Sài Gòn, ra trường dạy tiểu học nhưng với chuyên môn nên dạy nhạc ở trung học. Năm 1966 bị động viên vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế Nha Trang, ra trường về phục vụ tại Phòng Văn Nghệ của Cục Tâm Lý Chiến, vì ngạch giáo chức nên cuối năm 1969 được biệt phái về Bộ Giáo Dục và làm việc tại Trung Tâm Học Liệu… Nơi đây có Nguyễn Ngọc Chấn, Trầm Tử Thiêng, chị Đỗ Thái Tần… Năm 1970, cuộc tình Lợi-Tần chớm nở… Thầy giáo, nhạc sĩ Nguyễn Văn Lợi – Trầm Tử Thiêng, nhà  nghèo, trong khi tiểu thơ họ Đỗ, con giám đốc mỏ than Nông Sơn, Quảng Nam và chủ tiệm kim hoàn ở Sài Gòn. Chữ “môn đăng hậu đối” đã ngăn cách mối tình đẹp, trong sáng của hai anh chị hồi trẻ.

    Trước ngày 30 tháng Tư, 1975, gia đình “nhạc phụ” ngỏ ý cho ghép tên anh Lợi vào gia đình di tản chính thức. Vì tự ái, anh từ chối, viện cớ còn mẹ già em dại, mà thực sự như vậy vì lòng hiếu thảo. Trầm Tử Thiêng lặng lẽ tiễn chân vợ và hai con (con của chị Tần nhưng anh thương như con ruột) chia phôi biền biệt. Cuộc tình của anh đi vào ngõ cụt, nhớ nhung dày vò tim não, tưởng chừng bị chìm đuối. Giai đoạn này anh sáng tác vài tình khúc cho hàng triệu người thưởng thức, nhưng, chỉ một người quặn thắt con tim…

    Những đắng cay, đói rét, tù đày không đau buốt bằng sự ngăn cách một đại dương với một nửa trái tim, Trầm Tử Thiêng viết ca khúc để đời “Mười Năm Yêu Em” khi gặp lại chị Tần tại Cali, chị vẫn còn thương yêu anh như thuở nào, trở thành tuyệt phẩm hay và chua xót nhất của tình người.

    … Trầm Tử Thiêng phải giấu tên, trốn tránh, tìm đường vượt biên nhiều lần nhưng bất thành, bị bắt ở tù hơn một năm, từ khám lớn Rạch Giá, Trầm Tử Thiêng viết bài “Tâm Ca Của Người Tù Vượt Biển,” sau đó anh bị đày xuống trại cải tạo lao động U Minh, sống chung với anh em công chức cao cấp và sĩ quan QLVNCH…

    Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng qua đời ngày 25 tháng 1 năm 2000 tại Quận Cam trong hoàn cảnh cô đơn trong khu apparment. Ca sĩ Quốc Việt (Mỹ lai) gọi Trầm Tử Thiêng bằng bố. Quốc Việt tận tình chăm sóc và lo cho “bố Thiêng” đến hơi thở cuối cùng… Buổi tưởng niệm Trầm Tử Thiêng vào trưa Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2020, đặc biệt có sự hiện diện của người bạn đời duy nhất của ông, mối tình được giấu kín gần nửa thế kỷ mà vẫn chưa ngưng rung động…

    Tháng 7 năm 2021, tôi viết bài Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng & Những Dòng Chia Sẻ, tôi hỏi anh Nguyễn Ngọc Chấn cuộc tình nửa thế kỷ trước giữa Trầm Tử Thiêng và chị Đỗ Thái Tân có được không? Nghĩa tử nghĩa tận, chị đồng ý vì mối mối tình mang xuống tuyền đài… thầm kín suột cuộc đời không thể nào quên.

    Bài viết được phổ biến, còn lưu trữ trên các websites.

    Vương Trùng Dương

    Little Saigon, Oct 26, 2023

    Việt Báo

    https://vietbao.com/a308880/nhac-si-tram-tu-thieng-nhung-dong-chia-sehttps://vietbao.com/a308880/nhac-si-tram-tu-thieng-nhung-dong-chia-se Trang web Lê Dinh

    Trang web Lê Dinh

    http://www.ledinh.ca/2021%20Bai%20Vuong%20Trung%20Duong%20Tram%20Tu%20Thieng.html

    Long Hồ Vĩnh Long

    https://longhovinhlong.blogspot.com/2021/07/nhac-si-tram-tu-thieng-nhung-dong-chia.html

    Đặc San Lâm Viên

    http://www.dslamvien.com/2021/07/nhac-si-tram-tu-thieng-va-nhung-dong.html

    T.Vấn & Bạn Hữu

    Dòng Sông Cũ

    https://dongsongcu.wordpress.com/2021/07/25/nhac-si-tram-tu-thieng-nhung-dong-chia-se/
  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    12 sự thật đáng kinh ngạc về Albert Einstein có thể bạn chưa biết.

    Trong suốt cuộc đời mình, Albert Einstein đã làm thay đổi thế giới vật lý. Ông được công nhận vô số lần vì những đóng góp cho khoa học và đã được trao giải Nobel Vật lý năm 1921.

    Sinh ngày 14/3/1879, là một nhà khoa học gốc Đức – một trong những người quan trọng nhất của thế kỷ 20.

    Nhân kỷ niệm sinh nhật của ông, xin giới thiệu 12 sự thật đáng kinh ngạc có thể bạn chưa biết về Albert Einstein.

    1. Ông được đề nghị chức tổng thống của Israel và đã từ chối.

    Dù lời đề nghị hào phóng nhưng Einstein đã từ chối chức vụ tổng thống Israel vào năm 1952. Trong thư trả lời của mình, ông nói: “Tôi rất cảm động bởi lời đề nghị từ Nhà nước Israel của chúng ta, đồng thời cũng rất buồn và xấu hổ vì không thể nhận nó. Toàn bộ cuộc sống của tôi đều phải đối phó với những vấn đề khách quan, vì thế tôi thiếu cả năng khiếu tự nhiên và kinh nghiệm để giao tiếp đúng cách với mọi người và để thực hiện các nhiệm vụ chính thức.”

    2. Einstein qua đời vì ông nói không với phẫu thuật.

    Vào ngày 17/04/1955, Einstein bị phình động mạch chủ bụng dưới, dẫn đến xuất huyết nội. Sau khi được các bác sĩ yêu cầu phẫu thuật, ông nói: “Tôi muốn ra đi lúc tôi muốn. Thật vô vị khi kéo dài cuộc sống một cách gượng ép. Tôi đã hoàn thành đóng góp của mình, đã đến lúc tôi phải ra đi. Tôi sẽ ra đi thanh thản.”

    Và ông qua đời vào ngày hôm sau.

    3. Bộ não của ông đã bị đưa trái phép ra khỏi cơ thể và bị thất lạc trong vòng 50 năm.

    Thomas Stolz Harvey là bác sĩ tiến hành khám nghiệm tử thi của Einstein, nhưng không có bất cứ giấy tờ nào liên quan đến việc Harvey hoàn thành các thủ tục khám nghiệm. Việc khám nghiệm tử thi được thực hiện bất hợp pháp.

    Bảy giờ sau cái chết của Einstein, Harvey đã lấy cắp não của Einstein mặc dù mong muốn cuối cùng của Einstein là được hỏa táng cùng với bộ não còn nguyên vẹn của mình, nhưng không ai biết lý do tại sao.

    4. Trái với nhiều người vẫn tin, ông không bao giờ thi trượt môn Toán.

    Năm 1935, một tờ báo xuất bản một bài báo với tựa đề “Nhà toán học vĩ đại nhất thi trượt môn Toán” và yêu cầu bồi thường vẫn còn diễn ra cho đến hôm nay.

    Einstein chưa bao giờ thi trượt môn Toán. Ông đã nói trong một bài báo và cười lớn: “Tôi chưa bao giờ thi trượt môn Toán. Chưa đầy 15 tuổi, tôi đã thành thạo các phép tính vi phân và tích phân.”

    Einstein lúc trẻ thực sự thuộc loại học sinh đứng top đầu của lớp và luôn vượt xa sự mong đợi của giáo viên.

    5. Ông đã có một cô con gái với người vợ đầu tiên của mình, nhưng không có hồ sơ chính thức về những gì xảy ra với cô.

    Lieserl Einstein là đứa con đầu tiên của Albert và người vợ đầu tiên của ông, Mileva. Hồ sơ lục duy nhất của Liersel là cái tên.

    Cô được sinh ngoài giá thú vào tháng Giêng năm 1902 và không được nói đến nhiều. Có suy nghĩ cho rằng cô đã chết vào 09/1903 vì bệnh ban đỏ.

    Liersel được cho là đã được sinh ra với khuyết tật tâm thần và đã được đề cập lần cuối trong một lá thư Albert gửi cho Mileva, ngày 19/09/1903, trong đó hàm ý họ đang lên kế hoạch cho cô được nhận nuôi trước khi chết.

    6. Sau người vợ đầu tiên, ông đã kết hôn với em họ của mình là Elsa.

    Albert sau cùng kết hôn với Elsa nhưng họ thực sự bắt đầu hẹn hò khi ông vẫn còn kết hôn với người vợ đầu tiên là Mileva.

    Cuộc ly hôn của Einstein và Mileva không hoàn thành mãi cho đến năm 1919 – 7 năm sau khi bắt đầu hẹn hò với cô em họ.

    7. Ông không giành được giải thưởng Nobel cho lý thuyết nổi tiếng nhất của mình.

    Thuyết tương đối là thuyết nổi tiếng nhất của Einstein lại không phải là thứ khiến ông giành được giải Nobel. Einstein không chỉ nổi tiếng với phương trình về sự tương đương khối lượng-năng lượng E = mc2, mà ông còn nổi tiếng về lĩnh vực vật lý lý thuyết, đặc biệt là khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện, khai sinh ra lý thuyết lượng tử, trụ cột của ngành vật lý học hiện đại và được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 cho các phát minh này.

    8. Tất cả tiền thưởng đều gửi cho người vợ đầu tiên như là một thủ tục giải quyết ly hôn.

    Là một phần của việc giải quyết ly hôn, vợ chồng ông đồng ý sẽ chuyển tiền từ giải thưởng mà ông dự đoán mình sẽ giành chiến thắng vào tài khoản tiết kiệm của con trai họ, Hans và Eduard.

    Số tiền này cuối cùng đã được sử dụng để mua ba ngôi nhà ở Zurich – một để Mileva sống và hai cái khác là để đầu tư.

    9. Đôi mắt của ông vẫn còn trong một két an toàn ở thành phố New York.

    Bác sĩ khám nghiệm tử thi không chỉ lấy cắp bất hợp pháp não của Einstein mà còn lấy đi cả đôi mắt của ông. Ông ta đã đưa đôi mắt đến bác sĩ mắt của Einstein, Henry Abrams. Chúng được lưu giữ trong một két an toàn ở thành phố New York cho đến ngày nay.

    10. Ông là nguồn cảm hứng cho nhân vật Yoda.

    Stuart Freeborn, nghệ sĩ hóa trang cho bộ phim đã tạo ra nhân vật Yoda theo mô hình khuôn mặt Jedi nhưng những nếp nhăn cho đến đôi mắt là lấy cảm hứng từ Einstein để biểu thị sự khôn ngoan và thông minh.

    11. Một trong những câu nói nổi tiếng nhất của Einstein đã bị hiểu sai hoàn toàn.

    “Chúa không chơi trò xúc xắc với vũ trụ” là một trong những câu nói nổi tiếng nhất và hơi khó hiểu của Einstein.

    Sử dụng Đức Chúa Trời khiến mọi người cho rằng ông tín ngưỡng, nhưng không phải vậy. Ông đã sử dụng Chúa Trời như một phép ẩn dụ. Trong một lá thư viết vào năm 1954, ông nói:

    “Tôi không tin vào cá nhân Thiên Chúa và tôi chưa bao giờ phủ nhận điều này, ngược lại còn thể hiện rất rõ ràng. Nếu có gì đó trong con người tôi có thể được gọi là tín ngưỡng thì đó chính là sự ngưỡng mộ vô bờ bến đối với cấu trúc của thế giới cho đến nay khi khoa học của chúng ta có thể tiết lộ nó.

    Và khi Einstein nói “không chơi xúc xắc” là ông đang đề cập đến bản chất khó lường của các hạt hạ nguyên tử trong vật lý lượng tử.

    12. Niềm đam mê chính của Einstein không phải là khoa học.

    Bất kể tài năng và những thành tựu khác, âm nhạc vẫn là thứ khiến cho Einstein hạnh phúc nhất. Ông không bao giờ đi du lịch mà không mang theo đàn vĩ cầm và ông cũng đã từng nói: “Cuộc sống không có âm nhạc đối với tôi không thể nào tưởng tượng được. Tôi sống với những giấc mơ của tôi trong âm nhạc. Tôi nhìn cuộc sống trong những giới hạn của âm nhạc. Những niềm vui lớn nhất trong đời không ngoài âm nhạc.”

    Nguồn : businessinsider

    Người dịch : Ngọc Hà

    DÒNG SỬ VONG QUỐC – Hai nước Champa và Đại Việt.

    Champa và Đại Việt là hai nước láng giềng. Đại Việt lúc nào cũng lăm le chiếm lấy Champa bằng nhiều cách, kể cả gả công chúa cho vua Champa đổi đất. Ranh giới giữa Champa và Đại Việt bị rút ngắn dần về phía nam rồi Champa mất Nước và Dân Tộc Diệt Vong. Theo từng triều đại có mỗi cách lấn chiếm khác nhau như sau:

    I – Champa mất đất và diệt vong.Trước năm 1069 ranh giới là dãy Hoành Sơn, là ranh giới Quảng Bình – Hà Tĩnh ngày nay. Năm 1069 vua Lý Thánh Tông của Đại Việt đánh bại vua Chăm – Chế Củ. Vậy, Đại Việt mở rộng lãnh thổ đến Quảng Trị. Đường ranh giới được dời về sông Thạch Hãn.Năm 1306 vua Trần gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chăm Chế Mân, đổi lại vua Chăm giao cho Đại Việt vùng đất từ phía nam sông “Thạch Hãn đến đèo Hải Vân”. Biên giới được dời tới đèo Hải Vân.

    Năm 1402 Hồ Quý Ly tấn công Champa và lấy thêm từ đèo Hải Vân đến đèo Bình Đê, ranh giới giữa Bình Định và Quảng Ngãi. Khi ấy, biên giới tiến rất gần đến kinh đô “Đồ Bàn” của Vương Quốc Champa, thuộc tỉnh Bình Định.Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đánh chiếm thủ đô Đồ Bàn, mở rộng lãnh thổ đến đèo Cù Mông ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên.

    Năm 1597 chúa Nguyễn Hoàng cho đánh chiếm phía nam đèo Cù Mông, cho đến 1611 chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ đến đèo Cả, ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa.Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Chu đánh vào Champa là mở rộng bờ cõi Đại Việt đến hết Khánh Hòa. Đến năm 1692 chúa Nguyễn cho Nguyễn Hữu Cảnh lấy đến Bình Thuận. Vậy, chiếm trọn vương quốc Champa.

    Vậy, nhìn theo dòng lịch sử Vương Quốc Champa cho thấy rõ chính sự “Hòa Thuận” giữa hai NƯỚC láng giềng chỉ là TẠM THỜI kết thân. Nghĩa là Nước mạnh luôn luôn truyền đời ấp ủ tham vọng xâm lấn bờ cõi Nước yếu hơn. Từ đó, có những cuộc sáp nhập nhỏ biến một Nước mở rộng dần và một Nước teo dần. Rất giống như Việt Nam và Trung Quốc từ khi Hồ chí Minh rước đảng Cộng Sản về và dựa lưng Trung Quốc để xây dựng “đảng Cộng Sản Việt Nam”, và hiện nay Việt Nam bị biên giới lùi vào phía nam, mất Ải Nam Quan, mất Thác Bản Giốc… biển đảo thu hẹp bỡi Trung Quốc lấn chiếm.

    “Trung Quốc – Việt Nam” và “Việt Nam – Champa” đều giống nhau. Cũng là hai nước láng giềng đánh nhau từ thế hệ này đến thế hệ sau. Kết quả Champa đã bị khai tử bởi Việt Nam (Đại Việt) và dân tộc Champa (Chăm) bị diệt gần hết. Việt Nam chỉ là thời gian sẽ bị Trung Quốc sáp nhập ĐỒNG HÓA thành một nước Trung Quốc và Dân Tộc Việt thành một Dân Sắc Tộc của Trung Quốc. Trước mắt thấy như Tây Tạng, Mông Cổ…

    Hiện nay, dân số của người Chăm tại Ninh Thuận – Bình Thuận còn chỉ khoảng 98.000 người; Số còn lại họ lưu lạc khắp thế giới khoảng 300.000 người. Như vậy, những lần thất thủ phải mất đất thì kèm theo đó là bị tiêu diệt. Tại sao, Dân Tộc Chăm là một Quốc Gia trải rộng cả đất Miền Trung, nhưng sao họ biến đâu mất ? Đấy là cái khủng khiếp của Nước Yếu cúi đầu “Hòa Thuận” với Nước Mạnh thì phải gánh lấy hậu quả Mất Đất và Diệt Vong.

    II – Suy luận theo dòng sử.Nhìn lại lịch sử các nước láng giềng Trung Quốc, thì cũng đã có những Quốc Gia bị Trung Quốc khai tử. Dân Tộc của họ đã bị tiêu diệt và phải lưu lạc khắp nơi mà giờ cũng chỉ làm thân phận Dân Tộc Thiểu Số.

    Như, Vương Quốc Đại Lý nằm phía Tây Bắc Đại Việt đã bị nhà Nguyên tiêu diệt và họ mất nước từ đó. Bây giờ tộc người Thái phía bắc Việt Nam chính là con cháu dân Đại Lý khi xưa. Họ phải lưu lạc khắp Đông Nam Á, họ sống như một “Dân Tộc Thiểu Số” và quên hẳn cội nguồn của họ. Từ một quốc gia rộng lớn gồm có tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, một phần lãnh thổ tây bắc Việt Nam, một phần bắc Myanmar, phần bắc Lào, nhưng nay là đất của người Hán. Đó, người Thái và người Chăm số phận chẳng khác nhau mấy.

    Nếu Việt Nam sáp nhập thành một tỉnh của Trung Quốc. Vậy, dân Việt sẽ có lợi gì không? Và sẽ được hưởng những quyền lợi như người Trung Quốc Không? Trả lời là không. Rất khác với nước Mỹ, nghĩa là các tiểu bang trong Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ đứng chung trong một nhà nước liên bang, hoàn toàn khác với trường hợp Việt Nam bị sáp nhập Đồng Hóa bởi Trung Quốc, tại sao? Đọc tiếp bên dưới.

    Hãy nhìn vào bản chất của nhà nước liên bang trong một “Thể Chế Tự Do Dân Chủ” tại Mỹ. Trong nhà nước liên bang thì vai trò các bang là đồng làm chủ nhà nước liên bang. Nhà nước liên bang tựa công ty cổ phần, chính quyền bang tựa các cổ đông. Trong cơ cấu tổ chức này, nó luôn bảo đảm sự công bằng giữa các BANG. Bất cứ người dân của bang nào cũng đều có quyền ứng cử tổng thống. Và bang nào cũng có hai thượng nghị sĩ đại diện cho chính quyền bang ấy, bang nào cũng có nhiều dân biểu đại diện cho nhân dân bang đó trong quốc hội liên bang.

    Chính vì, ai là bang thành viên Hợp Chúng Quốc thì được làm chủ một phần chính quyền liên bang, nên Puerto Rico mới muốn trở thành bang thứ 51 của Hoa Kỳ. Làm một bang của Hoa Kỳ nghĩa là có tiếng nói trong chính quyền liên bang, là một trong các ông chủ của chính quyền liên bang thì ai mà không thích? Như vậy làm một tiểu bang của Mỹ không hề vong quốc, và cũng không hề bị tiêu diệt nòi giống, mà là được đứng chung cùng bang khác để hưởng sự thịnh vượng chung của một nước HOA KỲ giàu mạnh, hùng manh…

    Còn nhà nước Cộng Sản Độc Tài phương đông, không bao giờ chịu đứng chung một cách “Dân Chủ” với nước khác. Đặc biệt, nước lớn bao giờ cũng tự phong cho mình là chủ của các nước nhỏ. Hãy nhớ thời Tổ Tiên ta, khi Trung Hoa chưa chiếm được Đại Việt, các hoàng đế Trung Hoa đã chỉ định Đại Việt phải sang triều cống lễ vật. Tức là trong mắt của các hoàng đế Trung Hoa, họ xem Đại Việt là thứ dân mọi rợ, cho nên họ gọi Dân Tộc Việt là “Tộc Man Di”. Nếu Trung Hoa chiếm Việt Nam thì số phận dân Việt sẽ bị diệt vong như dân tộc Chăm đã từng chịu dưới bàn tay Đại Việt.

    Cũng như 800 năm trước, Trung Hoa đã thâu tóm Nước Đại Lý. Hôm nay, đất nước Đại Lý cũ tức “tỉnh Vân Nam” ngày nay, hiện là đất người Hán; Còn người chủ thực sự của Đại Lý bị tiêu diệt và phải lưu lạc khắp nơi để lẩn trốn sự thanh trừng sắc tộc. Đó là bài học lịch sử. Nếu Việt Nam rơi vào Trung Quốc cai trị thì nòi giống Việt cũng sẽ bị “Diệt Vong” bởi bàn tay Tàu Cộng.

    III – Đọc, thấy, nghe, nhớ, nghĩ.Trước mắt, nếu “Con Người nhận thức sai lầm về mối Nguy thì sẽ mất Mạng”, nếu “Dân Tộc nhận thức không đúng mối Nguy thì Dân Tộc đó sẽ Diệt Vong” và Nước bị xóa sổ. Việt Nam hiện nay trong thời đại văn minh, không bị tiêu diệt như Champa mà diệt tinh vi bằng “Chất Độc” tẩm vào thực phẩm… Người Việt sẽ chết bệnh tật và người Tàu Cộng sẽ tràn khắp Nước dựng nhà sinh sống. Mối họa vô lường đang đứng trước mắt.

    Ngày xưa Champa nhu nhược nhượng đất cho Đại Việt nhiều lần và cuối cùng bị diệt vong; Ngày nay Việt Nam cũng đang nhượng đất cho Trung Cộng và kết tình Răng Môi. Như vậy, Việt Nam cũng sẽ đi trên con đường Vong Quốc – Diệt Vong chỉ là vấn đề thời gian. Than ôi ! ./.Tác giả: Vivi

  • Âm nhạc,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  Vương Trùng Dương

    Tưởng Nhớ Nhạc Sĩ Đan Thọ

    Vương Trùng Dương

    Nhạc Sĩ Đan Thọ (6/1924-9/2023)

    Nhạc sĩ Đan Thọ qua đời ngày 4 tháng Chín năm 2023, thành phố Houston, Texas, hưởng đại thọ 99 tuổi. An giấc nghìn thu ngày 18 tháng Chín, tại Nhà Quàn Vĩnh Cửu (Chapel of Eternal Peace at Forest Park), Houston, Texas. Với tuổi ta, nhạc sĩ được bách niên (100 tuổi) tuổi hạc đại thượng thọ trên cõi trần.

    Nhạc sĩ Đan Thọ tuy không sáng tác nhiều nhưng cả cuộc đời cho nghệ thuật với niềm đam mê âm nhạc và những đóng góp của ông trong lãnh vực nầy từ thời tiền chiến ở Hà Nội, hai thập niên ở Sài Gòn và thời gian ở hải ngoại.

    Những nhạc phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Đan Thọ như: Bóng Quê Xưa (1952), Vọng Cố Đô (chung với Nhật Bằng), Thú Ly Hương… Tình Quê Hương (thơ Phan Lạc Tuyên), Mimosa Thôi Nở (thơ Nhất Tuấn), Chiều (lời Đinh Hùng). Có lẽ nhạc phẩm Dương Cầm của ông (ý thơ Mùi Quý Bồng, con rể) là ca khúc cuối đời. Trong đó hai ca khúc Tình Quê Hương và Chiều Tím được giới thưởng ngoạn âm nhạc yêu thích nhất.

    Tài hoa của nhạc sĩ Đan Thọ điêu luyện với nhiều loại nhạc cụ khác nhau, ngón đàn violin điêu luyện và tiếng kèn saxophone rất tuyệt, ngoài ra với đàn hạc (harpe) loại đàn cổ nhất của Ai Cập thời xa xưa và đàn bandura của đất nước hoa hướng dương (Ukraine).

    Đan Thọ tên thật là Đan Đình Thọ, sinh ngày 21 tháng 6 năm 1924 tại Nam Định, Bắc phần, theo học tại trường Saint Thomas D’Aquin trong khoảng từ năm 1936 đến 1941 và thơi goan nầy học vỹ cầm. Từ năm 1942 đến 1945, ông học hòa âm và sáng tác với các giáo sư, nhạc sĩ Tạ Phước (vị hiệu trưởng đầu tiên của Nhạc Viện Hà Nội). Năm 1945, ông chơi đàn violin cho phòng trà Thiên Thai của nhạc sĩ Hoàng Trọng (1922-1998) ở Nam Định.

    Năm 1945, ông lập gia đình với cô thiếu nữ Hà Nội Nguyễn Thị K. Thanh mới 16 tuổi, (sinh năm 1929) gia đình có phần e dè khi biết con gái sắp thành thân với nhạc sĩ. Thế nhưng ông bà sống với nhau trọn đời, cùng nuôi dạy nên người một con trai và ba con gái (trưởng nam Đan Đình Thành, trưởng nữ Đan Kim Tâm, thứ nữ Đan Kim Trang (quá vãng), út nữ Đan Kim Thư.

    Năm 1948, nhạc sĩ Đan Thọ gia nhập Ban Quân Nhạc Đệ Tam Quân Khu Hà Nội cùng với các tên tuổi khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Nhật Bằng… Trong thời gian này, ông được nhạc trưởng quân nhạc Schmetzler hướng dẫn về kèn.

    Năm 1954, ban quân nhạc cùng gia đình ông di cư vào Nha Trang. Năm 1956 vào Sài Gòn, ông được mời cộng tác với vũ trường Đại Thế Giới, và ông tiếp tục trau giồi môn kèn với nhạc sĩ Mano Umali người Phi Luật Tân.

    Năm 1956, ông trưởng ban nhạc nhẹ của đài Ðài Phát Thanh Tiếng Nói Quân Ðội trong khoảng một thời gian mười năm, gồm các nhạc sĩ nổi tiếng như Xuân Tiên, Xuân Lôi, Canh Thân,… Năm 1965, Đan Thọ giải ngũ và sau đó tham gia vào ban nhạc Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh và tiếp tục chơi nhạc tại các phòng trà, vũ trường cho tới năm 1975.

    Gia đình Đan Thọ kẹt lại Việt Nam đến tháng 3/1985 mới tới Hoa Kỳ, theo diện đoàn tụ do sự bảo lãnh của người em vợ. Nhạc sĩ Đan Thọ không định cư ở Washington D.C. lấy lý do sợ cái lạnh của vùng đông bắc Hoa Kỳ nên xin với phái đoàn sắp xếp chuyến bay sang New Orleans để sống với gia đình người con gái. Đây là quê hương của nhạc Jazz, hợp với sở trường của ông nhưng ít người Việt sinh sống. Nhạc sĩ Đan Thọ đã một thời tự lập và vẫn còn đam mê với âm nhạc nên theo lời thân hữu, ông bà chuyển sang Little Saigon. Bà Đan Thọ là mẩu người mẹ Việt Nam hiền thục, tận tụy với con, chìu chồng (thời trước, nhạc sĩ Đan Thọ chơi nhạc ở vũ trường, đến khuya mới về nhà, bà vẫn đợi chồng về mới đi ngủ). Ông và vợ đi làm cho hãng General Ribbon ở Van Nuys, tây bắc TP Los Angeles. Mỗi ngày phải đi khá xa nhưng ông bà “đôi ta có nhau” trong những năm dài. Vẫn nhớ bầu không khí của một thời xa xưa nên cuối tuần, ông chơi vỹ cầm, kèn saxo trong vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh, người bạn thân với ông trong ban nhạc Shotguns ở Sài Gòn.

    Ngày 30 tháng 6 năm 1995, nhạc sĩ Đan Thọ mở đêm nhạc từ giã bạn bè California về Louisiana đoàn tụ với gia đình con gái Đan Tâm và rể là bác sĩ Mùi Quý Bồng.

    Những tưởng an hưởng tuổi già với con cháu, năm 2005, trận bão Katrina quét qua New Orleans, trong thiên tai này, nhạc sĩ lại mất sạch những nhạc cụ ông yêu quý, trong đó có cây vỹ cầm đến hơn 250 tuổi và cây kèn saxo mạ vàng, hai báu vật của ông. Ông bà dọn về Florida lánh nạn ở nhà trưởng nam Đan Thành. Và những năm cuối đời ông bà dọn về Houston, Texas, cùng nơi cư ngụ của các con gái cho đến ngày nay.

    Với nhạc sĩ cả cuộc đời sống với âm nhạc nên đã có nhiều bài viết. Nay trích dẫn vài hồi ức trong gia đình.

    Hồi Ức Về Nhạc Sĩ Đan Thọ của anh Đan Thành (trưởng nam, kiến trúc sư) viết về chiếc vỹ cầm vào năm 2017:

    “Bố tôi cũng thế, ông nâng niu và xem chiếc vỹ cầm như một người tình, lãng mạn và hay hờn giận qua những lần thay giây đàn. Ông thương yêu, gìn giữ như một báu vật. Sau những buổi trình diễn, tôi thấy ông cẩn thận lau chùi, nhẹ nhàng cất vào hộp đàn với tấm nhung mềm mại che chở bao quanh người tình trẻ. Mọi người nhắc đến tên ông nhạc sĩ Đan Thọ luôn đi theo với tiếng vỹ cầm réo rắt của ông.

    Chiếc vỹ cầm đã theo ông đi khắp miền đất nước, từ một góc quán Thiên Thai ở Nam Định, qua Hà Nội của những năm 40-45, xuống thôn Vĩ Dạ miền Trung, trong những hộp đêm tráng lệ Sài Gòn ngày nào… Tiếng đàn của ông cao vút bay xa, vượt qua khoảng không gian nhất định, chạm vào hơi thở của người đang thưởng thức, thật đúng như:

    Tiếng đàn đã gíúp ông nuôi sống gìa đình, che chở đàn con khờ dại trong mấy chục năm trời.

    … Bố tôi rửa tay gác kiếm, nói theo phong cách của nhà văn Kim Dung, hằng ngày vui cùng cỏ cây, thỉnh thoảng ông mang chiếc vỹ cầm xưa ra lau chùi và tấu lên giòng nhạc của dân du mục Gypsy xa xưa… âm thanh quyện với thời gian cùng tâm sự người xa xứ…

    Tháng 8 năm 2005, chúng tôi lo ngại và thường xuyên gọi điện thoại thăm hỏi nhắc chừng. Sự lo ngại trở thành sự thật, cơn bão Katrina lớn quá sức tràn qua những vùng Bắc Florida, Albama và đổ vào New Orleans, trung tâm bão nằm ngay trên hồ điều chỉnh nước Lake Pontchartrain. Nước tràn qua đê ngăn và đổ xuống vùng thấp, nơi Bố Mẹ và gia đình hai em gái tôi đang trú ngụ.

    Bố Mẹ tôi chỉ có 30 phút để chạy ra khỏi nhà, giòng nước mạnh bạo tràn xối xả vào khu dân cư tạo thành những giòng nước cao gần 15 feet… Từ ngày đó, Bố tôi thường nhắc đến chiếc đàn xưa của ông hãy còn chìm trong giòng nước lạnh”.

    Sau trận thiên tai, anh Đan Thành đưa thân phụ trở lại căn nhà xưa:

    “Tay Bố tôi run rẩy khi chạm vào chiếc vỹ cầm, hình như ông xúc động lắm khi nhìn những mảnh vỡ của chiếc vỹ cầm, như thấy đứa con trở về qua bao lần sóng gió. Ông cẩn thận gom từng mảnh vụn của chiếc đàn, lau chùi nhẹ nhàng đặt chúng theo thứ tự vào hộp, có lẽ trong đầu ông còn bàng hoàng không tin vào những gì đã xảy ra do cơn bão để lại”.

    Hồi Ức Về Nhạc Sĩ Đan Thọ về ca khúc Dương Cầm của con rể Mùi Quý Bồng (bác sĩ, nhà thơ với thi phẩm Mong Manh (1994) và với bút hiệu Chẩm Tá Nhân, tập thơ vui Tiếu Lâm Chân Kinh dày 632 trang, ra mắt ở Little Saigon, July, 2022).

    BS Bùi Quý Bồng lập gia đình với trưởng nữ nhạc sĩ Đan Thọ là Đan Kim Tâm năm 71. Du học ở Mỹ năm 1973, sau năm 1975 bị kẹt lại, nhớ vợ nên làm thơ tình cho đến khi vợ vợ con qua vào tháng 4 năm 1979. Sau thời gian làm Orientation ở Washington DC, anh xuống New Orleans từ tháng Giêng năm 1974 cho đến trận bão Katrina năm 2005, gây thiệt hại cho gai đình anh trắng tay nên sau đó dời về chuyển sang Houston, Taxas. Là bác sĩ với tâm hồn nghệ sĩ, anh viết:

    “Một buổi chiều Thu năm ấy, đã lâu lắm rồi. Ngồi trên chiếc phi cơ từ Orange County, California trở về New Orleans, Louisiana, tôi gắn ống nghe vào tai, ngả đầu trên ghế, mở nhạc nghe cho qua thì giờ. Đột nhiên những âm thanh thánh thót, trầm bổng qua tiếng dương cầm trong bản Piano Concerto No 21 của Mozart trong một thoáng chốc bỗng đem tôi rời khỏi khung cảnh chật hẹp trong lòng chiếc phi cơ đến một cõi mộng mơ xa vời nào đó khiến tôi quên hết thực tại. Tôi thấy mình như đang bay bổng giữa một không gian Liêu Trai xa vắng, mơ hồ, ngây ngất. Bản nhạc vừa dứt thì tôi cũng bừng tỉnh, thoát khỏi cơn mơ. Ý thơ từ đâu bỗng cuồn cuộn chẩy đến, và tôi đã viết bài thơ Dương Cầm ngay lúc đó, trên một tờ napkin cô tiếp viên tóc vàng xinh xắn vừa đưa cho tôi cùng với ly cà phê ít phút trước.

    … Bận rộn với công việc, thời gian sau đó tôi cũng quên đi, không nhớ đến nó. Cho đến một hôm nhạc sĩ Đan Thọ đưa tôi xem bản nhạc Dương Cầm ông vừa viết xong, dựa theo ý bài thơ của tôi. Ông nói ông đã có cảm hứng khi ngồi nhìn và nghe cô cháu ngoại, YLan, ngồi trước cây đàn dương cầm, tập dượt cho một buổi trình tấu của Đại Học Loyola ở New Orleans. YLan là cô con gái thứ hai của tôi và Đan Kim Tâm, trưởng nữ của nhạc sĩ Đan Thọ.

    … Một điểm thú vị là ít lâu sau đó nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm gửi cho tôi một phiên bản khác của Dương Cầm. Ông nói ông rắt thích bản Dương Cầm của Đan Thọ, nhưng ông muốn viết một phiên bản mới để giữ cho bản nhạc đi sát với lời thơ hơn.

    … Tôi có cái may mắn được gọi nhạc sĩ Đan Thọ là nhạc phụ, và sau này, khi ông từ Orange County về New Orleans, rồi sau trận bão thảm khốc Katrina, qua Houston sinh sống, trở thành y sĩ riêng, chăm sóc sức khỏe cho ông, giữ cho ông còn được vui sống với con cháu cho đến ngày nay dù đã trên 90 tuổi”.

    Cháu Mùi Quý Y Lan (Ylan Mui) ái nữ của anh chị Mùi Quý Bồng – Đan Tâm, cháu ngoại của nhạc sĩ Đan Thọ, Mùi Quý Y Lan từ nhỏ chơi dương cầm và hình ảnh cô ngồi đàn piano thuở bé đã tạo cảm hứng cho ông ngoại sáng tác bản nhạc cuối cùng tựa đề Dương Cầm với ý thơ Mùi Quý Bồng. Ylan Mui từng là giáo sư thỉnh giảng ngành báo chí tại đại học University of Maryland. Sau gần 15 năm làm phóng viên chuyên về giáo dục rồi tài chánh cho nhật báo The Washington Post, bước sang lãnh vực truyền hình và cộng tác với hệ thống CNBC, ký giả Y Lan thường xuyên được mời xuất hiện trên đài C-SPAN.

    Bài viết về Ông Ngoại với những kỷ niệm và tâm tình dành cho ông ngoại Đan Thọ, nguyên tác tiếng Anh (BS Mùi Quý Bồng dịch sang Việt ngữ) với tâm tình: 

    “Khi tôi còn nhỏ, Ông Bà Ngoại tôi sống trong một căn nhà bình thường, trên một con đường khiêm tốn trong khu Garden Grove. Đây là một căn nhà một tầng, với một hồ bơi, một mái hiên đằng sau, và một cái bếp nho nhỏ. Nhưng với một cô bé 10 tuổi, đó là một thế giới thần tiên, kỳ diệu.

    Chị em tôi và những người anh em họ đã có những ngày Hè dài vẫy vùng trong hồ bơi, tắm mát trong ánh nắng trường cửu của California…

    … Nhưng không có tiếng nhạc nào ngọt ngào hơn những âm thanh từ chiếc vỹ cầm của Ông Ngoại. Ông đã cho tôi được ôm chiếc vỹ cầm ấy một lần khi tôi đến thăm ông, trao phó bảo vật ông quý nhất vào bàn tay vụng về của tôi. Tôi cố gắng kéo được vài nốt nhạc, và lập tức hiểu rằng những âm thanh kỳ diệu ông tạo ra từ cây vỹ cầm của ông đòi hỏi cả một đời để tôi luyện.

    Ông Ngoại và âm nhạc, trong tâm trí tôi, là một. Lớn dần lên theo ngày tháng, nhưng tôi không hiểu rõ lắm hoàn cảnh và sự phấn đấu của gia đình. Chiến tranh và những chịu đựng là một khái niệm trừu tượng đối với cái tâm hồn Mỹ hóa của tôi. Nhưng tôi hiểu Ông Ngoại và âm nhạc của ông. Tôi vẫn biết rằng ông là một nhạc sĩ tài hoa, không những với vỹ cầm, mà còn với saxophone, và cả dương cầm. Khi ông đàn, ông gợi lên những dấu nét của một quốc gia mà tôi, thế hệ Việt Nam thứ hai, mới bắt đầu thấu hiểu. Cái hoa mỹ, cái lãng mạn, cái khổ tâm, hoà hợp làm một. Đến khi tôi đã lớn khôn, tôi mới nhận ra cái giá gia đình chúng tôi đã phải trả để Ông Ngoại có thể cho tôi thưởng thức âm nhạc trong căn nhà nho nhỏ, bình thường của ông ở khu Garden Grove.

    Ông Ngoại đã truyền cái khả năng âm nhạc ấy vào hệ DNA của tôi. Tôi cảm nhận được sự hãnh diện của ông khi ông theo dõi sự tiến bộ về dương cầm của tôi. Ông thường nở nụ cười thoả mãn và dìu tôi đến ngồi trên ghế để tập dượt. Ông, người nhạc sĩ chuyên nghiệp và người bảo trợ của tôi!

    Ông Ngoại là người tạo cảm hứng cho tôi là chuyện hiển nhiên. Nhưng tôi không ngờ tôi cũng đã là nguồn cảm hứng của ông! Một ngày nọ, sau khi nghe và nhìn tôi tập dượt, ông đã viết một bản nhạc mới mang hình ảnh tôi. Lời bài nhạc dựa theo ý một bài thơ do Bố tôi viết. Tựa bài nhạc là Dương Cầm. Một bản nhạc mới, viết trên một quê hương mới, một kết hợp phản ảnh ba thế hệ trong gia đình tôi! Đây là bản nhạc duy nhất Ông Ngoại viết trong những ngày sống tha hương, và là bản nhạc cuối cùng ông viết trong cuộc đời nghệ sĩ.

    Lần chót Ông Ngoại đàn cho tôi là trong lễ cưới của tôi. Ông đã trình bầy bản nhạc nổi tiếng nhất của ông: Chiều Tím. Dường như cặp mắt ông chỉ hướng về tôi trọn vẹn trong những giây phút ấy, mặc dù có rất nhiều bạn bè, và gia đình thân thuộc khắp chung quanh. Ông đã đàn để thương tặng tôi một lần nữa, làm tôi nhớ lại những tháng ngày kỳ diệu của tuổi thơ tôi, nguồn âm nhạc đã luôn gắn bó chúng tôi với nhau, và niềm yêu thương còn mãi tồn tại sau khi những nốt nhạc cuối cùng đã dần lịm tắt”.

    Nhạc sĩ Nguyên Bích, bác sĩ Quân Y, tác giả ca khúc Tâm Sự Kẻ Xa Quê và Tình Si (thơ Mùi Quý Bồng) chai sẻ về đàn hạc:

    “Một lần qua New Orleans chơi với Bồng, con rể bác Đan Thọ, tôi được bác cho xem một cây đàn lạ mà bác mới mua được của một người Mỹ gốc Nga. Bác có cho tôi biết tên của cây đàn này, một lọai đàn riêng của sắc dân một nước nhỏ vừa tách rời nước Nga thời đó. Đàn có nhiều dây, cũng tương tự như đàn dương cầm nhưng không bấm phím mà lại gẩy bằng ngón. Tiếng đàn nghe rất ấm có lẽ vì có thùng đàn lớn và có thể chơi nhiều âm một lúc chứ không phải đơn âm. Cây đàn to và cồng kềnh quá, không biết các nhạc sĩ nước này sử dụng nhạc khí này thế nào, riêng tôi thì thấy không đủ sức khỏe và tầm vóc để chơi cây đàn này rồi.

    Tháng 8 năm 2005, bão Katrina thổi ào vào New Orleans nhận chìm nhà bác và luôn cả cây đàn. Gặp bác ở Houston, hỏi thăm bác về cây đàn, bác với giọng rầu rầu bảo bác bị mất cây đàn ấy rồi. Cây violin mà bác quý hơn vàng Carlo Bergonzi làm từ năm 1741 cũng bị hư luôn. Bác Đan Thọ sở trường về violin và saxophone nhưng tài bác không dừng lại ở đó, mà bác đã viết hòa âm bài Dương Cầm cho violin và piano để hai ông cháu hòa tấu trong buổi tiệc sinh nhật của bác ở New Orleans. Bác thích thú phân tích với tôi từng khúc trong hòa âm bài này “làm sao cho cháu nó chơi được khúc này chứ”…

    Cây đàn Nga này có một sức quyến rũ với tôi một cách đặc biệt, và cũng từ đó tôi ưa để ý đến những nhạc cụ dân tộc của từng xứ, nhất là những xứ Bắc Âu.

    Cây đàn nhạc sĩ Đan Thọ bị mất trong trận bão Katrina là đàn bandura, một nhạc cụ dân tộc của Ukraine. Ngày xưa các nhạc sĩ hát dạo Ukraine dùng cây đàn này cùng với những bài ca và nhạc của họ làm công cụ truyền tải từ thế hệ này đến thế hệ khác những thiên hùng ca của dân tộc Ukraine chiến đấu chống Nga Hoàng và đảng Cộng Sản Nga. Các nhạc sĩ này, đa số khiếm thị, vì thế đã bị chính quyền Nga giết hại. Đàn bandura được coi như biểu tượng của Ukraine và có một âm sắc hết sức độc đáo. Cây đàn bandura ngày nay có 65 dây”.

    Nhạc sĩ Lê Văn Khoa được ra mắt công chúng vào năm 2005 với dàn nhạc giao hưởng Kyiv Symphony Orchestra và Chorus của Ukraine, viết về cây đàn bandura “Nếu người Việt coi đàn tranh là nhạc cụ cổ truyền thì người Ukraine hãnh diện với cây đàn truyền thống bandura có âm thanh du dương không kém đàn tranh nhưng âm vực rộng hơn  so với ngũ cung trong đàn tranh”.

    Nay nhạc sĩ Đan Thọ về với cát bụi cùng với những cây đàn đã một thời gắn liền với thú đam mê trong âm nhạc của ông nơi cõi vĩnh hằng. Ông đã ra đi để lại trong lòng mọi người hình ảnh đáng quý, trân trọng.

    Ca khúc Chiều Tím tạo nên tên tuổi, với tôi thì ca khúc Tình Quê Hương điệu Tango Habanera, Tinh Hoa ấn hành năm 1956 đã in sâu trong thời chinh chiến:

     “Anh về qua xóm nhỏ,

    Em chờ dưới bóng dừa.

    Nắng chiều lên mái tóc,

    Tình quê hương đơn sơ.

    Quê em nghèo, cát trắng,

    Tóc em lúa vừa xanh.

    Anh là người lính chiến,

    Áo bạc màu đấu tranh .

    … Ngõ buồn màu hoang loạn

    Quê nghèo thêm xác xơ…”.

    Trong ca khúc Bóng Quê Xưa (1952) với nỗi niềm:

    “Xa quê hương thân yêu

    Với bao nhiêu tình thương”

    Nhạc sĩ Đan Thọ không còn nữa nhưng tình cảm với mọi người và tình quê hương trong lòng người xa xứ khi nhớ về cố hương. Oliver Wendell Holmes, Sr nhà thơ, bác sĩ Mỹ vào tiền bán thế kỷ XIX nói: “Where we love is hometown, hometown that our feet may leave, but not our hearts” (Nơi chúng ta yêu là quê hương, quê hương là nơi đôi chân chúng ta có thể rời đi, nhưng trái tim thì không). Và, trái tim đó trong ca khúc của nhạc sĩ Đan Thọ cách nay bảy thập niên, sẽ mãi mãi.

    Vương Trùng Dương, Little Saigon, September 10, 2023

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  LỊCH SỬ,  NGHIÊN CỨU,  Tin tức,  Việt Hải

    Đọc Việt Eden –   Địa Đàng Hạ Giới

    Trần Việt Hải

    Cầm trên tay sách mới còn thơm mùi giấy, giấy dầy, in đẹp, 330 trang, bìa trước họa sĩ vẽ ký giả Du Miiên cầm bút “chạy show” săn tin tên phố Bolsa, bìa sau là hình và tiểu sử của 2 tác giả, đôi uyên ương đồng nghiêp lâu năm trong làng báo giới hải ngoại. Tôi lẩm bẩm về tựa đề “Việt Eden”, tức “Địa Đàng Hạ Giới”. “Hạ Giới” nghĩa là “thế giới ta bà chúng sinh”, đôi khi theo cụ Tố Như – Thanh Hiên ngôn thơ “Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, sách mới tác giả đề cập về sự hình thành Sài Gòn Nhỏ theo cái nhìn tích cực, khía cạnh “stink wind, bloody rain” là phạm vi tiêu cực. Tôi đồng ý.

    Suy nghĩ về 2 chữ “địa đàng”, theo tôn giáo ý nghĩa như “Địa Đàng theo Thiên Chúa”.

    Theo Thiên Chúa trong vườn địa đàng, người phụ nữ được Adam yêu thương, cưng chiều hết mực. Người phụ nữ ấy hẳn là hạnh phúc nhất khi bên cạnh có một người chồng tử tế. Ông luôn dành cho người vợ những lời yêu thương ngọt ngào. Ngày ngày Thiên Chúa thấy hai người tay trong tay dạo quanh vườn địa đàng. Họ kể cho nhau những kế hoạch tốt đẹp. Họ mơ ước về căn nhà đẹp và những đứa trẻ xinh. Bầu không khí bên ngoài, khung cảnh thơ mộng của vườn địa đàng cũng muốn tô điểm thêm nét đẹp mối tình giữa hai người. Đó là một đôi uyên ương được Thiên Chúa se duyên nên nghĩa vợ chồng. Đấy lá ý nghĩa tôn giáo, ươc mơ tâm linh.

    Còn xét về 2 chữ “địa đàng”, theo văn học ý nghĩa như “Địa Đàng ở Phương Đông”

    Một luận điểm văn học khác theo tác phẩm nổi tiếng của nhà văn kiêm bác sĩ người Anh là Stephen Oppenheimer và sách Eden in the East (Địa Đàng ở Phương Đông). Sách Địa Đàng của Oppenheimer cho ta tìm hiểu cội nguồn văn minh và văn hóa dân tộc hiện đang là một đề tài thời sự nóng trên thế giới, bởi vì trong xã hội hiện đại và thế kỷ 21, văn hóa sẽ là một yếu tố nhận dạng của một dân tộc. Ở nước Việt, sách vở và các công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa dù đã có đấy, nhưng nói chung vẫn còn khiêm tốn. Trong bối cảnh đó, bạn đọc nên xem qua cuốn sách này vốn quan trọng về lịch sử văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là một công trình nghiên cứu văn minh và văn hóa thời tiền sử, và liên quan mật thiết đến Việt Nam. Oppenheimer chọn đề tài bao la về địa lý Đông Nam Á là một vùng nước đọng quan trọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh đặc thù Đông Nam Á.

    Như vậy “Địa Đàng” theo Thiên Chúa hay theo Oppenheimer vẫn khác với Địa Đàng Hạ Giới của Ngọc Hà – Du Miên, vì bên tâm linh là Địa Đàng thiêng  liêng, hay bên sách văn học Anh là vùng địa dư phương Đông bao la. Sách Việt ta giới hạn ở Quận Cam Nam Cali mà thôi.

    Theo nhà văn Vương Trùng Dương:

    Với tựa đề “Việt Eden, Địa Đàng Hạ Giới”, nội dung trong quyển sách nầy là tài liệu quý báu về Little Saigon, trở thành “thủ đô tị nạn” từ ngày được hình thành đến “cái nôi” của cộng đồng người Việt tị nạn trong mọi sinh hoạt. Tác phẩm dày 330 trang, hình màu gồm 3 Chương: Chương I (trang 13 đến trang 81), khái quát về Bolsa Ngày Ấy đến Chợ Xuân Chiến Sĩ Cộng Hòa. Chương II (trang 83 đến trang 170) sự phát triển của Little Saigon từ năm 1980 đến năm 1999. Chương III: (trang 171 đến trang 224) tiếp nối sự phát triển của Little Saigon từ năm 1999 đến nay. Phần Phụ Lục (trang 225 đến trang 330).

    Trong số những người biết rõ nhất về nguồn gốc và sự ra đời của Little Saigon phải nói đến nhà báo Du Miên, ông Khanh Nguyễn, ông Phùng Minh Tiến, anh Ba Thành Mỹ, anh chị Thạnh – Hoàng Yến (chủ nhân nhà sách Tú Quỳnh) và nhiều người khác nữa. Theo những người hiểu lai lịch khu phố Việt này đều công nhận người có công khai sinh ra tên “Little Saigon” chính là nhà báo Du Miên.

    Tôi nhớ vào năm 1979 khu thương mại Mini Mall trên đường Bolsa chỉ có vài ba cửa tiệm. Ðối diện Tú Quỳnh là nhà hàng Thiên Cung sau đổi là Thành Mỹ cho tới nay. Sau đó lần lượt các cửa tiệm khác ra đời như: tiệm bán băng nhạc của nhạc sĩ Trường Hải, nhà in của Du Miên, văn phòng bán bảo hiểm của Luật sư Nguyễn Xuân Phước, dịch vụ gửi hàng của ông Thuận, bán vé máy bay của ông Vượng, bán hàng nội thất của ông Ðề và chợ Ái Hoa của ông Bói. Quán cà phê Lục Huyền Cầm của cặp nghệ sĩ Lê Uyên Phương sau này cũng có mặt, khiến nơi này trở nên một chốn kinh doanh đa dạng. Xem hình sách Việt Eden, các trang 20-21, 54-55, 59, và 104-105.

    Đặt tên Little Saigon

    Năm 1980, ký giả Du Miên và một số thân hữu trong đó có ông Khanh Nguyễn, (Chủ tịch Little Saigon Foundation), khởi xướng cuộc vận động thành lập khu phố Việt Nam tại Quận Cam. Sau khi bỏ thì giờ đi đến tất cả các cơ sở thương mại, tôn giáo trong vùng, ký giả Du Miên vẽ tấm bản đồ ghi rõ địa chỉ từng cơ sở thương mại do người Việt làm chủ và đặt tên là “Phố Saigon” trên đất Mỹ, để nhớ về một thủ đô Saigon của Việt Nam Cộng Hòa đã không còn nữa. Tấm bản đồ này đã được đăng nhiều lần trên tuần báo Saigon suốt năm 1980. Theo một buổi phỏng vấn ký giả Du Miên, ký giả nhật báo Register Rosa Kwong đã dịch “Phố Sàigòn” thành “Little bit of Sàigòn” và đăng lại tấm bản đồ của ký giả Du Miên. Bắt đầu từ đó, danh xưng Little Sàigòn đã được báo chí Hoa Kỳ dùng để gọi khu thương mại Việt Nam trên đại lộ Bolsa. Từ năm 1985 đến 1988, qua nhiều vận động của cộng đồng, danh xưng Little Sàigòn được chính thức công nhận bởi thành phố Westminster và tiểu bang California (ngày 17 tháng 6 năm 1988). Xem hình sách Việt Eden, các trang 72-73, 88-89. Hình bản đồ “Phố Sàigòn” nguyên thủy trên tuần báo Sàigòn. Bản đồ “Phố Sàigòn” được đăng lại trên nhật báo Register số ngày 1 tháng 2 năm 1981. Danh xưng “Little Sàigòn” lần đầu tiên xuất hiện trong bài viết của nữ ký giả Rosa Kwong. Đính kèm bài viết này là phóng ảnh của bản đồ Little Sàigòn lúc khởi thủy và báo Register nhân dịp Tết nguyên đán 1981 nói trên. Để tìm hiểu thêm về danh xưng này, Rosa Kwong đã trực tiếp phỏng vấn ký giả Du Miên, khi ấy vốn là chủ nhiệm, chủ bút tuần báo Thời Báo, xuất bản tại Little Sàigòn. Rosa hỏi xin ông cho biết sơ lược về giai đoạn hình thành tấm bản đồ Little Sàigòn này.

    Ký giả Du Miên trả lời vào năm 1980, sau khi hỏi ý tất cả mọi chủ tiệm (khoảng vài ba chục tiệm), ai nấy cũng muốn hình thành một cái gì đó để nương tựa, bênh vực nhau, tôi bàn với các anh chị trong tòa soạn báo Sàigòn gồm các anh Vũ Tài Lục, Tống Hoằng, Lê Khắc Thuận, Trần Đức Tuấn  và cô Dạ Yến, mở chiến dịch vận động hình thành khu phố Việt Nam. Tôi khởi sự vẽ bản đồ khu phố và gọi đó là “Phố Sàigòn”. Bản đồ này đăng nhiều lần trên tuần báo Sàigòn vào cuối năm 1980.

    Danh Xưng Little Saigon được chính thức công nhận

    Ngày 9-2-1988, qua sự vận động ráo riết của Ủy Ban Phát Triển Little Saigon, dân Biểu Longshore, và nghị viên Frank Fry, Hội Đồng Thành Phố Westminster đã biểu quyết với đa số tuyệt đối thông qua Quyết Nghị số 58, công nhận khu phố của người Việt trên đại lộ Bolsa là “Little Saigon,” và thành phố cũng thành lập ủy ban với tên là “Little Saigon Community Development Advisory Committee” để giúp đẩy mạnh việc phát triển khu này thành một khu thương mại và du lịch sầm uất.

    Xem hình sách Việt Eden, các trang 143 và 145.            

    Đọc Việt Eden trang 154-161 cùng bài viết về “Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại & Đại Hội Truyền Thông”, bài Vương Trùng Dương:

    Danh xưng Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại (HKGVNHN) do Du Miên và các đồng nghiệp hình thành từ năm 1994 trong tinh thần tương thân tương trợ với nhau trong công việc. Nhiệm Kỳ 2002-2004, Chủ Tịch: Đỗ Sơn, Tổng thư Ký: Du Miên & 12 thành viên. Văn phòng tại Câu Lạc Bộ Báo Chí, 15351 Euclid St # 1H, Garden Grove, (trong khu business đường Euclid, giữa Westminster & Bolsa). Đây là bước ngoặc của nhiệm kỳ này vì tổ chức được Đại Hội Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại (ĐHTTVNHN) đã từ lâu HKGVNHN mong ước.

    Nói  đến tác giả biên khảo Du Miên Lê Thanh Hoa phải nói đến công trình nghiên cứu để hình thành tác phẩm “Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông”. Sách kể rõ sự việc kiến trúc sư Việt Nam là người vẽ kiểu và chỉ huy hơn 100 ngàn nhân công xây dựng thành Bắc Kinh nổi tiếng khắp năm châu với Tử Cấm Thành, Thiên An Môn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Sách quý Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông được đánh giá là cuốn sách đã ấn hành đúng thời điểm vì nội dung của cuốn sách đưa ra nhiều chứng liệu để củng cố niềm tin và tự hào dân tộc. Du Miên Lê Thanh Hoa phải sưu khảo để chứng minh “niềm tự hào dân tộc” và “hãnh diện là người Việt Nam” qua tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông…Nhà văn Du Miên và cũng là nhà nghiên cứu cổ sử Lê Thanh Hoa đã làm một chuyện vô cùng hữu ích về sử liệu cho ngàn sau. Trong tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông, hai chữ “suối nguồn” như cội nguồn sự kiện. Suối nguồn là tác giả muốn nói rằng văn minh phương Ðông bắt nguồn từ Việt và cái nguồn ấy mạnh mẽ tuôn trào và tuôn trào mãi. Đây là tác phẩm trưng dẫn bằng chứng, sử liệu Việt, Tàu và Âu Mỹ liên quan đến việc đức Khổng Tử dùng văn hóa Việt dạy cho người Tàu, tổ của nhà Chu (trị vì Tàu 800 năm) cho 2 hoàng tử lớn qua đất Việt để du học. Đặc biệt tài liệu liên quan đến kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu và xây thành Bắc Kinh từ thời nhà Minh cũng như tài liệu Mỹ xác nhận dân Việt là tổ trồng lúa đầu tiên trên thế giới.

    Thư Viện/Bảo Tàng Viện Việt Nam do tác giả văn học Du Miên, một nhà văn hóa yêu sách vở và bằng hữu của ông thành lập và điều hành. (Xem Việt Eden trang 172-175)

    Xem Việt Eden trang 183-184 … như sau:

    Tượng Đài Chiến sĩ Việt Mỹ ở TP Westminter là hình ảnh biểu tượng, tượng trưng  quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.

    Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ, được dựng tại số 14180 đường All American Way, Westminster, CA 92684, trong công viên Sid Goldstein Freedom Park, rộng 1.4 acre (gần 61,000 sqft), được bao quanh bởi một đài phun nước bằng đá cẩm thạch đen và những lá cờ Hoa Kỳ và cờ VNCH. Dưới lá cờ Hoa Kỳ là lá cờ đen tượng trưng cho những quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Chiếc lư hương lớn có lửa cháy suốt ngày đêm, như một ngọn đuốc, được đặt chính giữa công viên của tượng đài, trên một hồ nước nhỏ. Ngọn lửa này không bao giờ tắt, vì được thiết kế công tắc mồi tự động, nên dù giông bão, mưa to gió lớn, mồi lửa tự động cũng sẽ thắp sáng trở lại. Công tác đúc tượng khởi sự năm 1998 cho đến năm 2002 thì hoàn tất với bức tượng đồng hai chiến sĩ, một Việt Nam một Hoa Kỳ vai kề vai cao khỏang ba mét, đứng trên bệ đài làm bằng đá cẩm thạch cao một mét rưỡi. Tượng đài được chính thức đặt tên là Việt nam War Memorial in Westminster.

    Xem Việt Eden trang 209-211 như sau:

    Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam như Tượng đài Nạn Nhân CS cũng chỉ là hình ảnh biểu tượng, trượng trưng cho hăm mấy sắc dân nạn nhân của chủ nghĩa CS trên thế giới. Những nơi này trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhưng không phải là chứng tích lịch sử như Bia Đá Đen ở Washington DC có khắc ghi ghi họ tên của quân nhân Mỹ tử trận ở VN, như những bia mồ mà người Việt hải ngoại đã trùng tu trên các hải đảo của Nam Dương và Mã Lai…. Nhà Thơ Thái Tú Hạp, người sáng lập Đài Tưởng Niệm thay mặt Ủy Ban Thực Hiện Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam, trong bài diễn văn khai mạc, sau khi ngỏ lời chia sẻ khi nhấn mạnh đến dự án mang tính cách Tâm Linh và Lịch Sử nầy mà ước mơ của ông và nhiều người khác từ hơn 10 năm, nay mới đạt ước mơ đó. Sau hơn 30 năm nhìn lại, để Tưởng Niệm và Tri Ân đến những Thuyền Nhân, Bộ Nhân vì không có sự hy sinh cao quý đó chắc chắn những Thuyền Nhân như chúng ta sẽ không hiện diện ngày hôm nay, và để lưu truyền những chứng tích cụ thể cho các thế hệ mai sau hiểu biết nguyên nhân người Việt đến định cư tại xứ sở Hiệp Chủng Quốc này..Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân hôm nay đánh dấu sự thành công và nơi này cũng là vị trí lý tưởng đặt Đài tưởng Niệm tại khuôn viên Westminster Memorial Park, gần khu Tiểu Saigon, nơi có đông đảo người Việt định cư, buôn bán tạo nên sự phồn vinh cho Thành Phố Westminster. Tin thêm, Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân VN (Viêtnamese Boat People Meomrial) mà tượng đồng đúc ở ngoài nước Mỹ đã đưa về Little Saigon (Quận Cam). Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân ngoài  việc có  thể  trở thành một danh lam thắng cảnh mới cho Little Saigon, chắc chắn sẽ là một chứng tích lịch sử như Bia Đá Đen ở Washington, như bia mộ của những người vượt biên đã chết trên đường tìm tự do, trên các hải đảo. Bia mộ ở đảo CS Hà nội có thể áp lực hai nước Nam Dương và Mã Lai phá dẹp bỏ, nhưng ở Little Saigon của Mỹ thì không vì có người Mỹ gốc Việt của một cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất thế giới bảo vệ.

    Lời cuối, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian cùng thân hữu xin chúc mừng nhị vị tác giả Ngọc Hà và Du Miên. Chúc mừng buổi ra mắt sách thành công viên mãn.

    Xin mượn lời trong bài viết của ký giả Thanh Phong điểm sách “Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới” để chấm dứt nơi đây.

    Trần Việt Hải, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian

    “Người viết đã đọc từ trang đầu đến trang cuối và cảm nhận cả một công trình, vừa moi óc vừa tìm tòi nhiều tư liệu, hình ảnh để hoàn thành sách Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới mà từ trước đến nay chưa ai viết đầy đủ hơn về Little Saigon. Đây sẽ là một trang sử oai hùng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại; một cuốn sách đáng để cho cư dân Little Saigon hãnh diện và làm món quà tặng cho bạn bè, người thân ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt qua câu trả lời của ký giả Du Miên, Chủ Bút tuần báo Saigon cũng là người vẽ bản đồ khu phố Saigon đăng trên báo Saigon, ông trả lời nữ ký giả Rosa Kwong, gốc Hồng Kông khi cô hỏi: Tại sao ông gọi là Phố Mới, Phố Saigon? Chủ bút Du Miên trả lời, “Ở quê nhà Việt Nam, Cộng Sản đổi tên thủ đô Saigon của chúng tôi rồi. Chúng tôi lập khu phố nhỏ, phố mới gọi là Phố Saigon. Saigon thủ đô của nước tôi lớn và hoa lệ, là “Hòn Ngọc Viễn Đông”… Còn ở Westminster đây, bất quá chúng tôi gom nhau lại thành một khu phố nhỏ, một góc chút xíu của Saigon hoa lệ ngày xưa”. Cô ký giả gốc Hồng Kông lặng yên một lúc khi thấy Chủ Bút báo Saigon rơm rớm nước mắt khi nhắc đến Saigon. Cô gật đầu chào mọi người, lặng lẽ bước đi. Vài ngày sau, trong bài tường thuật ngày 1 tháng 2 năm 1981, cô gọi khu phố bé tí, phố Saigon của tuần báo Saigon nói trên là “Little bit of Saigon”. Sau này người ta lần lượt bỏ bớt hai chữ “bit of còn lại Little Saigon. Và danh xưng Little Saigon có từ đó, từ ngày 1 tháng 2 năm 1981.”

  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  Phạm Hồng Thái,  Sinh Hoạt

    TÌM HIỂU VỀ 3 TÁC PHẨM: TỰ LỰC VĂN ĐOÀN, HẬU DUỆ & THÂN HỮU; TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN VÀ PHÂN TÂM HỌC & ĐỜI SỐNG

    Thế giới của chúng ta đang được biến đổi nhanh chóng bởi kỹ nghệ Trí Tuệ Nhân Tạo (AI) với một tốc độ ngoài sự tưởng tượng. AI đã có mặt trong nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày của chúng ta như: Xe hơi tự lái, trợ lý giọng nói, phiên dịch, tự động điều khiển hệ thống điện, máy lạnh trong nhà… Hiện nay, tiềm năng của AI đã vượt xa những ứng dụng hàng ngày của người tiêu thụ. Với một kiến thức bao quát và trí thông minh vượt bực, AI đang biến đổi toàn bộ các ngành kinh tế cũng như  thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao tiếp.

    Chúng tôi xin được đăng một số bài dựa theo kiến thức của AI. Xin mời quý thân hữu thưởng thức.

    Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ)

    TLVĐ là một tổ chức văn học được xem như là một biểu tượng của phong trào văn học ở Việt Nam trong thập niên 30. TLVĐ đã đặt nền móng cho nhiều phong trào văn học mới, và đồng thời cũng đã thay đổi hình thức và nội dung của văn học Việt Nam.

    Những người sáng lập TLVĐ gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ.  Tú Mỡ, Xuân Diệu, Hoàng Đạo.  Họ không chỉ là những nhà văn tài hoa mà còn là những nhà cải cách văn học, với ý thức rõ ràng về trách nhiệm xã hội của mình.

    Ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang trải qua thời kỳ biến động lớn, với những phong trào đổi mới trong tư tưởng, văn hóa và xã hội, TLVĐ đã đóng góp một phần quan trọng vào sự thay đổi này qua việc xuất bản các tác phẩm văn học phản ảnh đúng hiện thực xã hội và tình hình thời đại. Với một ngôn ngữ mới, sắc sảo, đôi khi châm biếm, để bàn luận về những vấn đề xã hội, đạo đức và chính trị phức tạp, TLVĐ đã mở rộng biên giới của văn học, đưa nó ra khỏi lớp trí thức truyền thống và tiếp cận với quần chúng.

    TLVĐ được biết đến qua các các tạp chí văn học như “Phong Hóa“, “Ngày Nay“, và “Văn“ Những ấn phẩm này không chỉ truyền tải các tác phẩm văn học mà còn chứa đựng các bài viết phê bình, bình luận xã hội, chính trị, văn hóa. Chính vì thế, các tạp chí này đã trở thành nơi trao đổi, thảo luận sôi nổi về các vấn đề thời sự, góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn học.

    Sự thành công của TLVĐ không chỉ nằm ở giá trị tác phẩm mà còn ở tư duy tiên phong và quan điểm đổi mới mà họ đã đưa vào văn học Việt Nam. Họ đã trở thành ngọn đuốc soi sáng cho thế hệ các nhà văn sau này, mở đường cho sự thay đổi và phát triển của văn học Việt Nam trong thế kỷ 20.

    Hiện nay, TLVĐ vẫn được coi là một trong những tổ chức văn học quan trọng nhất của Việt Nam, và những tác phẩm của họ vẫn được nghiên cứu và trân trọng, không chỉ vì giá trị nghệ thuật mà còn vì ý nghĩa lịch sử và xã hội.

    ***

    Tam Giáo Đồng Nguyên

    Trong đời sống tinh thần của người Việt, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo có những hình thức khác nhau, thường thì ôn hòa nhưng đôi khi lại gay gắt để hòa nhập với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt, đồng thời để kết hợp và thống nhất ở cùng một nguồn gốc theo hình thức của Tam giáo đồng nguyên. Tam giáo” ở đây là: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo và “đồng nguyên” là cùng một gốc. Học thuyết Tam giáo thường có cùng một nguồn gốc nhưng cách lập giáo và việc hành đạo của mỗi vị Giáo chủ có phần khác biệt như:

    • Nho giáo cho rằng sự biến hóa trong Vũ Trụ là do nhất động nhất tịnh của Thái Cực. Vạn vật là có thực, con người nên dựa vào cái thực ấy mà hành động để sinh tồn. Sự sinh tồn của vạn vật là những điều: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, tức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh của Tạo hóa. Con người cần phải làm theo những điều ấy mà an vui trong cuộc sống sinh tồn tạo dựng xã hội quốc gia.
    • Lão giáo coi trọng môi trường tự nhiên, giữ đạo và vui thú cùng thiên nhiên bởi vạn vật là Đạo, cuộc đời là phù du, do đó con người nên sống thư thái, yêu thiên nhiên, đất đai xứ sở.
    • Phật giáo cho rằng vạn vật được tạo ra do yếu tố Chân (truth, reality), sắc với không là một, sự sinh sinh hóa hóa là do vọng niệm chứ không có thực. Cái thực là Chân. Con người cần tìm cho thấy cái thật để trở về cái gốc, thoát khỏi sinh tử luân hồi và đến được Cực Lạc Niết Bàn, an vui hạnh phúc.

    Tóm lại, cả Phật giáo và Đạo giáo đều khuyến khích làm việc “thiện”, nghĩa là hiếu với cha mẹ; tôn kính bề trên và trung thành với vua, với nước. Yêu thương, cứu giúp, tránh không làm điều tham lam độc ác với người khác, mà làm điều thiện cũng là tôn trọng thể chế và quy phạm đạo lý của Nho giáo.

    ***

    Phân Tâm Học

    Phân Tâm Học được định nghĩa là học thuyết về kỹ thuật trị liệu tâm lý. Phân tâm học cho rằng tất cả mọi người đều sở hữu những suy nghĩ, cảm xúc, ham muốn và ký ức ẩn sâu trong vô thức. Phân tâm học giúp chuyển những suy nghĩ trong vùng vô thức sang vùng ý thức, bởi vì con người có khả năng thông hiểu sâu sắc về trạng thái tâm lý hiện tại của bản thân mình, họ có thể tự tìm thấy hoặc nghiên cứu, phân tích về những phương thức để giải thoát khỏi những vướng bận về mặt tâm lý của chính mình thể hiện qua cách cư xử khi bị tác động bởi những suy nghĩ trong vùng vô thức.

    Hành vi khác thường là những hoạt động bất thường có thể gây ảnh hưởng đến giá trị đạo đức và gây rắc rối trong xã hội. Ngày nay, ngành Phân tâm học rất phổ biến và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: Y khoa, tư pháp, văn học nghệ thuật, điện ảnh, v.v… Thật vậy, học thuyết Phân tâm học giúp các nhà chuyên khoa giải thích và điều chỉnh lại những vấn đề liên quan đến đời sống của con người.

    Trên thực tế, Phân tâm học ra đời chịu nhiều ảnh hưởng bởi chủ nghĩa phi lý tính của Schopenhaur (1788-1860), ông cho rằng xã hội chứa đầy sự mâu thuẫn, sự suy nghĩ thiếu minh mẫn và sự khốn cùng ảnh hưởng trên cuộc sống của con người. Từ những quá khứ không hoàn hảo bởi sự đổ vỡ của tình mẫu, sự thất bại của khát vọng vinh quang và từ cái nhìn đầy bi quan, ảm đạm đối với cuộc sống hiện tại khiến Schopenhauer trở nên thù hận đồng nghiệp, khinh bỉ và coi thường phụ nữ. Với ông: “Triết học là quay trở về với thế giới nội tâm của mình, là tìm tòi bản tính thật sự của con người và thế giới”.

    Tóm lại, trong tất cả các nghiên cứu khoa học, chúng ta phải thừa nhận rằng tâm lý học là một khoa học huyền bí và khó có thể chứng minh hơn bất cứ bộ môn khoa học nào, bởi đời sống tâm lý của con người có bản chất hư hư, thực thực, không minh bạch và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chính vì vậy đã có nhiều cuộc tranh luận xoay quanh học thuyết Phân Tâm Học của Sigmund Freud trong suốt nhiều năm qua. Như trong phần nở đầu, Phân tâm học được định nghĩa như là một tập hợp các lý thuyết tâm lý và kỹ thuật trị liệu có nguồn gốc từ lý thuyết của Sigmund Freud.

    ENGLISH VERSION

    The Tự Lực Văn Đoàn (Self-Reliant Literary Group)

    Tự Lực Văn Đoàn is an important literary organization, a symbol of the literary movement in Vietnam in the 1930s. The group laid the foundation for many new literary movements and simultaneously transformed the form and content of Vietnamese literature.

    The founders of Tự Lực Văn Đoàn included Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân Diệu, and Hoàng Đạo. They were not only talented writers but also literary reformers, with a clear awareness of their social responsibilities.

    The Tự Lực Văn Đoàn was born in a context where Vietnam was going through a period of significant change, with demands for innovation in thought, culture, and society. The group contributed significantly to this change, through publishing literary works that accurately reflected the social reality and the state of the times.

    The works of the Tự Lực Văn Đoàn introduced a new language, sharp, sometimes satirical, to discuss complex social, ethical, and political issues. They expanded the boundaries of literature, taking it out of the traditional intellectual class and making it accessible to the masses.

    The Tự Lực Văn Đoàn is also known for publishing literary magazines, such as “Phong Hóa”, “Ngày Nay”, and “Văn”. These publications not only transmitted literary works but also contained social, political, and cultural commentary and criticism. Therefore, these magazines became a lively forum for discussion on current affairs, contributing to the development of literature and thought.

    Ultimately, the success of the Tự Lực Văn Đoàn lies not only in the quality of their works but also in the pioneering thinking and innovative perspective they brought to Vietnamese literature. They have become a beacon for the next generation of writers, paving the way for the change and development of Vietnamese literature in the 20th century.

    Today, the Tự Lực Văn Đoàn is still considered one of the most important literary organizations in Vietnam, and their works are still studied and appreciated, not only for their artistic value but also for their deep historical and social significance.

    *****

    Unified Threefold Religion

    In the spiritual life of the Vietnamese people, Confucianism, Buddhism, and Taoism have different forms, usually gentle but sometimes strict to integrate with the cultural traditions of the Vietnamese people while combining and harmonizing under the form of Triple Religion (Tam giáo đồng nguyên). “Tam giáo” here refers to Confucianism, Buddhism, and Taoism, and “đồng nguyên” means the same origin. The theory of Unified Threefold Religion often has the same origin, but the establishment of each religion and the practice of each religious leader differ, such as:

    • Confucianism believes that the changes in the Universe are due to the unity and interdependence of the Supreme Ultimate. Everything exists, and humans should rely on that reality to act for survival. The survival of all things lies in the principles of Humanity, Righteousness, Propriety, and Wisdom, which are the Fundamental, Active, Beneficial, and Spiritual aspects of Creation. Humans need to follow those principles to find happiness in the survival and construction of the national society.
    • Taoism values the natural environment, maintains the Way, and finds joy in harmony with nature, as everything is the Way, and human life is transient. Therefore, humans should live calmly, love nature and the land of the country.
    • Buddhism believes that all things are created by the element of Truth (Chân), and form and emptiness are one. The cycle of birth and death is illusory, and true reality is the Truth. Humans need to seek the truth to return to the origin, escape the cycle of reincarnation, and reach Nirvana for happiness and bliss.

    In summary, both Buddhism and Taoism encourage the practice of “good deeds,” which means filial piety towards parents, respect for superiors, loyalty to the king and the nation. Loving kindness, compassion, and avoiding greed and cruelty towards others are considered good deeds and also show respect for the social order and moral principles of Confucianism.

    Unified Threefold Religion: Confucianism, Buddhism, and Taoism in Vietnamese Spirituality

    In Vietnam, the spiritual life of the people is deeply influenced by a unique fusion of Confucianism, Buddhism, and Taoism, known collectively as the Unified Threefold Religion. These three belief systems have coexisted in harmony for centuries, blending together to create a spiritual tapestry that is unlike any other. Confucianism is focused on social order and harmony, emphasizing the importance of filial piety and respect for authority. Buddhism offers a path to enlightenment and liberation from suffering, encouraging compassion and mindfulness. Taoism emphasizes the natural order of things and the importance of living in harmony with nature.

    Together, these three belief systems create a holistic approach to spirituality that is deeply ingrained in Vietnamese culture. The Unified Threefold Religion has shaped everything from art and architecture to politics and social customs, providing a framework for understanding the world and our place in it. By embracing the principles of Confucianism, Buddhism, and Taoism, the Vietnamese people have created a rich and vibrant spiritual tradition that continues to inspire and inform to this day.

    ***

    Psychoanalysis

    Psychoanalysis is defined as the theory of psychological therapy techniques. Psychoanalysis believes that everyone possesses thoughts, emotions, desires, and deeply hidden memories in the unconscious. Psychoanalysis helps transfer thoughts from the unconscious to the conscious realm because humans can profoundly understand their current psychological state. They can discover, study, and analyze methods to liberate themselves from the psychological burdens expressed through their behavior when influenced by unconscious thoughts.

    Abnormal behavior refers to unusual activities that can impact ethical values and cause disturbances in society. Nowadays, the field of psychoanalysis is widely popular and applied in various areas such as medicine, law, literature, film, and more. Indeed, the theory of psychoanalysis helps specialists explain and adjust issues related to human life.

    In reality, psychoanalysis was greatly influenced by the irrationality of Schopenhauer’s (1788-1860) philosophy. He believed that society is full of contradictions, lack of rational thinking, and extreme suffering that affects human life. From an imperfect past marked by the breakdown of maternal love, the failure of ambitions for glory, and a pessimistic, gloomy view of current life, Schopenhauer became hostile, contemptuous, and disdainful towards colleagues, particularly women. According to him, “Philosophy is a return to one’s inner world, seeking the true nature of humans and the world.”

    In conclusion, in all scientific studies, we must acknowledge that psychology is a mysterious science and more difficult to prove than any other scientific discipline because human psychology is elusive, real, non-transparent, and can occur at any time. Therefore, there have been numerous debates surrounding Sigmund Freud’s theory of psychoanalysis for many years. As mentioned earlier, psychoanalysis is defined as a collection of psychological theories and therapeutic techniques originating from Sigmund Freud’s theory.

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    Đoạn Trường Tân Thanh: tác phẩm tư tưởng của Việt Nam và của nhân loại

    Giá trị “Đoạn Trường Tân Thanh’ trước nay đã được nói nhiều về mọi lãnh vực : nghệ thuật, đạo đức, nhân đạo, triết lý, tâm lý, lịch sử, xã hội, chính trị,…Nhưng, theo người viết, tất cả những giá trị đó mới chỉ là những phần ‘ngoại diện’ hay chỉ là những cái đến sau, mặc nhiên đến, những cái cục bộ, từng phần tất yếu nằm sẵn trong cái ‘chung cùng’ bao quát toàn diện, toàn trình’ mà Nguyễn Du muốn phổ vào tác phẩm. Cái ‘chung cùng, bao quát, toàn diễn, toàn trình’ đó là cái gì ? Xin thưa, đấy là tư tưởng Nguyễn Du được gởi vào tác phẩm và vì thế, nên, theo người viết, ‘Đoạn Trường Tân Thanh là một tác phẩm tư tưởng”.

     Theo Nguyễn Thùy Đoạn Trường Tân Thanh không chỉ là tác phẩm của riêng dân tộc Việt Nam mà còn là của chung nhân loại vì đề cập đến mọi thắc mắc của chung nhân loại xưa nay. Câu hỏi đặt ra: Do đâu có thể bảo “Đoạn Trường TânThanh” là tác phẩm tư tưởng?

    1. Trước tiên do nhan đề tác phẩm: từ Cựu Thanh sang Tân Thanh.
    2. Tại sao Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm là Đoạn Trường Tân Thanh?

    Dân gian thường gọi tắt Đoạn Trường Tân Thanh là Truyện Kiều. Nhiều bản in ấn do các học giả hoặc do cả các cơ quan Văn hóa, Giáo dục đôi khi cũng lấy tên là “Truyện Kiều” và cũng không mấy để ý lý do nào Nguyễn Du đã đặt tên cho tác phẩm phóng tác của mình là Đoạn Trường Tân Thanh. Từ ngữ Đoạn Trường Tân Thanh có thể hiểu theo hai cách.

    1. Trước tiên là “Tiếng kêu mới (làm) đứt ruột“. Nếu hiểu như thế thì chỉ giới hạn nơi câu truyện về cuộc đời Kiều thôi, như thế sẽ không đúng với nội dung tư tưởng của tác phẩm, vì nếu bởi đoạn trường mà Kiều trải chịu cảnh hồng nhan bạc mệnh thì chưa hẳn những đoạn trường cùng cực nơi cõi trần. Trong cuộc sống thực tại, Kiều không chỉ hoàn toàn bị vùi dập nơi đoạn trường bi thảm, mà cũng có khi nàng đã hưởng bao sung túc, vinh quang.
    2. Theo cách hiểu thứ hai: Đoạn trường nghĩa là đau khổ và Tân Thanh là “tiếng mới” mà “tiếng” là “âm thanh” Tân Thanh là “Tiếng kêu mới của con người về đau khổ“.

    Ngôn ngữ, theo nghĩa phổ thông là ‘’hệ thống dấu hiệu dùng làm phương tiện truyền đạt, thông giao’’ (1). Theo Martinet: ‘’Ngôn ngữ là quan năng của con người thông giao với nhau bằng âm hiệu’’ (2). Định nghĩa theo hai cách trên là căn cứ trên cái “Dụng” thông thường của ngôn ngữ. Hiểu ở bình diện cao hơn, theo thể điệu M. Heidegger: ‘’Ngôn ngữ là ngôi nhà của Đạo Thể. Trong ngôi nhà đó, con người cư ngụ. Những nhà tư tưởng và thi sĩ là những người canh giữ chỗ cư ngụ đó. Sự canh giữ của họ là công trình viên đạt mối hiển lộ của Đạo Thể ; qua thể điệu và cách nói của họ, họ mang chở mối hiển lộ đó vào ngôn ngữ và bảo lưu nó trong ngôn ngữ’’ (3). Hiểu như thế, thì chính ngôn ngữ làm hiển lộ Đạo Thể (hay Tính thể) nơi hiện thể. Đạo Thể được hiểu là ‘’uyên nguyên sinh thành vạn hữu và cư ngụ nơi mỗi thứ hiện hữu (mỗi hiện thể, mỗi pháp) để đưa vạn hữu trở lại với mình’’. Đạo học Đông Phương đã bảo : ‘’Vạn vật đồng nhất thể, Vạn hữu bản lai đồng’’ và ‘’Tất cả khởi đi từ Một để trở về trong Một’’. Kinh sách Phật giáo, Ki-Tô giáo cũng nói như thế (xin không dẫn chứng để tránh dài dòng). Theo M. Heidegger, chỉ riêng nhà tư tưởng và thi sĩ mới nghe ra và viên thành sự hiển lộ của Đạo Thể qua ngôn ngữ.

    Nhưng ngôn ngữ không chỉ Tiếng và Từ, Lời và Câu, Vần và Điệu mà là Cách Nói (le Dire) của họ. Cách nói của nhà Tư tưởng và thi sĩ thể hiện cách nói của Tư tưởng (le dire de la pensée) nghĩa là cách thể hiện của tư tưởng vào hoạt sinh, vào cõi tại thế. Theo Parménide, ‘’tư tưởng và Đạo thể là một’’ (4). Theo Đạo học, Đạo Thể là cái Nguồn gốc sinh thành vũ trụ. Cái nguồn gốc đó thể hiện nơi cõi thế gian qua tư tưởng và tư tưởng được giải bày qua ngôn ngữ tức cách nói của nhà tư tưởng và thi sĩ.

    Cách nói của Nguyễn Du qua Đoạn Trường Tân Thanh chính là ngôn ngữ Nguyễn Du và ngôn ngữ Nguyễn Du qua tác phẩm nầy, diễn đạt ‘’tiếng kêu mới về đoạn trường’’ tức ‘’cái nhìn mới’’, cái ‘’Ý nghĩa mới của đau khổ’’ về cuộc đời, về hiện hữu tại thế, có khác với cái nhìn cũ, cái “nhìn cựu thanh” xưa nay . Do đó mà ông đặt tên cho tác phẩm là ‘Tân Thanh.

    Đoạn Trường Tân ThanhTiếng kêu mới về đoạn trường. Tiếng đoạn trường mới không là tiếng than khóc mới mẻ hay một đoạn trường mới nào khác tiếp theo cái đoạn trường đã có mà là cái nhỉn mới về đoạn trường. Cũng là cuộc sống bi đát của Kiều, cũng là tấm thân trôi nổi, bèo bọt của Kiều -của kiếp người nói chung- nhưng Thanh Tâm tài nhân cũng như mọi người xưa nay đã nhìn theo cái đoạn trường cũ, cái đoạn trường cựu thanh; Nguyễn Du đã nhìn ra cái tiếng mới trong cái cũ đó. Từ cái nhìn cựu thanh’ về đau khổ, Nguyễn Du đã nhìn ra cái tân thanh của đau khổ để phóng tác Kim-Vân-Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân thành Đoạn Trường Tân Thanh.

    Cuộc sống vốn khổ, cuộc đời vốn khổ, nhà Phật đã bảo thế, triết lý Đông Tây cũng bảo thế, hiện thực cuộc sống, cuộc đời từng người, từng dân tộc, quốc gia và chung cho cả nhân loại đã minh chứng điều đó. Cái khổ, cái đoạn trường muôn đời xưa nay vẫn thế: bịnh tật, nghèo nàn, nợ nần, thất nghiệp, thất tình, thất chí, bị coi thường, dèm pha, phỉ báng, đó kỵ, khinh khi, bị bóc lột, bị chà đạp oan ức, bị hạ nhục, bị tù tội, bị hành thân hoại thể, bị bắt làm tôi đòi, nô lệ, không nguồn cảm thông, không nơi nương tựa, sống vô gia cư, chết vô địa táng, bị bắt buộc phải làm trái ý mình, bị đẩy vào đường cùng thế bí, con gái phải kiếp giang hồ, con trai phải vòng lao lý… nghĩa là mãi mãi lo lắng, hãi hùng, buồn đau, bi lụy, thấp thỏm, bồn chồn cho cuộc sống bây giờ và ngày tới.

    Cuộc sống nào rồi cũng lẩn quẩn mãi trong một tiết điệu hao mòn, tê tái: sinh ra, lớn lên, làm việc, học hành, đấu tranh, cưới vợ, gả chồng, sinh con đẻ cái, hoạt động mưu sinh, hiến mình cho lý tưởng, buông tuồng theo khoái lạc, ví đuổi phương tiện, thời trang, mưu giàu, mưu lợi, mưu sự nghiệp, công danh, tiếng tăm, hạnh phúc… vui phút chốc, buồn triền miên, thành công ngắn ngủi, thất bại não nề, sướng khổ, buồn đau liên tục… rồi già nua, chết chóc, từ thời ông tằng, ông tổ đến đòi cha, đời mẹ, đời con, cháu, chắt, chít… bao giờ cũng thế, cũng thế!

    Ngay cả những kẻ đã thành công một thời, uy thế, tiếng tăm lẫy lừng một thuở, lúc tuổi đời bóng xế có sống thong thả yên vui, có được mọi người nhắc đến, hâm mộ kỳ công, thành tích; lúc chết có được bao khách thập phương đưa đón, điếu tang với nhiều vòng hoa tưởng niệm, thì, thật ra, lúc bóng ngả tà huy, không khỏi lạnh buồn, u uẩn trong hoài cảm ngày qua và trong nhạt nhòa hiện tại. Nhất là lúc nhìn thành tích mình đã bị vượt qua, lúc kỳ công của mình ít nhiều bị phủ nhận, lúc thời thế đổi thay, trào lưu chuyển khác rồi đếm tuổi cuộc đời không khỏi tư lự, buồn đau, u hoài lênh đênh phơ phất trong ‘nỗi buồn tại thế’ không nguôi, nhất là kiểm điểm lại bao lỗi lầm đã gây ra cho cha mẹ, vợ con, đồng bào, đất nước, quê hương, luân thường, đạo lý… rồi ân hận, dày vò. Chính vì thế mà người ta thường quan niệm cuộc sống, cuộc đời là bể khổ, là hí trường phù du, tạm bợ, giả hoặc, vô thường, là giấc mộng, cơn mơ, mối nợ, sống là gởi, thác là về…

    Vâng, cuộc sống, cuộc đời là những thể hiện đó, không sai, nhưng do đâu, tại sao, để làm gì, dẫn về đâu thì chưa có lời giải đáp. Nguyễn Du đã giải đáp những thắc mắc đó.

    Tân Thanh nơi Nguyễn Du là‘ngôn ngữ mớ’, và‘ngôn ngữ mớ’ nơi đây là‘cái nhìn mớ’, cái ý nghĩa mới của đau khổ. Cũng những đau khổ đó nhưng trước nay người ta nhìn theo cái nhìn cũ, cái đoạn trường cựu thanh, cho đấy là những cái dĩ nhiên, những cái tất định, không thể nào thoát ra được vì không đau khổ nầy thì đau khổ khác, có thay đổi bộ mặt, thay đổi mức độ, tính chất nhưng chung quy vẫn là đau khổ. Mượn tất cả những đoạn trường cựu thanh của Kiều, của Hoạn, của Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh, của Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh (ngoại trừ Vãi Giác Duyên và Sư Tam Hợp), Nguyễn Du muốn đưa dẫn chúng ta về một cái ‘nhìn mới về đau khổ nên đặt tên tập truyện là Đoạn Trường Tân Thanh. Cái nhìn mới đó, nói theo nhà Phật là ‘’Phiền não là Bồ đề, Khổ đau là Giải thoát’’. Cái nhìn mới về đau khổ đó cũng được Jésus nói đến qua bài giảng trên núi vê Tám Mối Phúc, miễn là biết ‘’Trăm năm để một tấm lòng từ đây’’ như Kiều.

    * Lý do Nguyễn Du phóng tác “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân. Thúy Kiều, Kim Trọng từ lúc ‘’Tiên thề cùng thảo một chương,…trăm năm tạc một chữ đồng đến xương’’ thì cuộc tình hai người xem như hoàn hảo, tốt đẹp vô cùng. Hai người, trong tâm thức, đã là một, tuy chưa chăn gối cũng vợ chồng. Nhưng rồi, cuộc đời oái oăm bẻ gảy tình duyên đôi lứa. Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú; Kiều phải bán mình chuộc cha. Mười lăm năm không gặp lại, mười lăm nam cả hai sống trong tưởng nhớ, ngậm ngùi.

    Mười lăm năm sau, tái hợp, ‘’mười lăm năm mới bây giờ là đây’’ và ‘’động phòng dìu dặt chén mồi’’ nhưng ‘’Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm’’. Cả hai cùng có bên nhau, cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan, nhưng chưa hẳn là tình chồng vợ. Kết cục của câu truyện đã khiến Nguyễn Du chú ý vì hợp với tư tưởng ‘’Thiên tuế trường ưu vị tử tiền’’(câu thơ chữ Hán của ND : Trước khi chết vẫn lo nghĩ, ưu tư chuyện nghìn sau). Chính vì thế Nguyễn Du phóng tác Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân mà không phóng tác một tác phẩm nào khác trong vườn Văn học Trung Hoa cũng như không sáng tác một truyện nào tương tự dù ông biết cuộc sống truân chuyên, chìm nổi của bao hồng nhan bạc phận.

    Chính cái nhìn mới về đoạn trường và kết thúc của câu truyện- Nguyễn Du đã phổ vào cho Truyện Kiều hai tư tưởng sau đây :

    1. Sống là đau khổ nhưng chính cái đau khổ của cuộc sống, cuộc đời sẽ giải thoát ta khỏi đau khổ. Diễn tiến nhân sinh sẽ đến thời điểm chấm dứt đoạn trường và bao nhiêu lý do, điều kiện, sự vụ con người tạo đau khổ tội lỗi cho nhau sẽ chấm dứt để mở ra một cảnh giới hay một trạng thái sống mới không còn đau khổ nữa. Điều nầy, Nguyễn Du đã nói qua Đạm Tiên –hình ảnh cuộc đời đau khổ- lúc nàng bảo với Kiều vừa được vãi Giác Duyên vớt lên từ sông Tiền Đường : ‘’Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đem mà trả nhau’’ để từ nay cuộc sống, cuộc đời hoàn toàn sung sướng với ‘’Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào’’.
    2. Tài và Mệnh không còn đố kỵ, tương khắc, tương xung mà hài hòa, hảo hợp nhau. “Tài’ là tài sức, khả năng từng người để lo cho cuộc sống riêng của mình ; “Mệnh” là cuộc đời tức cuộc sống là “môi trường xã hội”, là “cõi người ta” (trăm năm trong cõi người ta). Không nên hiểu Mệnh là số mệnh, định mệnh. Sự tranh chấp, tưong xung giữa tài và mệnh, giữa cuộc sống, cuộc đời, giữa cá nhân và xã hội sẽ đến thời điểm chấm dứt do diễn tiến tiến hóa của nhân sinh. Nguyễn Du đã tiên đoán, đã nhìn ra điều đó. Mở đầu tác phẩm bằng hai câu thơ nói lên tính cách đố kỵ giữa tài và mệnh: ‘’Trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau’’, Nguyễn Du đã kết thúc tác phẩm bằng câu ‘’Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai’’ (câu 3246) tuy có mượn ý nhà Phật để lý giải về chữ Tâm.

    Nguyễn Thùy

    Phụ lục: Thi hào Pháp Victor Hugo, theo người viết, có lẽ cũng trong những cảm nhận như Nguyễn Du, đã báo biểu giờ chấm dứt mọi đoạn trường để nhân sinh được sinh thành trở lại (sống lại) trong một kỷ nguyên mới, trong một cảnh giới mới tức vào thời điểm ‘muôn vật đổi mới’ theo Thánh Kinh Ki-Tô giáo. Trong đoạn cuối bài trường thiên ‘Bên bờ Vô hạn’ (au bord de l’infini), thi hào đã viết :

    Tout sera dit. Le mal expirera, les larmes

    Tariront ; plus de fers, plus de deuils, plus d’alarmes ;

    L’affreux gouffre inclément

    Cessera d’être sourd, et bégaiera : qu’entends-je ?

    Les douleurs finiront dans toute l’ombre ; un ange

    Criera : Commencement !

    (Les Contemplations, nrf Poésie, Gall. Paris 2002, trang 407)

    Mọi điều sẽ được nói (5). Điều xấu cáo chung, lệ buồn

    Chấm dứt ; không còn xiềng xích, tù gông, tang ma, lo lắng

    Hố thẳm khắt khe không còn câm nín (mà) bâp bẹ ‘tôi nghe gì ?

    Đau khổ nhân sinh tan đi trong mọi vùng bóng tối

    Thiên sứ từ cao reo tiếng gọi mời :

    Khởi nguyên !

    _________

    Chú thích :

    1) Tout système de signes pouvant servir de moyen de communication – André Lalande : Vocabulaire technique et critique de la philosophie.

    2) Le langage est la faculté qu’ont les hommes de s’entendre au moyen de signes vocaux – Xem André Vergez và Denise Huissaman : Petie dictionnaire de la Philosophie, les abc du Bac.

    3) Le langage est la maison de l’Être. Dans son abri, habite l’homme. Les penseurs et les poètes sont ceux qui veillent sur cet abri. Leur veille est l’accomplissement de la révéabilité de l’Être ; en tant que par leur dire, ils portent au langage cette révéabilité et la conservent dans le langage – M. Heidegger : Lettre sur l’humanisme trong Questions III, Gall. Paris 1973, trang 74.

    4) C’est la même chose que penser et être – Xem La pensée grecque của Léon Robin, édt. Albin Michel, Paris 1973, trang 110.

    5) ‘sẽ được nói’ (sera dit) có nghĩa là ‘sẽ được giải bày, sẽ được trở thành hiện thực’.

  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    Nhà văn Khánh Lan: “Con chọn ngành học, cha mẹ không nên áp đặt, mà chỉ góp ý”.

    Nhà văn Khánh Lan trong một lần ra mắt sách. (Hình: Khánh Lan cung cấp)

    Ký giả Đằng-Giao/Người Việt. April 10, 2023

    ANAHEIM, California (NV) – Trước sự lựa chọn ngành nghề của con cái, theo nhận định của nhà văn Khánh Lan, cha mẹ không nên trực tiếp hướng dẫn, nhưng nên can thiệp một cách khéo léo, tế nhị hơn.

    Nhà văn Khánh Lan tốt nghiệp cao học tâm lý xã hội tại đại học Cal State Fullerton năm 2002 và làm công việc cố vấn tâm lý suốt nhiều năm tại Orange County.

    Trong buổi phỏng vấn cùng Đằng Giao, nhà văn Khánh Lan chia sẻ “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó” ngày nay trở nên quá lỗi thời, bà nói: “Những em học sinh sanh ra bên này và được giáo dục theo văn hóa Tây Phương, được dạy dỗ về quyền tự do lựa chọn cho nên kiểu “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó” không còn thích hợp nữa. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên để các em tự tìm kiếm thông tin trên Internet hoặc chọn ngành học do sự ảnh hưởng của bạn bè. Vì như thế, các em có thể lựa chọn một ngành học không đúng với khả năng và ước vọng của mình.”

    Bà khuyên rằng, việc nói chuyện, trao đổi và tương tác giữa cha mẹ và con cái quan trọng hàng đầu. Và để tránh những chuyện đáng tiếc có thể xảy ra, bắt đầu từ năm con cái học lớp 10, gia đình có thể dần dần tìm hiểu thêm về khả năng và ước vọng của con em. Bà nói, Hầu như tất cả các trung học đều có những buổi nói chuyện và hướng dẫn chọn ngành học cho các học sinh lớp 10. Trong thời gian này, cha mẹ cũng nên theo dõi việc học và xem con đuối về môn gì, có cần học thêm hay luyện thi để vào đại học hay không? Có cần xin học bổng, mượn tiền hay sự giúp đỡ của chính phủ hay không? Phần lớn, trung học nào cũng có văn phòng hướng dẫn việc này”.

    Chúng ta không nên kiểm soát sự lựa chọn của các em vì điều đó sẽ tạo nên một khoảng cách trong mối tương quan giữa cha mẹ và các em. Nó sẽ làm cho các em không muốn chia sẻ ý kiến của chúng trong bộ óc “tập làm người lớn” của các em, bà chia sẻ thêm.

    Bà nói: “Do đó, cha mẹ có thể khéo léo hỏi các em như, ‘Con có định học ngành nào chưa?’ hoặc ‘Con có thể kể cho cha mẹ nghe ý định của con không?” hay “Mẹ có thể làm gì để giúp con? v.v…’” Mục đích của việc nói chuyện với con cái là điều tối quan trọng để biết được khả năng, sở thích cũng như ước muốn của chúng,” bà nhấn mạnh.

    Theo bà, muốn làm được điều này, không dễ mà cũng chẳng khó. Việc này đòi hỏi bậc cha mẹ phải kiên nhẫn lắng nghe cũng như cho phép và tôn trọng những phát biểu, chia sẻ, suy nghĩ, ý kiến của các em. Rồi từ đó, chúng ta sẽ nghiên cứu thêm tài liệu và sau cùng là giải thích, hướng dẫn các em phương cách chọn ngành học.

    Bà nhắc nhở: “Chúng ta nên nhớ rằng, các em học sinh sẽ dễ dàng đi đến thành công trong học đường cũng như đường đời khi chúng chọn đúng con đường mà chúng yêu thích.

    Bà thêm: “”Áp đặt” con cái chọn ngành học là một việc làm tối kỵ mà chúng ta không nên làm. Trong quá khứ, sự áp đặt và so sánh con cái mình với những đứa con của bạn bè đã đưa đến những trường hợp bi thảm, chẳng hạn như các em tìm đến cái chết hoặc tự tay giết cha mẹ vì bị quá nhiều áp lực của gia đình.

    Như vậy, cha mẹ chỉ nên góp ý thôi. Điều quan trọng là trước khi góp ý, cha mẹ phải nghiên cứu, thấu hiểu một cách mạch lạc về lãnh vực mà gia đình dự định thảo luận, theo bà Khánh Lan.

    Bà giải thích: “Thí dụ, một học sinh hội ý với cha mẹ rằng em muốn trở thành một kiến trúc sư, thì trước hết cha mẹ phải tìm hiểu xem con mình có thích học hỏi, nghiên cứu về các công trình kiến trúc trên thế giới, có khả năng sáng tạo, có kiên nhẫn hàng giờ để vẽ những họa đồ, có thích giao tiếp với mọi người, v.v… Một khi các em có đủ các tiêu chuẩn trên, cha mẹ mới bắt đầu đi sâu vào các lãnh vực như, môn học, chọn trường học kỹ thuật, chi phí học đường, kinh tế gia đình, thị trường, kiến thức, kinh nghiệm, v.v… và sau cùng là hướng dẫn và cung cấp cho học sinh này các dữ kiện, tin tức liên quan đến ngành học.”

    Bà cảnh báo: “Điều nên chú ý là phải khéo léo khi hướng dẫn các em, tránh việc “quan trọng hóa” vấn đề khiến các em hoảng sợ mà bỏ ý định và ước muốn của mình.

    Bà cũng có đôi lời gởi đến các em học sinh, bà nói: “Các em nên kiểm điểm xem mình thích gì, làm việc gì khi ra trường. Từ đó, các em mới bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu về ngành mà mình muốn học.

    Nhà văn Khánh Lan chia sẻ: “Ngành học nào cũng đóng góp nhiều ích lợi cho xã hội. Điều cần thiết là ngành học ấy có thích hợp với các em không và các em yêu thích ngành ấy không, vì đó là con đường dẫn đến sự thành công.”

    Ngoài ra, các em cũng nên biết thật rõ mọi vấn đề liên quan đến việc chọn và nộp đơn vào đại học nào và điều kiện xin học ra sao. Biết rằng các em đã biết nhưng bà vẫn nhắc thêm: “Các em nên nói chuyện với các giáo sư cố vấn trong trường hay những người có kinh nghiệm trong ngành mà các em chọn, để thấu hiểu rõ ràng những việc cần phải chuẩn bị. Nên biết càng sớm càng tốt về những quy luật để xin học bổng hay mượn tiền học như thế nào. Các em nên chia sẻ ý tưởng của mình với cha mẹ hay các vị cố vấn giáo dục.”

    Nhà văn Khánh Lan nói: “Ngành học nào cũng đóng góp nhiều ích lợi cho xã hội sau khi các em ra trường. Điều cần thiết là ngành học ấy có thích hợp với các em không và các em yêu thích ngành ấy không, vì đó là con đường dẫn đến sự thành công.” [đ.d.]

    Liên lạc tác giả: ngo.giao@nguoi-viet.com

    Inline image
  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  Tin tức

    ĐIỂN TÍCH TAM NHÂN VƯỜN ĐÀO

    TAM NHÂN VƯỜN ĐÀO: phỏng theo chuyện xưa “Tam Quốc Diễn Nghĩa“.

    Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi

    Thời Tam Quốc có rất nhiều nhân vật hào kiệt. Tiểu thuyết nổi danh “Tam Quốc diễn nghĩa” của tác giả La Quán Trung từng có đoạn: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi ba người tâm đầu ý hợp, quen biết không lâu đã kết bái huynh đệ tại vườn đào Trương gia. Cũng kể từ đó, ba người huynh đệ khác họ ấy đồng tâm hiệp lực, lập nên Thục quốc – một trong ba thế lực tạo thành “thế chân vạc” thời Tam Quốc. Đây chính là điển tích “kết nghĩa đào viên” nổi tiếng Trung Hoa và được lưu truyền rộng rãi cho tới ngày hôm nay.

    Về sau này, không ít hào kiệt hậu thế vẫn thường ngưỡng mộ noi theo nghĩa khí “kết nghĩa vườn đào” của ba vị anh hùng Tam Quốc.

    Trong bài viết này, xin chỉ nói đến ba nhân vật: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi. Bắt đầu từ “Ba anh em kết nghĩa vườn đào” đã lập thệ ước, tức là huynh đệ đồng lòng, lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình, từ chỗ không có mảnh đất đặt chân tới kiến lập nên đế quốc Thục.

    Ba người này có thân phận khác nhau và trách nhiệm cũng khác nhau, nhưng họ có cùng chung chí hướng, và sở trường mỗi người bù đắp cho chỗ thiếu sót của người kia, tạo thành một mối quan hệ quân thần hợp tác, tương trợ, đoàn kết chặt chẽ với nhau. “Kết nghĩa đào viên” không được chính sử lưu lại.

    Theo nguồn khảo cứu từ nhiều nguồn tư liệu lịch sử chính thống, trong đó chủ yếu là “Tam Quốc chí” và “Tư trì thông giám“, các nhà sử học đều thấy việc “kết nghĩa đào viên” của bộ ba Lưu – Quan – Trương không được ghi chép lại. “Hoa Dương quốc chí” mục “Lưu tiên chủ truyện” có viết: “Chúa (Lưu Bị) cùng hai (Quan Vũ, Trương Phi) ngủ chung giường, ăn cùng mâm, tình như anh em.“. Phần “Quan Vũ truyện” của “Tam Quốc chí” cũng từng ghi lại câu nói của Vân Trường: “Tôi chịu ân trọng của Lưu tướng quân, thề sẽ cùng sống cùng chết.”. Hai dẫn chứng trên đã cho thấy tình nghĩa khăng khít, gắn bó của ba nhân vật Lưu, Quan, Trương. Tuy nhiên, mối liên hệ ấy cũng chỉ dừng ở mức “thân như anh em”, khi họ là “huynh đệ kết nghĩa“. Đặc biệt, cách Quan Vũ gọi Lưu Bị là “Lưu tướng quân”, một tài năng lanh lẹ, tháo vát trong bộ ba này.

    Nhân nghĩa của Lưu Bị

    Lưu Bị là một người rất nhân nghĩa. Mặc dù Lưu Bị là hậu duệ của Hán Cảnh Đế, nhưng sau hơn 300 năm, ông đã trở thành thường dân. Ông có thể quật khởi chủ yếu bởi vì ông bản tính vốn nhiệt tình và chân thành đối đãi với mọi người. Cho dù người khác thân phận như thế nào, ông đều dành cho họ sự trọng đãi và tôn trọng. Đây là bản chất của Lưu Bị, không phải cố ý thể hiện ra. Sức mạnh của cách đối xử chân thành xuất phát ra từ nội tâm này đã cảm phục được tên thích khách được lệnh ám sát Lưu Bị, hắn đã thản nhiên nộp mình cho Lưu Bị, bày tỏ lòng kính phục đối với Lưu Bị. Nói cách khác, những người sát cánh với Lưu Bị đều bởi vì tính cách hợp nhau, bị tấm lòng chân thật đối đãi như bạn cảm động, họ mới một lòng, một dạ đi theo Lưu Bị. Võ quan Lưu Bị đối xử với bách tính như đối với người nhà của mình. Sau trận chiến Tân Dã, ngay ngày hôm đó, đại quân Tào Tháo tấn công Phiền Thành, nơi Lưu Bị ở, sinh tử của Lưu Bị ngàn cân treo sợi tóc. Gia Cát Lượng kiến nghị ông vứt bỏ Phiền Thành và tạm lánh ở Tương Dương. Lúc đó Lưu Bị nói: “Dân chúng theo ta đã lâu, lẽ nào nhẫn tâm vứt bỏ?

    Dân chúng cũng đồng thanh hô to: “Chúng tôi dù chết cũng nguyện theo Lưu Sứ Quân!”. Họ khóc lóc, vội vàng khởi hành, dìu già dắt trẻ, bầu đàn thê tử lũ lượt qua sông, hai bên bờ sông tiếng khóc không dứt. Lưu Bị trên thuyền thấy vậy, ông khóc to và nói: “Chỉ vì một mình ta mà làm cho bách tính phải gánh chịu đại họa này, ta sống sao được!”, ông định nhảy xuống sông chết, nhưng đã được tùy tùng đi theo ra sức ngăn cản. Khi thuyền đến bờ phía nam, quay đầu lại nhìn người dân, thấy còn có những người vẫn chưa qua được sông, ông hướng về phía nam và khóc, Lưu Bị vừa lên ngựa đã nóng lòng ra lệnh Quan Vũ đôn đốc thuyền chở tất cả mọi người qua sông.

    Như có câu: “Vợ chồng vốn là chim cùng sống trong rừng, tai vạ đến thì ai nấy tự bay đi”. Tuy là câu nói phiến diện nhưng quả thật vợ chồng cũng có thể lìa xa vì nguy hiểm, vào lúc sinh tử tồn vong, Lưu Bị vẫn nghĩ đến dân chúng, và trong binh gia việc hành quân kéo theo gia đình là điều đại kỵ Lưu Bị đều không quan tâm tới những điều này, qua tấm lòng của ông đối với bách tính có thể nhìn ra tấm lòng nhân nghĩa lớn lao của ông. Nghĩa của Lưu Bị còn nằm ở niềm tin vững chắc của ông vào những người anh em kết nghĩa. Sau khi Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi bị quân đội của Tào Tháo đánh tan, trong chiến tranh loạn lạc, Lưu Bị một mình chạy đến Thanh Châu, nơi ông được Viên Thiệu bảo vệ. Quan Vũ vì bảo vệ phu nhân Lưu Bị mà bị rơi vào doanh trại của Tào Tháo. Sau này, khi Tào Tháo giao chiến với Viên Thiệu, Lưu Bị trong quân đội của Viên Thiệu lần đầu tiên nhìn thấy Quan Vũ ở doanh trại của Tào Tháo, ý nghĩ đầu tiên trong lòng ông là: “Tạ ơn trời, hóa ra sư đệ của ta đúng là đang ở chỗ Tào Tháo!”. Ông không một chút nghi ngờ Quan Vũ phản bội. Đây không phải điều người thường có thể làm được. Người bình thường liệu có thể không nghi ngờ sao?

    Tam cố mao lư” (chỉ Lưu Bị đích thân ba lần đến lều cỏ của Gia Cát Lượng để mời bằng được Gia Cát Lượng ra giúp, lần thứ ba mới gặp) cũng là hiện thân cho chữ nghĩa của Lưu Bị. Ông hai lần đến thăm ngôi nhà tranh nhưng không gặp được Gia Cát Lượng, trong lòng phải chịu đựng sự tấn công của nhiều loại tâm lý, hoàn cảnh, nhưng ông không lời oán trách nào. Ông một mực chịu khổ đợi tới mùa xuân năm sau, chọn ngày lành, trai giới 3 ngày, xông hương, thay quần áo, tới lều tranh mời Gia Cát Lượng. Tấm lòng chân thành, kính trọng bậc hiền tài của ông có thể sánh với Chu Văn Vương khi mời Khương Tử Nha.

    Trung nghĩa của Quan Vũ

    Nghĩa của Quan Vũ nằm ở lòng trung thành của ông đối với bậc “nhân nghĩa” chân chính Lưu Bị, và tận tâm tận lực với người anh em kết nghĩa. Lòng trung thành của ông là nhân nghĩa, điều này kỳ thực chính là kiên định giữ vững đạo đức. Hậu nhân thường nói “Quan Vũ nghĩa bạc vân thiên” (nghĩa của Quan Vũ át cả mây trời xanh). Quan Vũ cố thủ Hạ Phi không thành, lâm vào bước đường cùng nhưng lại coi cái chết như không, quyết một trận tử chiến với quân Tào Tháo. Trước đó Trương Liêu của quân Tào đã tới thuyết phục Quan Vũ, nêu ra việc Quan Vũ chịu chết chính là phạm “ba tội”:

    1. Tội thứ nhất là phản bội lời thề trước đây. Khi kết nghĩa, Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, ba người đã thề sống chết có nhau, nếu hôm nay Quan Vũ chết trận, mai sau Lưu Bị trở về, biết tin huynh đệ ra đi, thì phải làm sao?
    2. Tội thứ hai là cô phụ sự giao phó trọng trách. Nếu Quan Vũ mất mạng, ai sẽ bảo vệ hai người vợ của Lưu Bị?
    3. Tội thứ ba là bỏ mặc đại nghĩa quốc gia. Quan Vũ văn võ song toàn, lập chí phò tá Lưu Bị trợ giúp nhà Hán, nay chết vô ích thế, lẽ nào chẳng phải chỉ là hữu dũng vô mưu, đặt an nguy của thiên hạ ở chỗ nào?

    Ông ta cũng đề xuất “ba điều thuận” nếu quy hàng Tào Tháo: một là bảo vệ được phu nhân của Lưu Bị, hai là giữ lời thề kết nghĩa vườn đào, ba là giữ được tính mạng bản thân. Quan Vũ trầm ngâm nghĩ một lúc rồi nói với Trương Liêu: “Huynh có ba điều thuận tiện, ta có ba ước hẹn. Nếu Tể tướng Tào có thể làm theo thì ta cởi áo giáp, nếu không đồng ý, ta thà mang ba tội mà chết”.

    1. Thứ nhất, ta đã cùng Hoàng thúc lập thề cùng nhau giúp nhà Hán nên ta chỉ đầu hàng Hoàng đế nhà Hán, chứ không phải Tể tướng Tào.
    2. Thứ hai, Tể tướng Tào phải dùng lương bổng của Hoàng thúc phụng dưỡng hai chị dâu ta, người ngoài không ai được đến cửa. T
    3. hứ ba, hễ ta nghe thấy Hoàng thúc ở đâu, không quản trăm dặm nghìn dặm, lập tức ta cáo từ rồi đi theo. Ba điều ấy nếu thiếu một điều ta nhất thiết không hàng.

    Ba ước hẹn” trung thành của Quan Vũ là thề ước và ước nguyện ban đầu, thủy chung không đổi với Lưu Bị, Trương Phi và nhà Hán. Nếu như không có ba giao ước như vậy mà đầu hàng, đó chính là một sự phản bội. Tào Tháo yêu mến và trân trọng nhân tài, rất yêu thích Quan Vũ, thấy rằng sự trung nghĩa của Quan Vũ rất đáng khen và đã đồng ý với yêu cầu của Quan Vũ. Hơn nữa Tào Tháo còn rất khoản đãi Quan Vũ “ba ngày mời yến tiệc nhỏ, năm ngày mời yến tiệc lớn”, “lên ngựa ban vàng, xuống ngựa tặng bạc”, phong quan thăng chức, còn cử mỹ nhân tới hầu hạ. Quan Vũ mang tiền bạc và các vật được cho tới độc viện của Lưu Bị phu nhân cất giữ, đồng thời sai các mỹ nữ đến hầu hạ phu nhân Lưu Bị. Quan Vũ biết Tào Tháo đối xử vô cùng ưu ái và hậu đãi mình, nhưng từ sớm ông và Lưu Bị đã “thề sống chết có nhau, không thể bội phản”. Vì vậy, một khi biết được tung tích của Lưu Bị, Quan Vũ nhất định sẽ rời đi, nhưng ông sẽ chỉ rời đi sau khi báo đáp ân tình của Tào Tháo.

    Sau đó, Quan Vũ giết tướng Nhan Lương của Viên Thiệu, Tào Tháo biết Quan Vũ sẽ bỏ đi nên lại ban thưởng. Không lâu sau, Quan Vũ gửi thư tới tướng phủ Tào Tháo, treo lại ấn quan tại nơi ở, và chỉ mang theo hơn 20 tùy tùng trước nay đã kinh qua ngàn dặm đường tháp tùng, bảo vệ hai phu nhân của Lưu Bị. Sau khi Quan Vũ rời đi, người của Tào Tháo muốn đuổi theo Quan Vũ, nhưng Tào Tháo không đồng ý, cho rằng “người này đều là vì chủ của mình, chớ đuổi theo”. Nghĩa của Quan Vũ còn thể hiện ở chỗ “biết ân ắt báo đáp”, và có niềm tin vào “có thủy có chung”, ngọc có thể vỡ nhưng không thay đổi được sự trong sáng của nó, “chết không mất tiết tháo, coi cái chết như không”…

    Nghĩa cương trực của Trương Phi

    Lần đầu Trương Phi gặp Lưu Bị, nói chưa được vài câu, đã hào sảng và quả quyết với Lưu Bị rằng: “Tôi có rất nhiều tiền, có thể lấy ra chiêu mộ người dũng cảm, cùng huynh làm đại sự, được không?”. Trương Phi đánh kẻ trộm cướp để yên dân, thấy việc nghĩa không từ, không chút do dự đóng góp tiền bạc, vật chất của cá nhân, thật sảng khoái làm sao, thực là hình ảnh hoàn toàn trái ngược với kẻ tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa. Trương Phi trên cầu Đương Dương gầm lên một tiếng kinh thiên động địa: “Tiếng vang như sấm rền, một mình đẩy lui trăm vạn quân Tào!”. Sự uy mãnh và trí tuệ này đã làm chấn động lòng người. Ông tức giận, trừng phạt các quan tham, trừng trị cái ác và bảo vệ người dân. Trương Phi thể hiện nội hàm nghiêm trang của “nghĩa”. Thiện đãi lão tướng Hoàng Trung, và nhiều lần thể hiện tinh thần nghĩa hiệp, cương trực, dũng mãnh của mình.

    Trương Phi là một dũng tướng anh dũng trong “Tam quốc diễn nghĩa“. Mặc dù sau khi uống rượu, dễ tỏ ra thô lỗ với người khác, và có những nhược điểm, nhưng tính chính trực, quyết đoán, dũng cảm và có dũng có mưu là đặc điểm chủ yếu của Trương Phi.

    “Nghĩa bạc vân thiên” không chỉ đúng với Quan Vũ mà cũng đúng với Lưu Bị và Trương Phi.

    Điều đáng tiếc là sau khi Lưu Bị kiến lập Thục quốc, Quan Vũ dần dần tỏ ra tự phụ, kiêu ngạo, thiếu khoan dung, cuối cùng bị trúng kế, thất bại bỏ chạy khỏi Mãnh Thành và bị Đông Ngô giết chết. Còn Lưu Bị và Trương Phi lại lâm vào nóng lòng muốn báo thù cho huynh đệ, xử lý sự việc theo cảm tình, dốc hết sức của cả nước Thục tấn công Đông Ngô, kết quả là không chỉ tống táng binh lực nước Thục mà cả Trương Phi cũng chết oan uổng.

    Nếu họ có thể duy trì đại nghĩa “coi thiên hạ làm trách nhiệm của mình” như lúc ban đầu, có lẽ mọi chuyện đã không như thế này. Không ai là hoàn hảo, dù hành vi của ba vị nghĩa sĩ là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi cũng có sai sót nhưng họ đã là những người rất tốt, trong suốt cuộc đời của mình họ đã thể hiện ra được nội hàm của chữ “nghĩa” và để lại một câu chuyện đẹp về “ba anh em kết nghĩa vườn đào”, được hậu thế kính ngưỡng.

    Khánh Lan

    Nguồn: (Sưu tầm theo web TNĐ – Tân Đường Nhân).

    Bộ ba Ngọc Cường, Nguyễn Văn Thành, Việt Hải là tam nhân kết nghĩa văn học nhại theo tích xưa.

  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    GIAI THOAI TRẠNG QUỲNH

    Trạng Quỳnh là ai, có thật hay không?

    Trạng Quỳnh là nhân vật nổi tiếng trong dân gian, tài trí, thông minh, dí dỏm, trào lộng, nhưng ít ai biết rằng thật sự Trạng Quỳnh là ai? Cuộc đời và sự nghiệp của Trạng Quỳnh không được được sách sử ghi lại rõ ràng. Trong văn học Việt Nam, Trạng Quỳnh là nhân vật hư cấu dưới thời Vua Lê – Chúa Trịnh. Nhưng dựa theo KenhKienThuc thì thân sinh Trạng Quỳnh là ông Nguyễn Bỗng và bà Nguyễn Thị Hương. Cha ông khi xưa từng là giám sinh ở Quốc Tử Giám.

    Tên thật của Trạng Quỳnh là Nguyễn Quỳnh, sinh năm 1677 và mất năm 1748. Ông sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử thời Vua Lê Thánh Tông và Chúa Trịnh Sâm. Quê hương của Trạng Quỳnh thuộc làng Bột Thượng, thị trấn Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc thôn Hưng Tiến, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa. Xứ Thanh vốn nổi tiếng là linh thiêng và nơi đây cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt.

    Thuở còn nhỏ Nguyễn Quỳnh đi học và sống với cha cùng ông nội, vốn thông minh, lanh lợi, cộng thêm bản tính tinh nghịch, ông thích bày trò lừa lũ trẻ con trong làng, lớn lên ông lại dùng văn thơ để phá phách, trêu chọc mọi người. Chẳng hạn như vào một dịp Tết Trung Thu, trong lúc vui đùa với các bạn, ông bảo tụi trẻ rằng: “Nếu chúng mày làm kiệu rước tao, thì tao sẽ dẫn chúng bay đi xem một người có cái đầu to bằng cái bồ”. Thế là lũ trẻ háo hức và tò mò, chúng cùng làm kiệu để rước ông. Khi thấy lũ trẻ đã nỏi mệt, ông liền chỉ cái bóng của mình trên tường và la lên: “A ha, a ha, ông đầu to đây rồi”. Lại một hôm, Trạng Quỳnh đến nhà ông Tú Cát và bị ông béo tai vì Quỳnh quá nghịch phá. Ông Tú Các nói: “Tao sẽ ra một câu đối, nếu mày đáp lại đươc thì tao sẽ tha cho.” Quỳnh đồng ý và ông Tú ra câu đối: “Trời sinh ông Tú Cát.” Chẳng cần suy nghĩ lâu la, Quỳnh đáp: “Đất nứt con bọ hung.”

    Vào tuổi thiếu niên, Quỳnh theo học với Cụ Quan Bảng Đoàn là thân phụ của bà Đoàn Thị Điểm. Tật quấy phá nên Quỳnh chẳng tha cho ai, ông thường đợi khi Cụ Đoàn vắng nhà, thường ghé nhà Cụ Đoàn để trêu chọc Thị Điểm. Nhà Cụ Đoàn có nuôi bầy chó nên Thị Điểm hay dùng mấy con chó này để trị Quỳnh. Một hôm, Quỳnh ghé nhà thăm Cụ Đoàn, nhưng vừa thấy Quỳnh, Thị Điểm suỵt chó cắn Quỳnh nên ông phải chạy ra phía bờ ao sau nhà mà trèo lên cây tránh cho bầy chó khỏi cắn. Thị Điểm thản nhiên bảo Quỳnh là bà sẽ ra một câu đối, nếu Quỳnh đáp lại được thì bà sẽ xua đàn chó đi cho Quỳnh xuống. Nói xong Thị Điểm đi xuống ao tắm và đọc câu đối: “Thằng Quỳnh trèo lên cây cậy, d..i đỏ hồng hồng”. Quỳnh quát lên: “Cái Điểm lội dưới ao bèo, l… ngứa ráy ráy”.

                Lại một tối hôm khác, khi Thị Điểm đang rũ màn định đi ngủ thì khám phá ra Quỳnh đã nằm trên giường từ bao giờ, bực tức Thị Điểm nói: “Tướng nội vô phong phàm tự lập“. (Trong phòng không có gió mà sao cột buồm căng). Quỳnh đáp: “Hung trung bất vũ thủy trường lưu“. (Ngoài kia không mưa sao nước lại lênh láng.)

                Tính khí ngông cuồng, Quỳnh đã để lại nhiều giai thoại về những chuyện khôi hài, chọc phá thiên hạ do ông gây ra như có một lần ông vào nghỉ chân ở một quán bên đường, ông thấy một ông quan được lính hầu võng vào quán. Vị quan này ăn trầu và phun bã bừa bãi. Quỳnh thản nhiên lượm bã trầu lên ngắm nghía, vì thế vị quan hỏi ông: “Ngươi ngắm cái gì?. Quỳnh trả lời: “Bẩm hạ thần nghe đồn miệng nhà quan có gang có thép, nên hạ thần xem trong bã trầu có gang có thép hay không? Nhà quan biết là mình bị Quỳnh châm chọc, nên phán: “Xem ra ngươi cũng là người có học, vậy nếu ngươi đáp lại được câu đối của ta, ta sẽ tha cho, bằng không, ta sẽ nện cho mấy hèo”.

    Nói xong, nhà quan đối: “Quan là mũ, để thì mới, đội thì cũ, đội rồi tiến vô phủ”.Quỳnh đáp lại: “Trộm là l.., để thì méo, đ.. thì tròn, đ.. rồi đẻ ra con”. Nhà quan thấy Quỳnh ăn nói tục tĩu thì kêu quân lính dẫn lên quan huyện. Khi nghe nhà quan kể đầu đuôi câu chuyện, bèn hỏi Quỳnh là ông đã đáp lại như thế nào. Quỳnh nhanh nhẩu thưa: “Đái là đai, để thì ngắn, vấn thì dài, vấn rồi bước lên ngai”. Thế là Quỳnh được tha cho về.

                Trạng Quỳnh là người rất thông minh, học giỏi và nhanh trí, năm 1696, ông dự thi Giải Nguyên và đỗ. Ông thi đỗ Hương Cống nên người đời gọi ông là Cống Quỳnh. Ông đi thi Hội nhiều lần mà không đỗ nhưng người đời vẫn ưu ái gọi ông là Trạng Quỳnh bởi sự hào phóng, rộng lượng cùng khiếu hài hước vốn có sẵn ở ông nên họ coi ông như là một danh sĩ. Ông từng làm đại sứ Trung Quốc bởi tài hùng biện khôn khéo và thông minh. Những bài hùng biện của ông thường khiến các học giả Trung Quốc nể phục. Đến nay nhiều giai thoại về Cống Quỳnh được lưu truyền nhiều trong dân gian Để tưởng nhớ đến ông, người ta đã lập đền thờ Nguyễn Quỳnh (Trạng Quỳnh). Hiện nay, nhà thờ Nguyễn Quỳnh trở thành di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (năm 1992).

    Trạng Quỳnh, ông nổi tiếng không chỉ ở sự thông minh, hào phóng, mà ở khả năng hài hước của ông. Bằng chứng là trong cuốn sách Nam Thiên Lịch Đại Tư Lược Sử đã nhận xét: “Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước…” Những hình ảnh miêu tả Trạng Quỳnh trong tập truyện “Trạng QuỳnhTập 24 – Trạng Chết Chúa Cũng Băng Hà” thì ông có một chiếc trán cao, lông mày sắc nét và bụng bự.

    Theo truyện Trạng Quỳnh, ông cưới vợ người xứ Nghệ, nhưng vợ của Trạng Quỳnh là ai thì chưa có sách sử nào ghi chép lại. Tuy nhiên, qua tuyển tập truyện Trạng Quỳnh thì vợ của ông là một người phụ nữ hiền lành và thương người nhưng bà rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái. Trạng Quỳnh không có con nhưng có hai người con nuôi là Quỷnh và Mắm. Quỷnh là một cậu bé thông minh và tốt bụng, được cậu Quỳnh đặt cho biệt danh là “Quỷnh tai to”. Mắm được Trạng Quỳnh nhận nuôi khi cô còn là một bé gái xinh xắn chăn vịt ở nhà ông lý trưởng (Thanh Hóa). Mắm mang trong mình tính cách hiền lành và lẻo lính nhưng đôi khi cũng có chút lẻo mép.

    Tại sao Trạng Quỳnh chết? Có người cho rằng Trạng Quỳnh chết do tính hay đả kích, chọc tức và gây chuyện với chúa Trịnh. Một hôm, Chúa Trịnh sai Đinh Nam Vương mời Cống Quỳnh ăn một bữa thịnh soạn nhằm “báo thù”. Khi được mời ăn, Trạng Quỳnh biết được mình sẽ bị hại chết, tuy nhiên ông vẫn nhận lời và nghĩ cách hại ngược lại Chúa Trịnh bởi ông nghĩ “mất đi một vị chúa tàn ác, bớt đi gánh nặng cho dân”. Sau khi ông về nhà, ông liền dặn vợ con “Nếu thấy anh để sách trên ngực thì không sao, còn để trên mặt thì đã đi rồi”. Ông dặn mợ Quỳnh đừng hoảng hốt mà hãy giữ nguyên hiện trường như vậy đợi khi nghe tin Chúa mất thì hãy làm tang lễ. Tin Trạng Quỳnh còn sống và đang nằm trên võng đọc sách lọt đến tai Chúa Trịnh. Ông không tin liền đem món thịt mà ông đã sai người đầu độc Trạng Quỳnh ra ăn thử thì băng hà vì chất độc có trong thức ăn.

    Khánh Lan

    Tài liệu tham khảo:

    1. Giai phẩm Xuân Quý Mão, 2023. Vietnamese magazine
    2. Internet.
  • Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  LỊCH SỬ

    TẾT, NÓI CHUYỆN TẾT

    LTS. Những tài liệu dưới đây của các tác giả đã đăng bài nghiên cứu của họ trong Giai Phẩm Xuân Quý Mão 2023 của VIETNAMESE MAGAZINE với chủ đề TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI. Đó là những tài liệu có giá trị mà Khánh Lan nghĩ cần được lưu lại cho hậu thế, bởi đây những dữ kiện hữu ích cho giới trẻ học hỏi về những phong tục tập quán của con dân Việt. Khánh Lan xin phép được tóm lược nội dung của các bài viết này.

    Duyệt qua 176 trang báo, Khánh Lan nhận thấy có một số bài vở đang trong sách thật hay, ghi lại những tài liệu có giá trị nói về lịch sử cũng như tập tục của ngày TẾT của người Việt. Trước hết Khánh Lan xin lần lượt tóm lược về từng tiêu đề. Theo Lý Thành Phương, sau một thời gian làm việc cực nhọc, người ta chọn mùa Xuân để nghỉ ngơi và ăn mừng khi cây cây cối bắt đầu đơm bông kết nụ. Người Việt Nam chúng ta cũng như thế giới không tránh khỏi sự chi phối của ba nền văn minh chính gồm: Văn minh La Mã, văn minh Ấn Độ và văn minh Hoàng Hà (Trung Quốc). Hầu như cả ba nền văn minh trên đều chọn ngày đầu năm để đánh dấu những biến cố quan trọng mà người Việt Nam chúng ta gọi là ngày TẾT.

    • Văn minh La Mã: Dựa theo dương lịch và ăn mừng TẾT từ ngày Chúa Giáng Sinh, 25 tháng 12 cho đến hết ngày 1 tháng 1.
    • Văn minh Ấn Độ: Như Sri-Lanka, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Cam Bốt thì TẾT sẽ vào khoảng tháng Ba dương lịch.
    • Văn minh Hoàng Hà (Trung Quốc): Như Hồng Kông, Singapore, Đài Loank Hàn Quốc và Việt Nam thì theo âm lịch của Trung Hoa và ngày TẾT thường trễ hơn TẾT dương lịch từ một đến hai tháng.

    Nước Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc do thời kỳ bị thế lực phương Bắc đô hộ cả ngàn năm. Tuy nhiên, những sinh hoạt trong ngày TẾT của người Trung Hoa và người Việt có nhiều điểm khác biệt. Theo Lý Thành Phương, Nước Việt Nam bắt đầu lập quốc từ thời kỳ Lạc Việt với một tập tục nhuộn răng đen, ăn trầu, xâm mình (để đối phó với Thủy quái), trồng lúa dưới nước và dùng trống đồng (Trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ) trong các sinh hoạt cộng đồng, dùng sản phẩm lúa gạo để gói bánh chưng, bánh tét (ăn mừng trong những ngày Tết). Những tập tục này bắt nguồn từ những  phong tục và văn hóa đặc trưng của người Lạc Việt. Văn minh Lạc Việt có tính truyền bá, chia sẻ và phát triển qua nhiều sóng gió của thời thực dân đế quốc, nhưng vẫn tồn tại bởi người dân Việt có tinh thần cầu tiến, kiên nhẫn và chịu khó học hỏi những cái hay, cái tốt của người.

    Bánh tét: Hương vị Tết quê nhà, bài viết của VT.

    “…Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

    Nêu cao pháo nổ bánh chưng xanh…”

              Nếu bánh chưng là loại bánh nếp truyền thống của miền Bắc thì tại miền Nam, bánh Tét không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên và đãi khách trong ba ngày Tết. Bánh chưng hay bánh tét luôn được ăn kèm với củ kiệu, củ hành, tôm khô thì mới đủ bộ. Nguyên liệu gói bánh chưng đều giống nhau, cái khác biệt chỉ là hình dạng bên ngoài của nó mà thôi. Gói hai loại bánh này cần phải có gạo nếp, đậu xanh không có vỏ, thịt ba chỉ hay thịt nạc, mỡ. Nhưng nếu gói bánh tét chay thì nguyên liệu làm nhân bánh lại khác như đậu đò, dừa nạo. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải có lá chuối, lạt để buộc bánh (từ tre). Phần lớn, người ta nấu bánh khoảng vài ngày trước Tết.

              Nếp phải được ngâm trước khi gói bánh khoảng 8 tiếng xong đổ ra rổ và để cho ráo nước, trộn vào gạo chút muối giúp cho nếp dễ thấm gia vị. Đậu xanh thì ngâm trước khoảng 4 tiếng rồi đổ ra rổ cho ráo nước. Bánh chay thì cắt dừa cắt mỏng và trộn vào nếp. Thịt và mỡ cắt thành miếng dài khoảng 10cm. Lá chuối rửa và lau sạch. Dây lạt để buộc bánh cần ngâm nước cho mềm.

              Gói bánh chưng hay bánh tét đòi hỏi sự khéo tay, nhưng nếu có khuôn thì gói sẽ dễ hơn. Gói bánh tét thì khó hơn vì không có khuôn làm bánh tét. Bánh chưng hay bánh tét phải nấu từ 8 tới 12 tiếng nếu là nồi thường, ngày nay người ta dùng presure cooker, nên chỉ cần nấu khoảng 3 tiếng, bằng nước đã được đun xôi là bánh chín.

    Tập quán ăn Tết Việt Nam, bài viết của Lý Thành Phương.  

    Tục lệ “ĂN TẾT” đã trở thành một tập quán lâu đời của người Việt Nam, những tập tục này bao gồm:

    Đưa ông Táo về trời: (Ngày 23 tháng Chạp âm lịch).

    Dựa theo lịch sử, sự phát triển và sinh tồn của con người là nhờ vào sự phát minh ra “LỬA”. Chính vì thế mà hầu hết xã hội nào cung có tập tục thờ “Thần Lửa”. Tuy nhiên hình thức thờ Thần Lửa có sự biết đổi theo thời gian tùy theo phong tục của từng quốc gia. Người Việt Nam dù hai chữ “Ông Táo” hay “Táo Quân” để ám chỉ Thần Lửa và theo sự tưởng tượng phong phú của dân gian, họ cho rằng Táo Quân là người nghe hết mọi chuyện trong thiên hạ, rồi chờ đến cuối năm sẽ cưỡi cá chép, bay về Thiên Đình báo cáo lại với Ngọc Hoàng đế người thưởng hay phạt bàng dân thiên hạ.

    Tiệc Tất Niên: 

    Đó là bữa họp mặt mà hầu hết các cơ quan, xí nghiệp, trường học, bạn bè đều tổ chức vào dịp cuối năm trước khi chia tay về nhà nghỉ ngơi ăn Tết cùng với gia đình. Trong bữa tiệc, mọi người chia sẻ những món ăn đặc sắc của từng miền hay cùng nhau tham gia văn nghệ, đàn ca hát xướng.

    Dọn dẹp nhà cửa:

    Đây là lúc mà mọi người dù bận đến đâu cũng dùng chút ít thời gian để dọn dẹp nhà cửa, đánh bóng bộ lư hương, sơn nhà, v.v… với mục đích xóa bỏ những điều xúi quẩy của năm cũ để chuẩn bị đón cái may của năm mới.

    Mua, Xắm, may quần áo mới:

    Già được bát canh, trẻ được manh áo mới” là câu ca dao rất quen thuộc đối với người Việt Nam. Vì thế, dù có khó khăn đến đâu đi nữa, bậc làm cha mẹ cũng cố gắng mua xắm cho con cái một bộ quần áo mới để mặc trong ba ngày Tết. Đặc biệt là sáng ngày mồng một Tết, các em được cha mẹ mặc cho bộ quần áo mới và được ông bà, cha mẹ lì-xì sau khi các em chúc tuổi đến các bậc trưởng thượng, ông bà, cha mẹ, v.v…và được cho đi chúc Tết họ hàng.

    Viếng mộ và quét dọn mồ mả tổ tiên:

    Thông thường, trong những ngày Tết, các con cháu từ khắp nơi đều về thăm quê hương, xứ sở và cùng gia đình đi thăm viếng mộ phần của tổ tiên cũng như có trách nhiệm lau chùi, quét dọn quanh mộ để thể hiện lòng kính trọng, hiếu đạo với đấng sinh thành và các bậc tổ tiên đã khuất bóng.

    Đi chợ Tết:

    Đi chợ Tết là một thú vui không thể bỏ qua và dĩ nhiên mọi người đều thích đi chợ Tết, dù có khi chẳng mua bán gì cả. Sở dĩ người ta thích đi chợ Tết vì nó hoàn toàn khác với những buổi họp chợ thường ngày trong năm. Phải, chợ Tết họp rất sớm, từ buổi sáng tinh mơ, chợ đã chật đầy người, chen chúc nhau, kẻ mua người bán. Hàng quán, hoa quả bầy đầy vỉa hè; hẻm này thì bày hoa cúc hoa lan; góc kia tràn đầy mai, đào, vạn thọ…Chợ Tết nhộn nhịp nhất là tuần lễ cuối cùng của một năm, đây là phiên chợ đông người nhất, bởi có nhiều người cho rằng mọi thứ như bánh, mứt, hoa quả và thức ăn sẽ rẻ hơn vì là phiên chợ cuối năm.

    Gói bánh chưng:

    Nhiều gia đình có tập tục gói bánh chưng ngày Tết vì lý do là vừa ngon, vừa sạch và vừa rẻ. Nhưng còn một lý do nữa là ngày mà các con cháu cùng quay quần và tụ họp bên nhau, thăm hỏi và chia sẻ những buồn vui trong năm. Thiết tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu nguồn gốc của bánh giầy, bánh chưng. Cũng theo ông Lý Thành Phương thì bánh giầy và bánh chưng có từ thời vua Hùng. Chuyện kể rằng: Dưới thời Hùng Vương thứ 18. Một hôm, hoàng tử Tiết Liệu nằm mộng thấy có vị Thần hiện ra và bảo: “Này Con, vật trong trời đất không có gì quý ban82ng gạo, vì nó là thức ăn nuôi sống con người, con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn tương trưng cho Trời và hình vuông tượng trưng cho Đất. Hay lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh để tượng hình cho cha mẹ sinh thành”

    Chưng hoa trong dịp Tết:

    Người Việt Nam thường thích chưng hoa trong những ngày Tết, hoa đem lại sự tươi mát và không khí trong lành trong ngày đầu xuân. Các loại hoa  như đào, mai, lan, cúc, thủy tiên và cây quất là những loại hoa quả thường thấy trong mọi gia đình. Hoa còn tượng trưng cho sự may mắn và thịnh vượng.

    Mâm ngũ quả:

    Trong những gia đình theo đạo Phật hay thờ ông bà thì mâm ngũ quả không thể thiếu trên bàn thơ tổ tiên nhất là trong những ngày Tết. Mâm ngũ quả gồm có 5 loại quả khác nhau tùy theo từng miền. Mâm ngũ quả với ý niệm là mong năm mới đem lại sự thịnh vương, yên bình. Mâm ngũ quả của những gia đình bình dân là “Cầu (Mãng cầu xiêm) – Sung (trái sung) – Dừa (trái dừa xiêm) – Đủ (trái đu đủ) – Xoài (Trái Xoài). Điều trên ngụ ý: “Cầu vừa đủ sài”.

    Rước Ông Bà:

    30 Tết là ngày “Rước ông bà” về chung vui Tết với gia đình. Một mâm cỗ sẽ được bày trên bàn thờ tổ tiên vào buổi trưa hay buổi chiều tùy theo từng gia đình. Thông thường một mâm cỗ gồm: Thịt kho trứng, tôm khô củ kiệu, một món canh, bánh chưng, v.v… Sau 3 ngày Tết, đến ngày mồng 4, một mâm cúng đơn giản hơn, được đặt trên bàn thờ tổ tiên để tiễn ông bà.

    Đón giao thừa:

    Giao thừa là thời diểm chuyển giao giữa năm mới và năm cũ. Lễ cúng giao thừa còn được gọi là lễ trừ tịch và được diễn ra vào phút cuối cùng của năm cũ với ý nghĩ là loại bỏ mọi điều xấu của năm cũ và đón những điều may mắn, tốt đẹp cho năm mới. Lễ cúng giao thừa thường được thể hiện ngoài trời với chung trà và bánh mứt. Những tràng tiểu pháo được đốt nổ vang xen kẽ với đại pháo để xua đuổi tà ma ác quỷ và mở đường cho vạn sự tốt lành.

    Chúc Tết – Mừng tuổi -Lì Xì:

    Tập tục lì diễn ra vào sáng mồng một Tết, các con cháu dậy sớm, thay quần áo mới, xong đứng xếp hàng và chúc tuổi ông bà cha me để được thưởng tiền lì xì trong một phong bì nhò, màu đỏ với hình vẽ rất đẹp trên mặt phong bì. Những câu chúc Tết thường là: “Năm mới, con xin chúc ông bà (cha mẹ, cô dì, chú bác…) sức khỏe vẹn toàn, sống lâu trăm tuổi, (làm ăn phát đạt, an khang thịnh vượng) vạn sự như ý, v.v…

    Đi chùa – Hái lộc:

    Đi chùa – hái lộc đầu năm là truyền thống của người Việt Nam. Vào chùa đốt nhang cầu cho quốc thái dân an, đất nước thái bình, gia đình hạnh phúc, ăn nên làm ra, sức khỏe và con cái học hành tấn tới.

    Thăm mộ tổ tiên:

    Sau ngày mồng một Tết, các con cháu cùng nhau đến thăm viếng mộ phần của tổ tiên. Đây cũng là dịp mà mọi người trong gia đình hội ngộ, thăm hỏi và ngồi quanh mâm cỗ cúng ngày Tết.

    Đánh bài ngày Tết:

    Đánh bài trong ba ngày Tết trong phạm vi gia đình được coi là một cách giải trí, mua vui và thư giãn vì số tiền ăn thua cho mỗi ván bài chỉ là trên dưới chục bạc. Có những màn Bầu cua cá cọp chỉ thu nhỏ từ .25 cents đến $1.00 cho mọi người có thể tham gia. Ngoài Bầu cua cá cọp người ta còn chơi bài cào ba lá, lô tô, cá ngựa, tam cúc hay tứ sắc.

    Tóm lại, MỪNG TẾT – VUI XUÂN là một phong tục tốt, nên được duy trì, bởi ngoài việc nghỉ ngơi, thăm viếng họ hàng, bạn bè, nó còn mang một tinh thần giáo dục và bảo tồn văn hóa. TẾT là thời điểm để các con cháu nhớ đến và báo hiếu tổ tiên. Có nhiều địa phương cũng nhân dịp ngày TẾT để cám ơn những ân nhân của gia đình hay cá vị lãnh đạo tinh thần và các Thày Cô trong trường học đã dày công dậy giỗ các học sinh nên người.

    Ngày Tết nói chuyện trà, bài viết của Đỗ Duy Ngọc.

    “Khách đến nhà không trà thì rượu”

    Uống trà vào ngày Tết là một truyền thống và mang những món quà ý nghĩa tới cho người than, bạn bè trong dịp tết cổ truyền dân tộckhông thể thiếu trong trong dịp Tết ở mỗi gia đình Việt. Sự hiện diện của chén trà góp phần làm cho những câu chuyện thêm ý nghĩa và là món quà mà con cháu biếu ông bà, cha mẹ để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn đấng sinh thành. Uống trà đã trở thành việc không thể thiếu trong những câu chuyện đầu năm, khách đến chơi nhà thưởng trà, trò chuyện trong không khí rộn ràng của mùa xuân mới.

    Trà không chỉ là thói quen hàng ngày mà nó còn là một trong những nét đẹp truyền thống trong ngày Tết, một nét văn hóa đẹp của người Việt. Ngày xưa, “miếng trầu là đầu câu chuyện” nhưng ngày nay, chén trà đã thay cho “miếng trầu”, để mở đầu cho mỗi câu chuyện, đặc biệt là những câu chuyện ngày Tết. Một ấm trà thơm ngon sẽ làm cho mọi người gần nhau hơn, ấm áp hơn trong tiết trời se se lạnh vì thế mà trà được các gia đình đặc biệt quan tâm trong ngày Tết.

    Vị đắng của trà, vị ngọc của bánh mứt đã trở thành hình ảnh quen thuộc và không thể thiếu trong những ngày Tết. Ngày Tết. Thưởng trà là một trong những nét đẹp truyền thống trong ngày Tết, một nét văn hóa đẹp của người Việt. Uống trà trở thành việc không thể thiếu vào mỗi dịp Tết bởi nó có lợi cho sức khỏe như phòng chống được một số bệnh mãn tính như tim mạch, tiểu đường… làm đẹp như chống lão hóa, đẹp da… và vì thưởng trà đã trở thành một nét văn hóa trong nền văn hóa đa dạng của người Việt.

    Người Nhật cũng như người Trung Hoa tôn trà thành đạo: Đạo Trà. Từ ngàn xưa, người Việt đã có nghệ thuật uống trà và là một trong những nước trong cây trà sớm nhất thế giới. Người Việt uống trà theo kiểu cách riêng của họ và cũng có quy tắc riêng nhưng không quá ngặt như Đạo Trà. Trà có tác dụng giải độc và kích thích sự hoạt động của trí não, giảm mỡ trong máu.

    Thống kê trên thế giới ghi nhận có hơn 3,000 giống trà khách nhau. Tuy nhiên có 6 loại trà cơ bản: Trà xanh, trà trắng, trà vàng, trà đen, trà Ô long và trà phổ nhĩ.

    • Trà Xanh là loại trà vừa hái xong, làm héo và diệt men. Trà xanh là một loại trà tươi như giống trà Thái Nguyên là một loại trà nổi tiếng tại Việt Nam bởi trà Thái Nguyên không để lên men nên vẫn giữ được chất diệp và phẩm chất của lá trà tươi.
    • Trà Trắng còn được gọi là Bạch Trà trông ở vùng cao độ. Bạch trà được hái từ lúc còn là búp non, và vì trong trong vùng có nhiệt độ thấp nên búp trà có màu trắng. Hái xong sẽ được phơi ngoài nắng nên có độ lên men cao. Trà trắng có nguồn gốc từ Phúc Kiến, nhưng ngày nay, có nhiều nước cũng sản xuất loại trà này. Tại các tỉnh miền Tây Bắc Việt Nam ghi nhận là có loại trà này.
    • Trà Vàng cũng giống như trà xanh, chỉ khác là sau khi diệp men, là trà được hấp ở nhiệt độ nhẹ khiến cho chất diệp lục tố (Chlorophyll) mất đi từ từ khiến cho chất xanthophylls (màu vàng) hiện ra rõ hơn.
    • Trà Ô Long là loại trà có các công đoạn chế biến da dạng và mất thời gian. Trà ô long xanh có độ lên men là 12-20% nhưng trà ô long đen có độ lên men là 40-80%. Trà ô long được trồng nhiều ở Trung Quốc, Đài Loan. Lâm Đồng cũng trồng loại trà này lấy giống từ Đài Loan.
    • Trà Đen còn được gọi là Hồng Trà vì nước trà có màu cam hoặc màu đỏ, xuất phát tử khu vực núi Vũ Di ở Trung Quốc với tên là Chánh Sơn Tiểu Chủng. Không qua giai đoạn diệt men. Loại trà này được người Âu Châu ưa chuộng.
    • Trà Phổ Nhĩ được đặt theo tên của thành phố Phổ Nhĩ bên Trung Quốc. Loại trà này trồng tại vùng Tây Bắc Việt Nam. Sự chế biến giống như loại trà Xanh và Bạch Trà. Lá trà khô đóng thành bánh gọi là trà Phổ Nhĩ sống và nếu làm khô và ủ từ 30 đến 50 ngày thì gọi là trà Phổ Nhĩ chín.

    Tùy theo từng loại trà mà người ta dùng độ nước sôi để pha. Thường là 85-100 độ C. Ấm pha trà củng tùy loại trà mà dùng ấm mỏng (Chu Nê) hay dày (Tử Sa). Ở Trung Quốc có thập loại danh trà, đứng đầu là:

    • Trà Long Tĩnh của thôn Long Tĩnh, Hàng Châu, Triết Giang. Vì thời tiết mát mẻ nên trà Long Tĩnh ngon, chất lượng tốt và là một loại trà Xanh nổi tiếng được chế biến theo phương thức thủ công truyền thống nên lá trà có kích thước đều và giữ được màu xanh non đẹp mắt. Đặc trưng của loại trà này mang hương vị trà Xanh tươi mát, đậm đà, khi pha trà các búp trà đứng thẳng trong nước, nhìn rất đẹp.
    • Bích Loa Xuân hay Hách Sát Hương Nhân được mệnh danh là đệ nhất trà Xanh có hương vị dịu ngọt, có nhiều chất dinh dưỡng, nước trà màu xanh ngọc.
    • Thiết Quan Âm là loại trà khó trồng, búp trà ra quanh năm nhất là mùa Xuân nhưng vị trà lại thơm nhiều vào mùa Thu. Trà có nguồn gốc tại huyện An Khê. Lá trà hơi cong, đỉnh trà trong giống như đầu con chuồn chuồn, thân xoán, đuôi trông giống như chân con ếch, trên bề mặc của lá có một lớp sương mỏng gọi là “Sa lục”. Trà có 30 loại kháng chất khách nhau, có khả năng miễn dịch, trị bệnh mạch vành. Hương vị thơm, ngọt, xanh giúp trí óc thanh thản, sảng khoái, thư giãn.
    • Hoàng Sơn Mao Phong tên trà được đặt theo quê hương “Mao Phong” và dãy núi “Hoàng Sơn”. Lá trà có lông tơ, nước trà thơm, vị đậm, nước màu vàng, tốt cho bệnh tim mạch.
    • Trà Ngân Châm hay Trà Vàng xuất phát từ đảo Quân Sơn, tỉnh Hồ Nam. Hoa trà thường nở vào tháng 6 và có chất lương tốt nhất trong năm. Trà có hai loại là trà búp mọc ở phía Đông đảo Quân Sơn, đón nắng sớm nên ngon hơn và trà tơ mọc ở phía Tây đón ánh nắng muộn hơn, ban đêm lại có nhiều sương nên lá có nhiều tơ.
    • Kỳ Môn Hồng Trà nổi tiếng tại huyện Kỳ Môn, tỉnh An Huy. Trà được lên men trong quá trinh hái, ủ và sấy. Các chế biến làm theo phương thức thủ công nghệ. Trà chứa nhiều chất Flavonoid rết tốt cho sức khỏe, giảm thiếu nguy cơ béo phì.
    • Trà Đại Hồng Bào hay Nham Trà Đại Hồng Bào hay Đại Hồng bào Vũ Nhi vì trồng ở núi Vũ Di, Phúc Kiến, Trung Quốc. Trà thuộc dòng trà Ô Long. Trà có vị ngọt, hương thơm như hoa lan. Đây là loại trà mắc tiền nhất thế giới, có lúc lên đến $1000 USD/gr. Nên được nhà nước canh gác rất cẩn thận. Trà có thể thu hoạch quanh năm nhưng sản lượng và chất lượng thì mỗi mùa khác nhau. Trà có tác dụng chống ung thư, hạ huyết áp, cải thiện tim ma5chk giảm căng thẳng, tăng cường trí nhớ.
    • Trà Lục An Qua Phiến hay Trà Qua Phiến là loại trà xanh trồng trên đỉnh Đại Sơn, Lục An, tỉnh An Huy. Chỉ dùng búp trà, bỏ phần mầm, gân rồi phơi khô. Trà có màu xanh ngọc, trong, hương thơm, vị nồng có chút chất ngọt.
    • Bạch Hào Ngân Châm là trà Trắng búp non hay Baihao Yinzhen. Thuộc dòng họ trà Trắng, sản suất tại tỉnh Phúc Kiến. Thu hái là những búp non, mịn và có lớp lông tơ trắng bao quanh búp trà. Phương pháp là phơi trong bóng râm, nổi tiếng về hương, sắc và vị, từng là Hoàng gia Cống Phẩm và được Vua Chúa dùng trong các buổi Ngự Trà.
    • Trà  Phổ Nhĩ (Bửu Lị, Pu-erh) có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, thường dủng trong các nhà hàng Trung Hoa, nhất là sau bữa ăn Dim Sum. Trà được diệt men, vò nát, phơi nắng. Nuốc trà có màu đỏ đậm, vị hơi chát nhưng sau lại ngọt.

    Các nước Á Châu ăn Tết Nguyên Đán ra sao? của tác giả THG (Dựa theo bài viết của THG).

    “…Chiều ba mươi nợ réo tít mù

    Co cảng đạp thằng bần ra cửa

    Sáng mồng một rượu say túy húy

    Giơ tay bồng ông phúc vào nhà…”

    Tết Nguyên Đán còn được gọi là Tết Âm Lịch hay Lunar New Year. Đây là dịp lễ lớn được nhiều quốc gia Á Châu long trọng đón mừng. Phần lớn cá quốc gia Á Châu dưa trên chu kỳ của mặt trăng quay quanh trái đất, đó là ngày đầu tiên của chu kỳ của mặt trăng. Theo giáo sư Yeomin Yoon, thuộc đại học South Carolina thì Tết Nguyên Đán bắt đầu từ thời cổ đại. Tết Nguyên Đán không phải là Chinese New Year bởi Tết Nguyên Đán của người Trung Quốc gọi là “Chũ Jié” có nghĩa là “Lễ Hội Mùa Xuân”, kéo dài cả tuần.

    Phần trên chúng ta đã nói về phong cách đón TẾT tại Việt Nam, sau đây chung ta tìm hiểu thêm về nghi thức đón Tết Nguyên Đán ở một số quốc gia Á Châu như: Trung Quốc, Đại Hàn, Singapore, Mã Lai Á, Đài Loan và Phi Luật tân.

    • Tại Trung Quốc:

    Tương tự như người Việt, Tết là dịp để gia đình quây quần bên nhau. Người Trung Hoa cũng tin rằng, mặc quần áo mới với màu tươi sáng (đỏ, vàng) để thu hút thần tài và mang lại sự giầu có trong năm. Cũng giống như người Việt, người Trung Hoa đặt têm cho mỗi năm tương ứng với một con vật trong 12 con giáp gồm các con: Chuột (Tý); Trâu (Sửu); Cọp (Dần); Thỏ/Mèo (Mẹo); Rồng (Thìn); Rắn (Tỵ); Ngựa (Ngọ); Dê (Mùi); Khỉ (Thân); Gà (Dậu); Chó (Tuất) và Heo (Hợi) và đến Chùa dâng hương cầu mong cho một năm mới tốt lành thịnh vượng. Nhưng người Trung Hoa thường kiêng không ăn thịt con vật tương ứng với con giáp của năm đó.

    Trong ngày Tết, các món ăn cổ truyền được dùng là: Bánh bao, bánh nếp, mì, sủi cảo. Một phong tục khác là khi làm bánh bao, người Trung hoa giấu vào trong lòng bánh một đồng xu nhỏ, để các em nhỏ nếu nhận được bánh bao có giấu đồng xu ấy thì nên ăn hết cái bánh bao đó để lấy hên suốt cả năm. sủi cảo thường được ăn chung với cá tượng trưng cho sừ sung túc. Đêm giao thừa, mọi người quay quân bên nhau trong bữa cơm cuối năm, mồng một Tết cũng có đi chúc Tết và nhận tiền lì xì trong một phong bao màu đỏ. Người Trung Hoa có tục lệ không mua giầy mới, quét nhà ngày mồng một, không cắt tóc, gội đầu vào dịp Tết.

    • Tại Đại Hàn:

    Tại Đại Hàn Tết Nguyên Đán kéo dài 3 ngảy, theo phong tục của người Đại Hàn mọi người đều nhận thêm một tuổi vào ngày Tết. Y phục đón Tết là trang phục cổ truyền Hanbok và trẻ em phải cúi rạp người, cung kính chào người lớn tuổi, chúc thọ và nhận tiền lì xì cũng như nhận lời khuyên bảo, kinh nghiệm sống, v.v… của các vị niên trưởng.

    Thức ăn trong dịp Tết gồm các món mandu (bánh bao), dduk-guk (súp bánh làm bằng bột gạo thái mỏng), mandu-guk (súp bánh bao), galbijjim (sườn om), japchae (miến) và ddeok (bánh gạo). Trò chơi truyền thống là Yut Nori (cờ chơi bằng que gỗ) và Yeonnalligi (thả diều để cầu may).

    • Tại Singapore:

    Da số người Trung Hoa sống ở Singapore (75%) nên họ ăn Tết rất lớn. Thức ăn là bánh nếp (nian gao), Yushering (gỏi cá sống truyền thống) và bánh dứa. Bao lì xì được trao tặng cho những người trẻ tuồi với chữ “” trên phong bao màu đỏ. Người Singapore tỏ lòng kính trọng tổ tiến bằng cách đi chùa, thắp nhang vào dịp đầu năm.

    Cuộc diễn hành Chingay với xe hoa rất long trọng, lộng lẫy được tổ chức hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán, cũng có múa lân. Ngoài ra trong dịp này, Lễ hội Tết River Hongbao cũng được tổ chức ở nhiều địa điễm khác nhau tại Singapore.

    • Tại Mã Lai Á:

    Cũng như Việt Nam, Trung Quốc, Đại Hàn và Singapore, Tết Nguyên Đán là dịp mừng Xuân và để mọi người trong gia đình quây quần bên nhau trong bữa cơm cuối năm. Tết tại Mã Lai kéo dài 15 ngày và ngày thứ 15 sẽ có lễ hội Chap Goh Mei dành riêng cho các phụ nữ độc thân, trong buổi lễ, các cô gái sẽ ném quả quýt có ghi ước mơ thầm kín của mình xuống biển.

    Món sald Yee Sang là món được dùng trong bàn tiệc vì nó tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng. Nian gao, quả quýt (tượng trưng cho sự may mắn) và phong bì đỏ (pow) được trao tặng cho các em nhỏ và những người chưa lập gia đình. Có những gia đình mời đoàn múa lân đến múa trước bàn thờ để xua đuổi tà ma. Khi ra đường các thiếu nữ mặc trang phục truyền thống, qipao (áo sường xám) màu đỏ vì họ tin rằng màu đỏ mang đến sự may mắn.

    • Tại Đài Loan:

    Người Đài Loan có tục lệ dù bận rộn đến đâu đi nữa, họ đều về hay về quê đón mừng năm mới cùng với gia đình. Những món ăn Tết gồm: Nian gao, bánh dứa, cá. Người Đài Loan cũng tin rằng khi dùng thức ăn hết món cá, mà để lại một ít thì sẽ mang đến sự may mắn cho gia đình. Trong dịp Tết, nhiều người Đài Loan không đi ra đường, mà ở nhà, nhất là có cha mẹ già. Phong tục lì xì và đốt pháo cũng phổ biến tại đây.

    • Tại Phi Luật Tân:

    Người Phi Luật Tân tin tưởng rằng trong đêm giao thừa, khi đồng hồ điểm 12 giờ đêm thì mọi người đều thi nhau nhẩy cho thật cao, vì họ cho rằng giờ phút ấy, nếu ai nhẩy càng cao thì chiều cao của họ sẻ tăng cao thêm lên.

    Bữa ăn truyền thống trong ngày Tết gọi là Media Noche, một bữa ăn thịnh soạn để ăn mừng cho một năm thịnh vượng gồm các loại trái cây hình tròn tượng trưng cho sự may mắn. Phong tục này bắt nguồn từ Trung Quốc. Món ăn trong ngày Tết gồm xôi Biko, Bibingka và Nian gao vì họ tin rằng chất dính của nếp giúp gắn kết các thành viên trong gia đình lại với nhau. Mì dài Pancit với niềm tin là đem lại sự khỏe mạnh, trường thọ, may mắn.

    Trang phục có hình chấm bi tròn tượng trưng cho thịnh vượng, tiền bạc, may mắn. Pháo nổ vang để xua đuổi những linh hồn xấu. Đèn bật sáng, cửa sổ và cửa ra vào được mở rộng, không tiêu tiền vào ngày đầu năm.

    Hơn trăm năm trước người Sài Gòn ăn Tết ra sao? Và ngôn ngữ được dùng như thế nào? Bài viết của TNV.

    Sự nghiên cứu của TNV dựa theo tờ Tân Đợi Thởi Báo, số 36, ra ngày 2 tháng 3 năm 1915 mô tả về ngôn ngữ được dùng và những sinh hoạt Tết tại chợ Sài Gòn năm 1915. Vậy, hơn trăm năm trước, phong cách ăn Tết cũng như ngôn ngữ được dùng như thế nào?

    Những danh từ nghe lạ tai như Ý cựu lệ, chờ bữa 27, 28 và 29 Annam: chỗ gia tăng bằng hai đặng trừ bì (giảm bớt) ba bữa 30, thắp đèn điển khí (đèn điện) sáng trưng. Bước chân vào chợ ngống (cố gắng tìm kiếm) ngống lại…vì lòng đã mất thửa (mất đi bớt) sự mong vọng. Tả tự (viết chữ) rất xảo lại sãn thuộc làu. Khách Trú (người Hoa), Thí (miễn phí). Khán (khám), Langsa (chỉ người Pháp, Y phục Langsa là âu phục). Á xúc (chú), ván (bộ ngựa, bộ ván), Trếu (lạ ùng, kỳ cục). Bối(ăn trộm dưới ghe) và còn rất nhiều những từ ngữ khác mà ngày nay không còn lưu truyền trong dân gian.

    Năm 1914, chợ Sài Gòn Mới nay được đổi tên thành chợ Bến Thành khánh thành sau hai năm xây dựng chưa được thịnh vượng và rầm rộ như ngày nay bởi có khi chợ được cất quá lớn và còn xa lạ với sự xắp xếp hàng bán. Thí dụ: Trước kia, hàng ăn, hàng vải (còn gọi là Chà và bán vải), thực phẩm, cây trái xen kẽ vào nhau. Nay, sự xắp xếp hàng quán có vẻ ngăn nắp hơn. Phía trong chợ bày bán hoa quả, thức ăn, hàng quán, bên ngoài chợ có nhiều hàng bông hoa đủ loại. Phía bên hữu thì thấy bày viết liễn, thiệp, v.v…Liễn (Câu đối) viết theo kiểu “Rồng bay Phượng múa”, màu xanh đỏ. Người dân mua liễn về dán trong nhà vào ba ngày Tết.

    Người Trung Hoa ăn Tết sớm, khoảng 28 là họ đã treo cờ Ngũ Hành, cờ Tam Giác của Đại Pháp. Đêm 30 và trọn ngày mồng một Tết, pháo nổ liên hồi, đó là phong tục mà người Annam trừ năm cũ và ăn mừng năm mới, gọi là “Bộc trúc nhứt thinh trừ cựu”. Mồng hai, pháo đốt thưa dần và mồng ba thì im bặt. Trong ba ngày Tết, mọi người đều vui vẻ, trẻ em được cha mẹ cho ăn cam, ăn hồng, đốt pháo, lãnh tiền lì xì, người lớn thì đi thăm họ hàng, chúc cho bà con cô bác, bạn bè vạn sự hạnh tường. Trong ba ngày Tết, người ta nấu thịt hầm dưa giá, thịt kho, cá kho, nem, bì, tỏi, ớt, kiệu, bánh tét, bánh chưng.

    Qua mồng bốn Tết, các cụ già rủ nhau đi khám bệnh miễn phí. Ngoài đường chật cứng xe, nào là xe lửa Mỹ Tho, Biên Hòa, Chợ Lớn đều đông khách, kẻ lên người xuống không ngớt. Nhất là khách Trung Hoa, họ mặc y phục tốt, áo dài kiểu xưa hay áo dài châu xá, che dù đi cung hỉ. Trên những chuyến xe lửa Biên Hòa, Gò Vấp thường chạy qua những khu nhà có chưng lồng đèn giấy, cành dừa kết thành hoa, v.v… có nhà thì lại thấy từng đám người, chụm năm chụm ba ngồi chật vào nhau trên một bộ ván mà chơi đánh bài. Xe cộ trong ba ngày Tết vừa mắc gấp đôi vừa đông người. Có khi còn thiếu cả xe chở khách.

    Ly Rượu Mừng: 70 năm một khúc Xuân ca, bài viết của Trần Hữu Ngư.

    Ban hợp ca Thăng Long với nhạc phẩm bất hủ: Mưa Sài Gòn – Mưa Hà Nội và Ly Rượu Mừng mang đậm dấu ấn văn hóa, nhân văn và nhân bản của nhạc sĩ Phạm Đình Chương như đã in sâu vào tâm khảm và sống mãi trong lòng người Việt. Ra mắt công chúng vào mùa Xuân 1953, ban hợp ca Thăng Long trước 1975 gồm: Phạm Duy, Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Hoài Trung/Phạm Đình Viêm (người anh cùng cha khác mẹ của Phạm Đình Chương), Thái Hằng/Phạm Thị Quang Thái (vợ nhạc sĩ Phạm Duy, chị gái ruột của Phạm Đình Chương, thân mẫu ca sĩ Thái Hiền, Duy Quang, Thái Thảo), Khánh Ngọc (vợ cũ của Phạm Đình Chương) và Thái Thanh/Phạm Thị Băng Thanh (em gái út của gia đình, thân mẫu ca sĩ Ý Lan). Sau 1975 có thêm Mai HươngQuỳnh Giao.

    Hàng trên từ trái qua: Phạm Duy, Hoài Bắc, Hoài Trung.

     Hàng dưới từ trái qua: Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh.

    BAN HỢP CA THĂNG LONG

    Quỳnh Giao và Mai Hương

              Sau năm 1975, nhạc phẩm Ly Rượu Mừng không được phép hát tại Việt Nam vì có liên quan đến “Lính” qua câu:

    “…Chúc người binh sĩ lên đàng.

    Chiến đấu công thành.

    Sáng cuộc đời lành.

    Mừng người vì nước quên thân mình…”

     Nhưng đến năm 2016, khi xét qua lý lịch của nhạc phẩm thì nhạc sĩ Phạm Đình Chương sáng tác nhạc phẩm này năm 1953, trước ngày đình chiến 1954. Ly Rượu Mừng mang giai điệu Valse êm dịu, một bài ca chúc mừng năm mới, phác họa nên nét đẹp của mọi giới trong xã hội gồm sĩ, nông, công, thương, binh.

    “…Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi

    Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi

    Người thương gia lợi tức

    Người công nhâng ấm no

    Thoát ly đời gian lao nghèo khó…”

              Mừng Xuân mà không nghe tiếng nhạc, lời ca thì hẳn là một điều thiếu sót và thú vị nhất là hát theo cô ca sĩ hay bạn bè, cùng cất tiếng hát ca những bài nhạc ca ngợi mùa Xuân. Khắp nơi trên thế giới và bất cứ nơi nào có cộng đồng người Việt mà không nghe nhạc phẩm Ly Rượu Mừng. Tuy rằng nhạc phẩm Ly Rượu Mừng không khó hát, nhưng phải hát cho rõ lời, dứt tiếng thì mới hay…Phải công nhận cái biệt tài sáng tác nhạc phẩm này của Phạm Đình Chương, trong ấy, ông đã không quên nhắc đến mọi tầng lớp trong xã hội, qua lời nhạc, ông đã đem đến nụ cười nở trên môi mọi người.

    “…Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương

    Xây tổ ấm trên cành yêu đương

    Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ

    Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới…”

              Chúc Mẹ quê ngày đêm trông ngóng con trai trở về từ chiến trường, mang lại món quà Xuân tinh thần mà hằng đêm bà khấn nguyện.

    “…Kìa nơi xa xa có bà mẹ già

    Từ lâu trông con mắt vương lệ nhòa

    Chúc bà một sớm quê hương

    Bước con về hòa nỗi yêu thương…”

              Và hay cùng nâng ly:

    “…Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do

    Nước non thanh bình

    Muôn người hạnh phúc chan hòa…”

    Thơ ca ngày Xuân trong văn học Việt, bài viết của Ban Biên Tập Giai Phẩm Xuân Quý Mão 2023.

    Trong thưở ban đầu, người Việt chưa có chữ viết nên các thơ ca ngày Xuân không được ghi chép lại trong lịch sử văn học Việt, Tuy nhiên nếu căn cứ theo các văn hoa ghi khắc lại trên Trống Đồng mà các nhà khảo cổ đào được trong thời kỳ cận đại thì dân tộc Việt đã mừng lễ hội từ xa xưa, đi song song với những sinh hoạt có sự phụ họa của kèn, trống, v.v…Theo dòng lịch sử và trải qua nhiều năm tiến hóa, con người càng ngày càng văn minh, tiến bộ, chính vì vậy mà các sinh hoạt hội hè, lễ lạc được ghi chép lại theo từng thời kỳ.

    Thời kỳ lập quốc:

    Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái và tu chỉnh bời sử gia Ngô Sĩ Liên dưới thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) ghi lại trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư thì sự tích bánh dầy bánh chưng xuất hiện vào đời vua Hùng Vương thứ 6 (1712-1632 TCN) khi vua dẹp xong giặc Ân, ngài có ý định truyền ngôi lại cho các con, nhưng không  biết phải truyền ngôi cho hoàng tử nào. Trong dịp đầu Xuân, vua cha họp các con lại và phán rằng: “Trong các con, hoàng tử nào tìm được lễ vật dâng lên ta mà có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi cho.

    Trong số các vị hoàng tử ấy thì người con trai thứ 18 của vua Hùng Vương là Tiết Liêu, tính tình hiền hậu, đạo đức, hiếu thảo. Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến bảo: “Này con, trong trời đất không có gì quý bằng gạo, con hãy lấy gạo nếp làm một chiếc bánh hình tròn tượng trưng cho Trời và một cái bánh hình vuông tượng trưng cho Đất. Hay bọc lá bên ngoài, đặt nhân trong ruột bánh để làm hình tượng cho Cha Mẹ sinh thành.”

    Đến ngày hẹn, Tiết Liêu đem lễ vật của mình dâng lên cho vua Hùng Vương, ngài lấy làm lạ, nhưng Tiết Liêu đã mau nắm kể cho vua cha nghe về giấc mộng của mình và ý nghĩa của sự tích bánh dầy và bánh chưng. Vua Hùng Vương nếm bánh và khen ngon, có ý nghĩa nên ngài đã truyên ngôi cho Tiết Liêu. Và từ đó người Việt có tục lệ gói bánh chưng để cúng tổ tiên trong những ngày đầu Xuân. Trong văn chương Việt Nam cũng có những câu ca dao và được truyền bá trong dân gian như:

    Lạt này gói bánh chưng xanh

    Cho mai lấy trúc cho anh lấy nàng

    Bánh chưng xanh bên dưa hấu đỏ

    Cành mai vàng ben nhánh đào tươi.

    Thời kỳ 1000 Bắc thuộc (179 TCN – 905):

    Trong giai đoạn này, giới thống trị phương Bắc dùng mọi nỗ lực để đồng hóa người Lạc Việt, nhưng truyền thống văn hóa như lễ hội, bánh chưng ngày Tết vẫn đứng vững.

    Thời nhà Đinh – nhà Lê (968 – 980 & 980 – 1009):

    Là giai đoạn đầu của thời kỳ tự chủ nhưng sách sử không ghi chép lại nhiều những phong tục Tết, có lẽ vì thời gian trị vì của hai vị vua này quá ngắn. Trong thời gian này người Việt cũng chưa có chữ quốc ngữ và vẫn phài dùng chữ Hán.

    Thời Lý – Trần (1009- 1225 & 1226 – 1400):

    Trong thời kỳ này, nước Việt trở thành một quốc gia độc lập và trên đà phát triển về mọi lãnh vực nhất là văn hóa. Một loại chữ viết gọi là chữ Môm được các nhà trí thức sáng tạo cho riêng người dân Việt. Chính vì thế mà các quá trình diễn tiến trong xã hội được ghi chép rõ ràng trong lịch sử. Qua các tư liệu lịch sử, lễ nghi truyền thống văn hóa của dân tộc được coi là trọng. Trong triều đình có tổ chức nghiêm trang về việc đón Tết theo quy luật của cung đình. Thiền sư Mãn Giác dưới thời Lý đã để lại bài thơ bất hủ, “Cáo Tật Thị Chúng”.

    Xuân khứ bách hoa lạc

    Xuân đáo bách hoa khai

    Sự trục nhãn tiền quá

    Lão tòng đầu thượng lai

    Mạc vị Xuan tàn hoa lạc tận

    Dình Tiền tạc dạ nhất chi mai

    Dịch

    (Xuân đi trăn hoa rụng

    Xuân đến trăm hoa cười

    Trước mắt việc đi mãi

    Trên đầu già đến rồi

    Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

    Đêm qua – sân trước – một cành mai.)

              Vua Trần Nhân Tông cũng có rất nhiều bài thơ ca tụng mùa Xuân, trong đó có bài “Buổi sớm mùa Xuân”.

    Ngủ dậy tung song cửa

    Nòa hay Xuân đã sang

    Một đôi bươm bướm trắng

    Gặp hoa, cánh vội vàng.

              Ngoài ra, Vua Trần Nhân Tông còn sáng tác những vần thơ rất thoát tục như:

    Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

    Dói đến thì ăn mệt ngủ liền

    Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

    Dối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

    Thời Hậu Lê:

    Sau 20 năm văn hóa của dân tộc Việt bị hủy diệt bởi chính sách đồng hóa của nhà Minh phương Bắc. Vua Lê Thánh Tông và Nguyễn Trãi là hai nhà thơ nổi tiếng trong giai đoạn này. Về thơ Xuân, Nguyễn Trãi có bài thơ sau.

    Có Xuân đầu bếp xanh như khói

    Thêm lại mưa Xuân trời nước đầy

    Đường nội vắng teo hành khách ít

    Thuyền côi gác bãi ngủ thâu đêm.

    Thời vua Lê – Chúa Trịnh (1545 – 1787):

    Trong giai đoạn này, người nắm quyền hành trong nước là chúa Trịnh và thế tử; tuy nhiên, trong những ngày Tết, vua Lê là người trụ trì các nghi thức quan trong trong triều đình. Trong thời kỳ này, chữ Nôm được phổ biến và xuất hiện nhiều nhà thơ Nôm như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v…

    Một năm Xuân đẹp chín mươi ngày

    Vùn vụt thiều quang ngẫm xót thay

    Cõi thế công danh chim cánh lướt

    Sân nhàn thời tiết bóng oanh bay

                                   (Nguyễn Du)

    Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình

    Chị cũng xinh mà em cũng rất xinh

    Trăm vẻ như in tờ giấy trắng

    Ngàn năm còn mãi cái Xuân xanh.

    (Hồ Xuân Hương)

    Triều Nguyễn (1802 – 1945).

    Bởi chịu ảnh hưởng sâu đậm của nho giáo, nên việt tổ chức đón Tết trong cung đình trở nên trịnh trọng hơn. Trong dịp Tết, triều đình ra lệnh giảm thuế cho người dân tại những vùng có thiên tai, bão lụt, mất mùa. Ân xá cho tù nhân có hạnh kiểm tốt, cho phép đánh bài trong những ngày Tết vui Xuân.

    Trong triều đại này có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng như Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, v.v…

    “…Gặp Xuân ta giữ Xuân chơi

    Câu thơ chén rượu là nơi đi về

    Hết Xuân, cạn chén, vui Xuân

    Nghìn thu nét mực Xuân đề vẫn Xuân….”

                                 (Tản Đà)

    Năm ngoái năm kia đói muốn chết

    Năm nay phong lưu đã ra  phết!

    Thóc mùa, thóc chiêm hãy còn nhiều

    Tiền nợ, tiền công chưa trả hết

    Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng

    Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt

    Ta ước gì được mãi như thế

    Hễ hết Tết rồi, thời lại Tết!

                       (Nguyễn Khuyến)

    “Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

    Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

    Phen này ông quyết đi bôn cối

    Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu…

    …Bắt chước ai ta chúc mấy lời:

    Chúc cho khắp hết ở trong đời.

    Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,

    Sao được cho ra cái giống người.”

                       (Tú Xương)

    Thời Cận đại:

    Đây là thời đại mà chữ quốc ngữ bắt đầu thịnh hành và phát triển, khởi đầu cho một nền văn học mới và cho ra đời nhiều tác phẩm văn chương cũng như văn vần. Những bài thơ Xuân xuất hiện bởi một số thi sĩ như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử, Vũ Đình Liêm, v.v…

    “…Buổi đầu Xuân – đi giữa buổi đầu tiên

    Như sáng nay cuộc đời vừa mới nở

    Và ban đầu cây với gió cười duyên

    Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người

    Chưa từng hẹn đến – giữa Xuân tươi

    Cùng chàng trai trẻ xa xôi ấy

    Thiếu nữ làm duyên, đứng mỉm cười.”

                       (Xuân Diệu)

    “Đã thấy Xuân về với gió đông

    Với trên màu má gái chưa chồng

    Bên hiên hàng xóm, cô em nhỏ

    Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong….”

    (Nguyễn Bính)

    Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

    Bao cô thôn nữ hát trên đồi

    Ngày mai trong đám Xuân xanh ấy

    Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.

    (Hàn Mạc Tử)

    “Mỗi năm hoa đào nở

    Lại thấy ông đồ già

    Bày mực tàu, giấy đỏ

    Bên phố dông người qua…

    …Năm nay đào lại nở

    Không thấy ông đồ xưa

    Những người muôn năm cũ

    Hồn ở đâu bây giờ?”

                                 (Vũ Đình Liêm)

    Khánh Lan

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    Những Từ Dùng Sai Trong Tiếng Việt

    I.           Sai vì không hiểu nghĩa gốc:

    1. CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt vì tính từ đứng trước danh từ, cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt.

    Từ ‘chung’ không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy, chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy, phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.

    2. KHẢ NĂNG. Khả năng 可 能 là năng lực của con người có thể làm được việc gì đó. Thế mà, người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là “có thể”, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực của con người mà thôi.

    3. QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đoạn đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo có câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”. Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.

    4. HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học mà lại thích dùng từ để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pélé” “huyền thoại Maradona”… Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 cầu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chữ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có ở trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”

    5. HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫, 昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.

    II.       Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc.

    1.ĐỘC LẬP. Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc, độc lập là đứng riêng rẽ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ “tự chủ” để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng, từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn ngữ của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ của Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.

    2. PHONG KIẾN. 封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp nhưng chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng, sự cúng tế ở đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.

    3. TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc thì sự gán ép như thế là sai. Tích cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng, trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.

    III.    Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).

    1. QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giỗ mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ của cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu. Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌. Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.

    2. GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.

    3. ĐỆ NHẤT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.

    IV. Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.

    1. X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi về kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự Latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0.1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chắn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?

    2. BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phụ, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đã được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu. Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chí, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như: nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!

    3. NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?

    3. TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên sông… Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cường và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.

    4. HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong. Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt, vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.

    5. TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊 có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê… Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.

    Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:

    Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp;

    Nhóm trưởng, phải sửa là trưởng nhóm;

    Siêu rẻ, phải sửa lại là rất rẻ;

    Siêu bền, phải sửa lại là rất bền;

    Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn; vân vân…

    V. Dùng từ vô nghĩa:

    1. Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu!!!

    2. ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.

    3. SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.

    4. HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế không?

    5. ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chứ không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.

    6. XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới đó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.

    VI. Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.

    1. NGƯỠNG: Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1,2g/l thì đường có thể thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mỗi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 độ đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.

    2. KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó: ”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được, vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.

    3. TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chủ tịch”.

    VII. Dùng từ thiếu chính xác:

    1. CHẤT LƯỢNG. Chất 質 là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量 là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được (masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vật là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dùng từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má còn có hại cho sức khỏe nữa”.

    2. CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.

    3. THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẽ bằng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.

    4. GIẢI PHÓNG. Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chỉ công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.

    5. ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày nay, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.

    VIII. Từ vựng lộn xộn:

    1. LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.

    2. YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.

    3. NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!

    4. ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn tượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ.

    5. THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”

    6. TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.

    7. LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vì nói làm giỏi, học giỏi.

    8. LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”. Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.

    IX. Cóp tiếng Tàu đang dùng.

    1. LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp rất hay, vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.

    2. TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi thăm vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu. Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ, 大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.

    X. Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa:

    1. ĐIỂM YẾU. Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.

    2. THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thì thấp có nghĩa là ẩm ướt… Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”.

    XI. Đảo từ kép bừa bãi và không cần thiết:

    1. XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ…”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.

    Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..

    Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.

    Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.

    Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!

    XII. Ghép từ bừa bãi.

    1. KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kích thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiện ở dưới sông. Cách ghép nầy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.

    2. GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phái một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn dò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không.

    XIII. Dùng từ dao to búa lớn:

    1. CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa. Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.

    2. CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.

    3. NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.

    4. THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu.

    5. NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.

    XIV. Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục:

    1. KHẨN TRƯƠNG: Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Úc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, người ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.

    2. BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà Nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.

    XV. Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.

    1. MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.

    2. LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.

    XVI. Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỹ thuật hiện đại.

    1. COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỹ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.

    2. INFORMATION TECHNOLOGIE (I.T.) dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, technologie là một kỹ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt.

    3. ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuật và ngôn ngữ.

    Hà Thủy Nguyên

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    STROKE IDENTIFICATION:

    This email contains a link to a very important read about 4 indicators of Stroke that will prove to be very helpful in our every day lives. Please take a moment to read and educate yourself about how to recognize a stroke victim.

    Stroke has a new indicator

    Stroke has a new indicator

    They say if you email this to ten people, you stand a chance of saving one life. Will you send this along?Blood Clots/Stroke – They Now Have a Fourth Indicator, the Tongue

    I will continue to forward this every time it comes around!

    STROKE: Remember the 1st Three Letters…..

    S. T. R. 

    STROKE IDENTIFICATION:

    During a BBQ, a woman stumbled and took a little fall – she assured everyone that she was fine (they offered to call paramedics) …she saishe had just tripped over a brick because of her new shoes.

    They got her cleaned up and got her a new plate of food. While she appeared a bit shaken up, Jane went about enjoying herself the rest of the evening.

    Jane’s husband called later telling everyone that his wife had been taken to the hospital – (at 6:00 PM Jane passed away.) She had suffered a stroke at the BBQ. Had they known how to identify the signs of a stroke, perhaps Jane would be with us today. Some don’t die. They end up in a helpless, hopeless condition instead.

    It only takes a minute to read this.

    A neurologist says that if he can get to a stroke victim within 3 hours he can totally reverse the effects of a stroke…totally. He said the trick was getting a stroke recognized, diagnosed, and then getting the patient medically cared for within 3 hours, which is tough.

    RECOGNIZING A STROKE

    Thank God for the sense to remember the ‘3’ steps, STR. Read and

    Learn!

    Sometimes symptoms of a stroke are difficult to identify. Unfortunately, the lack of awareness spells disaster. The stroke victim may suffer severe brain damage when people nearby fail to recognize the symptoms of a stroke.

    Now doctors say a bystander can recognize a stroke by asking three simple questions:

    S *Ask the individual to SMILE.

    T *Ask the person to TALK and SPEAK A

    SIMPLE SENTENCE (Coherently)

    (i.e. Chicken Soup)

    R *Ask him or her to RAISE BOTH ARMS.

    If he or she has trouble with ANY ONE of these tasks, call emergency numberimmediately and describe the symptoms to the dispatcher.

    New Sign of a Stroke ——–

    Stick out Your Tongue!

    NOTE: Another ‘sign’ of a stroke is this: Ask the person to ‘stick’ out his tongue. If the tongue is

    ‘crooked’, if it goes to one side or the otherthat is also an indication of a stroke.

    A cardiologist says if everyone who gets this e-mail sends it to 10 people; you can bet that at least one life will be saved.

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    Những tác-hại khủng-khiếp khi thức khuya

    Hy vọng bài viết này phần nào bạn đã hiểu rõ tác hại của việc thức khuya và hãy khắc phục nó để cơ thể của bạn được bình thường và bạn luôn khỏe mạnh.

    NGỦ MUỘN, NGUY CƠ CỦA NHIỀU BỆNH TẬT

         ★ Từ 21 – 23h là quãng thời gian hệ miễn dịch (bạch cầu lymph) bài độc (đào thải chất độc).

         ★ Từ 23h – 1h sáng là quãng thời gian bài độc của gan, cần tiến hành trong khi ngủ say.

         ★ Từ 1h – 3h sáng là thời gian bài độc của mật, cũng cần thực hiện trong giấc ngủ say

         ★ Từ 3h – 5h sáng là thời gian bài độc của phổi. Cũng chính là lý do tại sao mà người đang mắc bệnh ho lại hay ho dữ dội vào lúc này, bởi hoạt động bài độc đã chạy đến phổi. Vì thế, không nên dùng thuốc chống ho để tránh gây cản trở việc đào thải các chất cặn bã trong người vào lúc này.

         ★ Từ 5h – 7h là khoảng thời gian ruột già bài độc, cho nên cần đi toalet vào lúc này.

         ★ Từ 7h – 9h là lúc ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều nhất, cho nên cần phải ăn sáng. Những người đang phải trị bệnh tốt nhất ăn sớm hơn, từ trước 6h sáng, còn với người ăn dưỡng sinh thì ăn trước 7h sáng. Những người không ăn sáng cần thay đổi thói quen xấu này, dù có đợi đến 9, 10h mới ăn cũng tốt hơn là không ăn.

         ★ Từ nửa đêm cho đến 4h sáng là thời gian tủy sống tạo máu, cần phải ngủ say, không nên thức khuya.

         TÁC-HẠI CỦA VIỆC THỨC KHUYA, NGỦ MUỘN !

         ••• Giảm trí nhớ.

         ••• Uể oải, khó tập trung chú ý vào công việc.

         ••• Ù tai, chóng mặt, mắt mờ.

         ••• Nóng nảy, cáu bẳn (dù có chú ý để tránh nổi nóng thì cũng vô ích, tới lúc nóng là không kiềm chế nổi).

         ••• Đau mỏi cơ, có thể thỉnh thoảng bị chuột rút. Đối với những người tập thể hình thì việc thức khuya sẽ giảm khả năng phục hồi và phát triển của cơ bắp.

         ••• Trung khu thần kinh uể oải thì thần kinh vị giác cũng trì trệ, dẫn tới ăn uống không ngon miệng.

         ••• Da mặt nhợt nhạt, thiếu sinh khí, nhiều dầu, đôi khi sần sùi và nổi mụn, dưới mắt có quầng thâm. Thức khuya ảnh hưởng đến làn da, nhất là da mặt. Thông thường là khoảng từ 10h – 11h tối, da ở trong trạng thái dưỡng và hồi phục. Nếu như thường xuyên thức khuya sẽ làm rối loạn hệ tuần hoàn bình thường của việc trao đổi chất và hệ thống thần kinh, sẽ khiến cho da bị khô, giảm sức đàn hồi, bị sạm và không mịn màng…

         ••• Khô mắt, mỏi mắt, và nếu mắt phải làm việc khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng thì dễ bị giảm thị lực.

         ••• Thức khuya hay ngủ ít có thể dẫn tới nguy cơ tăng cân theo chiều hướng tiêu cực, có thể gây thêm các tác dụng khác là nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp…

         ••• Bên cạnh đó thức khuya trong thời gian dài dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn so với những người không thức khuya.

       Đối với nhiều người giấc ngủ đến thật dễ dàng. Thế nhưng, con số đông còn lại đang phải vật lộn, chiến đấu, thậm chí giành giật để có giấc ngủ ngon đến với mình.

         THEO ĐỒNG HỒ SINH HỌC THÌ

         ★ Trạng thái ngủ từ 0 đến 1 giờ sáng khiến cơ thể được nghỉ ngơi thực sự, giúp tinh thần sảng khoái, dung nhan tươi tắn khi tỉnh dậy. Nên ngủ trước đó tầm 1 hoặc 2 tiếng, để vào tầm thời gian nói trên thì đã chìm vào giấc ngủ sâu.

         ★ Từ 1h tới 5h sáng là lúc cơ thể tiết ra các chất tái sinh và nâng cao hệ miễn dịch. Thức khuya thì rút ngắn hoặc thậm chí làm cơ thể bỏ qua giai đoạn này, lâu dần sẽ suy sụp thấy rõ.

         ★ Trong các giai đoạn ngủ sâu thì cơ thể tiết nhiều hooc-môn để cân bằng và nâng cao sức đề kháng, mà thức khuya thì khiến hoạt động ấy xảy ra chậm và ít hơn.

       Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn có rất nhiều, có loại về lâu dài mới phát tác, có loại thì ngay hôm sau đã có thể phát tác rồi, ví dụ như mắt thâm quầng, mệt mỏi, trí nhớ giảm sút. Thức khuya cũng ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Nên nhớ rằng ban đêm hệ thần kinh giao cảm của con người sẽ nghỉ ngơi, vì ban ngày nó đã hoạt động rất mạnh để giúp con người làm việc và sinh hoạt. Nhưng những người thức khuya thì thần kinh giao cảm vẫn hoạt động mạnh.

       Như vậy, ngày hôm sau chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, sa sút tinh thần, đầu óc căng thẳng, trí nhớ kém, khó tập trung tư tưởng, phản ứng chậm, hay quên, chóng mặt, nhức đầu… Lâu ngày sẽ dẫn đến bị bệnh suy nhược thần kinh.

       Một giấc ngủ ngon là khi thức dậy, bạn cảm thấy hoàn toàn được nghỉ ngơi, tràn đầy năng lượng và vui vẻ. Nếu thường xuyên cảm thấy không thoải mái sau khi thức dậy, bạn nên thử chuyển sang các tư thế ngủ tốt nhất nằm nghiêng về bên phải.

       Hy vọng bài viết này phần nào bạn đã hiểu rõ tác hại của việc thức khuya và hãy khắc phục nó để cơ thể của bạn được bình thường và bạn luôn khỏe mạnh.

         Nguồn: Alobacsi

  • Âm nhạc,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    BAN NHẠC AVT

    Chúc Xuân (Ban AVT Hải Ngoại) Thâu âm: TT Asia 10 – Video 4K: Trần Ngọc A.

    Ban nhạᴄ AVT xuất hiện lần đầu νàᴏ năm 1958, ɡồm 3 nɡhệ sĩ ᴄòn rất trẻ đều là tân binh ᴄủa Tiểu đᴏàn 1 CTCT, tên là Anh Linh (người thành lập) và Vân Sơn νà Tuấn Đănɡ, ᴄhuyên trình bày nhữnɡ bản nhạᴄ νui tươi, lối trình diễn rộn rànɡ νà khuấy độnɡ sân khấu. Họ lấy 3 ᴄhữ đầu ᴄủa tên 3 thành νiên tɾᴏnɡ ban nhạᴄ để ɡhéρ lại thành tên ban nhạᴄ AVT.

    Thời ɡian đó, ban AVT rất đượᴄ yêu thích νà thườnɡ đượᴄ khán ɡiả phònɡ trà yêu ᴄầu hát thêm nhiều nhất, nên thù lao được trả ᴄho họ ᴄũnɡ rất ᴄaᴏ, mỗi nɡười nhận đượᴄ 1000 đồnɡ ᴄhᴏ 1 đêm diễn. Để sᴏ sánh thì được biết thời điểm đó tiền trả ᴄhᴏ “quái kiệt” Tɾần Văn Trạᴄh là 700 đồnɡ.

    Hình ảnh quеn thᴜộc ᴄủa AVT thườnɡ thấy trên sân khấu là họ đều mặc qᴜốc phục νới khăn đónɡ, áᴏ dài, tự đàn ᴄáᴄ lᴏại nhạᴄ khí dân tộᴄ. Tuy nhiên trướᴄ khi sử dụnɡ các lᴏại nhạc cụ truyền thốnɡ đó thì họ dùnɡ nhạᴄ khí Tây phươnɡ: Anh Linh ᴄhơi ɡuitar, Vân Sơn ᴄhơi trốnɡ νà Tuấn Đănɡ sử dụnɡ ᴄᴏntrе-bass.

    Sanɡ thập niên 1960, Ban AVT được Nhạᴄ sĩ Lữ Liên góp phần và phát triển caᴏ hơn để νiết ra nhiều ca khúc thuộc thể lᴏại nhạc mới lạ, ɡọi là nhạc tràᴏ phúnɡ, đượᴄ νiết trên ɡiai điệu nhạᴄ ᴄổ trᴜyền. Từ nhữnɡ bài hát này, ban AVT đã tạᴏ dựnɡ được một trườnɡ phái âm nhạc riênɡ biệt.

    Ca khúc đầu tiên ᴄủa thể lᴏại đó là bài Tam Nɡhiệp, nội dunɡ mô tả 3 ᴄhànɡ Thợ Nhuộm, Thợ Sửa Khóa νà Thầy Bói. Khi AVT manɡ lên tɾình diễn ở rạp Thốnɡ Nhứt, lần đầu tiên khán ɡiả đã đượᴄ thưởnɡ thứᴄ một nhạc phẩm tràᴏ phúnɡ νới nhữnɡ âm điệu ᴄổ truyền quеn thuộᴄ, ᴄùnɡ nhữnɡ lời ca dí dỏm νà nɡhệ thuật trình diễn sốnɡ độnɡ, manɡ lại nhiều tiếnɡ ᴄười.

    Kể từ đó Ban AVT bướᴄ νàᴏ một khúᴄ qᴜanh qᴜan tɾọnɡ, ᴄhᴜyên trình diễn nhữnɡ nhạᴄ phẩm trào phúnɡ, nội dunɡ bài hát ɡần ɡũi νới đời sốnɡ thườnɡ nɡày, đa ρhần là nhữnɡ sánɡ tác của Lữ Liên. Vàᴏ lúc này nhạc sĩ Lữ Liên (cha ᴄủa Tuấn Nɡọᴄ, Khánh Hà…) νẫn chưa ɡia nhậρ AVT, mà ᴄhỉ là nɡười ᴄhuyên sánɡ tác nhạᴄ để ban tam ᴄa hát.

    Từ đầu thập niên 1960, AVT trở thành ban Tam ca ăn kháᴄh nhất trên khắp mọi phươnɡ tiện νà địa điểm biểu diễn, từ đài phát thanh, các phònɡ trà ca nhạc, νũ trườnɡ cũnɡ như ᴄác Đại Nhạᴄ Hội. Có thể nói AVT đã trở thành một hiện tượnɡ trᴏnɡ lànɡ nhạc Miền Nam νới một trườnɡ phái biểu diễn ᴄhưa từnɡ ᴄó trướᴄ đó: hình thứᴄ âm nhạᴄ tràᴏ phúnɡ manɡ lại nhiều tiếnɡ ᴄười ᴄhᴏ khán ɡiả.

    Trᴏnɡ khᴏảnɡ thời ɡian từ 1960 đến 1964, Ban AVT đã đượᴄ 2 hãnɡ dĩa Sónɡ Nhạc νà Hãnɡ Dĩa Việt Nam mời thu đến 20 dĩa nhạc, trình diễn ở nhiều phònɡ trà ca nhạc νà νũ trườnɡ lớn ở Sài Gòn như Qᴜееn Bее, Quốᴄ Tế, Bồnɡ Lai…

    (Nhạc Sĩ Anh Bằng và Phạm Duy cũng viết một số bài cho Ban AVT trình diễn…)

    Từ năm 1966-1967, Ban AVT đã thеᴏ Đᴏàn Văn Nɡhệ Việt Nam ᴄủa nhạc sĩ Hᴏànɡ Thi Thơ làm trưởnɡ đᴏàn đã đi trình diễn tại rất nhiều quốc ɡia như Làᴏ, Campuchеa, Philippinеs, Thái Lan, Sinɡapᴏrе, Malaysia, Nhật Bản… Sanɡ đến năm 1968 thì đᴏàn đi lưu diễn tận các nước Châu Âu như Pháp, Thụy Sĩ, Anh, rồi đến các nước Bắᴄ Phi là Marrocco, Alɡériе, Tunisiе… Nơi nàᴏ AVT cũnɡ ɡặt hái được nhữnɡ thành cônɡ rựᴄ rỡ, đó là thời ɡian cực thịnh của ban nhạc.

    Thánɡ 4 năm 1975theo biến cố lịch sử, ban AVT tan rã. Nhạc sĩ Lữ Liên di tản sang Mỹ và quyết định tái lập ban AVT tại hải ɡồm Lữ Liên, Vũ Huyến νà Nɡọᴄ Bích. Năm 1977, nɡhệ sĩ Trườnɡ Duy thay thế Nɡọᴄ Bíᴄh.

    Năm 1992, nɡhệ sĩ kịch Hᴏànɡ Lᴏnɡ thay thế Vũ Huyến.

    Như νậy 3 nɡh sĩ ui ùnɡ a ban AVT là L Liên, Trườnɡ Duy νà Hànɡ Lnɡ.

    Nɡày 8 thánɡ 7 năm 2012, nhạᴄ sĩ Lữ Liên qua đời ở tuổi 92.

    Nɡày 10 thánɡ 9 năm 2019, nɡhệ sĩ Trườnɡ Duy qua đời ở tuổi 71.

    Và ɡần nhất là nɡày 11 thánɡ 11 năm 2020, nɡhệ sĩ Hᴏànɡ Lᴏnɡ đã qua đời ở tuổi 84.

    Đông Kha

  • Dương Viết Điền,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    THỰC TẬP TOẠ THIỀN

    Bức tượng Ngài Lord Shiva đang tọa thiền theo thế kiết già tại Bangalore ( Hình trích từ Wikipedia).

    Thiền là một phép tu bao la bát ngát, không có biên giới. Mục đích của tu Thiền theo Tỳ Kheo Thích Đức Niệm là “Quay về với nội tâm, trầm tĩnh sống lại với chính lòng mình, biết rõ tâm thức mình biến chuyển qua từng sát na, theo từng nhịp tim bóp thắt, quán chiếu tận suốt cội nguồn tâm thức sinh động thầm kín của dòng sinh mệnh tâm linh”. (Trong bài “Thay Lời Tựa” đăng trong tác phẩm “The Practice of zen” (Thiền Đạo Tu Tập) của Thiền Sư Chang Chien Chi, trang 09). Vì tính chất bất khả lĩnh hội cũng như bản chất bất định của Thiền nên hầu hết cácThiền Sư thường không theo một quy luật nào rõ rệt. Theo Thiền Sư Chang Chien Chi thì “Hình như không có hệ thống có tổ chức nào để theo, mà cũng chẳng có một triết học nào để học. Những mâu thuẫn và tương khắc đầy rẫy khắp mọi nơi. Mặc dầu những điều đó có thể được giải thích bằng cái gọi là luận lý phi- luận lý của Thiền” (Trong “Thiền Đạo Tu Tập” của Thiền Sư Chang Chen Chi, Như Hạnh dịch, trang 25). Vì tính chất mông lung và  siêu việt của Thiền nên Thiền Sư Chang Chien Chi nhấn mạnh rằng “ Có thể giải thích Thiền bằng nhiều cách bởi vì không có “những chỉ thị” nhất định để Thiền tuân theo. Các Thiền Sư vĩ đại hiếm khi tuân theo một khuôn mẫu nhất định nào trong việc tự bày tỏ hoặc trong việc dạy đệ tử họ” (Trong “Thiền Đạo Tu Tập” trang 31). Thiền Sư Chang Chen Chi còn cho biết rằng “ Từ Bồ Đề Đạt Ma tới Huệ Năng và từ Huệ Năng suốt cho tới Lâm Tế và Động Sơn, trọn một thời kỳ gần 400 năm, ta chẳng truy ra được một hệ thống tham Thoại Đầu vững chắc nào cả. Các Thiền Sư xuất chúng của thời đại này là những nghệ sĩ” vĩ đại; giáo lý của các ngài rất linh động và uyển chuyển và không bao giờ tự hạn hẹp vào bất cứ một hệ thống nào cả” (Trong “The Prace of Zen” của Thiền Sư Chang Chien Chi, trang 113).

    Ngài Bồ Đề Đạt Ma đang hành Thiền

    Cũng theo Thiền Sư thì “Ta phải luôn luôn nhớ rằng đa số những người học Thiền ở Đông phương là những tu sĩ đã hiến trọn đời mình để tham thiền. Họ chỉ có một mục đích duy nhất: Giác Ngộ; họ chỉ có một công việc độc nhất trên đời: tu tập Thiền; cuộc sống mà họ sống là cuộc sống giản dị, giới hạnh; và họ chỉ học Thiền bằng một lối duy nhất- bằng cách sống và tu tập với các bậc thầy trong một thời gian rất lâu. Trong những hoàn cảnh này bất cứ lúc nào họ cũng thấy Thiền, nghe Thiền, nếm Thiền, và thậm chí ngửi Thiền nữa “ (Trong The Practice of Zen, của Thiền Sư Chang Chien Chi, trang 87).

    Thiền Sư Chang Chien Chi

    Vì biết mục đích duy nhất của Thiền là Giác Ngộ mà nói đến Giác Ngộ, tất cả mọi người theo đạo Phật ai cũng ước mơ cả. Sở dĩ ai cũng chỉ mơ ước thôi vì tu Thiền để đạt đến Giác Ngộ là một việc làm quá phi thường và rất khó khăn cho con người trong một kiếp người. Tuy nhiên cho dù quá phi thường và quá khó khăn mấy đi nữa, trong quá khứ ta cũng đã thấy có rất nhiều Thiền Sư đã đạt đạo. Nếu không đạt đạo thì tu Thiền cũng mang đến cho ta vô số lợi ích trong cuộc sống hằng ngày như xa lánh dần được tham, sân, si; thấu hiểu được chân lý của Phật giáo để phát huy lòng từ bi ngõ hầu làm vơi bớt đau thương cho tha nhân, cho nhân loại, đang quằn quại dưới vòm trời khổ đau và tang tóc này. Ngoài ra đối với những người không theo đạo Phật, họ vẫn muốn thực tập Thiền để giảm bớt sự căng thẳng (Stress) khi phải tiếp xúc với tha nhân trong cuộc sống hằng ngày. Và bởi yếu tố thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cụ) thường ảnh hưởng đến con người nên người ta muốn tập Thiền để tránh những vui, giận, buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ hay bệnh khủng hoảng thần kinh được chừng nào tâm hồn sẽ thoái mái chừng đó. “Theo bác sĩ Andrew Weil (University of Arizona) thì cách điều hoà hơi thở là cách thức hữu hiệu nhất để chống lại sự âu lo (anxiety) và Stress, và ngay đối với cả những thể loại nặng nhất của bịnh khủng hoảng thần kinh (panic disorder) Vì khi bạn chú tâm vào hơi thở, và thở sâu, chậm, yên lặng và đều đặn thì bạn không thể nào … stress, hay lo âu được. Bởi lẽ rất dễ hiểu là cơ thể bạn không thể nào cùng một lúc làm được những việc trái ngược nhau. Như chúng ta biết, ngược lại với Stress, sự điều hoà hơi thở sẽ làm cho tim đập chậm, giảm huyết áp, làm an tĩnh hệ thần kinh. Khi não bộ không nhận được tín hiệu nguy cơ nữa thì cơ thể trở lại với trạng thái điều hoà, các bộ phận điều tiết những Stress hormone không còn được kích thích cũng sẽ trở về trạng thái bình thường, và cơ thể bạn không nằm trong trạng thái chuẩn bị ứng chiến như ta đã thấy ở trên. Và như thế, bạn vừa…. khóa lại (shut down) những tác hại của Stress. Hiện nay những bịnh viện lớn như Columbia Medical center ở New York city, những bịnh nhân trước khi giải phẩu Tim, đều được mời tham dự những buổi Thiền Meditation. Ở những bịnh nhân có tham gia thiền quán, người ta nhận thấy ít lo âu trước khi mổ, ít mất máu trong khi mổ và hồi phục nhanh hơn sau khi mổ. Điều hòa hơi thở chỉ là một dạng thô thiển nhất của Thiền quán, cần nói thêm là Thiền không chỉ là sự điều hòa hơi thở nhưng nếu bạn biết áp dụng vào đời sống hàng ngày thì ít ra bạn cũng ngăn ngừa hay chận đứng được những tác hại của Stress, tuy bạn chưa đi vào trạng thái Thiền định nhưng bạn cũng đã kiểm soát được mình qua sự điều tức. Khi kiểm soát được hơi thở của mình, cơ thể của bạn là của bạn. Có thể bạn chưa đạt được giải thoát hay Đốn ngộ với sự kiểm soát hơi thở, nhưng ít ra đời sống bạn cũng sẽ được thoải mái hơn và….. ít bịnh tật hơn !!!”

    (Trích từ bài Tác Dụng Của Thiền Và Tress của Hoàng Vũ trong web site http://khoahoc-kythuat.blogspot.com/2013/07/tac-dung-cua-thien-va-stress.html ).

    Vì những lý do đó mà tôi cũng muốn học Thiền và dĩ nhiên để học phương pháp tu Thiền nầy, tôi bắt đầu tìm hiểu những phương thức sơ khởi của Toạ Thiền.

    Nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới cũng đang hành Thiền:

    Bác sĩ Sư Huynh Phạm Gia Cổn, võ sư chưởng Môn Hoàng Hạc, thiền yoga khí công

    Minh tinh màn ảnh, Heather Graham, thực hành Thiền để chống lão hóa
    Các nhà sư đang đứng Thiền tại thác Pongour
    Ngồi Thiền tập thể tại Sri Lanka (Ấn Độ)
    ( Hình trích từ Wikipedia)
    Ngồi Thiền trong Madison Square Park tại Nữu Ước
    ( Hình trích từ Wikipedia)
    Bảo Tháp Giác NgộẤN ĐỘ: 4,000 binh sĩ Vương quốc Anh sẽ thay phiên nhau thiền định tại cây Bồ đề ở Bồ đề Đạo tràng tại Bảo Tháp Giác Ngộ bắt đầu từ tháng 01 năm 2013.
    ( Hình trích từ  www.HoPhap.net )

    Sau khi nghiên cứu một số sách viết về Thiền cũng như nghe những lời hướng dẫn của một số bạn bè, tôi bắt đầu thực tập Toạ Thiền. Điều trước tiên là cách thức ngồi Thiền. Vẫn biết rằng đi đứng nằm ngồi đều Thiền được cả, nhưng ngồi Thiền là vấn đề quan trọng hơn cả. Lúc đầu tôi ngồi theo thế kiết già, chân trái kéo để lên đùi mặt, chân mặt kéo để lên đùi trái. Nhưng rồi tập hoài cũng không được, nhiều khi mới vài phút đã cảm thấy đau lưng.

    Bức tượng Ngài Lord Shiva đang tọa thiền theo thế kiết già tại Bangalore ( Hình trích từ Wikipedia).

    Vì ngồi theo thế kiết già hơi khó khăn nên tôi đổi qua thế bán già. Ngày trước, Ngài Phổ Hiển và Ngài Vân Thù thường toạ Thiền theo thế bán già. Ngài Phổ Hiển toạ Thiền với thế chân trái để lên đùi mặt, Ngài Vân Thù toạ Thiền với chân mặt để lên đùi trái. Tôi đã thực tập cả hai thế trên, cuối cùng tôi thấy thế ngồi chân mặt để lên đùi trái thuận tiện hơn đối với tôi nên tôi quyết định toạ thiền theo thế này luôn. Các Thiền Sư thường khuyên chúng ta khi ngồi, lưng phải thật thẳng. Đầu phải nhìn thẳng phía trước. “Khi chư vị ngồi Thiền, tuyệt đối không nên để thoại đầu lên cao quá, vì vậy hẵn sẽ bị hôn trầm. Cũng không được để ngang trên ngực, nếu để nơi ngực, thế nào nơi ngực cũng bị đau. Cũng không nên đè nó xuống thấp, làm vậy sẽ bị đau bụng, hoặc rơi vào âm cảnh, phát sinh ra nhiều bệnh tật. Chỉ cần giữ tâm bình lặng, hơi thở điều hoà, nhẹ nhàng quán chữ “ai” như gà ấp trứng, như mèo rình chuột. Khi quán chiếu đắc lực, mệnh căn tất nhiên đứt đoạn” (Trong Thiền Đạo Tu Tập (The Practice of Zen) của Thiền Sư Chang Chen-Chi, trang139).

    Sau khi chọn được thế ngồi thích hợp, tôi bắt đầu tập thở. Vấn đề hơi thở lúc toạ Thiền rất nhiều sách đề câp đến. Có sách dạy rằng “Dùng miệng thở hơi ô trược ra, khi thở há miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, thở thật dài và sạch, hơi ra tưởng như tất cả những phiền não bệnh hoạn theo hơi thở ra ngoài hết. Ngậm miệng lại dùng mũi hít hơi vào, dài nhẹ và thật đầy, hơi vô tưởng không khí trong sạch vào khắp châu thân. Như thế ba lần. Thở xong ngậm miệng lại, môi và răng vừa kề nhau, lưỡi để lên trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều nhẹ nhẹ mà dài. Thân ngồi ngay thẳng như cột trụ, dù có ngứa ngáy cũng không cựa động, nhức mỏi cũng gan dạ chịu đựng đúng giờ mới xả.” (Trong “Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20”, trang 114-115, tái bản lần thứ II). Một sách khác hướng dẫn rằng: “Khi bắt đầu tập thở bụng, ta thở ra thật dài vài lần bằng mũi, bụng thót vào, cố gắng thở ra cho hết khí trong phế nang, cần làm cho phổi trống (giống như ta bóp miếng sponge rửa chén cho hết bọt sà phòng khi rửa chén). Khi nín lại thì phản xạ tự nhiên là cần phải hít sâu vào nhiều hơn cảm thấy như đầy ngực đầy bụng (giống như miếng sponge sau khi bóp cho hết chất xà phòng dơ rồi buông ra trong nước sạch, tự nhiên hút nước sạch vào). Cũng vậy, sau khi chu kỳ thở ra thật dài thì tự động khí sạch sẽ vào đầy ngực đầy bụng. Như vậy có thể nói thở ra là phần chủ động và hít vào là phần thụ động. Càng thở ra thật nhiều, thật sâu có nghĩa là đưa hết khí dơ (CO2) trong phế nang ra thì càng được vào nhiều khí sạch, trong lành. Như vậy thở ra sẽ quyết định cho việc hít vào.   


    Chú ý là khi thở ra hay hít vào, ta cần phải giữ hơi thở (nín thở) một vài giây tuỳ theo sức, ta sẽ nhận thấy bộ máy hô hấp lúc đó tự nó chuẩn bị phát động. Lúc đó giản mềm các cơ bụng để cho hô hấp tự phát. Khí thở ra bụng thót vào, khí hít vào phổi bụng tự phình lên. Tóm lại trong phương pháp thở bụng, thở ra là chính và là động tác chủ động, còn hít vào phình bụng ra là động tác thụ động.” (Trích từ bài “ Luyện khí công tập bụng” của một tác giả trên mạng.).

    Một sách khác lại chỉ dạy như sau: “Đối với người mới tập, tư thế nằm ngửa rất thuận lợi. Phải để ý là không nên thở dài đến mức tối đa. Làm như thế có thể nguy hiểm cho phổi, nhất là trong trường hợp phổi yếu vì chưa bao giờ biết tập thở. Ban đầu người hành giả nên nằm xuống, hai tay xuôi theo hai chân, đầu không gối, trên một mặt phẳng hay hơn là trên nệm. Buông thả tay chân cho thư thái. Thở vài hơi tự nhiên rồi khởi sự chú ý đến hơi thở ra, xem nó dài bao nhiêu. Có thể đếm thầm trong trí: một, hai, ba, v.v…Sau vài lần như thế, ta biết được “chiều dài” của hơi thở ra; ví dụ chiều dài ấy là 5. Bây giờ ta dự tính thêm vào 1 hay 2 nữa để cho hơi thở ra của ta dài tới 6 hay 7. Thế là lần này khi thở ra, ta bắt đầu đếm từ một đến 5, thay vì chuẩn bị thở vào, ta cứ tiếp tục thở ra thêm 1 hay 2, đếm tiếp là 6,7. Như vậy có nghĩa là ta đem thêm không khí dơ trong phổi ra ngoài. Xong rồi ta buông thả, để hai phổi ta tự động đưa không khí trong lành vào.” (Trong “Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức”, trang 34, 35, 36, in lần thứ 10).

    Riêng Thiền Sư Sogyal Rinpoche, Ngài lại hướng dẫn phương thức khác; “ Vậy khi Thiền định, bạn hãy thở tự nhiên, như thường ngày bạn thở. Tập trung sự chú ý của bạn vào hơi thở ra. Khi thở ra bạn hãy buông ra theo hơi thở. Tưởng tượng hơi thở bạn tan vào trong khoảng không bao la của chân lý. Mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ thấy có môt khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đã tan biến. Hãy an trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy. Và khi tự nhiên bạn thở vào, thì đừng chú ý hơi thở vào, mà cứ tiếp tục an trú tâm nơi khoảng hở đã mở ra ấy.”  (Trong tác phẩm “Đưa Tâm Về Nhà”, trang 37). Ngài còn nhấn mạnh: “Đừng quá tập trung vào hơi thở, chỉ để cho nó chừng 25 phần trăm, còn 75 phần trăm thì bạn hãy buông xả một cách lặng lẽ bao la. Càng chánh niệm về hơi thở, bạn càng tỉnh thức về chính mình, gom lại những mảnh vụn phân tán của bạn thành một nhất thể, tính nhị nguyên và ngăn cách tan biến. Tuy nhiên, có nhiều người không được thoải mái với pháp quán hơi thở, họ còn thấy gần như bị ngộp.”

    (Trong tác phẩm “Đưa Tâm Về Nhà”, trang 38).

    Thêm một vài hướng dẫn khác về hơi thở lúc ngồi Thiền của Thiền Sư Tây Tạng Geshe Kelsang Gyatso như sau (Trích từ Wikipedia):

    “When we have settled down comfortably on our meditation seat we begin by becoming aware of the thoughts and distractions that are arising in our mind. Then we gently turn our attention to our breath, letting its rhythm remain normal. As we breathe out we imagine that we are breathing away all disturbing thoughts and distractions in the form of black smoke that vanishes in space. As we breathe in we imagine that we are breathing in all the blessings and inspiration of the holy beings in the form of white light that enters our body and absorbs into our heart. We maintain this visualization single-pointedly with each inhalation and exhalation for twenty-one rounds, or until our mind has become peaceful and alert. If we concentrate on our breathing in this way, negative thoughts and distractions will temporarily disappear because we cannot concentrate on more than one object at a time. At the conclusion of our breathing meditation, we should think `Now I have received the blessings and inspiration of all the holy beings.’ At this stage our mind is like a clean white cloth which we can now colour with a virtuous motivation such as compassion or bodhichitta.”

    Thiền Sư Tây Tạng Geshe Kelsang Gyatso

    Tạm dịch:

    “Sau khi đã ổn định chỗ ngồi để toạ Thiền, chúng ta bắt đầu tập trung tư tưởng. Sau đó chúng ta để ý đến hơi thở và để cho nhịp thở ra vào bình thường. Khi thở ra, chúng ta cứ tưởng tượng là chúng ta đang thở ra ngoài những vọng tưởng, như là làn khói đen, sẽ biến mất trong khoảng không. Khi hít vào, chúng ta cũng tưởng tượng rằng chúng ta đang hít vào những hồng ân và những cảm hứng của những sinh vật thiêng liêng dưới hình thức là ngọn bạch quang và chính luồng bạch quang này xuyên vào trong cơ thể ta và thấm dần vào trong tim ta. Chúng ta cần duy trì sự tưởng tượng về hình ảnh nầy mỗi lần thở ra hay hít vào cho đến khi ta cảm thấy tâm rí đã an bình. Nếu chúng ta tập trung vào hơi thở theo phương thức này, những tư tưởng tiêu cực tạm thời sẽ biến mất vì chúng ta không thể tập trung hơn một đối tượng cùng một lúc. Để kết luận về hơi thở lúc toạ Thiền, chúng ta nên nghĩ rằng “Bây giờ, tôi đã nhận được những hồng ân và phước lành từ những đấng linh thiêng”. Ở giai đoạn này, tâm trí tôi giống hệt như tấm vải trắng tinh mà chúng ta có thể biến thành màu sắc đức hạnh như là lòng trắc ẩn và từ bi.”

    Nhưng theo Trưởng Lão Thích Thông Lạc trong các trang mạng sau đây:

    Nguồn sách:

    http://www.nguyenthuychonnhu.net/ebooks/NhungLoiGocPhatDay-1.pdf

    Bài: http://www.nguyenthuychonnhu.net/index.php/bdt/310-pxdcptt

    thì Trưởng Lão  Thích  Thông Lạc nhắc đến lời dạy của Đức Phật sau đây rất quan trọng:

    1- Nhất tâm là định.

    2- Bốn niệm xứ là định tưởng.

    3- Bốn tinh cần là định tư cụ.

    4- Sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy.

    5- Thở vô và thở ra là thân hành.

    6- Tầm tứ là khẩu hành.

    7- Tưởng thọ là tâm hành.

    Và căn cứ những chân lý bất biến trên, Trưởng Lão Thích Thông Lạc có những nhận xét khác biệt với hầu hết các Thiền Sư về hơi thở như sau:

    “Ví dụ ngồi tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở, nếu cứ mãi lo tập trung trong hơi thở thì bị ức chế tâm.Cho nên khi tu Ðịnh Niệm Hơi Thở mà quan sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp nếu có một chướng ngại pháp nào hiện đến trong bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì khắc phục, đẩy lui như trong kinh Tứ Niệm Xứ đã dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu, trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu, trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu và trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Nhưng khi bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp không có chướng ngại pháp thì tâm ở đâu? – Tâm ở tại hơi thở. Tâm ở tại hơi thở mà không bắt buộc tâm bám vào hơi thở. Tâm định trên niệm của hơi thở, tức là không ức chế tâm vào hơi thở. Nên trong kinh Nguyên Thủy, Phật gọi là “Ðịnh Niệm Hơi Thở” chứ không gọi là “Quán Niệm Hơi Thở”, vì Quán Niệm Hơi Thở tức là ức chế tâm bám vào hơi thở. (Còn cứ ĐỂ TÂM TỰ NHIÊN BIẾT HƠI THỞ RA VÔ, mới gọi là ĐỊNH). Chúng ta nên đọc lại bài kinh “Nhập Tức Xuất Tức” trong kinh Nguyên Thủy: “Quán ly tham, tôi biết, tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết, tôi thở ra”. Chữ “Quán” ở đây có nghĩa là xả tâm: “Quán xét tâm để tâm không còn tham, sân, si nữa thì tâm sẽ biết hơi thở hít vô. Quán xét tâm để tâm không còn tham, sân, si nữa thì tâm sẽ biết hơi thở thở ra”. Chứ không phải “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là cách thức tu tập ức chế tâm để tỉnh thức, chứ không phải xả tâm.”

    Ngoài việc thực tập theo sách vở tôi cũng thực tập theo lời chỉ dẫn trực tiếp của bạn bè. Người bạn chỉ dẫn cho tôi đó là anh Trần Văn Cát, cựu Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt, người bạn tù thân nhất của tôi trong trại tù tại trại Ái Tử và Bình Điền mà tôi đã dành riêng nửa chương để viết về anh trong Hồi Ký Trại Ái Tử Và Bình Điền của tôi xuất bản năm 1993. Anh Trần Văn Cát đi tu đã 25 năm rồi sau khi ra khỏi tù được vài năm. Lúc đầu anh tu trên một ngọn núi ở tỉnh Tuy Hoà. Sau khi qua Mỹ theo diện HO, anh chỉ tu tại gia và đang ở tại tiểu bang Massachusetts. Thỉnh thoảng tôi điện thoại thăm anh ấy và mỗi lần gặp anh, anh thường giảng về Phật Pháp cho tôi nghe. Khi nào cần bộ kinh gì để nghiên cứu, anh nhờ tôi lên các chùa thỉnh về rồi gởi cho anh ta. Riêng về vấn đề thở trong lúc tọa Thiền, anh Cát hướng dẫn cho tôi rằng, khi hít vào thì đọc thầm trong miệng hai chữ NAM MÔ, khi thở ra thì đọc bốn chữ A-DI -ĐÀ- PHẬT. Hơi thở cũng từ từ, thong thả, lúc hít vào cũng như lúc thở ra. Rồi cứ như thế mà tiếp tục vừa thở ra hít vào vừa niệm 6 chữ A-DI-ĐÀ-PHẬT.

    Tạm dẫn chứng một số phương thức nói trên, tôi thấy nhìn chung các vị Thiền Sư cũng như bạn bè đều dạy bảo phương pháp toạ thiền tương đối giống nhau nhưng riêng vấn đề hơi thở, tôi thấy các Thiền Sư đều nói chung chung về lượng không khí mà ta thở ra và hít vào. Thiền Sư này thì nhấn mạnh rằng thở “đừng mạnh cũng đừng gấp, thở thật dài và sạch”. Thiền Sư khác lại dạy rằng “Phải để ý là không nên thở dài đến mức tối đa. Làm như thế có thể nguy hiểm cho phổi.” hay “Thở vài hơi tự nhiên rồi khởi sự chú ý đến hơi thở ra, xem nó dài bao nhiêu. Có thể đếm thầm trong trí: một, hai, ba,v..v…Sau vài lần như thế, ta biết được “chiều dài” của hơi thở ra”. Riêng Thiền Sư Sogyal Rinpoche ngài lại bảo“Đừng quá tập trung vào hơi thở, chỉ để cho nó chừng 25 phần trăm, còn 75 phần trăm thì bạn hãy buông xả một cách lặng lẽ bao la”.

    Thiền Sư Sogyal Rinpoche

    Xem thế, thật là khó khăn khi chúng ta muốn lúc hít vào và lúc thở ra, những động tác này phải được đều đặn, đồng bộ. Như thế rõ ràng lần hít thở nầy khác hẳn với lần hít thở khác về số lượng không khí đưa vào và đẩy ra khỏi phổi. Sự không đồng đều này nhiều khi làm cho phổi bị mệt lúc hít vào, thở ra. Vã lại, đo “chiều dài” hơi thở là cả một vấn đề khó khăn, phức tạp, thực hiện có tính cách tương đối thôi.  Vì vậy, sau khi thực tập theo những phương pháp do các Thiền Sư dạy bảo, tôi thấy khó thích ứng với những phương pháp này. Vì thế tôi tự nghĩ ra một phương pháp riêng của tôi để khi hít vào và lúc thở ra, tôi sẽ tiếp nhận một số lượng không khí tương đối giống nhau cho mỗi lần hít thở. Đó là thở theo nhịp điệu của âm nhạc. Tôi nghĩ rằng lúc hít vào, không khí sẽ di chuyển bao nhiêu trường canh (measure) rồi dừng lại. Sau đó lúc thở ra, không khí cũng sẽ di chuyển bao nhiêu trường canh rồi phải dừng lại. Làm như vậy số lượng không khí lúc hít vào sẽ bằng nhau, và số lượng khí carbonic thải ra cũng bằng nhau. Động tác thở theo nhạc này làm cho phổi hít thở được đều đặn và phổi khỏi bị mệt. Nếu hành giả nào không chịu thở cho đúng nhịp sẽ làm cho số lượng không khí vào ra không đều khiến phổi bị mệt, hành giả ấy xem như bỏ cuộc (giống như ca sĩ hát sai nhịp sẽ coi như bị loại vậy).

    Sau đây là một đoạn nhạc tôi sáng tác để ứng dụng cho nhịp thở:

    • Khuông nhạc thứ nhất ứng dụng lúc hít vào.
    • Khuông nhạc thứ hai ứng dụng lúc thở ra.
    • Hai khuông nhạc kế tiếp là sự nối tiếp hơi thở ( giống như hai khuông nhạc trên)

    Lúc hít vào, ta bắt đầu đếm thầm các số 123456 trong miệng giống như đang hát vậy. Vì giống như ca sĩ đang hát, hết trường canh nầy ta sang trường canh khác nên số lượng không khí lúc hít vào hay thở ra rất đều đặn.  Hít vào làm sao lúc ngang số 6 là phổi đã đầy không khí rồi. Sang trường canh thứ tư thì phải ngưng hít vào để nghỉ một thời gian hai nhịp (tôi để dấu lặng trắng).

    Sau khi ngưng hít vào hai nhịp ở trường canh thứ tư xong, ta bắt đầu thở ra ở trường canh thứ nhất của khuông nhạc thứ hai ngay và cứ thế ta đếm thầm trong miệng như hát 12345678. Khi thở ra đến số 6 ở trường canh thứ 3 của khuông nhạc thứ hai là lúc ta đẩy hết không khí trong phổi ra xong. Sở dĩ lúc thở ra ở trường canh thứ tư tôi cũng để một dấu lặng trắng vì theo Thiền Sư Sogyal Rinpoche, “mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ thấy có một khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đã tan biến. Hãy an trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy.” Nghĩa là Ngài bảo rằng lúc thở hết hơi trong phổi ra rồi, sẽ có một khoảng thời gian nghỉ rất ngắn trước khi hít không khí vào phổi lại. Và cứ thế vừa thở ra xong ta lại bắt đầu hít vào ở khuông nhạc thứ ba rồi tiếp tục như thế hít vào thở ra lúc toạ Thiền. Nhờ phương pháp này mà thể tích không khí vào ra trong buồng phổi tương đối đều đặn giống nhau, không làm cho phổi bị mệt. Dĩ nhiên lúc thở ra hay hít vào phải từ từ giống như ca sĩ hát phải từ từ để cho đúng nhịp. Đối với phương pháp này tôi phải lấy máy đánh nhịp Metronome của nhà sáng chế Johann Maelzel, chế tạo năm 1815, ngõ hầu đưa ra một số lượng tiếng gõ nhịp thật chậm để tôi theo đó mà thở cho thong thả. Thực tập thở theo phương pháp này, tôi tạm thử lấy số lượng tiếng gõ của máy Metronome trung bình là: Allegro M.M.  = 180. Trong mấy khuông nhạc, tôi để tượng trưng mấy gạch dọc cho có vẻ là những nốt nhạc thôi chứ không ghi nốt nhạc nào cả. Cuối đoạn nhạc tôi không viết hai vạch nhạc để chấm dứt, vì còn thở ra hít vào liên tục. Nếu tôi để hai vạch sổ dọc như tất cả những bản nhạc để chấm dứt theo luật sáng tác, thì một số hành giả nếu tập theo phương pháp này sẽ ngưng thở giống như ngưng hát ngay.

    Vẫn biết rằng vì luôn suy nghĩ đến nhịp điệu của hơi thở nên tâm bị phân tán nhưng theo Thiền sư Osho, cần phải có những kỷ thuật trước để loại khỏi những chướng ngại trước khi Thiền, nên tôi vẫn tập theo cách thở của tôi xem sao; mặc dầu Ngài Krisnamurti không chấp nhận phải có phương pháp kỷ thuật trước vì sẽ cản trở việc nhập Thiền. Và cứ thế tôi thực tập thường xuyên ngày này qua ngày khác. Thường thì sau mỗi lần ngồi Thiền, các hành giả thường cử động chân tay qua lại cho máu lưu thông vì lúc ngồi Thiền bất động, máu trong cơ thể không được luân lưu đều đặn. Riêng tôi, cứ mỗi lần sau thời gian tọa Thiền xong, tôi thường bấm hay thoa mạnh vào các huyệt đạo để đả thông kinh mạch cho máu lưu thông trở lại. Trên đầu thì tôi thoa huyệt Bách hội, tiếp theo tôi vò hai cái tai. Vì trong khoa Nhĩ Châm, trên vành tai đều có tất cả các huyệt đạo để chữa bệnh cho lục phủ ngũ tạng. Kế đến, tôi dùng bàn tay thoa vào trán và mặt vì trong khoa Diện Châm, trên mặt cũng có tất cả các huyệt để chữa bệnh như khoa Nhĩ Châm vậy. Tuy nhiên nhiều khi tôi chỉ thoa vào huyệt Ấn Đường ở trán, các huyệt Tinh Minh, Toán Trúc ở mắt, hai huyệt Nghinh Hương ở hai bên mũi mà thôi. Sau đó tôi tiếp tục thoa vào hai cánh tay để làm cho máu ở hai tay lưu thông đều đặn trở lại. Nhưng thường thì tôi hay ấn vào ba huyệt tương đối quan trọng của đường kinh Thủ Dương Minh Đại Trường là huyệt Kiên Ngung, Khúc Trì và Hiệp Cốc là đủ. Tiếp theo, tôi thoa mạnh hai bàn tay vài chục giây vì trên mu bàn tay cũng như trong lòng bàn tay, có rất nhiều huyệt đạo. Riêng đối với bắp đùi, cẳng chân, khi thì tôi thoa mạnh khi thì tôi bấm vào các huyệt Hoàn Khiêu, Phong Thị của đường kinh Thiếu Dương Đởm, rồi các huyệt Độc Tỷ, Túc Tam Lý, Phong Long của đường kinh Túc Dương Minh Vị thì máu cũng lưu thông. Vì trong thời gian đang còn thực tập nên chưa dám suy tư về những tư tưởng cao siêu để đạt đến giác ngộ. Mà chỉ cố gắng làm sao tập thở cho đúng phương pháp tọa Thiền do các Thiền sư để lại trong sách vở mà thôi. Ngoài những vấn đề liên quan đến cách ngồi, cách thở, lúc toạ Thiền thường gặp một số trở ngại khác làm cho việc hành Thiền không có kết quả, hay lắm lúc phải vất vả lắm mới hành Thiền được. Theo Ngài Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

    Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14.

    Ngài Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14.

    thì “Kinh điển Phật giáo đề cập đến 4 loại trở ngại chính, một Thiền giả phải vượt qua để đi tới mức thành công. Thứ nhất là các vọng tâm hay những tư tưởng tán loạn khởi lên trên bình diện thô thiển của tâm thức làm cho ta không thể định tâm được. Loại thứ hai là sự buồn chán, hôn trầm khiến cho thiền giả ngủ gục. Loại thứ ba là sự buông lung, giải đãi, tâm ta không giữ được sự tinh tường sáng sủa. Cuối cùng vi tế hơn, đó là sự lăng xăng, khích động bắt nguồn từ bản chất dễ lay động của tâm.” (Trong tác phẩm “Transforming the mind” Chuyển hoá tâm) của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Chân Huyền dịch, trang 21). Vì mới thực tập hành Thiền nên tôi gặp trở ngại này thường xuyên và đang tìm cách vượt qua. Để vượt qua những trở ngại này Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 khuyên chúng ta: “Trong 4 loại trở ngại của Thiền tập, hai loại chính là sự tán loạn và buông lung. Chúng ta phải đối phó với 4 thứ chướng ngại này ra sao? Tâm buồn chán hôn trầm thường liên quan tới tình trạng sức khoẻ của cơ thể, như thiếu ngủ chẳng hạn thường làm cho chúng ta hôn trầm. Khi ăn uống không thích hợp với tình trạng cơ thể hoặc ăn nhiều quá, ta cũng dễ bị buồn nản. Đó là lý do các vị tăng sĩ trong tu viện Phật giáo thường được khuyên không nên ăn quá ngọ (sau bữa trưa). Giữ giới này, các tăng ni có thể giữ được đầu óc tỉnh táo phần nào khi hành thiền, và tâm trí cũng sáng suốt hơn khi thức dậy buổi sớm hôm sau. Thói quen ăn uống đúng phép có ảnh hưởng rất tốt để chống lại sự hôn trầm, buồn nản. Đối với tâm buông lung giải đãi, người ta cho rằng sở dĩ Thiền giả bị như vậy vì họ thiếu năng lượng khi hành Thiền, khiến cho họ không giữ được tỉnh thức. Khi gặp chướng ngại này, ta cần làm sao để cho tinh thần được phấn chấn. Một trong các phương cách tốt nhất là ta nên nuôi dưỡng sự lạc quan vui vẻ khi nghĩ tới những thành quả của các việc thiện ta đã làm được trong đời v v…Đó là một thứ đối trị được với tâm buông lung giải đãi.” (Trong tác phẩm “Chuyển hoá tâm” của Đức Đạt Lai lạt Ma tứ 14, trang 23).

    Ngoài việc tập tọa Thiền ở nhà, mỗi lần vào bơi trong hồ bơi của Bally Gym Center, tôi cũng ngồi tập tập trung tư tưởng như phương pháp Thiền luôn. Mỗi lần dầm mình trong nước nóng, nước ấm thì đúng hơn, trong spa, tôi thường chỉ ngâm mình khoảng 20 phút thôi. Vì nếu ngâm lâu quá sẽ làm cho cơ thể nóng lên không tốt cho sức khoẻ. Trong thời gian ngâm mình trong nước nóng, tôi ngồi trên băng ghế dài bằng đá nằm dưới nước rồi dựa lưng vào thành bờ hồ. Tôi cũng ngồi theo thế bán già, hai tay để úp vào đầu gối, rồi bắt đầu tập trung tư tưởng. Có lần lúc bắt đầu ngồi tập trung tư tưởng, tôi nhìn đồng hồ treo trên tường trước mặt là 4:00 giờ chiều. Tôi liền nhắm mắt để thực tập bất chấp cả nước nóng đang sôi kêu lùng bùng quanh cơ thể mình và nước sủi bọt lên chung quanh ngực mình. Vì nước nóng sủi bọt lên tạo thành những gợn sóng, và hai vòi nước phun ra phía sau lưng tôi từ từ đẩy nhẹ cơ thể tôi ra khỏi chỗ ngồi, khiến tôi trở thành một vật của nguyên lý Archimedes làm tôi tỉnh dậy vì sắp chìm dưới đáy hồ. Mở mắt ra, tôi thấy một ông Mỹ già ngồi ngâm nước nóng bên phải tôi cách tôi khoảng một thước, trước mặt tôi một ông già có vẻ người Trung Đông cũng đang ngồi ngâm nước nóng dựa lưng vào bờ thành. Hai ông già này xuống ngâm nước trong spa bên cạnh tôi lúc nào tôi cũng chẳng hay biết, vì lúc tôi xuống ngâm nước rồi bắt đầu tập trung tư tưởng, trong spa chỉ có một mình tôi thôi. Nhìn đồng hồ trên tường tôi thấy kim dài chỉ con số10. Điều này chứng tỏ trong thời gian 10 phút đó tôi ngồi Thiền trong nước nóng đang sủi bọt quanh tôi mà tôi chẳng biết gì chung quanh cả. Thế rồi tôi tự nhủ thầm rằng, đang thực tập ngồi tập trung tư tưởng như vậy là khá lắm rồi, nhưng tiếc rằng chỉ được có 10 phút thôi. Khi tôi mở mắt ra, hai ông già nói trên nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên vì thấy tôi vừa ngồi ở một tư thế như tư thế của một người tập Yoga. Có lẽ hai ông già ấy nghĩ rằng tập yoga mà lại tập ngồi trong nước nóng sủi bọt như đang sôi? Chuyện khó tin nhưng lại có thật vì đang xảy ra trước mắt họ!

    Hết tập ngồi tập trung tư tưởng trong spa tôi lại tập ngồi tập trung tư tưởng trong phòng tắm hơi (Steam room). Thường mỗi khi tắm hơi tôi chỉ ngồi khoảng 7 phút thôi, lâu lắm là 10 phút. Riêng trong phòng sauna, tôi chỉ ngồi 15 phút như chỉ thị treo trên tường trước cửa vào phòng. Bởi vì nếu ngồi lâu hơn mồ hôi sẽ ra nhiều quá đưa đến tình trạng mất nước trong cơ thể, dễ sinh bệnh (Đông y gọi là âm hư). Dĩ nhiên ngồi trong phòng tắm hơi giống như ngồi xông hơi trong mền lúc bị cảm cúm vậy. Hơi nóng toả ra khắp phòng rồi nhỏ từng giọt nước rất nóng. Mồ hôi ra như tắm. Lúc vào phòng tắm hơi mọi người thường im lặng nhiều hơn là nói chuyện. Đó là lý do tại sao tôi muốn thực tập tập trung tư tưởng ngay cả trong phòng tắm hơi và cũng để thử thách xem mình ngồi chịu đựng trong hơi nóng được bao lâu. Có lần tôi ngồi tập trung tư tưởng một mình trong phòng, mắt lim dim. Tôi cố gắng không để ý gì trong phòng cả, nhưng rồi vẫn cảm nhận được mồ hôi toát ra trên lưng, trên cơ thể; cảm nhận được hơi nóng đang toả ra khắp phòng. Nếu so với sức nóng của nước trong spa thì hơi nóng trong phòng tắm hơi nóng hơn nhiều, có thể gấp đôi, gấp ba; nhất là lúc máy bắt đầu chạy để cho hơi nóng toả ra giữa phòng. Bỗng nghe một tiếng ho làm tôi “tĩnh mộng”. Tôi liền mở mắt ra thì thấy một Ông Mỹ già khoảng 75 tuổi bước vào phòng để xông hơi. Bước ra khỏi phòng nhìn đồng hồ treo trên tường, tôi thấy mới ngồi tập trung tư tưởng được khoảng 7 phút thôi. Ngồi tập trung tư tưởng được bảy phút trong phòng tắm hơi lúc hơi nóng đang toả ra mà không biết gì xảy ra quanh mình là cả một vấn đề trong thời gian mới thực tập! Dĩ nhiên trong thời gian ngồi thực tập tập trung tư tưởng trong spa cũng như trong phòng tắm hơi the steam room, sauna), tôi không bao giờ hít ra thở vào theo phương pháp đếm hơi thở lúc hành Thiền; vì hai địa điểm này hơi nóng toả ra quá nhiều nếu hít hơi vào sẽ rất nguy hiểm cho phổi và dễ bị sặc ngay. Cũng như không đọc kinh hay nghĩ gì liên quan đến Phật pháp vì nơi đây là những địa điểm không được trong sạch cho lắm, mà chỉ ngồi tập trung tư tưởng thì đúng hơn, và suy nghĩ đến một vấn đề nào đó hay đếm từ số 1 đến số 10 rồi đếm ngược lại. Mục đích chỉ là xem cơ thể mình chịu đựng sức nóng ra sao lúc ngồi tập trung tư tưởng và quên đi ngoại cảnh xung quanh mình. Lợi dụng lúc ngồi tập trung tư tưởng trong phòng này, ta nên ngồi thật thẳng lưng rồi cho lưng dựa sát vào tường. Lúc mới dựa vào, da lưng cảm thấy rất nóng. Tuy nhiên nếu để yên như thế khoảng vài dây sau, da sẽ quen và chịu đựng được hơi nóng ngay. Để lưng dựa sát vào tường rất lợi ở chỗ trên lưng, có hai dãy huyệt của Bàng Quang Kinh nằm trên hai đường thẳng song song và đối xứng với xương sống chạy từ hai vai xuống hai mông. Hai dãy huyệt này có thể chữa tất cả các bệnh của cơ thể; đặc biệt là lục phủ và ngũ tạng tâm, can, tỳ, phế, thận vì trên hai dãy huyệt nầy có các huyệt tâm du, can du, tỳ du, phế du, thận du. Vì thế nên khi lưng nóng lên, các huyệt này cũng sẽ nóng lên xem như đang được châm cứu nên kinh mạch trong cơ thể được đả thông, khiến cơ thể cảm thấy sảng khoái lên.

    Nói chung, trong thời gian tập Thiền, tôi luôn luôn tập bất cứ lúc nào và nơi nào tôi có thể thực hành được là tôi tập. Từ trong nhà, sau vườn dưới cây cam, trong spa, trong phòng tắm hơi (steam room, sauna) của Bally Gym Center. Khi thì tôi đứng Thiền, khi thì ngồi Thiền, thỉnh thoảng cũng nằm Thiền nữa. Vì đang thực tập Thiền nên tôi tập tổng hợp theo nhiều phái khác nhau để thử nghiệm và theo Thiền sư Osho, đi, đứng, nằm ngồi đều Thiền được cả.

    Và sau khi cảm thấy thực tập được vững vàng, tôi sẽ bắt đầu hành Thiền thật sự.

    Dương viết Điền, California, ngày 04 tháng 09 năm 2012

    Tác giả đang thực tập tọa Thiền dưới cây cam sau vườn