• Dương Viết Điền,  Văn Thơ,  Viết Về MẸ

    NHỚ MẸ QUA THI CA VIỆT NAM

    Từ cổ chí kim từ đông sang tây khi nói đến người mẹ, tất cả mọi người ai ai cũng đều kính trọng, mến yêu rồi nhớ nhung chất ngất dù lúc ấy ta đang ở nơi chân bể hay góc trời, nơi rừng thiêng hay đồng nội.

    Bởi vì trong suốt thời gian kể từ khi mang thai cho đến lúc lâm bồn, người mẹ đã phải chịu đựng rất nhiều khổ đau. Nào là mang nặng đi đứng khó khăn trong mấy tháng trời. Nào là đau đớn quằn quại trong thời gian sinh đẻ. Sau khi đứa bé ra chào đời rồi người mẹ bắt đầu phải thức khuya dậy sớm, lắm lúc thức trắng nhiều đêm triền miên mất ngủ để chăm sóc đứa con. Đã thế, nhiều lúc con cái bị đau ốm, người mẹ luôn luôn nằm thường trực bên cạnh, lấy thuốc cho con uống, mong sao con chóng bình phục. Nếu rủi ro gặp chuyện bất trắc xảy ra như con thở quá yếu hay bị sốt quá cao đưa đến co giật, người mẹ tái mặt run sợ, tim như thắt lại, trong lòng quằn quại khổ đau.

    Đến khi con cái bắt đầu chạy nhảy khôn lớn, người mẹ phải tìm cách kiếm kế sinh nhai, nuôi con ăn học. Thế rồi để có đủ tiền nuôi nấng con cái, người mẹ phải dấn thân vào đời, dầm mưa dãi nắng, một nắng hai sương, thức khuya dậy sớm, buôn bán tảo tần, làm lụng vất vả để kiếm cho đươc đồng tiền bát gạo mà trang trải trong gia đình. Lắm lúc người mẹ nhường cơm cho con ăn dù bụng đang đói cồn cào, nhường áo cho con mặc dù trời đang rét căm căm. Sự hy sinh cao cả vô bờ bến đó khiến lòng người thường xuyên xúc động. Thương xót triền miên, chạnh lòng nhớ mẹ, nhạc sĩ Y Vân đã rung động con tim mà sáng tác nên bản nhạc “Lòng mẹ” với nội dung và giai điệu thật tuyêt vời: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu…”. Vì biết lòng mẹ bao la như biển cả, tình mẹ chan chứa tình thương vô biên nên nhà văn Pháp nổi tiếng là Anatone France đã không ngần ngại hạ bút viết: “Trong thiên  nhiên có rất nhiều cái đẹp, nhưng cái đẹp cao quý nhất là trái tim người mẹ” (Il y a bien des merveilleuses dans la nature, mais la plus précieuse, C’est le coeur d’une mère).

    Trước sự hy sinh cao cả vô bờ bến của người mẹ như vậy nên tất cả mọi người con, ai ai cũng thương nhớ mẹ mình và luôn luôn mong ước được trả hiếu cho mẹ dù mẹ mình còn sống hay đã qua đời. Vì vậy trong Kinh Địa Tạng của Phật giáo, chữ hiếu được bàn luận và giải thích rất cặn kẽ vì đây là một trong những đạo làm người rất quan trọng của con cái đối với cha mẹ.

    Thế nên hằng năm, cứ đến ngày “Tự Tứ”, các vị chân tu thường thuyết giảng cho các Phật tử nghe về hạnh hiếu của Tôn Giả Mục Kiền Liên: cứu mẹ đang thọ khổ ở địa ngục hay hạnh hiếu của Tôn Giả Xá Lợi Phất đã tìm mọi cách để thuyết pháp độ mẹ ra khỏi tà kiến của ngoại đạo Ni Kiều Tử đắc pháp nhãn thanh tịnh trước khi Tôn Giả nhập niết bàn.

    Ai cũng biết rằng ở bên Trung Quốc tự ngàn xưa, có 24 nhân vật rất có hiếu đối với cha mẹ đã vang dậy như sóng cồn một thời vang bóng trong tập “Nhị Thâp Tứ Hiếu”: nhiều người con trong lúc mùa hè oi bức, đã cởi trần nằm ngủ lúc đêm về để cho muỗi bay đến cắn vào thân thể mình ngõ hầu khỏi cắn vào thân thể của mẹ, hay có người nằm trên băng tuyết giá lạnh suốt mùa đông chờ tuyết tan để bắt cá về nấu cháo cho mẹ già ăn.

    Để đi vào đề tài, chúng ta hãy ghi lại đây những vần thơ của các thi nhân đã xúc động mà sáng tác nên những lời thơ bất hủ khi nhớ đến mẹ già.

    Nhiều nhà thơ đã khóc thương nhớ mẹ lúc mẹ còn sống, nhưng hầu hết các thi nhân nhớ thương khóc mẹ khi mẹ đã qua đời.

    Ta hãy nghe một số bài thơ nhớ mẹ của vài thi nhân khi mẹ còn sống.

    Trước hết, mấy vần thơ tứ tuyệt qua bài “Bóng mẹ chiều thu” của thi sĩ Cung Trầm Tưởng trong thi tập “Lời viết hai tay” khi đọc lên khiến ta nhớ đến người mẹ già đang vất vả trong buổi chợ chiều của cuộc đời và ngong ngóng mỏi mắt chờ trông con trở lại quê nhà sau những tháng ngày tù tội:

    “Mẹ là mẹ chú em nào hình sự

    Dáng lưng gù làm nhớ tới mẹ tôi

    Mẹ nẻo xa mưa nắng ắt bồi hồi

    Ai đỡ mẹ đi nghiêng sầu goá bụa

    Mưa gió quất lưng tre còng vất vả

    Vóc mai kia na ná nét hao mòn

    Của mẹ ruột quằn đau cho tiếng khóc

    Đến cuối đời lại chong bóng chờ con”.

         (Cung Trầm Tưởng Trong “Lời viết hai tay”)

    Cho dù ở trong ngục tù hay ở quê người đất khách, cho dù ở trên rừng sâu hay góc bể chân trời, ai ai cũng triền miên nhớ mẹ mỗi lần vọng về quê cũ sau lũy tre xanh. Ta hãy nghe mấy vần thơ lục bát sau đây của Hạ Ái Khanh khi nhà thơ nhớ mẹ đang lom khom chống gậy chờ con ở quê nhà:

    “Mỗi lần nhìn khói lam chiều

    Nhớ về quê mẹ hắt hiu nỗi buồn

    Mẹ già nước mắt trào tuôn

    Lom khom chống gậy bên đường chờ con

    Bâng khuâng mẹ nhớ mỏi mòn

    Bao mùa lá rụng héo hon thân gầy”.

      (Hạ Ái Khanh “Thương mẹ”: thi phẩm “Ngậm ngùi”)

    Nhiều người quá nhớ mẹ, thương mẹ, lâu ngày chưa về thăm lại mẹ được vì nghìn trùng xa cách, ở tận đất khách quê người, khiến lắm lúc nằm mơ thấy mẹ để rồi ở xứ đất lạ nghe lòng hắt hiu sầu nhớ muôn đời. Ta hãy nghe nhà thơ Thái Tú Hạp dệt mấy vần thơ nhớ mẹ qua những câu thơ ngũ ngôn thật dễ thương và nhẹ nhàng:

    “Đêm hoài mơ thấy mẹ

    Thắp nến soi hồn đau

    Đời con chiều quạnh quẻ

    Đất lạ hắt hiu sầu”.

         (Thái Tú Hạp Trong thi tập “Hạt bụi nào bay qua”)

    Tuy nhiên có nhiều người thương mẹ, nhớ mẹ lúc mẹ đang còn sống. Nhưng vì cuộc sống của mẹ hằng ngày luôn luôn làm việc thiện và trọn đời mẹ đã tỏ ra thương người, hy sinh cho tha nhân và quyết sống môt cuộc sống đầy lòng nhân ái, từ bi. Vì thế, người con nguyện sẽ xuống tóc giữ lời quy y nếu một mai mẹ qua đời. Mấy vần thơ lục bát sau đây của nhà thơ Việt Hải cho ta thấy rõ được những điều nói trên:

    Nếu mai mẹ sẽ qua đời

    Con xin xuống tóc giữ lời quy y

    Mẹ tôi trọn kiếp từ bi

    Con quỳ lạy mẹ ra đi yên lòng”.

         (Việt Hải Trong bài Nhớ mẹ)

    Tuy nhiên cho dù nghìn trùng xa cách, cho dù đường về quê mẹ xa tít mù khơi, nhưng vì quá nhớ mẹ già ở miền quê xa vắng và cũng vì lâu lắm rồi chưa thấy lại dung nhan của người mẹ thân yêu, nên người con quyết chí trở về thăm mẹ giữa một mùa xuân. Vì hoàn cảnh của cuộc sống phải ở đất khách quê người quá lâu, nên khi trở lại quê nhà thăm mẹ thì mẹ đã quá già khiến mắt đã mờ, tai đã điếc vì ngũ giác của mẹ giảm sút đi nhiều. Ta hãy nghe nhà thơ Mạc Phương Đình dệt mấy vần thơ nhớ mẹ trong bài Xuân về thăm mẹ:

    Em ra đứng hiên nhà chờ đợi

    Nụ cười vui, se chút lạnh sang mùa

    Mẹ còn sống, nhưng giảm nhiều trí nhớ

    Tấm thân gầy, còm cõi tuổi già nua

    Những lúc tỉnh, mẹ buồn cười rồi hỏi

    Các con đâu, sao đi mãi không về

    Đến bên mẹ, nắm bàn tay gầy guộc

    Gọi mẹ ơi, nhưng mẹ chẳng còn nghe

    Tuổi chín bốn, mắt mẹ mờ tai điếc

    Sống hiền lành, đôi lúc tỉnh lúc mê”.

           (Trong tác phẩm Lời ru của mẹ)

    Nhưng đớn đau quằn quại nhất là lúc nhớ mẹ từng giờ, từng phút, từng giây. Muốn về thăm mẹ ngay nhưng không thể nào được, bởi vì con đang bị đoạ đày trong ngục tù ở trên rừng thiêng nước độc. Ta hãy nghe bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cổ phong sau sau đây của thi sĩ Trương Thúc Cổn mới thấy tình mẫu tử là một trong những tình thiêng liêng của con người:

    Con biết ngày nay mẹ khổ nhiều

    Những ngày quạnh quẽ vắng con yêu

    Bâng khuâng mẹ nhớ con ngàn dặm

    Tựa cửa mắt mờ gió hắt hiu

    Mẹ ơi, có thấu nỗi lòng con

    Nhớ mẹ lòng con hoá mỏi mòn

    Con cố tìm trong tình mẫu tử

    Những lời an ủi trái tim con

    Nhớ túp lều tranh dưới khói mờ

    Bên đường khóm trúc gió phất phơ

    Tim con ray rứt đời phiêu bạt

    Nhớ mẹ lòng con hóa vẩn vơ

    Những lời vàng ngọc mẹ khuyên con

    Nước đó nhà đây mãi vẫn còn

    Đại nghĩa luôn luôn cùng nghĩa vụ

    Dãi dầu sương gió chút lòng son

    Chân mãi bước lên miệng vẫn cười

    Con đầy hy vọng cuộc đời tươi

    Mong sao nhớ lấy lời khuyên mẹ

    Quên hết đau thương của cuộc đời…”

          (Trương Thúc Cổn Trong bài “Nhớ mẹ”)

    Sau khi đã đề cập một số bài thơ nhớ mẹ của một vài thi nhân khi mẹ còn sống, giờ đây ta hãy nói lên những vần thơ bất hủ về nhớ mẹ khi mẹ đã qua đời.

    Ai cũng biết rằng sau ngày 30/4/75, tất cả các chiến sĩ thuộc QLVNCH đều bị bắt bỏ tù trên rừng thiêng nước độc. Nhiều người bị hành xác trong một thời gian quá lâu dài mới được trả tự do nên khi trở lại quê nhà thì thấy mái tranh vẫn còn đó, cây soan bên thềm cũ vẫn còn đây nhưng cũng đã tàn phai theo năm tháng, còn mẹ già thì đã vĩnh biệt trần gian không một lời trăn trối, chỉ thấy một ngôi mộ nằm bên đường hoang vắng giữa chiều quê. Ta hãy nghe Hạ Ái Khanh dệt mấy vần thơ sầu thảm đó qua bài “Ngày về” để tặng cho một người bạn sau mười ba năm ở tù trở lại quê nhà:

    “Mười ba năm “cải tạo”

    Ngày về không còn ai

    Cây soan bên thềm cũ

    Bây giờ cũng tàn phai

    Mái nhà tranh còn đấy

    Vẫn nghiêng nghiêng thuở nào

    Trong nhà sao vắng lặng

    Không một bóng người vào

    Mẹ già chờ lâu quá

    Vẫn không thấy con về

    Tháng ngày rưng rưng lệ

    Mẹ mất giữa chiều quê

    Bên nấm mồ con khóc

    Nhớ thương mẹ não nề

    Sao mẹ đành vĩnh biệt

    Mẹ ơi, con đã về!”

       (Hạ Ái Khanh Trong thi phẩm “Ngậm ngùi”)

    Cũng tương tự như trên, sau mấy năm trời bị bắt hành xác trong ngục tù ở trên rừng, nhà thơ Ngô Văn Thọ lúc trở lại quê nhà đã nghẹn ngào rưng rưng nước mắt khi vừa nghe chị mình nói mẹ đã qua đời từ lâu. Mấy vần thơ sau đây khi đọc lên ai ai cũng thấy bùi ngùi xót xa:

    “Về Sài gòn đau xé lòng gặp chị

    Được hung tin mẹ mất đã lâu rồi

    Quả đất buồn thoạt muốn vỡ làm đôi

    Không gian rộng con nghe chừng ngộp thở”

        (Ngô Văn Thọ Trong Tuyển tập“Dưới trăng”)

    Có nhiều thi nhân khi nghe mẹ mất, tâm hồn như nghẹn ngào đau khổ, trong lòng như quằn quại đớn đau, nhưng họ không biểu lộ ra bên ngoài mà lại giấu kín tận đáy lòng. Ngược lại, nhiều thi nhân vì quá nhớ mẹ già cũng như vì quá khổ đau khi mẹ qua đời nên đã oà ra khóc thành tiếng theo bản năng tự nhiên vì tình mẫu tử là một trong những tình thiêng liêng của con nguời.

    Trên bước đường hành quân trong xã Mỹ Đức, quận Phú Mỹ năm 1950, nhà thơ Hoàng Duy đã khóc sướt mướt giữa cơn mưa tầm tã khi quá nhớ người mẹ hiền đã vĩnh biệt cõi đời. Bài thơ “Mưa rơi” sau đây của nhà thơ Hoàng Duy khi đọc lên ai ai cũng cảm thấy thật ai oán, não nùng:

    “Mưa rơi!

    Mưa rơi!

    Má ơi! Mưa rơi!

    Má ơi! Rơi rơi!

    Má đâu? Má ơi!

    Hỡi má! Má ơi!

    Má đi Mau về

    Thẫn thờ… Chúng con

    Chúng con Mong đợi

    Bơ vơ Má ơi!

    Cõi đời Má ơi!

    Lạnh không!…”

      (Bài “Mưa rơi” trong thi tập “Như bóng mây bay”)

    Có nhiều nhà thơ vì xa mẹ già quá lâu ngày vẫn chưa về thăm được vì hoàn cảnh cuộc sống, vì nghìn trùng xa cách ở đất khách quê người. Đến khi trở lại quê nhà sau mười năm biền biệt thì mẹ già đã an giấc nghìn thu khiến nhà thơ quá đau lòng rồi nức nở trong nắng chiều ngay tại sân ga, nơi mà xưa kia người mẹ đã tiễn đưa dưới cơn mưa tầm tã, khiến người con nghẹn ngào không nói nên lời. Bài thơ “Sân ga ngày trở lại” của Hạ Ái Khanh sau đây cho ta thấy rõ cảnh biệt ly sao mà buồn quá, để rồi người mẹ và người con sau đó đã vĩnh biệt nghìn đời:

    Chín mười năm biền biệt

    Về thăm lại quê nhà

    Sao lòng buồn da diết

    Nắng chiều ngập sân ga

    Nhớ xưa cũng nơi nầy

    Mẹ già khóc tiễn đưa

    Khi còi tàu gào thét

    Trời mưa ơi là mưa.

    Vẫy tay từ  biệt mẹ

    Nước mắt rơi như mưa

    Nghẹn ngào trong tiếng khóc

    Ly biệt nói sao vừa

    Nay về thăm quê lại

    Nức nở trong nắng chiều

    Mẹ già không còn nữa

    Sân tàu cũng buồn thiu.

                          (Hạ Ái Khanh)

    Nhiều thi nhân sau khi mẹ mất đã nhớ lại những tháng năm nằm bên gối mẹ, nhớ những ngày mẹ nở những nụ cười đầy lòng nhân ái dạt dào, nhớ những lúc nắng sớm mưa chiều mẹ thương con rồi quá nuông chiều con khi ru con ngủ, để rồi dệt mấy vần thơ đầy nhung nhớ ngậm ngùi. Ta hãy nghe thi sĩ Cao Mỵ Nhân sáng tác mấy vần thơ não nuột sau đây khi nhà thơ bỗng một chiều nước mắt rưng rưng vì nhớ mẹ đến nghẹn ngào:

    “Mẹ ơi, tất cả đã mờ theo.

    Nước mắt khi mưa ướt dáng chiều.

    Mẹ sớm rời xa con, cháu mẹ.

    Lòng tôi chùng xuống, chợt hoang liêu.

    Mẹ về tiên cảnh hẳn vui hơn.

    Chốn ấy hoa đăng, nhã nhạc buồn.

    Mỗi lúc dõi theo vầng nhật nguyệt.

    Lung linh ảnh mẹ thắp tâm hồn”.

        (Cao Mỵ Nhân  “Từ nơi mẹ nở đóa hạnh trinh”).

    Nếu cố gắng đưa tất cả những bài thơ viết về nhớ mẹ của tất cả các thi sĩ vào trong bài “Nhớ mẹ qua thi ca Việt Nam” thì chúng ta phải viết một cuốn sách dày khoảng vài trăm trang vẫn không đủ. Vì vậy ta chỉ nêu lên đây môt số bài thơ tượng trưng mà thôi. Bởi thi sĩ nào, khi nghĩ đến mẹ cũng nhớ thương dạt dào, cũng nghẹn ngào quay quắt, tuỳ không gian và thời gian của hoàn cảnh từng người. Tóm lại qua thi ca Việt Nam, ta thấy hầu hết các thi nhân khi nhớ mẹ thường dệt nên những vần thơ thật diễm tuyệt mang đầy sắc thái hạnh hiếu và tình người.

    California, mùa Lễ Vu Lan.

    Dương viết Điền

  • Khánh Lan,  Viết Về MẸ

    NGÀY CỦA MẸ (Mother’s Day)

    Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình
    (Photo credit: giaoduc.edu.vn)

    Tài liệu Wikipedia ghi nhận Ngày của Mẹ bắt nguồn từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhưng cũng có tài liệu cho rằng Ngày của Mẹ có thể được bắt nguồn từ Vương quốc Anh và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật qua nhiều năm trước khi lễ hội này xuất hiện ở Hoa Kỳ.

    Theo lịch sử thì Ngày của Mẹ là ngày lễ hội mùa xuân hàng năm mà người Hy Lạp cổ đại dành riêng cho các nữ thần mẫu, họ cũng dùng dịp này để tôn vinh Rhea, vợ của Cronus và là mẹ của nhiều vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Người La Mã cổ đại còn gọi lễ hội này là Hilaria để tôn vinh Cybele, một nữ thần Mẹ. Các nghi lễ tôn vinh Cybele đã bắt đầu khoảng 250 năm trước Chúa giáng sinh. Lễ kỷ niệm được thực hiện bằng cách cúng dường trong đền thờ Cybele vào khoảng tháng Ba, những ngày đầu rất quan trọng, thường kéo dài trong ba ngày gồm các cuộc diễn hành, trò chơi và hóa trang. Chính Lễ kỷ niệm này đã khiến những người theo Cybele bị trục xuất khỏi Rome.

    Những người theo đạo Thiên Chúa Giáo thời sơ khai đã tổ chức Ngày của Mẹ vào Chủ nhật, thứ tư của Mùa Chay để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Chúa Kitô. Sau đó, ngày lễ hội này được mở rộng để chúc mừng tất cả các bà mẹ và ngày này trở thành Ngày của Mẹ. Ngày của Mẹ bắt đầu từ những năm 1600 ở Anh. Tại đây, Ngày của Mẹ được tổ chức hàng năm vào ngày Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay (khoảng thời gian 40 ngày trước Lễ Phục sinh) để tôn vinh những người mẹ sau nghi lễ cầu nguyện trong nhà thờ để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Những đứa con thường mang theo những món quà và hoa để tỏ lòng thành kính với mẹ của chúng.

    Theo truyền thống, những đứa trẻ mang theo những món quà, những loại bánh trái đặc biệt hoặc bánh ngọt đầy trái cây được gọi là simnel để tặng Mẹ của chúng. Người Nam Tư và người dân ở các quốc gia khác cũng tổ chức Ngày của Mẹ tương tự như vậy. Tuy nhiên phong tục kỷ niệm Ngày Chủ nhật của Mẹ đã gần như hoàn toàn biến mất vào thế kỷ 19 cho đến mãi sau Thế chiến thứ hai Ngày của Mẹ mới được tổ chức lại.

    Ngày của Mẹ là thời gian để tôn vinh tình mẫu tử và thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với tất cả những người mẹ, những người vợ, người chị và bà nội & ngoại đã hy sinh cả cuộc đời cho các con, các cháu. Lịch sử đã phải công nhận rằng, từ trước đến nay người phụ nữ luôn giữ những vai trò thiết yếu trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Điển hình là bà Marie Curie, người phụ nữ đầu tiên từng đoạt giải Nobel cho đến cựu Thẩm phán Tòa án Tối cao Ruth Bader Ginsburg, là những người mẹ đã làm thay đổi thế giới.

    Năm 1858, Ann Reeves Jarvis, một người nội trợ vùng Appalachian, đã thành lập “Ngày làm việc” của các bà mẹ trong nội chiến nhằm nỗ lực cải thiện điều kiện vệ sinh cho binh lính và trẻ em. Bà cũng đã giúp thành lập một câu lạc bộ để dạy phụ nữ cách chăm sóc trẻ em. Khi nội chiến bùng nổ ở Hoa Kỳ, Ann Reeves Jarvis đã yêu cầu các thành viên khác của các câu lạc bộ tổ chức và cam kết rằng chiến tranh sẽ không làm ảnh hưởng đến công việc của họ. Họ thề sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và hỗ trợ những người bị bệnh hoặc bị thương dù bất kể họ đang chiến đấu ở phe nào. Sau đó, Ann Reeves Jarvis thành lập “Ngày Tình bạn của Mẹ” để thúc đẩy sự hòa giải giữa những người lính của Liên minh và Liên minh.

    Năm 1872, Julia Ward Howe, một nhà hoạt động, nhà văn và nhà thơ, bà đã viết bản Tuyên ngôn Ngày của Mẹ để kêu gọi các bà mẹ tham gia trong việc thúc đẩy hòa bình thế giới. Julia Ward Howe là người tiên phong và gợi ý cho việc tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ. Là một người yêu tổ quốc, bà đã sáng tác và trở nên nổi tiếng với bài hát nội chiến “Battle Hymn of the Republic“. Julia Ward Howe đề nghị rằng ngày 2 tháng 6 hàng năm nên được tổ chức và đó là Ngày của Mẹ cũng như là ngày dành cho hòa bình. Bà đã viết lời kêu gọi đến tất cả các phụ nữ và nồng nhiệt khuyến khích họ nổi dậy chống lại chiến tranh trong Tuyên ngôn Ngày của Mẹ. Bàn tuyên ngôn này trở nên nổi tiếng và được viết ở Boston, năm 1870.

    Julia Ward Howe cũng đã khởi xướng Ngày Hòa bình của các Bà mẹ vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Sáu ở Boston. Bà ủng hộ lý do tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ và chính thức tuyên bố cho phép mọi người nghỉ lễ vào ngày này. Ý tưởng của Julia Ward Howe đã lan rộng nhưng sau cùng nó đã bị thay thế bởi ngày lễ Ngày của Mẹ, hiện được tổ chức vào tháng Năm. Năm 1873, Julia Ward Howe vận động để thành lập Ngày của mẹ nhằm đạt được hòa bình thế giới và giải quyết xung đột giữa con người với nhau.

    Với nguồn cảm hứng từ những công việc của Ann Reeves Jarvis,  Anna Jarvis M. là con gái của Ann Reeves Jarvis tiếp tục tranh đấu cho lễ hội Ngày của Mẹ. Năm 1905, sau khi bà Ann Reeves Jarvis  qua đời, Anna Jarvis M. muốn tạo ra một ngày tưởng niệm và tôn vinh những người mẹ đã qua đời cũng như ghi nhận những hy sinh mà các bà mẹ đã dành cho con cái của họ, Sau cùng, Ngày lễ của Mẹ được công nhận và ngày lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên được tổ chức tại Grafton, phía Tây Virginia tại một nhà thờ địa phương vào ngày 10 tháng 5 năm 1908. Nhờ sự hỗ trợ tài chính của John Wanamaker, một chủ doanh nghiệp ở Philadelphia, Ngày của Mẹ này đã thành công rực rỡ với hàng nghìn người đã đến tham dự. Ngày nay, tại nhà thờ có Đền thờ Ngày của Mẹ Quốc tế.

    Để Ngày của Mẹ trở thành ngày lễ quốc gia, Anna Jarvis M. đã viết thư cho các chính trị gia và báo chí trên toàn quốc, yêu cầu họ chấp nhận ngày này để kỷ niệm và ghi ơn công lao của các bà Mẹ. Kết quả, truyền thống báo chí bắt đầu lan rộng ra 45 tiểu bang và một số tiểu bang khác, chính thức tuyên bố đây là ngày lễ Ngày của Mẹ vào năm 1912. Năm 1914, cựu Tổng thống Woodrow Wilson đã tuyên bố tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên trên toàn quốc. Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Năm của mỗi năm.

    Ở Vương quốc Anh và một số khu vực ở Châu Âu, ban đầu là đây là một ngày lễ tôn giáo được tổ chức vào Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay. Ngày này nhằm mục đích cho các cá nhân tìm đường trở lại “nhà thờ mẹ” của họ. Những người đi nhà thờ cũng sẽ coi đây là cơ hội để đoàn tụ với gia đình sau khi đi công tác xa. Các nhà sử học có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Ngày Chủ nhật của Mẹ, bao gồm truyền thống phát triển từ việc trẻ em nhặt hoa khi chúng đi bộ đến nhà thờ.

    Tại Vương quốc Anh, người dân dành thời gian để tôn vinh những người mẹ, chẳng hạn như mẹ đẻ, bà ngoại, mẹ kế và mẹ chồng. Trong ngày ấy, mọi người sẽ ăn mừng bằng một chiếc bánh Simnel, đó là một chiếc bánh trái cây nhân hạnh nhân và 11 quả bóng để tượng trưng cho 11 môn đồ.

    Ở Ethiopia, Ngày của Mẹ được tổ chức hơi khác một chút. Khi mùa mưa kết thúc, các gia đình sẽ tụ tập để tham gia lễ hội Antrosht. Trong khoảng thời gian ba ngày, sẽ có khiêu vũ, ca hát và rất nhiều đồ ăn. Theo phong tục, con gái cung cấp rau và pho mát, trong khi con trai mang thịt.

    Thái Lan, Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày 12 tháng 8 để kỷ niệm ngày sinh của Hoàng hậu Sirikit. Các hoạt động trong ngày lễ bao gồm diễn hành và tặng hoa nhài cho các bà mẹ.

    Nga, Khi nước Nga còn được gọi là Liên bang Xô Viết, các bà mẹ được tôn vinh vào ngày Quốc tế Phụ nữ ngày 08 tháng 03. Năm 1998, Ngày của Mẹ chính thức được thành lập là Chủ nhật cuối cùng của tháng 11. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ăn mừng vào tháng Ba.

    Nepal, Ngày của Mẹ được gọi là Mata Tirtha Aunsi, có nghĩa là “Hành hương về trăng non của Mẹ”. Vào ngày này, các cá nhân sẽ trân trọng thời gian ở bên mẹ và tưởng nhớ tất cả những người đã qua đời.

    Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức ở một số quốc gia gồm Mỹ, Anh, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Úc, Mexico, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản và Bỉ. Mọi người coi ngày này như một cơ hội để tri ân và cảm ơn những người mẹ của họ cho sự yêu thương và hy sinh của họ với con cái. Trong Ngày của Mẹ, các đường dây điện thoại đạt đến mức quá tải cũng như truyền thống tặng hoa, thiệp và những món quà gửi đến cho Mẹ hoặc mời Mẹ của họ đi chơi, đi ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn tối…

    Khánh Lan siêu tầm và nghiên cứu from Wikipedia

    California, May 2022