-
Tưởng nhớ Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn sinh tại huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh (về sau đổi thành quận Gia Lâm tỉnh Hà Nội) và di cư vào Nam năm 1954.
Ông đóng góp nhiều sáng tác văn học nghệ thuật dưới nhiều dạng: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, bút ký. Tác phẩm Áo mơ phai đoạt Giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa năm 1973.
Nguyễn Đình Toàn viết nhiều truyện dài đăng thành nhiều kỳ trên các báo chí Việt Nam Cộng hòa như tạp chí Văn, Văn Học và các nhật báo như Tự Do, Chính Luận, Xây dựng, và Tiền Tuyến.
Ông cũng có tay trong việc phát triển tân nhạc Miền Nam qua chương trình phát thanh Nhạc chủ đề trên đài phát thanh quốc gia Việt Nam Cộng hòa mỗi tối Thứ Năm.
Sau năm 1975, ông bị bắt và giam học tập cải tạo 10 năm mới được thả. Năm 1998 ông cùng vợ được xuất cảnh sang Hoa Kỳ và định cư ở California nơi ông tiếp tục viết cho báo Viet Tide.
Những nhạc phẩm trứ danh nhất của ông gồm “Sàigòn niềm nhớ không tên” (nguyên nhan đề là “Nước mắt cho Sàigòn”) và “Tình khúc thứ nhất”, “Em đến Thăm Anh Đêm Ba Mươi” do Vũ Thành An phổ nhạc. Ca sĩ Khánh Ly đã thâu âm và phát hành hai dĩa hát với những sáng tác của ông.
Ông tạ thế hồi 19 giờ 15 phút ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại tư gia, theo giờ California.
-
Tình Khúc Mùa Xuân
-
Thi Họa Sĩ Vũ Hối – Đỗ Bình
Tâm hồn con người là một thế giới mênh mông muôn màu và đầy bí ẩn. Đối với người nghệ sĩ, sự đa cảm lại càng bén nhạy hơn vì chỉ một thoáng cảm xúc về ngoại cảnh cũng đủ biến hiện thực thành ý niệm khởi đầu cho một tác phẩm. Nếu hội họa là nghệ thuật của đường nét ánh sáng màu sắc, nhạc là nghệ thuật của âm thanh, tiết tấu và thơ là nghệ thuật của lời, thì sáng tạo nghệ thuật là tố chất cần thiết của người nghệ sĩ. Thi ca và hội họa từ thời cổ đại đến nay về hình thức, cấu trúc đã có nhiều thay đổi, nhưng giá trị đính thực vẫn hướng về chân thiện mỹ.
Từ ngàn xưa người Việt đã biết vẽ tranh nặn tượng điêu khắc. Ngành mỹ thuật mang tính dân gian, trang trí. Những loại hình thể đó truyền lại nhau theo lối thủ công nghiệp. Tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống Hà Nội, ngành điêu khắc, đúc tượng, các đồ thờ tự bằng sơn mài chỉ “cha truyền, con nối”, không có trường sở chính thức để nghiên cứu học hỏi về mỹ thuật. Theo những tài liệu còn lưu trữ ở thư viện Paris, lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam thật sự khởi sắc từ khi có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (L’école Supérieure des Beaux-Art de L’Indochine). Trường được thành lập ở Hà Nội năm 1925 do họa sĩ Victor Tardieu, một người Pháp làm hiệu trưởng suốt 12 năm. Trường đã được sự cộng tác đắc lực của họa sĩ Joseph Inguimberty, giảng dạy từ năm 1925 cho đến khi bị giải thể năm 1945 (vì chiến tranh). Họa sĩ Victor Tardieu thuộc trường phái Cổ điển cuối thế kỷ 19 và từng là bạn học với danh họa Henri Matisse, Raoult. Họa sĩ Joseph Inguimberty tốt nghiệp trường Trang Trí Quốc Gia Pháp. Ông yêu đất nước Việt Nam nên có nhiều họa phẩm sơn dầu, rất nhập thần về phong cảnh đồng quê Việt.
Họa sĩ Victor Tardieu và Joseph Inguimberty là hai họa sĩ bậc thầy đã hướng dẫn các sinh viên Việt Nam làm quen với kỹ thuật hội họa phương Tây, biết những nét căn bản của trường phái Cổ điển. Với những kiến thức được học hỏi bài bản, sau khi tốt nghiệp, các họa sĩ có thể tự chọn cho mình một trường phái khác, một con đường riêng: Tân cổ điển, Ấn tượng, Lập thể, Trừu tượng, Siêu thực, nhưng vẫn phát huy truyền thống nghệ thuật của nước nhà như lụa và sơn mài. Từ đó ngành Mỹ Thuật của Việt Nam mới có những tên tuổi lớn: Tô Ngọc Văn, Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Công Văn Chung, Đỗ Đức Thuận, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Thạch Lam, Nguyễn Tường Lân, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường (người vẽ áo dài kiểu Le Mur), Lưu Văn Sìn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Văn Tỵ, Trịnh Hữu Ngọc, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Dung, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Đức Nùng, Dương Hướng Minh, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Trọng Hợp, Phan Tại, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm, Tạ Khúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Phan Thông, Lê Thanh Đức, Mai Văn Hiến, Trần Duy, Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Kim Đồng, Văn Cao, Văn Giáo, Lê Quốc Lộc, Phạm Viết Song, Tạ Tỵ, Phạm Đăng Trí…
Từ ngàn xưa “Cầm, Kỳ, Thi, Họa” đánh đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh là bốn cái thú của kẻ tao nhã. Nhưng biết đàn làm thơ và vẽ tranh chưa hẳn là nghệ sĩ. Hành trình đi tìm Chân Thiện Mỹ của nghệ thuật là bước vào con đường thênh thang nhưng đầy gian nan khó khăn mà người nghệ sĩ phải tự mình tìm lối đi riêng. Trong làng văn nghệ có những trường hợp nghịch lý: Người đã có tác phẩm được ra mắt công chúng chưa hẳn đã hay hơn những người có tác phẩm nhưng chưa in, hoặc ít phổ biến. Giá trị đích thực của một tác phẩm không hẳn được công chúng hoan nghênh khi mới ra mắt, mà giá trị đích thực phải qua thử thách với thời gian và được công chúng yêu mến lưu truyền lâu dài, hoặc được giới nghiên cứu phê bình văn học công nhận. Trong giới nghệ sĩ, những người vừa là thi sĩ vừa là họa sĩ mà mỗi lãnh vực đều xuất sắc mang dấu ấn, nhưng được công chúng biết đến thì không nhiều! Có người, do thiên phú, khởi đầu con đường văn nghệ chỉ làm thơ và có những bài thơ xuất sắc độc đáo, nên được công chúng biết, rồi sau đó mới học vẽ và miệt mài với cây cọ mảng màu để thành họa sĩ. Ngược lại có người đã là họa sĩ, sau yêu thơ, nghiên cứu thơ, làm thơ, đắm đuối vì thơ thành thi sĩ. Đó là những người đam mê và am tường thấu đáo bài bản về hai bộ môn nghệ thuật. Vào thập niên 60 của thế kỷ trước ở miền Nam, những nghệ sĩ có thi phẩm trình làng và tranh triển lãm không nhiều. Họ được công nhận là thi họa sĩ: Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, thi họa sĩ Vũ Hối, thi họa sĩ Phạm Tăng, thi họa sĩ Mùi Quý Bồng, thi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật, thi họa sĩ Lưu Nguyễn Đạt, thi họa sĩ Huỳnh Ngọc Điệp, thi họa sĩ Bồng (Phạm Văn Thoại), thi họa sĩ Phạm Kế Viêm, v.v. (GS Phạm Kế Viêm và GS Phạm Văn Thoại là thi họa sĩ có tài nhưng rất khiêm nhường, ít muốn trình bày tác phẩm của mình nên người đời chỉ biết hai ông ở lãnh vực dạy học).
Những nghệ sĩ khi ở trong nước đã là họa sĩ hoặc thi sĩ, ra hải ngoại sau năm 1975 đeo đuổi thêm ngành nghệ thuật khác như thi họa sĩ Vi Vi Võ Hùng Kiệt, (họa sĩ Vi Vi tốt nghiệp Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, có nhiều tác phẩm tranh màu nước, sơn dầu nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 và ở hải ngoại, được giải thưởng cao quý của chính phủ Canada với những bức tượng điêu khắc), thi họa sĩ Nguyễn Tư ở Úc, thi họa sĩ Diễm Châu Cát Đơn Sa ở Mỹ, v.v. Ở Pháp, Paris nói riêng, những người theo ngành nghệ thuật tạo hình không nhiều. Đây là đất của các danh họa quốc tế lâu đời. Muốn có tên trên tháp vàng đó, ngoài tài năng xuất chúng, còn phải quen biết những danh họa có tầm vóc quốc gia, quốc tế, những tổ chức uy tín có thế lực tiền tài của người bản xứ đỡ đầu giới thiệu. Những họa sĩ VN dù có tài nhưng không đủ tài chánh và phương tiện làm những cuộc triển lãm lớn để quảng bá những tác phẩm của mình đến giới thưởng lãm, qua những phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí… Vì thế họ đành chấp nhận chờ thời, và vẫn miệt mài theo đưổi con đường nghệ thuật. Vào thế kỷ 19, khu nghệ sĩ Montparnasse và hiện nay là khu nghệ sĩ trên đồi Montmartre có biết bao nghệ sĩ có tài. Họ là những họa sĩ thuộc nhiều quốc tịch, trong đó có một số ít là người Việt. Cũng ở những nơi này đã có một số danh họa Pháp từng sống và hành nghề, nhưng rất tiếc họ đã mất trước khi tranh của họ nổi tiếng được thế giới biết. Giá mỗi bức tranh tính bằng vàng! Những họa phẩm mới ngày nào còn nằm trên những con đường nhỏ, những ngõ cụt bày bán với giá hời cho khách du lịch, bỗng một số bức họa như có phép nhiệm mầu tỏa sáng, được nâng niu đưa vào trưng bày ở viện bảo tàng quốc gia để người đời chiêm ngưỡng. Tranh cũng có số phận!
Những họa sĩ Việt thành danh ở Pháp có nhiều cuộc triển lãm và giải thưởng cao ưý, nay đã mất như Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Điềm Phùng Thị, Dương Cẩm Chương, Vĩnh Ấn, Thái Tuấn, Minh Châu Thái Hạc Oanh, Phạm Tăng, Lê Bá Đảng, Anh Trần, Vũ Thái Hòa. Những họa sĩ thành danh, còn sống, có nhiều cuộc triển lãm, có người dạy ở các trường Cao Đẳng Mỹ Thuật vùng Paris: GS Nguyễn Cầm, GS Lê Tài Điển, GS Đỗ Văn Bình, GS Vũ Công Minh…. Họa sĩ Võ Hoài Nam, Nguyễn Đức Tăng, Hồng Loan, Vương Đình Thư, Nguyễn Minh, Hoàng Đình Tuyên, Nguyễn Long Diên, Oanh (Phạm Hoàng Oanh, con thứ của BS Phạm Khắc Hy, cựu Đại Sứ đầu tiên của VNCH tại Pháp), Duy Nga, trưởng nữ họa sĩ Duy Liêm (tranh sơn mài Thành Lễ, bìa nhạc…), Phạm Trọng Chánh (điêu khắc), Huỳnh Thanh Lý (vẽ áo dài), Vương Thu Thủy (điêu khắc), Văn Tấn Phước (thư họa)…. Những họa sĩ trung niên như Vũ Đình Lâm (điêu khắc), Vũ (Trần Trọng Vũ), con trai nhà thơ Trần Dần, Vũ Hòa, Ngọc Tuyết, Trang Thanh Trúc, Trúc Tiên, Julien Nguyen Verhaeghe (TS Thẩm Mỹ Học, phê bình nghệ thuật, con trai trưởng nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thanh & Nguyễn Mây Thu, học trò của Lê Tài Điển, Nguyễn Cầm).
Tác giả và Tác phẩm:
Trong thế giới vô tận của nghệ thuật đã có biết bao nhiêu nhiều nghệ sĩ tài danh đã để lại cho đời những tác phẩm tuyệt tác. Xin có đôi dòng cảm nhận về con người và tác phẩm của thi họa sĩ Vũ Hối. Ông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Do thiên phú, Vũ Hối đã biết làm thơ và hoa tay vẽ đẹp ngay từ thuở nhỏ. Ông lấy bút hiệu là Hồng Khôi năm 1957, nhưng sau này ông ký tên thật làm bút hiệu. Ông có dáng người cao dong dỏng, bản tính đôn hậu dễ mến, hay cười, rất khiêm nhường và chân tình khi xử thế với bằng hữu, thêm có óc khôi hài, thỉnh thoảng xen câu chuyện tếu làm mọi người vui. Là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế, ông được mời vẽ chân dung Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại Tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings in Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting). Là nghệ sĩ Á Châu duy nhất được vinh danh về Sáng Tạo Nghệ Thuật cho thế giới, tại Atlanta, Hoa Kỳ ngày 5-11-1994.
Vũ Hối có tên trong:
– Văn Học Tự Điển thời Việt Nam Cộng Hòa.
– Bách Khoa Tự Điển Larousse, bộ tự điển nổi danh nhất của Pháp và thế giới.
– Tự Điển Danh Nhân Thế Giới (Dictionary of International Biography) ấn hành tại Anh Quốc năm 1998.
– 5000 Personalities of The World, do American Biographical Institute ấn hành năm 2000.
– Nhà Thư Họa Việt Nam duy nhất được ghi tên trong Tuyển Tập Thư Họa Bậc Thầy Đông Phương, ấn hành tại Tokyo, Nhật Bản năm 2006, Bộ 6 (International Editon).
Ngoài danh tài về họa, Vũ Hối còn là một nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, đã xuất bản nhiều thi tập:
– Mùa Giao Cảm (thơ, 1958). Vần Thơ Màu Trắng (thơ, 1959) được phiên dịch ra Anh và Pháp ngữ năm 1959 tại Sài Gòn. (La Poésie de Couleur Blanche).
– Những Dấu Chân Đi (truyện ngắn), xuất bản năm 1960 và 1963. Chiêm Bao Trở Giấc (thơ), xuất bản năm 1997.
– Nghìn Thương Đất Mẹ (thơ và thư họa), năm 1999.
– Thơ Nhạc Trong Tranh (CD, 2000). Mây Ngàn (thơ, thư họa Norway 2003). Nghệ Thuật (thơ, thư họa 2007). Thư Họa Truyện Kiều, Nguyễn Du 2003).
Thơ là cõi vô tận nên không thể nào trang trải tâm hồn nhà thơ chỉ qua ít dòng trên trang giấy. Do đó, mời qúy đọc giả thưởng thức vài bài thơ tác giả không lấy bút hiệu Hồng Khôi, mà ký tên thật. Bài thơ “Men Chiều Cali” đăng trong tập tuyển Ba Cụm Hoa Tình Yêu, xuất bản năm 1997. Nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh và Vũ Hối đã ký tặng người viết tại Paris ngày 21.06. 1997. Bài thơ như sau:
Vẽ cả trong tranh khung trời lộng gió
Vẽ cả men tình, một độ lên ngôi
Nâng niu ta vẽ cành hoa Nhân Ái
Những đóa hoa cười, nở mãi trên môi!
Nắn nót tình thơ, khung trời lộng gió
Mười ngón tay hoa, vướng nhạc bỗng trầm…
Ta về đâu ướp lạnh miền Đông Bắc
Nhớ Cali, từng vạt nắng hanh vàng
E ấp hành trang: men chiều kỷ niệm
Phong kín gửi người: nỗi chứa chan!
Vẽ người thương, giữa khung trời lộng gió,
Vẽ mình ta, ngồi đếm nỗi cô liêu
Vẽ cánh chim rừng, một trời lạc xứ
Cali ơi! Xin gởi nồng ấm men chiều!
Tác giả đã diễn tả nỗi lòng mình, một kẻ tha hương tạm dung nơi miền Đông Bắc Mỹ lạnh lẽo mà chan chứa tình người nhưng vẫn thèm nắng ấm Cali như nắng quê nhà, để sưởi nỗi nhớ về một quê hương xa ngàn dặm. Chất họa trong con người thi sĩ qua hình ảnh trong câu: “Vẽ cánh chim rừng, một thời lạc xứ”. Đây không phải là ngôn ngữ hình tượng của hội họa, nhưng ngôn ngữ mang chất ẩn dụ để diễn tả những thân phận tha hương với nỗi niềm cô đơn. Nhưng trong câu “Khung trời lộng gió” có những hình tượng, thơ và họa đều có thể vẽ và tả được. Nhưng có câu “Vẽ cả men tình một độ lên ngôi” thì chỉ có thơ mới diễn tả được, mà những màu sắc và đường nét của hội họa không thể vẽ được! Thơ Vũ Hối nhẹ nhàng, tha thiết, đượm chất nhân ái. Nhà thơ không mang thù hận vào thơ dù đã mất mát, trải qua nhiều năm tháng trong ngục tù CS, và để lại nơi chốn đọa đày đó một phần ánh sáng! Vận nước thay đổi, lòng người gian dối, hiểm ác đối xử nhau nghiệt ngã, thi sĩ vẫn gượng cười, vẫn giữ niềm tin hướng về chân thiện mỹ. Bài thơ lục bát:
Nửa
Đời ta nửa tỉnh, nửa say
Nửa đen, nửa trắng, nửa ngày, nửa đêm
Nửa vui với cảnh ưu phiền
Nửa sông cồn cát, nửa triền núi cao
Nửa thương, nửa nhớ, nghẹn ngào
Nửa cười tha thiết, nửa ngao ngán tình
Nửa hồn đau kiếp nhân sinh
Chênh vênh nửa cuộc hành trình bể dâu
Chập chờn nửa giấc canh thâu
Cười say bên ngọn đèn dầu nửa khuya.
Đó là tiếng lòng, nỗi u uất như tiếng thở dài về thân phận mình, thân phận của kiếp người, rộng lớn hơn là của đất nước mà một phần lãnh thổ đang bị lấn chiếm bởi ngoại xâm. Nhà thơ đã trút hết tâm tư dệt thành câu thơ buồn. Câu thơ mở đầu: “Nửa tỉnh, nửa say”. Tỉnh ở đây tác giả muốn nói đã nhận thức giá trị cao quý của sự sống, nhà thơ đã trải qua biết bao khổ đau mà vẫn giữ tâm an lạc làm thơ vẽ tranh cho đời. Say trong thơ không phải say vì men rượu mà say vì đất nước, nhà thơ nhìn quê hương như bức tranh mang gam màu buồn dù rằng nơi ấy trong chốn phồn hoa, có những tòa nhà cao tầng đèn lấp lánh; những con đường rực sáng làm lóa mắt người qua lại hầu khỏa lấp che giấu sự nghèo đói của một phố thị đông người! Thi sĩ Vũ Hối là người bất khuất, không chịu uốn cong mình, trong tù mà vẫn hiên ngang thực hiện một tác phẩm nhằm phản kháng lại chế độ khi vẽ bức tranh Mặt Trời Đỏ. Trong tranh chỉ có một cây khô trụi lá, cành nhọn đâm về hướng mặt trời, diễn tả dưới chế độ đỏ, sự sống bị hủy diệt, dù thành cây khô, cành nhọn vẫn đâm vào chế độ! Sự phản kháng của nhà thơ đã bị những đòn thù của cai tù nên đã bị mất một mắt! Một con mắt còn lại nhìn đời nửa đen nửa trắng. Phần con mắt mất ánh sáng là một hố đen sâu thẳm, nửa trắng là chút ánh sáng sót lại để nhìn màu sắc trên đời, nhất là với người họa sĩ, ánh sáng là nguồn sống, là niềm hy vọng. Hai câu thơ cuối: “Chập chờn nửa giấc canh thâu, Cười say bên ngọn đèn dầu nửa khuya.”
Nhà thơ nặng tình với quê hương. Dù đang sống tha hương, nhưng tâm hồn vẫn quanh quẩn nơi quê nhà. Đêm khuya thao thức bên ngọn đèn dầu, nghĩ chuyện nước và thấy bất lực trước thời cuộc, nên nhà thơ cười để tự chế nhạo mình cũng là chế nhạo những nhiễu nhương đảo điên sự đời. Chữ say ở đây không phải vì rượu mà say vì tê tái đau buồn cho mệnh nước nổi trôi, quê hương vẫn lầm than. Sau bao năm dưới xã hội chủ nghĩa, dân vẫn nghèo, vẫn phải quay quắt vì miếng cơm manh áo mưu sinh. Còn những kẻ cơ hội trở nên giàu có, chìm đắm trong vật chất đã đánh mất lương tâm. Người cầm quyền thì mải mê tranh đoạt quyền lực, nên đã xa rời niềm đau nỗi khốn cùng của dân đen, khiến con người và đất nước đang mất dần bản sắc tình tự dân tộc! Bài thơ dù viết đã lâu nhưng vẫn mang tính hiện thực về một xã hội Việt Nam bị tha hóa hôm nay.
Từ Hội Họa Đến Thư Họa
Trời phú cho Vũ Hối một bàn tay tài hoa để vẽ và một trái tim đa cảm để làm thơ. Năng khiếu bẩm sinh đó đã mở cánh cửa nghệ thuật cho người nghệ sĩ bước vào con đường hội họa để thành danh. Ông vẽ từ tranh sơn dầu qua tranh lụa. Từ hiện thực đến siêu thực, nên khi chuyển sang thư pháp không khó khăn mà còn đầy chất sáng tạo. Thư pháp là nghệ thuật viết chữ đẹp đã có từ hàng ngàn năm trước đối với văn tự của nhiều nước trên thế giới. Ngày xưa ở Trung Hoa đời Đường có những nhà thư pháp nổi tiếng như Vương Hi Chi, Vương Hi Hiến, Nhan Tài Khanh, Liễu Công Quyền. Ở những nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, thư họa là nghệ thuật dùng bút lông mực tàu để viết chữ như vẽ những câu thơ, câu đối, câu ca dao, hay ngạn ngữ, danh ngôn bằng chữ Hán, chữ Nôm. Thuở xưa, nước ta có những nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến. Kể từ khi có chữ quốc ngữ có vài người như các nhà thơ Đông Hồ, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương cũng đem thư pháp vào chữ Quốc Ngữ trước Vũ Hối. Mặc dù bước vào con đường thư pháp sau, Vũ Hối đã sáng tạo ra lối vẽ riêng để thành trường phái Luân Vũ Họa hay Hội Họa Sinh Động (Paintings in Motion) để lột tả hết sắc thái độc đáo của con chữ. Để diễn tả thần khí của thư họa nét vẽ mang sắc thái con chữ có lúc chứa ý chí rực lửa theo lối ‘hỏa tự’, có lúc trầm mặc tĩnh lặng chứa tư tưởng hiền triết theo lối ‘thủy tự’ diễn tả qua những đường nét nghệ thuật viết chữ Việt, tạo thành bức tranh rồng bay phượng múa.
Vũ Hối Và Những Sinh Hoạt Nghệ Thuật Bên Trời Âu
Năm 1997, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Chiêm Bao Trở Giấc, xuất bản năm 1997.
Tháng 9 năm 2002, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Mây Ngàn, viết chung với thi sĩ Hoài Việt TS Nguyễn Văn Hướng. Thi phẩm khổ lớn, giấy màu, láng, rất đẹp do nhà xuất bản Anh Em ở Na Uy in năm 2002. Dịp này họa sĩ Vũ Hối mang tặng tôi bức tranh lụa Đôi Chim Trên Cành Trúc, màu sắc, phong cảnh thật đẹp.
Mộng Hòa Bình (Vũ Hối)
Trong cuốn tuyển tập đặc biệt Vũ Hối Nghệ Thuật Thư Họa, khổ lớn, giấy láng, hình màu rất đẹp do nhà xuất bản EM T.MO S.J Magazine in năm 2007, người viết được thi họa sĩ chọn một tấm hình sinh hoạt ngày ra mắt sách và thư họa của Vũ Hối năm 1997 tại Paris, do Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris tổ chức, để đưa vào tuyển tập cùng với nhiều tấm hình của sinh hoạt khác.
Tháng 6 năm 2008, người viết và nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, tác giả nhạc phẩm tiền chiến vang bóng một thời “Trăng Mờ Bên Suối” sang Washington, D.C. ra mắt sách và CD nhạc, do Hội Văn Bút VN Hải Ngoại tổ chức. Dịp đó họa sĩ Vũ Hối đã tặng chúng tôi mỗi người một bức thư họa.
Vào năm 2009 họa sĩ Vũ Hối cùng một số anh chị em văn nghệ sĩ từ Mỹ, Canada, Âu Châu sang Paris sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề “Thu Tao Ngộ”. Sau buổi sinh hoạt, đêm đó trở về nhà tôi, hai người bạn thời thơ ấu Vũ Hối và Nguyễn Thùy cùng nhau tâm sự. Sáng hôm sau trong lúc dùng điểm tâm, Vũ Hối nói:
“Mình với Nguyễn Thùy nói chuyện đến gần sáng.”
Nguyễn Thùy tiếp:
“ Hai đứa chỉ nói về số bạn bè tan tác sau 1975.” Rồi vừa cười vừa hỏi: “Nhớ lại chiều qua nơi phòng khánh tiết, một số đông các ông các bà, cả những cô trẻ vây quanh Vũ Hối xin ‘thư họa’. Nhiều bà, nhiều cô xin như thế, Hối có ‘thư sướng’ không?”
Vũ Hối cười trả lời: “Mệt thấy mồ. Sướng con mẹ gì. Dĩ nhiên, được mến mộ thì cũng vui lắm. Mà sao Thùy hỏi lạ vậy?”
Nguyễn Thùy trả lời:
“Tôi bảo có ‘thư sướng’ không chứ có bảo ông ‘sướng’ đâu?” Ông có biết ‘thư sướng’ là từ Hán Việt. Theo tự điển Nguyễn Văn Khôn là ‘khoan khoái, thoải mái, dễ chịu’ chứ có phải ‘sướng’ theo nghĩa thông thường đâu”. Rồi Nguyễn Thùy hỏi tiếp:
“Có người nói ‘thư họa là vẽ chữ’. Có như vậy không?”
Vũ Hối: “Thì phần nào cũng có thể nói thế. Còn Thùy nghĩ sao?”
Nguyễn Thùy trả lời:
“Rất phục Hối vì Hối là người đầu tiên đã đem chữ viết VN vào hội họa. Thêm nữa, theo mình ‘Thư họa là đem thơ vào họa’. Hối đã thư họa nhiều câu danh ngôn, nhiều câu thơ trong một số tác phẩm nổi tiếng và số thơ của nhiều người. Nhưng mình nhắc Hối chỉ thư họa những câu thơ nào sáng giá, hay đẹp, chứ đừng vì cảm tình thư họa những câu thơ không hay đẹp gì khiến nhiều người có thể nghĩ ‘Hối đã khiến ngón thư họa của Hối trở nên tầm thường.’”
Nguyễn Thùy quay sang tôi hỏi:
“Anh quan niệm thế nào là hội họa?”
Tôi vội xua tay trả lời:
“Anh phải hỏi anh Vũ Hối chứ sao lại hỏi tôi?”
Nguyễn Thùy tiếp:
“Thấy anh thích tranh lắm sao không có ý kiến?”
Vì muốn chấm dứt câu chuyện để còn thời gian chuẩn bị cho cuộc du ngoạn, tôi nói:
“Theo tôi, hội họa là những cảm xúc mạnh, pha chút tưởng tượng của họa sĩ đã kết hợp màu sắc, ánh sáng, bóng tối thể hiện qua những đường nét đậm nhạt để thành tác phẩm. Nhưng bức vẽ không phải là sự sao chép cho giống với hình mẫu, mà phải sáng tạo để tác phẩm có nét riêng, nghĩa là phải độc đáo cả nội dung lẫn hình thức.”
Vũ Hối:
“Một quan niệm rất hội họa.”
Hai người cứ mải mê nói chuyện, nên tôi thúc dục các anh dùng điểm tâm nhanh để các bạn đến đón đi chơi. Nhưng Nguyễn Thùy vẫn gân cổ lên nói:
“Mình chẳng biết gì về hội họa, nhưng lại ưa nói quan điểm của mình về hội họa. Theo mình, hội họa là thứ nghệ thuật tĩnh. Nó sôi nổi trong trầm mặc, nó động trong bất động, nó càng đón nhận khinh bạc càng trở nên cao trọng, lâu dài. Mình đã viết như thế trong truyện “Mây Rồng”, có tặng Hối, Hối thấy sao?”
Vũ Hối đáp:
“Có đọc. Truyện hay nhưng quan điểm hội họa nơi quyển đó cao kỳ quá, khó ai thực hiện được. Mình chưa đủ khả năng để kết hợp cả hai lối ‘công họa và tâm họa’ như Thùy nói. Mà chắc cũng khó có người làm nổi. Mình già rồi, sức yếu nữa nên khó lòng nghiên cứu, học hỏi thêm để có thể có được nhiều tác phẩm sáng giá hơn.”
Nguyễn Thùy:
“Nếu có thêm càng tốt. Nhưng với bao tác phẩm đã nổi tiếng, chừng ấy, mình thấy Hối đã đem lại cho Việt Nam một tiếng vang khá lớn cho nền hội họa VN rồi. Mình mừng và vui hơn nữa là Hối là nguời Quảng Nam, đồng hương với mình, xứ Quảng được thêm một ‘nhân tài’ về hội họa thì cũng hãnh diện lắm chứ.”
Tôi đành phải cắt ngang câu chuyện của các anh, và hẹn tối về sẽ để các anh tha hồ nói. Dùng điểm tâm vừa xong thì các bạn cũng vừa đến. Chúng tôi gồm có nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, nhà văn Nguyễn Thùy, họa sĩ Vũ Hối và tôi cùng đi Giverny thăm viện bảo tàng của danh họa Claude Monet, cha đẻ trường phái ấn tượng. Con đường từ Cergy đến làng Giverny chạy xuyên qua vùng Vexin français, bình nguyên phía Tây Bắc Paris, vùng đất phì nhiêu phủ màu xanh của đồng cỏ, ruộng lúa mì, cụm rừng… Sông ngòi chảy uốn khúc, xoáy mòn lớp đất vôi tạo nên một địa hình mấp mô gồm đầm lầy, thung lũng và đồi gò nối tiếp nhau. Kỳ vĩ hơn tất cả chính là dòng sông Seine, cửa ngõ thông thương từ Paris ra biển cả. Dòng sông chảy ngoằn ngoèo soi bóng hàng cây dương liễu, sườn dốc cheo leo, những tòa dinh thự lâu đài… Từ xa xưa, nơi đây đã in dấu chân từng đoàn quân La Mã. Những phế tích do tàn phá của chiến tranh suốt nhiều thế kỷ chứng tỏ từ lâu dân cư đã sống gắn bó với mảnh đất và dòng sông. Do cảnh sắc độc đáo cùng với môi trường sinh vật phong phú, một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập tại vùng này vào năm 1995 (Parc naturel régional du Vexin français). Thỉnh thoảng dọc bên vệ đường hay giữa cánh đồng ta còn gặp những cây thập giá bằng đá vôi chạm trổ, bốn nhánh hình tam giác, người xưa dùng làm cột mốc ranh giới giữa các xứ đạo, các đất đai sở hữu. Ngày nay di sản nông thôn này trở thành biểu tượng cho vùng Vexin français. Làng Giverny nằm dọc theo sườn phía Nam dãy đồi, bên cạnh hợp lưu nơi sông Epte đổ vào sông Seine.
Trong lúc anh Nguyễn Thanh mải mê lái xe tìm đường, anh Nguyễn Bảo Hưng vui vẻ cất tiếng: “Anh Vũ Hối từ Mỹ sang, lại là họa sĩ, hôm nay được bọn mình dẫn đi thăm Giverny là trúng tủ rồi đấy.” Tuy không phải là họa sĩ, nhưng thích tìm hiểu về hội họa, đặc biệt là trường phái ấn tượng, anh Nguyễn Bảo Hưng giải thích: “Anh phải biết, với người Mỹ, Giverny được coi là cái nôi của hội họa ấn tượng và là chốn hành hương của hầu hết các đoàn du khách Mỹ viếng thăm Pháp. Thực ra Claude Monet không phải là người sáng lập ra trường phái ấn tượng. Sở dĩ tên tuổi ông được gắn liền với hội họa ấn tượng, ấy là nhờ nhà phê bình Loui Leroy, trong một bài báo, đã dùng từ impressionniste để nói lên cảm nhận của mình trước bức họa Rạng Đông (Soleil Levant, 1972), được Claude Monet đem ra trình làng tại cuộc triển lãm do ông cùng một nhóm họa sĩ đứng ra tổ chức riêng vào năm 1974 tại Paris. Thế là từ Impressionnisme được ghi vào sổ bộ đời hội họa từ đấy, để nói về trường phái Ấn Tượng. Còn nói rằng Giverny là cái nôi của hội họa ấn tượng cũng không hẳn đúng. Bởi vì tất cả những bức tranh mang đường nét ấn tượng hầu hết đều được các họa sĩ theo trường phái này như Manet, Sisley, Pissarro, Renoir v. v… thực hiện trong các thập niên 1860, 1870 và tại nhiều địa điểm không gian khác nhau. Chỉ từ sau 1883 Monet mới tới trú ngụ tại Giverny thuộc hạt Eure, không cách thành phố Rouen bao xa. Nhưng vì ngôi nhà xinh xắn với khu vườn phô bày đủ mọi sắc hoa, và đặc biệt cái đầm hoa súng (l’étang des nénuphars) với cây cầu kiểu nhật (le pont japonais) duyên dáng được dùng làm đề tài cho nhiều bức tranh ngoạn mục, đã khiến địa danh này trở thành đối tượng viếng thăm của khách yêu chuộng hội họa trên toàn thế giới.”
Câu chuyện tới đây thì cũng là lúc anh Nguyễn Thanh bắt đầu lái xe đi vào thành phố Auvers Sur Oise. Lần theo dấu vết xưa qua những phiến đá tường đã phủ màu thời gian, chiều xuống ánh nắng dần phai nhìn con phố cổ bên dòng sông Oise trầm mặc hơn. Nguyễn Thanh bỗng dừng xe trên con đường chính, ngay trước quán trọ Ravoux, trạm dừng chân chót của Van Gogh. Chúng tôi ngẩn ngơ trước ngôi nhà trọ, nay đã được chỉnh trang lại bộ mặt trông sáng sủa hơn. Nhưng trong lòng không khỏi bồi hồi nghĩ tới tới hai tháng cuối đời của nhà danh họa này trên căn gác xép chạm mái. Còn đang trầm ngâm suy tưởng bỗng nghe tiếng Nguyễn Thanh kêu gọi qua công viên bên cạnh nơi có bức tượng đồng Van Gogh do Zadkine sáng tác. Sau khi chụp một tấm chung lưu niệm, đứng cạnh tượng, Vũ Hối thở dài than:
“Trông Van Gogh khốn khổ quá, như kẻ đi lang thang, bụi đời!”
Nguyễn Thanh mở ống kính ngắm chụp, sau khi bấm máy liền góp ý: “Van Gogh đã từng thố lộ: ‘Khi tôi càng xấu xí, già, ác độc và nghèo, tôi càng tìm cách chuộc lại những thất bại ấy bằng cách làm cho màu của tôi rực rỡ, cân đối, tỏa sáng.’”
Từ khu nhà ga cũ đến ngôi giáo đường cổ, tất cả chúng tôi theo đường lên dốc khá quanh co, tìm đến ngôi nhà thờ nơi bìa làng. Van Gogh đã dừng chân nơi đây và họa bức tranh mặt ngoài hậu cung nhà thờ, diễn tả một kiến trúc không theo phép phối cảnh, nhưng bằng những đường cong quẹo. Anh Vũ Hối đi tới đi lui trên dốc đá góc nhà thhờ, ngắm từng chi tiết như tìm cách đứng đúng chỗ Van Gogh đặt giá vẽ, rồi mới nâng máy lên thu hết hình ảnh vào ống kính. Từ ngôi nhà thờ theo con đường làng ra khỏi vòm cây phong là cánh đồng mênh mông hiu quạnh, nơi an nghỉ của danh họa Van Gogh và ngôi mộ bên cạnh là người em trai Théodore. Trong hoang vắng, đứng trước hai ngôi mộ quá đơn sơ của họa sĩ nghèo, mộ chỉ lấp mà không xây, bia được cuốn bằng thừng! Đất Trời cũng cảm động, xót xa cho người họa sĩ tài hoa, nên kết những loài hoa cỏ đầy màu sắc rực rỡ thành tấm thảm phủ lên ngôi mộ. Anh Vũ Hối và Nguyễn Thùy lần đầu đến thăm nên xúc động mạnh rướm lệ. Vũ Hối từ từ thu mình ngồi cạnh mộ Van Gogh, anh im lặng nhưng chắc hẳn lòng đang thổn thức? Trên khuôn mặt buồn bã ấy có chút gì thương tiếc và ngưỡng mộ một danh tài hội họa thế giới bạc mệnh nằm trên cánh đồng hoang vu! Sau khi thăm mộ Van Gogh và người em trai Théodore, chúng tôi đi thẳng ra cánh đồng trước mặt đến nơi đã ghi dấu kỷ niệm họa phẩm Đồng Lúa Mì và Đàn Quạ. Đứng trước thiên nhiên, mường tượng lại bức tranh, chắc hẳn trong mỗi người chúng tôi đều có cảm nhận riêng về hình ảnh đầy bí ẩn: “Đàn quạ đen bay sà trên đồng lúa chín vàng dưới bầu trời màu xanh sẫm như báo hiệu cơn dông sắp đổ xuống?”
Chúng tôi định đi tiếp vào thăm làng, nhưng con đường đến đây chia làm ba ngã, biết chọn ngã nào? Anh Vũ Hối bảo:
“Van Gogh vẽ đường cho chúng ta, nhưng không chỉ dẫn rõ ràng. Vậy thì đi đâu cũng được.”
Nguyễn Thanh bảo đường quẹo tay trái trở về nhà thờ. Anh Bảo Hưng khuyên nên đi thẳng. Tất cả chúng tôi theo hướng đó.
Tối hôm đó về nhà, chúng tôi thức khuya nói chuyện. Nguyễn Thùy bảo Vũ Hối:
“Hai họa sĩ đều nổi tiếng nhưng một ‘vừa nổi tiếng vừa nổi miếng’ (ý nói có tiền, giàu) còn một thì ‘vừa nổi tiếng vừa nổi điên’, còn Vũ Hối thì nổi gì?”
Vũ Hối trả lời: “Chẳng nổi gì cả, đời quá nhiều bầm giập chỉ ‘nổi chìm’ thôi!”
Họa sĩ Vũ Hối là một nghệ sĩ tài hoa nhưng nhiều thăng trầm. Sự nổi tiếng về hội họa đã làm lu mờ phần nào mặt văn thơ, cho dù nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho đời những vần thơ hay, nhưng công chúng tìm đến anh qua hội họa. Tôi hỏi Vũ Hối, “Giữa thơ và hội họa, nếu phải chọn một, anh chọn cái nào?”
Vũ Hối: “Mình xin chọn cả hai. Nếu tách ra là chết (!), vì Thư Trung Hữu Họa.”
Trước năm 1975 và đến bây giờ, họa sĩ Vũ Hối luôn luôn chân thành với tình bạn. Ở trong hoàn cảnh nào, dù lúc thăng hay trầm, con người đó vẫn thế, vẫn không xa cách với bạn. Bản tính hiền hòa đôn hậu và trung nghĩa đã được các bằng hữu rất qúy trọng. Họa sĩ Vũ Hối chọn một lối sống hòa nhã, an lạc. Ông mê say văn học nghệ thuật, xem nhẹ vật chất, mà chỉ trọng tình người. Ngoài những tác phẩm sơn dầu vẽ chân dung các yếu nhân, Vũ Hối còn vẽ những bức tranh sơn dầu khác ở các thể loại phong cảnh, ấn tượng. Những tác phẩm đó đều thể hiện tấm lòng tha thiết của ông đối với quê hương, đất nước. Những tác phẩm: Cảnh Làng Quê, Con Trâu, Cầu Tre, Lũy Tre, Phố Cổ, Ven Sông, Quê Hương với dòng sông Thu Bồn, Tình Mẫu Tử, v.v… dù xa xăm nhưng vẫn ẩn trong tâm khảm. Tác phẩm Chim Bồ Câu đã nói lên sự khát khao tự do, sự yên bình, ước mơ của nhân loại.
Con đường văn nghệ của Vũ Hối mang hương thơm tình tự dân tộc nơi xứ người. Đã có biết bao người tiếp nối ông đi trên con đường thư họa. Điều làm cho ông hãnh diện và sung sướng là người con trai của ông là họa sĩ Vũ Quốc, một họa sĩ tài hoa chuyên về sơn dầu đã từng thành công trong những cuộc triển lãm. Rồi đây, họa sĩ Vũ Quốc theo con đường văn nghệ của cha, thi họa sĩ Vũ Hối và của bác ruột là cố giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ký, gieo những bông hoa đẹp cho đời.
Văn Học Nghệ Thuật quả có một sức cuốn hút lạ lùng. Hễ ai đã vướng vào nó thì cả đời khó dứt. Muốn bỏ nó để đỡ gánh tâm sức, nhưng nó lại chẳng phụ mình, đành phải theo đến cùng! Con đường nghệ thuật bất tận, mênh mông ý tưởng, đa chiều và muôn lối. Nhưng người làm nghệ thuật vẫn thích đi chung lối sát nhau, đôi khi vướng nhau vấp ngã! Chỉ có những kẻ đam mê nghệ thuật một cách say đắm mới đi trọn con đường đến cùng, dù là gian nan, trắc trở, thiếu thốn… Đó là nghệ sĩ.”
Đỗ Bình, Paris 16.01.2017
****Nguồn: sangtao.org
-
THANKSGIVING: TẠ ƠN
THANKSGIVING: TẠ ƠN
T ạ ơn tất cả mọi người
H ồng ân Đức Phật dạy đời trầm luân
A n cư xứ Mỹ thập phần
N gười ta thật sự rất cần thương nhau
K hai tâm bố thí cho mau
S ẻ chia những nỗi đớn đau với đời
G ửi nhau hỉ xả nụ cười
Í t nhiều gắng giúp những người xung quanh
V inh danh chiến sĩ đấu tranh
Í t ra họ đã hy sinh phận mình
N hư ta đối xử chân tình
G iữ cho thế giới hòa bình mới hay!!
Tha Nhân cảm tác, Camthành (Nhân lễ Tạ Ơn) 2013
-
NIỆM KHÚC XẾ CHIỀU
NIỆM KHÚC XẾ CHIỀU!
Lặng nhìn bóng xế về ngang
Mùa thu đời cũng uá vàng sang nâu
Quốc kêu nhắc khúc u sầu
Từ khi mất nước bể dâu đổi dời
Trầm ngâm suy niệm đôi lời
Phép huyền vi níu bóng đời được chưa?
Chuyển vần mấy lượt nắng mưa
Lần xem ký ức thấy thừa lệ rơi!
Ta như lạc cõi chơi vơi
Niềm đau rỉa rói tim côi tới giờ
Cung sầu đầy ắp hồn thơ
Ánh trăng khuya lạnh sương mờ đẫm mi
Gió ru trầm khúc sầu thi
Vẳng nghe lá khóc âm i cuộc tình!
Tình Non tình Nước tình mình
Nước Non Non Nước Nước sinh khí Hùng!?
ThaNhân, Camthành Sept 9, 2020
-
TÔI VẪN ĐỢI
-
Phố Vắng Em Rồi.
-
Ta Ơn Trời
-
Chung Thủy
-
HUYỀN THOẠI VỀ THẦY TUỆ SỸ
-
Hòa Bình Bắt Đầu Bằng Một Nụ Cười
-
Bài Ca Hạnh Ngộ
-
TÌNH NGƯỜI TRONG CUỘC SỐNG
Một buổi tối thật êm đềm, không khí dịu dàng lan tỏa trên vạn vật và cũng nhẹ nhàng len lõi vào lòng người – Khi nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời đã có một buổi họp mặt thân thiện tại VietLive Studio, của chủ nhân Tăng Bảo Cang trên đường Beach Blvd. thành phố Westminster Nam California. Cuộc họp này được diễn ra cũng nhằm mục đích mừng chị Tâm An thoát tai họa thiên nhiên bất chợt; ngoài ra còn họp mặt hàn huyên của mùa thu; và đặc biệt mừng sinh nhật của ca sĩ khả ái Thụy Lan.
HAPPY BIRTHDAY THỤY LAN
Bầu không khí vui tươi trong hội trường ấm cúng đầy ắp tình người, ai nấy lộ vẻ rất mừng rỡ được gặp lại nhau sau một thời gian vắng bóng. Những nụ cười nở rộ trên môi của những gương mặt thân thương, đã phát xuất từ nét đẹp của những tâm hồn nghệ sĩ phóng khoáng. Như khoa học gia Faraday đã đặt “tình người” vào vị trí cao quý vượt hẵn những thứ tầm thường, ông từng viết: “Mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ còn lại tình người”. Thật vậy, không gì quý giá hơn tình gia đình, tình bạn hữu, tình người… chân thành trao cho nhau. Chúng tôi đã có được những khoảnh khắc đáng ghi nhớ trong cuộc sống của đêm thứ bảy 11 tháng 11, năm 2023 – Tất cả do sự mời gọi nhiệt tình của chị Tâm An, một người có tâm hồn nhân hậu luôn dành cho tha nhân. Rất cảm động khi nghe chị bày tỏ: chị rất may mắn thoát chết sau vụ hỏa hoạn xảy ra, chị cảm thấy cuộc đời quá ngắn ngủi và phận người thì mong manh…Do đó, chị mong muốn được gặp lại bạn bè khi còn có cơ hội. Thành thật cảm tạ tấm lòng rộng mở của chị và chúc mừng chị được tai qua nạn khỏi và cầu mong chị luôn được bình an.
Minh Thư, TS Lê Nguyễn Nga, Nguyễn Đại Thành, một thân hữu bạn chị Tâm An
NV Nguyễn Quang, NV Việt Hải, NV Khánh Lan, Sử Gia Phạm Trần Anh, Thụy Lan, Mộng Thủy, NV & KG Vương Trùng Dương
Dàn ca sĩ xịn 3 sao: Tăng Bảo Cang, Jean Paul Michael, Thụy Lan, Minh Thư, Tuấn Minh, Hào Hiệp
Đêm nay, cũng là đêm hội ngộ mùa Thanksgiving, mọi người được quây quần bên nhau, để hàn huyên tâm sự, chia sẻ nhau những mẫu chuyện vui buồn trong cuộc sống. Hơn thế nữa, được cùng nhau hưởng niềm hạnh phúc chan hòa trong tiếng hát với cung đàn có khi thật êm đềm, cũng có lúc rất vui nhộn. Lại thêm được thưởng thức những món ăn thuần túy quê hương, nào là: cơm chiên, bánh bèo, bánh bột lọc, gỏi, nước trái cây, bánh sinh nhật, trái cây tươi, chè khoai môn, gà chiên, chả giò, chuối chiên v.v…Dịp họp mặt đêm nay của nhóm NVNT&TTG như để hâm nóng tình bạn hữu đã vài tháng cách xa.
Thật vui biết bao! Khi được hội ngộ những nhà văn quý mến như: anh Nguyễn Quang, Trần Việt Hải và phu nhân Lệ Hoa, Phạm Quốc Bảo, Vương Trùng Dương, Vi Khiêm và phu nhân Đào, Phạm Trần Anh, NV Khánh Lan và phu quân Mạnh Bỗng, nhà thơ Lê Nguyễn Nga cùng Minh Thư, ca nhạc sĩ Lâm Dung, Ngọc Quỳnh, Minh Khai, Minh Châu, Lê Minh Nguyên, Vũ Hoàng Hải, Bùi Văn Rậu, Hiệp Nhiếp Ảnh, Tuấn Minh & Tuyết Mai, Lisa & Trần Hào Hiệp, Anh Đức, Tăng Bảo Cang, Nguyễn Đại Thành, Ngọc Châu, Hùng Ngọc, Tony Hiếu, Thụy Lan và phu quân Jean Paul Michael, Mc. Mộng Thủy, v.v…Thời gian và cơ hội thật quý và hữu ích cho chúng ta được đến với nhau bằng tấm chân tình, tình bạn hữu, tình nghĩa văn chương…Nhưng cũng thật tiếc về sự vắng mặt của các vị giáo sư khả kính: Trần Huy Bích, Dương Ngọc Sum, Quyên Di, cùng nữ sĩ Dương Hồng Anh, và NV Người Tù Cuối Cùng Phạm Gia Đại v.v…
Thêm một niềm vui nữa là, hôm nay mọi người có mặt trong buổi tiệc chúc mừng sinh nhật cho Thụy Lan, người đẹp thật rạng rỡ của xứ Huế. Chiếc bánh sinh nhật được trang trí rất đẹp mắt do nhà văn Vương Trùng Dương đã tặng để mừng sinh nhật Thụy Lan, được cắt ra để chia sẻ niềm vui cũng như sự ngọt ngào, sau khi cả nhóm cùng cất tiếng hát “Happy Birthday…”Trong tiếng đàn tiếng hát vui tươi…cầu chúc Thụy Lan ngày sinh nhật tràn đầy niềm vui bên cạnh phu quân Michael.
Kiều My cảm ơn nhà văn Vương Trùng Dương đã chụp những bức ảnh rất đẹp cho buổi tiệc. Những bức ảnh quý giá này được cho vào bài viết của Kiều My, làm tăng thêm ý nghĩa của bài; cũng như lưu niệm những hình ảnh dễ thương mãi mãi trong lòng mọi người.
Mạnh Bổng với Autumn Leaves
Ngọc Châu với Lệ Đá
Một chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn rất hào hứng qua những giọng hát như: anh Tuấn Minh với Bài tình Ca Cho Em; Trần Hào Hiệp liên khúc Phượng Hoàng; Vũ Hoàng Hải Ảo ảnh; Mộng Thủy Thu Ca; Tuấn Minh Tuyết Mai It’s Now Or Never, Một Ngày Vui Mùa Đông; Mạnh Bỗng Les Feuilles Morte; Kiều My Besame Mucho; Đào Cao Nguyên Ngậm Ngùi; Jean Michael Thụy Lan Main Dans La Main; Lâm Dung Ai Đưa Em Sang Sông; Minh Thư Top Of The World; Tăng Bảo Cang Il Fault Toujours Un Perdant (Nàng); Ngọc Quỳnh Về Đây Nghe Em; Ngọc Châu Lệ Đá; anh Đức Le Jour Le Plus Long; Hùng Ngọc Niệm Khúc Cuối; Lệ Hoa Gặp Nhau Làm Ngơ; Tony Hiếu nếu Có yêu Tôi…với Keyboardist Phạm Ngọc Tú vui chơi ca hát đến nửa khuya.
MC Mộng Thủy với Thu Ca
Theo Kiều My, buổi tiệc họp mặt đêm nay có thể gọi là “hội ngộ Mùa Thu Tạ Ơn”, MC Mộng Thủy cất tiếng hát qua bài “Thu Ca” (của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương) vốn là một tuyệt phẩm tango kinh điển của âm nhạc Việt Nam, khi không gian ngoài kia đang vào Thu.Tăng Bảo Cang cho biết anh ca tặng bài tình ca của Hervé Vilard.. “Elle Était Belle” cho đôi sam Jean Paul Michael và Thụy Lan mừng kỷ niệm lễ Bạc 25 năm ấm êm một phần tư thế kỷ chưa hề rời nhau nửa bước đường tình, khi mà anh chị Thụy Lan + Michael song ca bài Main Dans La Main, rồi nghe tình ca Elle Était Belle để cảm ơn em, hay tạ ơn thời gian cho đôi uyên ương hạnh phúc bên nhau…
“Nàng vẫn ngủ trong vòng tay tôi
Nàng vẫn ngoan hiền bên tôi
Tôi nguyện giữ nàng trong tay
Ôi, nàng xinh dẹp, đẹp mãi trong hồn tôi…)(Lyrics:
Elle etait la, elle dormait dans mes bras
Elle avec moi, c’etait trop bien mais voila
Par habitude, j’etais sur de la garder
Par lassitude, je l’ai perdu a jamais
Elle etait belle, elle etait belle
Je ne voyais qu’elle …)Dancing all night với anh Tony Hiếu trong ca khúc Nếu Có Yêu Tôi
Gần khuya khá lạnh bên ngoài, bên trong studio ca sĩ Thụy Lan cất tiếng lòng đến người tình trăm năm, Jean Paul Michael qua bài tình ca nồng ấm Help Me Make It Through The Night, của nữ ca nhạc sĩ Sammi Smith, sinh quán gốc Orange County, California, đã mất ở Oklahoma City, Oklahoma. Hãy nghe ca sĩ Thụy Lan tâm tình khi dêm về….Anh ơi hãy đến nằm bên em
Anh cho em những nồng ấm
Ái ân thâu dêm tuyệt vời
Xin anh đừng ngại gì cả.Em rất sợ cô đơn khi vắng anh
Hãy yêu em suốt đêm dài
Em rất sợ cô đơn khi thiếu anh
Hãy ái ân thâu đêm dài …(Lyrics:
Come and lay down by my side
Til the early mornin’ light
All I’m takin’ is your time
Help me make it through the night
I don’t care what’s right or wrong
I won’t try to understand
…..And it’s sad to be alone
Help me make it through the night
And it’s sad to be alone
Help me make it through the night
I don’t want to be alone
Help me make it through the night…)Link: Help Me Make It Through The Night
Help Me Make It Through The Night
Trời đã vào Thu, đêm về sương xuống lạnh, buổi họp mặt chóng tàn, mọi người chia tay nhau trong quyến luyến, nhưng rất ấm tình người. Vì trong danh ngôn đã bảo rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi thiếu vắng tình yêu thương!” Nhưng chúng ta ra về mang trong tim những kỷ niệm đẹp, ấm áp tình bạn hữu thân thương… dù bên ngoài tiết trời của đêm Thu đã se lạnh!
Fall 2023, Kiều My.
-
RU CON
-
Paris chiều nắng vàng phai
du lịch mùa thu nước pháp Paris chiều nắng vàng phai
Gió rung cành biếc miệt mài lá xanh
Sông Seine dòng nước long lanh
Effeil mây trắng vờn quanh lững lờ.Thoảng nghe sóng vỗ ven bờ
Chừng theo con nước hững hờ trôi xa
Tới đây ngàn dặm quan hà
Lòng như phố vắng mặn mà trăng khuya.Mịt mùng cổ tháp bên kia
Tưởng tầm tay với lại xa muôn trùng
Bao năm mơ ước tương phùng
Chợt mơ hồ giữa chập chùng mây bay.Đời theo vận nước lưu đày
Bước chân lang bạt tháng ngày phong sương
Dù mai giũ áo vô thường
Cũng ơn độ lượng yêu thương nồng nàn.Gọi người tri kỷ hường nhan
Cùng ta một thoáng rộn ràng hương yêu
Tháp xa sông lạnh nắng chiều
Bên nhau giữa cuộc đời phiêu lãng này.Mặc, tình không chén rượu say,
Cũng lưu luyến mộng, cũng ngây ngất hồn !Paris, le 25 Septembre 2023
Nguyễn thị Khánh Hòa (Lệ Hằng) -
DU LICH PHI CHÂU
Châu Phi: South Africa, Zimbabwe và Boswana từ ngày 28/8 – 13/9/2023 với công ty du lịch Exoticca.
1. South Africa:
South Africa còn được gọi là Cộng hòa Nam Phi, nằm ở phía nam châu Phi. Thường mỗi quốc gia chỉ có một thủ đô nhưng Nam Phi có ba thủ đô: Pretoria – thủ đô hành chính (administrative capital), Cap Town – thủ đô lập pháp (legislative capital) và Bloemfontein – thủ đô tư pháp (judicial capital). Chưa kể Johannesburg tuy không chính thức nhưng cũng được mệnh danh là “thủ đô kính tế”… South Africa nổi tiếng với sự đa dạng về văn hóa, thiên nhiên, lịch sử và có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như Johannesburg, Cap Town, Kruger National Park….
Khởi hành từ phi trường Los Angelos, CA và sau gần 30 tiếng ngừng, nghỉ và chuyển máy bay ở London, chúng tôi đã đến thành phố Johannesburg, South Africa, được đưa về ăn tối và ngủ qua đêm ở khách sạn Garden Court. Sáng hôm sau, chúng tôi được xe của công ty chở đi Mpumalanga để thăm Kruger National Park. Chuyến đi này hơn 7 tiếng đồng hồ, dọc đường nghỉ ăn trưa và thăm ba thắng cảnh nổi tiếng thu hút nhiều du khách yêu vẻ đẹp thiên nhiên: Blyde River Canyon, Three Rondavels và God’s Window.
– Blyde River Canyon: là một trong những thung lũng với hẻm núi đẹp và lớn nhất trên thế giới, nằm ở tỉnh Mpumalanga, South Africa. Hẻm núi này có độ dài khoảng 25 km và được tạo ra bởi sông Blyde River, cung cấp cảnh quan đẹp tuyệt vời với những vách đá đỏ và cây cỏ xanh mướt. Dọc theo đường đi là những điểm đẹp nổi tiếng như Three Rondavels, God’s Window…
– Three Rondavels: là ba đỉnh đá đặc biệt có hình dáng giống với các lều tròn truyền thống của người Bantu, gọi là “rondavels”. Từ đỉnh cao này, chúng ta có thể thưởng ngoạn toàn cảnh tuyệt đẹp của thung lũng và sông Blyde.
– God’s Window (Cửa Sổ của Thượng Đế): là một địa điểm gần với Blyde River Canyon, nổi tiếng với khung cảnh tuyệt mỹ của sự hoang sơ và đa dạng trong thiên nhiên. Từ God’s Window, chúng ta có thể nhìn thấy những dãy núi, khe núi và rừng rậm trải dài đến tận chân trời, tạo nên một cảm giác như đang đứng trước một cửa sổ thiên đàng.
Chúng tôi đến Ingwenyama Resort vào lúc chạng vạng tối, sau khi về phòng, tắm rửa, chúng tôi đã có một bửa tối buffet thật ngon.
– Ingwenyama Conference & Sport Resort: ở thành phố nhỏ White Water trong tỉnh Mpumalanga, cách Johannesburg khoảng 5 tiếng và Kruger National Park 45 phút lái xe. Đây là khu nghỉ dưỡng yên tĩnh, đẹp trang nhã, lịch sự, thức ăn ngon. Chúng tôi sau khi thăm viếng Kruger Natonal Park đã có một ngày nghỉ nhàn hạ và chụp nhiều hình kỷ niệm ở resort này.
– Kruger National Park, South Africa: là một trong những công viên quốc gia hàng đầu của Nam Phi và cũng là một trong những khu bảo tồn động vật hoang dã lớn nhất trên thế giới, nơi du khách có thể trải nghiệm các chuyến safari thú vị và khám phá vẻ đẹp thiên nhiên cũng như có cơ hội thấy nhiều loại động vật hoang dã, bao gồm cả “Big Five” (sư tử, voi, trâu nước, báo, tê giác). Những con thú hoang này thường đi ra ngoài vào sáng sớm hay chiều muộn nên chúng tôi đã phải dậy sớm đi từ 5 giờ sáng. Rất may mắn trong chuyến safari này, chúng tôi đã thấy được nhiều thú hoang trong đó có voi, trâu rừng, báo, ngựa vằn, nai, hươu, linh dương, chó sói, khỉ đột, hươu cao cổ, heo rừng, gà rừng, diều hâu và nhiều loại chim khác… Đặc biệt trong chuyến đi này, chúng tôi đã nhìn thấy một con báo từ xa và một con nai đã bị con báo bắt ăn thịt và treo xác trên một cành cây để dành ăn dần…
Sau ba ngày ở Ingwenyama Resort, chúng tôi lên xe bus về lại phi trường Johannesburg để bay đi Cap Town. Trên đường ra phi trường Johannesburg, chúng tôi đã ngừng lại thăm thành phố Pretoria.
– Pretoria: là thủ đô hành chính của Nam Phi, thường là nơi làm việc của Tổng Thống, nằm ở phía bắc Nam Phi. Pretoria là một trung tâm về văn hóa, chính trị và giáo dục, nổi tiếng với kiến trúc đa dạng và vị trí lịch sử quan trọng. Pretoria còn là quê hương của loài phượng tím nở rộ vào cuối tháng 10, nhuộm tím cả thành phố lãng mạn cổ kính. Nếu Johannesburg sầm uất, hối hả và ngột ngạt thì Pretora ngược lại – có phần chậm rãi và yên tĩnh, cho chúng ta một cảm giác thanh bình êm ả.
Chuyến bay dài hơn 2 tiếng đã đưa chúng tôi từ phi trường Johannesburg đến Cap Town lào lúc 8 giờ tối, sau đó được đưa về khách sạn Cresta Grande nằm giữa trung tâm thành phố. Sau một ngày dài mệt mỏi, chúng tôi đi ngủ sớm sau khi dùng cơm tối ở khách sạn. Sáng hôm sau, chúng tôi bắt đầu đi thăm và khám phá Cap Town, một thủ đô của Cộng hòa Nam Phi từ lâu tôi đã được nghe danh nhưng mãi đến bây giờ mới có dịp viếng thăm và thấy thành phố này quả thực rất đẹp, văn minh, sạch sẽ (đặc biệt các toilet ở phi trường, sạch sẽ nhất trong những toilet trên thế giới nơi tôi từng đến) và người dân hiền lành, lịch sự và tốt bụng hơn trong trí tưởng tượng của tôi nhiều. Chúng tôi đã dùng phương tiện Hop-on Hop-Off Tour bus để đi thăm toàn cảnh Cap Town, đặc biệt ghé thăm những nơi nổi tiếng như Victoria & Alfred Waterfront Marina, Signal Hill, Kirstenbosch National Botanical Garden, Table Mountain, Chapman’s Peak Drive, Boulder Beach, Cape of Good Hope…, tất cả mọi nơi đều để lại cho chúng tôi những ấn tượng tuyệt đẹp.
– Cap Town: thủ đô lập pháp và là thành phố lớn nhất của Nam Phi, nằm ở cực Nam của châu Phi, nơi biển Đại Tây Dương và biển Ả Rập gặp nhau. Vị trí này tạo nên một cảnh quan hùng vĩ với dãy núi nổi tiếng như Table Mountain và 12 Apostles nằm bên cạnh biển xanh biếc, những bãi biển tuyệt đẹp như Camps Bay và Cliffton Beach với bãi cát trắng mịn. Thành phố này có một kiến trúc, lịch sử và văn hóa đa dạng, thể hiện qua nghệ thuật, âm nhạc và ẩm thực đa quốc gia. Đây là một nơi đến tuyệt vời cho những ai muốn khám phá vẻ đẹp và văn hóa của Nam Phi.
– Victoria & Alfred Waterfront Marina: là hải cảng đẹp với nhiều trung tâm thương mại và vui chơi hàng đầu của Cap Town, nơi du khách có thể mua sắm, ăn ngon, thăm bảo tàng viện, dạo chơi, ngắm hải cẩu phơi mình trên bờ trong nắng ấm hoặc đi du thuyền ngắm toàn bộ thương cảng rất đẹp.
– Signal Hill: nằm cạnh núi Table Mountain, là nơi du khách và dân địa phương thường đến để ngắm cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp và bắn pháo hoa vào mùa lễ hội. Đỉnh đồi này có một bảo tàng quân sự và nhiều pháo cổ điển, từng được sử dụng để phát tín hiệu giao thông và báo hiệu thời tiết cho thủy thủ đoàn.
– Kirstenbosch National Botanical Garden: nằm dưới chân núi Table Mountain, là một trong những vườn bách thảo quốc gia đẹp nổi tiếng nhất thế giới với trên 7,000 đủ loại thực vật bản địa được trồng trong khu viên rộng 36 hecta này. Chúng tôi đã có một buổi sáng thư giản yên bình đi trên những con đường mòn ngắm cây cảnh và nghe nhiều tiếng chim hót líu lo.
– Table Mountain: là một đỉnh núi nổi tiếng tại Nam Phi, nằm ở trung tâm của Cap Town, có thể nhìn thấy được gần khắp mọi nơi ở Cap Town. Nó được gọi là “Table Mountain” (Núi Bàn) là do hình dạng phẳng đỉnh của nó, trông giống như một tấm bàn lớn đặt ngang. Table Mountain có độ cao khoảng 1,085 m trên mực nước biển và từ đỉnh núi, có thể nhìn thấy cảnh quan của cả thành phố Cap Town và vịnh Table Bay tuyệt đẹp. Để lên đến đỉnh Table Mountain, chúng tôi đã dùng hệ thống cáp treo hiện đại. Nhưng chẳng may khi lên được đến đỉnh, nhìn xuống dưới chúng tôi chẳng thấy được gì vì lúc đó mây và sương mù bao phủ chung quanh, gió thổi mạnh và trời rét buốt nên chúng tôi chỉ chụp hình loanh quanh rồi một tiếng sau, vội vàng theo cáp treo xuống núi.
– Chapman’s Peak Drive: là một trong những con đường ngắn, 9 km, ngoạn mục nhất ở South Africa, nổi tiếng với các khúc cua quanh co và các chỗ dừng xe vị trí tuyệt vời để ngắm cảnh biển và núi.
– Boulders Beach: là bãi biển ở Simon’s Town, phía nam Cap Town, nơi sinh sống của một loài chim cánh cụt đặc biệt, được gọi là African Penguin hoặc Cape Penguin.
– Cap of Good Hope: nằm ở phía nam của bán đảo Cap Peninsula, là một biểu tượng của South Africa, nổi tiếng với việc có một bảo tàng và những con sóng mạnh mẽ của Đại Tây Dương gặp nhau với biển Ấn Độ Dương, được nhiều du khách viếng thăm và chiêm ngưỡng khung cảnh biển cả và các vách đá cao và đồng cỏ xanh tuyệt đẹp.
Sau 3 ngày 4 đêm ở Cap Town, chúng tôi đáp chuyến bay đế́n thăm một nước khác ở châu Phi: Zimbabwe.
2. Zimbabwe:
Zimbabwe là một quốc gia không giáp biển, nằm ở phía Bắc của South Africa, giữa hai nước South Africa và Zambia, thủ đô là Harare và có khoảng 15 triiệu dân, tiếng Anh là ngôn ngữ chính. Zimbabwe nổi tiếng với Hwange National Park và Victoria Falls, có di sản văn hóa và lịch sử phong phú. Đất nước tuy có nhiều tài nguyên nhưng chưa được phát triễn, phần đông dân chúng sống trong cảnh đói nghèo.
Chúng tôi đến phi trường Victoria Falls Airport của nước Zimbanwe vào khoảng 1:30 pm, được đưa về ở tại Nguni Lodge, cách phi trường không xa, rất xinh xắn, thơ mộng với những mái nhà lợp tranh, hồ bơi và cây cảnh xanh mát chung quanh. Chúng tôi chỉ ở đây có 1 ngày 2 đêm nhưng cũng đã xem được những cảnh đẹp nổi tiếng và có những kỷ niệm vui, buồn lẫn lộn.
– Sunset Cruise on the Zambezi River: chúng tôi đã có một buổi chiều tuyệt vời khi đi trên chuyến du thuyền ngắm hoàng hôn trên sông Zambezi, một trong những con sông lớn nổi tiếng nhất châu Phi. Chúng tôi đã uống rượu vang, thưởng thức những món khai vị bản xứ thật ngon, chiêm ngưỡng mặt trời lặn trên sông tuyệt đẹp và ngắm những con cò trắng, hươu, nai, voi, cá sấu, hà mã ngâm mình trong nước, phơi mình trong nắng hoặc lang thang trên cánh đồng hoang…
– Victoria Falls: thác nước lớn nhất thế giới có chiều rộng khoảng 1.7 km và chiều cao khoảng 108 m (Niagara Falls rộng khoảng 1.6 km va cao 51 m), nằm ở biên giới giữa Zimbabwe và Zambia, phía Nam của châu Phi. Thác Victoria được hình thành bởi nước sông Zambezi cung cấp, từ độ cao 108m đổ thẳng xuống một phiến đá lớn. Kẽ nứt được hình thành rộng khoảng 1.7 km. Từ đó nước sông bị hẫng nên tạo thành một thác nước vô cùng thú vị. Cảnh đẹp ấn tượng này được một nhà thám hiểm người Scotland tên David Livingstone tìm ra vào ngày 16/11/1855. Thác được lọt vào danh sách Di sản thế giới, 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất.
– Kituso Primary School & Village: không nằm trong chương trình du lịch, chúng tôi yêu cầu được đi thăm một làng quê để tìm hiểu đời sống của người dân ở đây và được người tour guide đưa đi thăm trường tiểu học Kituso và một làng quê cách Victoria Falls khoảng 10 phút lái xe. Nói là “trường” nhưng thật ra đó là hai phòng nhỏ lợp mái tôn, trong lớp chỉ có hai cái bàn và vài ba cái ghế, các em bé thay phiên nhau ngồi đọc, viết ở bàn. Hôm chúng tôi đến thăm trúng vào ngày Thứ Bảy, trường nghỉ học nhưng vì được tin có du khách đến thăm nên cô giáo và các phụ huynh đã mang con em ̣mặc đồng phục đến trường, khoảng độ 30 em, tất cả ngồi ở sân đất sau trường, dưới bóng cây, chờ chúng tôi thăm viếng. Nhìn cảnh thiếu thốn của trường và các em, chúng tôi không khỏi xót xa và mọi người chúng tôi đã đóng góp ít nhiều giúp đỡ trường và mua quà bánh cho các em.
Rời trường, chúng tôi được đưa đến một làng nhỏ kế bên gồm 5,6 căn nhà cho 37 người dân ở đó. Một cô bé 14 tuổi và người mẹ được cử làm đại diện tiếp đón chúng tôi. Chúng tôi được cho biết làng không có điện, nước, người dân phải đi khiêng nước cách làng vài ba cây số. Nguyên cả làng chỉ có một cái bếp, một phòng chứa đồ ăn và tất cả mọi người trong làng tụ tập nơi đây để nấu nướng, ăn uống chung với nhau. Họ chỉ có ăn ngày hai bửa, sáng và chiều, thức ăn thường là những loại ngũ cốc địa phương nấu loãng như cháo, hiếm khi có rau trái, thịt thà trung bình 1-2 lần một tuần. Làng không có trường trung học, được cô bé kể phải đi bộ 5 km mới đến trường, trưa nhịn đói…
Chúng tôi ra về sau khi biếu một ́it tiền, lòng bồi hồi thương xót cảnh nghèo khó của dân làng ở đây cũng như của phần đông dân chúng trong xứ sở này và không khỏi liên tưởng cảnh nghèo khổ thiếu thốn tương tự ở những làng quê VN…
Hôm sau, sau khi ăn sáng, chúng tôi lên xe van đi mất hơn một tiếng, băng qua biên giới đến thành phố giáp ranh Kasane, ở hai đêm tại Chobe Safari Lodge nằm bên bờ sông Chobe nổi tiếng để thăm nước láng giềng: Botswana.
3. Botswana:
Botswana là một quộ́c gia không giáp biển, nằm ở phía Bắc của South Africa và giáp ranh với bốn nước Namibia, Zimbabwe, Zambia và South Africa, thủ đô là Gaborone và có khoảng 2.3 dân, ngôn ngữ chính là tiếng Anh. Botswana, trù phú hơn Zimbabwe, có một nền kinh tế mạnh mẽ, chủ yếu là khai thác mỏ kim cương và du lịch, nổi tiếng với động vật hoang dã và một trong những nơi thu hút khách du lịch hàng năm này là Chobe National Park.
– Chobe National Park: nằm ở phía Bắc của Botswana, gần biên giới với South Africa, Zimbabwe và Zambia và là công viên quốc gia lớn thứ ba ở Botswana, lấy tên từ con sông Chobe, chảy dọc theo ranh giới phía Bắc của công viên. Chobe National Park nổi tiếng khắp thế giới về sự đa dạng của động vật hoang dã, bao gồm cả “Big Five”. Cũng như chuyến safari ở Kruger National Park, South Africa chúng tôi ra đi từ lúc 5 giờ sáng, khi chưa rạng đông, trời lạnh như cắt và mỗi người trong xe được phát cho một cái mền quấn người cho ấm. Loài thú chúng tôi nhìn thấy đầu tiên là voi, rất nhiều voi, đi từng đàn, nhìn những chú voi con đi sát cạnh mẹ thấy thật thương và cảm độ̣ng. Đang mãi ngắm voi thì người tài xế nhận được tin có hai con báo, ông ta bảo chúng tôi
ngồi cẩn thận và chạy xe thật nhanh đến đ̣ịa điểm đó vì sợ đến chậm hai con báo bỏ đi mất. Ông chạy xe như bay trên những con đường mòn hẹp, lắm lúc cán trên những bụi cây để đi và đây là lần đầu tiên tôi thấy sự lợi hại của four-wheel drive… Khi đến nơi thì đã có mười mấy chiếc xe chen chúc ở đó để mọi người nh̀ìn ngắm hai con báo trong rừng, một con trên cành cây đang ăn thịt một con nai, một con dưới đất, cách xa mọi người khoảng 300 m. Tôi đã phải vất vả lắm mới nhìn thấy chúng vì quá xa và hình dáng chúng lẫn vào cây rừng, may mà máy ảnh tôi có ống kính dài nên tôi mới có thể trông thấy và chụp hình hai con báo đó. Hôm đó chúng tôi cũng đã nhìn thấy nhiều thú vật hoang dã, có lẽ còn nhiều hơn ở Kruger National Park, như hươu, nai, ngựa vằn, voi, cá sấu, linh dương, heo rừng, khỉ, trâu nước, gà rừng, ngựa vằn, hươu cao cổ… và nhiều loại chim đặc biệt. Chỉ tiếc là trong chuyến đi này chúng tôi đã không nhìn thấy sư tử và tê giác là hai loài thú ngày càng hiếm hoi trên thế giới.
– Sunset Cruise on the Chobe River: Buổi chiều chúng tôi ̣đi du thuyền để ngắm mặt trời lặn đẹp tuyệt vời trên sông Chobe, một trong những con sông nổi tiếng nhất châu Phi. Con sông này là nhịp tim của cả khu vực, tạo thành môi trường sống lý tưởng cho vô số động vật phụ thuộc vào nước, trong đó có hà mã, cá sấu… Trong chuyến cruise này chúng tôi đã thấy nhiều nai, cá sấu, heo rừng, trâu nước, hà mã, nhiều loại chim và nhất là voi, đặc biệt là cảnh đàn voi lội qua sông thật ngoạn mục, voi con dùng vòi quấn đuôi voi mẹ thấy thật thương và cảm động.
Buổi cơm tối tại Chobe Safari Lodge, tôi đã có dịp thưởng thức món đuôi cá sấu rất ngon mềm và những món ăn địa phương khác cũng thật ngon. Hôm sau chúng tôi được chở ra phi trường Victora Falls để bay đến Johannesburg, rồi từ Johannesburg đến London và từ London về lại Los Angelos, một chặng đường dài gần 30 tiếng, kết thúc một chuyến đi thăm châu Phi thật thú vị với những kỷ niệm tuyệt vời khó quên.
Xin mời quí Thầy Cô, quí anh cḥi và các bạn cùng PL đi thăm vài nước châu Phi qua hình ảnh cho vui.
https://photos.app.goo.gl/xZNwRqb5qpSA91UFA
Kính chúc sức khỏe và an lành.
Thân kính,
PLang
Phan Lang
-
Trầm Tử Thiêng – Đỗ Thái Tần: Mối Tình Xa Xưa
Người bạn cố tri Nguyễn Ngọc Chấn nhắn tin cho tôi chị Đỗ Thái Tần bị cancer vào giai đoạn cuối, có lẽ từ giã cõi trần trong nay mai. Trước khi qua đời, chị muốn nói lời cảm ơn với tôi về bài viết nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
Mấy hôm nay tôi bị cảm ho nên không liên lạc điện thoại. Thứ Tư (25/10) chị text cho tôi “Tôi phải vào Emergency 2 lần vì bị tắt tiếng, laryngitis nên đành phải text cho anh đây. Chỉ muốn nói lời cảm ơn anh đã viết bài về anh Lợi (Trầm Tử Thiêng)…”. Đọc những dòng text của chị vô cùng xúc động trước giờ tử sinh… Và không biết gì hơn chỉ cầu mong chị không bị đau đớn, ra đi thanh thản để gặp lại người xưa nơi cõi vĩnh hằng.
Năm 1998, nhà in Westminster Press ra tờ Thế Giới Nghệ Thuật, khổ magazine, giấy láng, full color, chủ bút là Lâm Tường Dũ (cũng là chủ nhân tuần báo Tình Thương), và tôi làm tổng thư ký cả 2 tờ nầy. Với nội dung tờ TGNT thuần túy về lãnh vực nầy nên chọn đề tài cũng dễ để viết. Khi Lâm Tường Dũ đề nghị tôi viết về Trầm Tử Thiêng và nói ông nầy khó tính, đừng đề cập đến chuyện tình (dù chúng tôi cũng biết nhiều) chỉ viết về nhạc lính, quê hương và thân phận người Việt lưu vong, giữ bí mật không báo cho ông biết.
Trầm Tử Thiêng (Nguyễn Văn Lợi), cùng quê hương với tôi ở Quảng Nam. Vào thời điểm cuối thập niên 50, anh có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp (thường gọi là bằng Diplôme) bằng nầy cũng có giá trị vì thi viết và vấn đáp khoảng 15 phần trăm trúng tuyển. Có mảnh bằng nầy cũng có cơ hội lập thân, nếu có chứng chỉ lớp Đệ Nhị, đủ điều kiện nộp đơn vào vài quân trường để được đào tạo thành sĩ quan QLVNCH. Trầm Tử Thiêng theo học trường Sư Phạm Thực Hành một năm ở Sài Gòn, ra trường dạy tiểu học nhưng với chuyên môn nên dạy nhạc ở trung học. Năm 1966 bị động viên vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế Nha Trang, ra trường về phục vụ tại Phòng Văn Nghệ của Cục Tâm Lý Chiến, vì ngạch giáo chức nên cuối năm 1969 được biệt phái về Bộ Giáo Dục và làm việc tại Trung Tâm Học Liệu… Nơi đây có Nguyễn Ngọc Chấn, Trầm Tử Thiêng, chị Đỗ Thái Tần… Năm 1970, cuộc tình Lợi-Tần chớm nở… Thầy giáo, nhạc sĩ Nguyễn Văn Lợi – Trầm Tử Thiêng, nhà nghèo, trong khi tiểu thơ họ Đỗ, con giám đốc mỏ than Nông Sơn, Quảng Nam và chủ tiệm kim hoàn ở Sài Gòn. Chữ “môn đăng hậu đối” đã ngăn cách mối tình đẹp, trong sáng của hai anh chị hồi trẻ.
Trước ngày 30 tháng Tư, 1975, gia đình “nhạc phụ” ngỏ ý cho ghép tên anh Lợi vào gia đình di tản chính thức. Vì tự ái, anh từ chối, viện cớ còn mẹ già em dại, mà thực sự như vậy vì lòng hiếu thảo. Trầm Tử Thiêng lặng lẽ tiễn chân vợ và hai con (con của chị Tần nhưng anh thương như con ruột) chia phôi biền biệt. Cuộc tình của anh đi vào ngõ cụt, nhớ nhung dày vò tim não, tưởng chừng bị chìm đuối. Giai đoạn này anh sáng tác vài tình khúc cho hàng triệu người thưởng thức, nhưng, chỉ một người quặn thắt con tim…
Những đắng cay, đói rét, tù đày không đau buốt bằng sự ngăn cách một đại dương với một nửa trái tim, Trầm Tử Thiêng viết ca khúc để đời “Mười Năm Yêu Em” khi gặp lại chị Tần tại Cali, chị vẫn còn thương yêu anh như thuở nào, trở thành tuyệt phẩm hay và chua xót nhất của tình người.
… Trầm Tử Thiêng phải giấu tên, trốn tránh, tìm đường vượt biên nhiều lần nhưng bất thành, bị bắt ở tù hơn một năm, từ khám lớn Rạch Giá, Trầm Tử Thiêng viết bài “Tâm Ca Của Người Tù Vượt Biển,” sau đó anh bị đày xuống trại cải tạo lao động U Minh, sống chung với anh em công chức cao cấp và sĩ quan QLVNCH…
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng qua đời ngày 25 tháng 1 năm 2000 tại Quận Cam trong hoàn cảnh cô đơn trong khu apparment. Ca sĩ Quốc Việt (Mỹ lai) gọi Trầm Tử Thiêng bằng bố. Quốc Việt tận tình chăm sóc và lo cho “bố Thiêng” đến hơi thở cuối cùng… Buổi tưởng niệm Trầm Tử Thiêng vào trưa Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2020, đặc biệt có sự hiện diện của người bạn đời duy nhất của ông, mối tình được giấu kín gần nửa thế kỷ mà vẫn chưa ngưng rung động…
Tháng 7 năm 2021, tôi viết bài Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng & Những Dòng Chia Sẻ, tôi hỏi anh Nguyễn Ngọc Chấn cuộc tình nửa thế kỷ trước giữa Trầm Tử Thiêng và chị Đỗ Thái Tân có được không? Nghĩa tử nghĩa tận, chị đồng ý vì mối mối tình mang xuống tuyền đài… thầm kín suột cuộc đời không thể nào quên.
Bài viết được phổ biến, còn lưu trữ trên các websites.
Vương Trùng Dương
Little Saigon, Oct 26, 2023
Việt Báo
Trang web Lê Dinh
http://www.ledinh.ca/2021%20Bai%20Vuong%20Trung%20Duong%20Tram%20Tu%20Thieng.html
Long Hồ Vĩnh Long
https://longhovinhlong.blogspot.com/2021/07/nhac-si-tram-tu-thieng-nhung-dong-chia.html
Đặc San Lâm Viên
http://www.dslamvien.com/2021/07/nhac-si-tram-tu-thieng-va-nhung-dong.html
T.Vấn & Bạn Hữu
Dòng Sông Cũ
-
II -Du Lịch Bahamas
…Đến chiều tối sau khi tranh thủ thời gian để di thăm viếng những nơi có danh lam thắng cảnh, hay những kỳ tích lịch sử của xứ đảo thần tiên nầy, chúng tôi liền vào phòng ăn để dùng cơm tối như chiều qua rồi về khách sạn nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, chỉ còn một ngày phù du trên thiên đàng nữa nên chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình đúng như ngày hôm qua. Kéo đến phòng ăn để dùng điểm tâm đã rồi mọi việc sẽ tính sau.
Vì trên xứ Đào Nguyên nầy chỉ ăn hai bữa chính: sáng và tối. Thế nên nhiều du khách dùng điểm tâm như bữa ăn chính luôn để trưa khỏi phải ăn, đợi cơm tối ăn luôn. Vì vậy sau khi dùng một ly cà phê sữa và một miếng bánh ngọt, tôi lại ăn thêm một miếng beefsteak, vài lát cà chua và hai lát bánh mì nữa cho trọn phần cơm trưa; lấy cớ thịt beefsteak ở trên thiên đàng sao mà nó mềm và ngon hơn thịt ở hạ giới!
Không biết có phải thượng đế trên thiên đàng này đã mời ba người Việt Nam vừa trúng giải quán quân quốc tế “Chef de Cuisine” là các cô Maiki Le, tức cô Lê Mai Khanh ái nữ của anh chị Lê Văn Khoa và Ngọc Hà vừa thắng giải Cooking Champion và $10,000 tiền thưởng trong cuộc thi nấu ăn trong chương trình Chopped của Food Network trên truyền hình Hoa Kỳ, phát hình lúc 8 và 10 giờ tối Thứ Ba 16-4-2013 vừa qua, và hai cô Luke Nguyễn (Úc Châu), Christine Hà (Master Chef) lên chỉ huy và hướng dẫn mấy cô cậu hoả đầu vụ trên “Atlantic, the Paradise Island” này hay không mà món nào món nấy đều ngon tuyệt cú mèo cả!
Các du khách từ người Pháp, người Đức, người Anh, người Ý, người Đại Hàn, người Ả Rập, người Ấn Độ, người Tầu, người Mễ Tây Cơ v.v… đều ca ngợi vô cùng.
Cô Maiki Le, tức cô Lê Mai Khanh, ái nữ của nhạc sĩ Lê Văn Khoa và chị Ngọc Hà.
Sau khi dùng điểm tâm xong, chúng tôi lại lên đường để tiếp tục cuộc hành trình săn lùng những cảnh đẹp của xứ thần tiên, nơi có nhiều huyền thoại vang bóng một thời khi Bahamas đang còn là thuộc địa của đế quốc Anh với câu nói bất hủ đã đi vào lịch sử thuôc địa: Đế quốc Anh, mặt trời không bao giờ lặn!.
Đang đi trên đường bỗng thấy con cá đối đang bơi dưới suối thật là đẹp mắt, tôi lấy camera ra chụp ngay vài hình.
Cứ mỗi lần đến một địa điểm khác, nhân viên trực an ninh của địa điểm đó bắt chúng tôi đeo vào tay một vòng tròn, khác với màu sắc của vòng tròn cũ. Biểu tượng này coi như là giấy phép được đi thăm viếng trong địa điểm mới vậy thôi. Sau đó chúng tôi có thể tự do đi ngắm cảnh hay xuống hồ bơi tùy thích.
Vì chúng tôi chỉ lấy vé vào thăm đảo NASSAU có ba ngày thôi nên còn rất nhiều kỳ hoa dị thảo, cũng như những lâu đài tráng lệ nguy nga, những nơi phồn hoa đô hội của xứ bồng lai tiên cảnh này chúng tôi chưa đến thăm được, đành phải ra về vì đi du lịch cũng đã lâu rồi. Thế rồi khi thấy trời đã về chiều, chúng tôi liền đi lui lại để vào trung tâm Marketplace dùng cơm tối. Sau đó cả gia đình kéo nhau đi một vòng dưới ánh sáng chan hòa của đèn điện đủ màu sắc về đêm, để thưởng lãm những bức tượng, những hình ảnh thuộc về lịch sử của quần đảo Bahamas. Chúng tôi cũng đi ngang qua phòng ngồi uống cà phê Starbucks, ghé đến xem các sòng bài ở casino, nơi các du khách vào đây để giải trí, cũng là nơi các tay triệu phú và những người nghiện cờ bạc đốt tiền như đốt giấy vàng bạc.
Chụp hình để làm vua một phút
Lúc đi ngang qua một phòng thấy rất nhiều người vây quanh một chiếc ghế màu vàng đặt trên cao như ghế của vua chúa ngày xưa, tôi liền đến gần để xem. Thì ra có lẽ đây là chiếc ngai vàng của một ông vua nào đó đã trị vì trên quần đảo Bahamas này trong thế kỷ trước. Thấy nhiều người thay phiên nhau lên ngồi trên ghế chụp hình để làm kỷ niệm, tôi cũng leo lên ngồi rồi nhờ người ta chụp một hình để kỷ niệm một phút làm vua trên thiên đàng; dù đây chỉ là thiên đàng của NASSAU, một đảo lớn trong mấy nghìn đảo của quần đảo Bahamas.
Sau khi đi vòng vo tam quốc trong ROYAL TOWER khoảng hai giờ thì trời đã về khuya, chúng tôi liền về khách sạn nghỉ ngơi để sáng mai lên đường bay về Miami.
Sáng hôm sau vừa thức giấc, bà xã tôi mở cửa ra thì thấy mấy tờ giấy nằm trước cửa. Lấy lên đọc thì thấy bản tin thứ nhất là tờ hoá đơn tính tiền, bản tin thứ hai là những lời cám ơn du khách đã quyết định
chọn Atlantic, the Paradise Island, là nơi để đến du lịch. Cuối cùng là xin hẹn gặp nhau lại tại thiên đàng này trong tương lai!
Theo chương trình chúng tôi đã vạch sẵn, sau khi dùng điểm tâm xong, gia đình chúng tôi mang hành lý rời khách sạn ra phòng làm thủ tục để lên xe buýt vào phi trường. Trong lúc ngồi chờ đợi gia đình con gái tôi làm thủ tục, tôi ngồi nghỉ trên chiếc ghế ở gần cổng ra vào. Bỗng có một bà người gốc Phi Châu thân hình mập ú, đến ngồi nghỉ bên cạnh tôi. Tôi liền cất tiếng chào bà ta. Bà ta cũng chào lại để đáp lễ. Để đánh tan bầu không khí im lặng, tôi liền hỏi bà ta:
– Thưa Bà, Bà làm việc trên thiên đàng này phải không?
Bà ta vừa nhìn tôi vừa cười:
– Ở đây là thiên đàng?
Tôi trả lời ngay:
– Thì đây là thiên đàng chứ còn gì nữa! Bằng chứng là trên tấm bảng thật to trong phòng kia cũng như trên các poster quảng cáo đều có chữ PARADISE. Bà thấy trên hình quảng cáo đằng kia kìa: Atlantic, the Paradise Island!!
Nghe tôi nói như vậy bà ta cười hì hì hì hì thật to. Đợi cho bà ta cười xong tôi liền nói:
– Công nhận thiên đường này đẹp thật. Tôi muốn trở lại thăm lần thứ hai mà không được. Tiếc quá!
Bà ta hỏi ngay:
– Tại sao vậy, thưa ông?
Tôi trả lời ngay:
– Thì bà cũng biết đấy, khi người nào chết, Chúa chỉ cho người đó lên thiên đàng một lần thôi! Thế nên làm sao tôi có thể trở lại thiên đường nầy lần thứ hai được!
Tôi vừa nói xong bà ta lại cười hi hi hi hi có vẻ khoái chí vì câu nói hài hước vừa rồi của tôi.
Cuộc đối thoại giữa tôi và người đẹp mập ú gốc Phi Châu vừa dứt thì gia đình tôi gọi lên xe buýt. Thế là lên xứ Đào Nguyên mấy ngày khi giã từ Bồng Lai Tiên Cảnh để bay về lại hạ giới, mấy nàng tiên của Lưu Nguyễn ngày xưa đâu không thấy, lại thấy một nàng tiên gốc Phi Châu mập ú ngồi trên thiên đàng đang vẫy tay chào vĩnh biệt ta! Thôi thế cũng được, miễn sao có Nàng Tiên vẫy tay chào là quý lắm rồi! Được sinh ra rồi sống cho trọn một kiếp người dễ gì gặp được Tiên!
Để đáp lại nụ cười giã từ của Nàng Tiên da đen mập ú, tôi vừa vẫy tay chào từ biệt nàng vừa hát mấy câu trong bản nhạc của nhạc sĩ nào đó tôi đã quên tên mất:
“Yêu nhau, cho nhau nụ cười!
Thương nhau cho nhau một lời.
Một lời thôi vĩnh biệt!
Một lời thôi xa nhau!”
Nhưng rồi thấy nàng tiên lại đứng lên vẫy tay mỗi lúc một mạnh hơn. Xúc động quá tôi liền hát mấy câu cuối trong bài “Vĩnh Biệt” của Nhạc Sĩ Lam Phương để từ biệt nàng:
Thôi kiếp sau gặp nhau
Giờ đã muộn màng
Chỉ biết lỡ làng … !!!Lúc xe buýt sắp chuyển bánh để lên phi trường, chợt nhớ cái ba lô nhỏ đựng máy quay phim, máy ảnh trên lưng tôi đâu mất rồi. Thế là cậu Quang và tôi liền xuống xe gấp để lấy ba lô lên. Vì trong lúc chờ xe buýt, tôi để cái ba lô nhỏ đó ở góc tường nơi chỗ tôi và cậu Quang đứng chuyện trò hồi nãy. Sau khi chạy vòng vo tam quốc gần bốn mươi phút thì xe buýt đến phi trường. Chúng tôi vào trong phòng làm thủ tục hải quan để lên máy bay về Miami. Vì NASSAU, thủ đô của quần đảo Bahamas, không phải là lãnh thổ của Hoa Kỳ nên thủ tục hải quan ở đây được thực thi rất kỹ lưỡng trước khi về lại Hoa Kỳ. Như thường lệ, gia đình tôi cũng đã làm thủ tục hải quan tại phi trường nầy không có gì trở ngại. Riêng cá nhân tôi, vì hôm nay là ngày trở về nên tôi nghĩ rằng, có thể nằm hay ngồi lê lết tại phi trường hay khách sạn, để chờ xe buýt hay máy bay nên mặc áo quần gì cũng được. Vì vậy trong số 5 cái quần dài mang theo, tôi lấy đại cái quần kaki và cái áo ca rô màu xanh đỏ tím vàng mặc vào. Đầu tôi đội thêm cái mũ lưỡi trai màu đen nữa, chân mang giày.
Sau khi tôi bỏ tất cả giày, bóp đựng giấy tờ căn cước, tiền bạc, nón lưỡi trai, nịt, cell-phone vào một cái khay rồi để trên bàn cho chạy qua máy, mọi việc đều êm xuôi. Bỗng anh chàng an ninh phi trường da đen đứng gần tôi bảo tôi đứng riêng một bên để kiểm soát. Không biết vì thấy tôi bề ngoài bận áo quần như thế nó có tưởng tôi là hải tặc từ Caribean đến không. Nằm bơi giữa nắng mấy năm liên tục để chữa bệnh đau lưng nên nước da đã ngâm đen; giờ đây đi tắm biển giữa nắng gần 12 ngày nữa nên nước da càng đen thêm. Đã thế vì chúng tôi còn đi từ hướng Caribean về nên không biết thấy tôi bận áo quần như vậy nó có nghi tôi là hải tặc từ Caribean đến hay không mà chàng an ninh nhất định phải kiểm soát trên người tôi một lần nữa!
Tên “hải tặc” (áo ca-rô, quần kaki) về từ hướng Caribean, đang ngồi chờ xe buýt đến chở vào phi trường NASSAU để bay qua Miami. Bên cạnh là du khách thăm viếng Atlantis, Paradise Island, Bahamas.
Khi tôi đứng riêng ra rồi nó bảo:
– Hands up.
Tôi liền giơ tay lên cao. Khi tôi đưa tay lên cao thì cái quần kaki của tôi rơi xuống đất vì nó rộng quá và không đeo nịt vì tôi đã lấy nịt bỏ trên khay cho chạy vào máy để kiểm soát rồi! Sở dĩ tôi mua rộng quá mà không sửa vì khi mang nịt vào thắt lại, cũng vừa thôi. Vì quần rơi xuống đất nên tôi phải bỏ hai tay xuống chụp nhanh lưng quần lại để quần khỏi rơi xuống. Khi thấy tôi bỏ hai tay xuống chụp lưng quần, nhân viên an ninh da đen kia lại nói:
– Hands up!
Tôi liền đưa tay lên đầu hàng (hands up) lại thì quần tôi lại rơi xuống nữa! Vì thấy quần rơi xuống tôi lại phải bỏ tay xuống chụp quần lại để kéo lên! Thấy tôi không chịu đưa tay lên cao mà cứ bỏ tay xuống nữa nó lại nói lớn:
– Please hands up!
Tôi nghĩ bụng, nếu tình trạng cái quần này kéo lên rồi rớt xuống, rồi lại kéo lên rồi rớt xuống nữa cứ tiếp tục hoài thì mệt quá. Vì vậy tôi quyết định đứng chàng hảng hai chân, giang hai chân ra thêm cho thật rộng thì cái quần dài chỉ rơi ngang bắp vế sẽ bị giữ lại thôi khỏi phải rơi xuống dưới xa! Vì anh chàng an ninh da đen này đã ra lệnh 3 lần rồi, tôi nghĩ sự bất quá tam, nên để quần liều như thế cũng được rồi, không thì mệt với nó. Cuối cùng đứng trong tư thế hai chân chàng hảng như vậy là yên chí lớn rồi, nên tôi vừa đưa tay lên cao vừa nói với anh chàng nhân viên kiểm soát da đen kia:
– OK. Tau đầu hàng mày rồi (hands up), mầy muốn làm gì thì làm!
Thế là chàng ta cầm một chiếc máy nho nhỏ hình chữ nhật bắt đầu đưa sát vào ngực áo tôi rồi rà từ từ trên ngực xuống bụng. Khi ngang “vùng cấm địa”, không biết nghi ngờ cái gì mà chàng ta rà chầm chậm chầm chậm khiến tôi bật cười làm cái quần suýt rơi xuống đất nữa! Sau đó chàng ta ra phía sau lưng rà từ trên xuống dưới. Khi thấy chàng rà xong rồi tôi liền hỏi:
– OK. Sir?
Chàng ta vừa trả lời OK xong thì tôi bay đến cái khay lấy nịt mang vào thắt lưng quần ngay! Đúng là kêu trời không thấu!
Sau khi làm thủ tục hải quan tại phi trường NASSAU xong, chúng tôi vào phòng đợi để chuẩn bị lên máy bay về Miami. Ngồi chờ khoảng một giờ thì có lệnh lên máy bay. Đúng 2giờ chiều ngày 11 tháng 4 năm 2013, máy bay bắt đầu cất cánh tại phi trường NASSAU, thủ đô của quần đảo Bamahas, nhắm hướng phi trường Miami của tiểu bang Florida trực chỉ.
Ngồi trên máy bay nhìn qua cửa sổ, tôi thấy đảo NASSAU, được mệnh danh là thiên đàng của hạ giới, The Paradise Island, đang nổi bật dưới ánh nắng chiều tà thật đẹp mắt. Lúc máy bay bay hơi nghiêng về phía bên phải, tôi thấy tháp ROYAL TOWERS phản chiếu ánh nắng chiều đang đứng sừng sững dưới trời cao, quyện lấy nắng hồng mây trắng trời xanh, làm cho tháp ngà trở nên tráng lệ, ngoạn mục bên cạnh dãy núi rừng thật là hùng vĩ. Rồi đằng kia là tháp The COVE ATLANTIS và The REEF ATLANTIS đang hiển hiện bên bờ đại dương tràn ngập những sóng biển dạt dào.
Thôi thì thời gian và thủy triều không bao giờ đợi chờ người. Thời gian thì vẫn trôi trôi mãi giữa dòng đời hiu quạnh. Thủy triều thì vẫn lên cao rồi xuống thấp, suốt đời xua đuổi nhau chạy theo thời gian để hòa mình vào cát trắng giữa chốn trần gian.
Thế nên chúng ta, dù trong tương lai có ghé lại thiên đường hạ giới này để thăm lại cảnh cũ người xưa, hay một nghìn năm sau vẫn biền biệt xa cách nghìn trùng, thì hình ảnh đẹp tuyệt trần của thiên đường hạ giới này vẫn mãi mãi tiềm tàng trong lòng du khách.
Xin tạm biệt thiên đường Atlantic, The Paradise Island! Xin tạm biệt hải đảo nằm bơ vơ bên cạnh lòng đại dương tận cuối chân trời ngút ngàn xa vời vợi, nơi mà sóng gió ba đào thường hay dậy sóng cuồng điên.
Trích từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Bahamas” xuất bản năm 2013)
Dương Viết Điền
-
Tiếng Hát Ru Đời
-
DU LỊCH THU VÀNG
Trong 4 mùa thì mùa xuân và mùa thu được nhiều người ưa chuộng nhất mà trong ấy có 6 anh em chúng tôi. Còn gì đẹp hơn khi mùa xuân với muôn hoa đua nở và mùa thu với lá vàng khoe sắc, lá đỏ đổi màu…chính vì thế mà mùa thu năm nay, anh em chúng tôi (Quốc Dân, Mạnh Bổng, Kim Hương, Đức Hạnh, Tuyết Nga và Khánh Lan) chọn du thuyền Royal Caribbean, Jewel of the Sea, 10 Night Fall Foliage Northbound Cruise, để đi ngắm lá vàng rơi vùng New England & Canada.
Mạnh Bổng, Khánh Lan, Tuyết Nga, Đức Hạnh, Kim Hương, Quốc Dân
New York-New York: Trước khi xuống du thuyền Royal Caribbean, one way from Cape Liberty New Jersey to Quebec City, Canada, chúng tôi ghé thăm thành phố New York mà đã hơn 20 năm nay tôi chưa trở lại. Tôi còn nhớ đó là năm 2000 (Millennium 2000), một năm trước vụ khủng bố 911 (2001).
New York 2000 với 5 hiệp sĩ “Mù” Mạnh Bổng, Thiên Kim, Khánh Lan, Bích Chi, Đức Hạnh
The World Trade Center (2000) một năm trước vụ khủng bố 911 Khánh Lan & Đức Hạnh
Millennium 2000 là năm mà một số người dân trên thế giới cho rằng: “Đó là ngày tận thế!” nên e dè và không dám đi du lịch ra nước ngoài. Vì thế, các hãng du lịch không có nhiều du khách nên đều xuống giá các tour bao gồm land tour, cruise, train và flights, v.v… Chúng tôi (Mạnh Bổng, Khánh Lan, Thiên Kim, Đức Hạnh và Bích Chi) là những kẻ “Điếc không sợ súng, mù không thấy đường và… ham của rẻ” nên quyết định booked a land tour with Trafalgar tour đi Spain và Portago.
Hello New York (2023)
Và lần này (2023) chúng tôi ghé lại New York để viếng thăm đài tưởng niệm các nạn nhân tử vong trong vụ khủng bố 911: Ground Zero Memorial Park. Vụ khủng bố 911 là một vụ thảm sát, kinh hoàng trong lịch sử xảy ra ngày 11 tháng 9 năm 2001, đã cướp đi sinh mạng của gần 3,000 người trong 102 phút và làm đảo lộn, kiệt quệ nền kinh tế cũng như làm thay đổi cuộc sống của nhiều người trên thế giới và nước Mỹ.
Ground Zero Memorial Park
ROYAL CARIBBEAN, JEWEL OF THE SEA, 10 NIGHT FALL FOLIAGE NORTHBOUND CRUISE-NEW ENGLAND & CANADA
Bao gồm những thành phố: Boston (Massachusetts); Portland (Maine); Saint John (New Brunswich, Bay of Fundy); Sydney (Nova Scotia); Charlottetown (Prince Edward Island) và Saguenay, Quebec.
Jewel of the Seas là tàu du lịch Radiance do Royal Caribbean điều hành, hoàn thành vào mùa xuân năm 2004 với chuyến đầu tiên vào tháng 5 năm đó. Jewel of the Seas lúc ban đầu với những chuyến du ngoạn từ Rome (Civitavecchia), Ý đến Quần đảo Hy Lạp ở Biển Địa Trung Hải. Tháng 11 năm 2016, Jewel of the Seas tái định vị để đi từ San Juan, Puerto Rico đến các điểm đến ở Caribe. Vào tháng 3 năm 2019, Jewel of the Seas lại tái định vị từ vùng biển Caribe đến Địa Trung Hải và thực hiện các chuyến du ngoạn ở Quần đảo Hy Lạp. Đến tháng 12 năm 2019, Jewel of the Seas đã cập bến tại cảng nhà ở Dubai và thực hiện các chuyến du ngoạn trong Vịnh Ba Tư. Jewel of the Seas đã mang du khách đến một số địa điểm ngoạn mục nhất trên thế giới.
Jewel of the Seas & Cruise members welcome guests
Jewel of the Seas có nhiều sinh hoạt và chương trình biểu diễn rất hấp dẫn như rạp chiếu phim trình chiếu những bộ phim cổ điển hoặc những bộ phim cập nhật mới nhất. Du thuyền cũng có một số phim được chọn để chiếu trên màn hình chiếu phim ngoài trời cạnh hồ bơi chính và nhiều sinh hoạt khác như leo tường, đánh gôn, v.v…Các thành viên của du thuyền ngoài việc phục vụ du khách, họ còn tham dự những sinh hoạt giúp vui như diễn hành, đơn ca, đồng ca, dạy khiêu vũ, family field, love and marriage show, v.v…
International Parade Of Flags with the Jewel Of the Seas Cruise Members
Dancing all night
Về phần ẩm thực thì trên trung bình và những quán Café, quán rượu thì sẵn sàng phục vụ du khách. Có hai buổi tối đặc biệt (Formal Evernings) mà du khách thường diện quần áo đep để chụp hình lưu niệm.
The Formal Everning
Casino mở cửa chào đón khách yêu thích đỏ đen và encore-worthy entertainment, một chương trình nhạc kịch tuyệt vời từ West End đến Broadway, từ Ấn Độ đến Atlantis trong City of Dreams, Royal Caribbean singers, dancers in Tango Buenos Aires quyến cùng hai vũ công chính đến từ Agentina.
Dancers in Tango Buenos Aires
Nhạc kịch từ West End đến Broadway
Từ Ấn Độ đến Atlantis trong City of Dreams
VISITING THE PORTS
Boston, Massachusetts với 400 năm lịch sử, Boston là một trong những thành phố lâu đời nhất nước Mỹ. Các di tích lịch sử và ngôi nhà thời cách mạng, nơi những người yêu nước, những chính trị gia và những nhà thơ nổi tiếng từng sinh sống. Những trò chơi giải trí như chèo thuyền (kayaking) trên sông Charles, hay chơi bóng chày tại công viên Fenway, hay chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những viên đá cuội trên đồi Beacon, hay đi bộ thư dãn trong công viên Freeway đều lý thú. Phần chúng tôi thì tản bộ xuống phố, vừa để tập thể dục “giảm cân” vừa ngắm lá nùa thu đổi màu vàng đỏ và ghé Chinatown thưởng thức món “Hoành Thắn Mì và vịt quay” nấu theo HongKong style do một người Việt Nam mà chúng tôi gặp bên đường giới thiệu…
Downtown Boston
Dạo phố Boston & ngắm lá nùa thu đổi màu vàng đỏ
Chinatown
Portland, Maine: Portland là thành phố thuộc tiểu bang Maine của Hoa Kỳ, nằm trên một bán đảo kéo dài đến Vịnh Casco. Vì là thành phố ven bờ sông nên tại Old Port có các bến tàu đánh cá, đang hoạt động, do đó một số nhà kho được chuyển đổi thành nhà hàng hoặc cửa hàng bán hải sản.
The Old Port
Là một thị trấn nhỏ nhưng lại thu hút nhiều nghệ sĩ, khách sành ăn và những người thích đi biển, yêu mùa đông. Từ Vịnh Casco đến ngọn hải đăng không xa lắm và có thể đi bộ được. Dạo quanh các cửa hàng trên Phố Congress và Cảng Cũ cũng thú vị, hoặc nếm thử các loại bia khác nhau của nhiều nhà máy sản xuất bia tại đây.
Portland còn là một thành phố có rất nhiều hoạt động giải trí về đêm, mua sắm và du lịch. Gần đó, Western Promenade là công viên công cộng nằm trên đỉnh dốc, có tầm nhìn ra sông và núi. Khu West End xung quanh có nhiều ngôi nhà thời Victoria, trong đó có bảo tàng Biệt thự Victoria.
Saint John, New Brunswich, Bay of Fundy là thành phố tổ hợp lâu đời nhất của Canada. Saint John cũng là cảng lớn thứ ba của Hoa Kỳ, hiện là thành phố lớn thứ hai trong tỉnh New Brunswich và là thành phố duy nhất nằm trên Vịnh Fundy, nơi có thủy triều cao nhất thế giới. Saint John được thành lập theo hiến chương hoàng gia vào ngày 18 tháng 5 năm 1785, dưới thời trị vì của George III. Cảng này là cảng có trọng tải lớn thứ ba của Canada với cơ sở hàng hóa bao gồm những thùng chứa hàng khô và hàng lỏng, hàng rời.
Welcome to historic Saint John
Saint John là một thành phố có những ngôi nhà lịch sử được xây dựng từ cả trăm năm trước.
Loyalist là ngôi nhà lich sử lâu đời nhất ở thành phố Sain John và được xây từ năm 1811 đến năm 1817 bởi David Daniel Merrit, một người theo chủ nghĩa Trung thành đến từ Rye, New York. Tòa nhà Loyalist đã sống sót sau trận đại hỏa hoạn năm 1877 nhờ những người hầu bao quanh nó bằng khăn ướt.
Saint John’s Reversing Rapids (Reversing Falls) là một chuỗi các xoáy nước, sóng và ghềnh nước trắng xóa được tạo ra khi thủy triều dâng cao của Vịnh Fundy (cao nhất thế giới) va chạm với Sông Saint John trong một hẻm núi đá ở Saint John, New Brunswick. Đây là một hiện tượng đáng kinh ngạc, phải quan sát ba lần khi thủy triều xuống, thủy triều lên và thủy triều rút.
- Khi thủy triều xuống, thủy triều của Fundy thấp hơn mực nước sông Saint John. Con sông chảy qua hẻm núi và đổ vào bến cảng Saint John và Vịnh Fundy. Khi nước di chuyển qua hẻm núi, địa hình ngầm buộc nước trở nên hỗn ln với nhiều ghềnh nước trắng xóa và xoáy nước quay theo cả chiều kim đồng hồ và ngược chiều kim đồng hồ.
- Khi thủy triều lên, Vịnh Fundy dâng cao trên sông Saint John và sức mạnh của thủy triều thực sự làm đảo ngược dòng chảy của sông, tạo ra những đợt sóng lớn.
- Mỗi ngày có hai lần thủy triều xuống và hai lần thủy triều lên – mất khoảng 12 giờ 13 phút để di chuyển từ đầu này đến đầu kia của chu kỳ thủy triều. Tuy nhiên, giữa lúc thủy triều lên và xuống có một khoảng thời gian gọi là thủy triều “chùng”. Khi thủy triều xuống, mực nước của Vịnh Fundy và sông Saint John bằng nhau, do đó tạo ra vùng nước yên tĩnh trong hẻm núi. Kéo dài khoảng 20 phút, thời điểm nước triều yếu là thời điểm duy nhất trong chu kỳ thủy triều mà các con thuyền có thể di chuyển qua Thác một cách an toàn. Để tính toán độ chùng thấp, hãy cộng thêm 3 giờ 50 phút vào thời điểm thủy triều xuống. Tương tự, để xác định mực nước triều cao, hãy cộng thêm 2 giờ 25 phút khi thủy triều lên.
Saint John’s Reversing Rapids (Reversing Falls)
Khi thủy triều lên tạo ra những đợt sóng lớn
Sydney, Nova Scotia là một thành phố cũ trên bờ biển phía đông của đảo Cape Breton ở Nova Scotia, Canada thuộc khu đô thị vùng Cape Breton. Sydney được người Anh thành lập vào năm 1785 và được coi như là một thành phố vào năm 1904 và ngày 1 tháng 8 năm 1995 được hợp nhất vào khu đô thị khu vực. Sydney từng là thủ đô thuộc địa của Đảo Cape Breton cho đến năm 1820, khi thuộc địa này sáp nhập với Nova Scotia và thủ đô chuyển đến Halifax.
Sự gia tăng dân số nhanh chóng xảy ra ngay sau đầu thế kỷ 20, khi Sydney trở thành nơi có một trong những nhà máy thép chính của Bắc Mỹ. Trong cả Thế chiến thứ nhất và thứ hai, đây là khu vực chính của các đoàn xe đi Anh. Nhưng đến thời kỳ hậu chiến sự sụt giảm lớn về số lượng người làm việc tại nhà máy thép của Tập đoàn Thép và Than Dominion, vì thế chính phủ Nova Scotia và Canada đã phải quốc hữu hóa nhà máy này vào năm 1967 để thành lập tập đoàn vương miện mới gọi là Tập đoàn Thép Sydney.
Dân số thành phố đã giảm đều đặn kể từ đầu những năm 1970 và SYSCO đã bị đóng cửa vào năm 2001. Ngày nay, nguồn lợi tức chính của Sydney là ngành du lịch. Cùng với Sydney Mines, North Sydney, New Waterford và Glace Bay, Sydney tạo thành khu vực được gọi là Mũi Breton Công nghiệp.
Với nét đẹp của đô thị bởi những tòa nhà cổ điển, kiến trúc và được xây dựng từ thế kỷ 18 đã đáp ứng lòng hiếu khách của các du khách. Sydney có rất nhiều sân chơi gôn (golf), có con đường mòn Cabot nổi tiếng, có âm nhạc sôi động theo nhịp điệu Celtic, có lối đi bộ lót ván, có trung tâm Di sản và Khoa học Cape Breton.
Sydney Harbour
Sydney có những ngôi làng cổ kính ở vùng North Sore, đặc biệt là những lối đi bộ được lát những tấm ván nhỏ, gọn ở ven bờ sông, bạn có thể tản bộ qua các khu vực lịch sử và di sản của hàng hải.
Charlottetown, Prince Edward Island: Charlottetown là thủ đô của Đảo Hoàng tử Edward, Canada. Nó nằm trên bờ biển phía nam của tỉnh. Di tích Lịch sử Quốc gia Province House đã tổ chức Hội nghị Charlottetown năm 1864. Victoria Row có các cửa hàng, nhà hàng và Trung tâm Nghệ thuật Liên bang, nơi biểu diễn vở nhạc kịch dựa trên “Anne of Green Gables”. Gần đó là Nhà thờ St. Dunstan theo phong cách Gothic Revival. Charlottetown trong bầu không khí của thời đại Victoria của Charlottetown, thủ phủ của Đảo Hoàng tử Edward.
Canada vào những ngày cuối thu mang theo cơn gió đông lạnh buốt da thịt. Những cơn mưa tuyết bắt đầu rơi phủ kín hai bên đường của xa lộ dẫn vào phố cổ Quebec (Little Paris). Xa xa, từng rặng thông cao vun vút, đứng xừng xững trên những thảm cỏ tuyết trắng xoá…Tuyết ở khắp nơi, đọng trên nhánh cây, cành lá, rơi trên nóc nhà, thảm cỏ xanh…lóng lánh và trắng xoá như những tảng băng hà ngoài khơi trôi dạt vào bờ…trông đẹp như một bức tranh.
Đồi thông tuyết phủ
Saguenay, Quebec, Canada là một thành phố ở vùng Saguenay–Lac-Saint-Jean của Quebec, Canada, trên sông Saguenay, nằm ở nơi hợp lưu với sông St. Lawrence. Saguenay,cách Thành phố Quebec khoảng 200 km (120 mi) về phía bắc bằng đường bộ, cách Tadoussac khoảng 126 km (78 dặm) về phía thượng nguồn và tây bắc. Saguenay được thành lập vào năm 2002 bằng cách sáp nhập các thành phố Chicoutimi và Jonquière và thị trấn La Baie. Chicoutimi được thành lập bởi thực dân Pháp vào năm 1676.
Cùng với đô thị hạt khu vực Le Fjord-du-Saguenay tạo thành bộ phận điều tra dân số (CD) của Le Saguenay-et-son-Fjord (94) và là trụ sở của khu tư pháp Chicoutimi.Thành phố được chia thành ba quận: Chicoutimi (bao gồm thành phố cũ Chicoutimi, cũng như thị trấn Laterrière và Tremblay), Jonquière (bao gồm thành phố cũ Jonquière, Lac-Kénogami và Shipshaw) và La Baie (tương ứng với đến thành phố cũ La Baie). Cái tên Saguenay có thể bắt nguồn từ từ Innu “Saki-nip”, có nghĩa là “nơi nước chảy ra”. Saguenay nổi tiếng là thơ mộng với một nhà thờ sừng sững trên nền trời, những ngọn đồi nhấp nhô, những hàng cây vàng óng. Thành phố Saguenay nổi tiếng với Saguenay Fjord và là Fjord cực nam ở Bắc bán cầu.
Phố cổ Quebec: Thành phố Quebec thành lập năm 1608, là một trong những thành phố lâu đời nhất ở Canada và nằm bên sông Saint Lawrence ở tỉnh Québec, Canada. Đây là thành phố có tường bao quanh duy nhất còn sót lại ở Bắc Mỹ, phía bắc Mexico và được công nhận là Di sản Thế giới của UNESCO vào năm 1985.
Ngoài việc là một địa điểm du lịch lớn, Quebec còn là một trung tâm hành chính và thành phố cảng cho thương mại xuyên Đại Tây Dương. Vị trí của nó ở nơi hợp lưu của sông St. Lawrence và Saint-Charles, cách Montréal khoảng 150 dặm (240 km) về phía đông bắc. Quebec mang lại một số lợi thế quân sự chiến lược quan trọng vì sự thu hẹp của sông St. Lawrence, Quebec trở thành nơi xa nhất cho các tàu đi biển ngược dòng có thể di chuyển qua lại và nếu đứng trên một sườn núi cao của thành phố bạn có thể nhìn bao quát ra đến tận dòng sông Lawrance. Năm 1842 trong chuyến thăm của Charles Dickens, ông đã gọi Quebec là “Gibraltar của Bắc Amerca”.
Nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier là người đầu tiên khám phá ra khu vực này khi ông trên đường đến Châu Á để tìm kiếm các khoáng sản có giá trị như vàng và kim cương. Trong chuyến hành trình thứ hai đến Bắc Mỹ năm 1535, Jacques Cartier dừng thuyền trên dòng sông St. Lawrence, ông nghỉ chân tại làng Stadacona của người da đỏ Huron (địa điểm của thành phố Quebec hiện đại) và trong chuyến đi thứ ba vào năm 1541 và cũng là chuyến đi cuối cùng Jacques Carier, ông đưa một số người đến định cư và thành lập thuộc địa của Pháp tại Stadacona. Nhưng mãi cho đến măn 1600, khi lông thú trở thành một mặt hàng có giá trị thì người Pháp mới nghĩ đến việc duy trì quyền kiểm soát tại Quebec.
Năm 1608, Samuel de Champlain thiết lập căn cứ lâu dài đầu tiên ở Canada tại Quebec và phát triển thành phố Quebec thành một trạm buôn bán lông thú và đã mang lại cho người Pháp khả năng kiểm soát việc buôn bán lông thú tại nội địa Bắc Mỹ. Từ năm 1629-1632, người Anh chiếm Quebec cho đến khi Hiệp ước Saint-Germain-en-Laye ra đời, người Anh mới trao trả Quebec lại cho Pháp.
Tuy nhiên, khi mặt trận Quebec nổi tiếng trên Đồng bằng Abraham (liền kề thành phố) vào năm 1759, Pháp bại trận và phần lớn lãnh thổ do Pháp nắm giữ ở Bắc Mỹ đã được nhượng lại cho Vương quốc Anh theo Hiệp ước Paris năm 1763. Tuy chiến tranh trong khu vực không kết thúc bằng việc chiếm được Quebec, Người Anh đã tăng cường lực lượng phòng thủ quân sự của thành phố và kịp thời đẩy lùi một cuộc tấn công trong Cách mạng Mỹ. trong Trận Quebec lần thứ hai vào năm 1775. Sự ly khai của Hoa Kỳ khỏi Bắc Mỹ, Anh có ý nghĩa quan trọng về văn hóa, kinh tế và chính trị đối với Quebec. Theo Đạo luật Quebec năm 1774, người Canada gốc Pháp vẫn giữ được ngôn ngữ, tôn giáo và các thể chế văn hóa khác, do đó thành phố Quebec vẫn là trung tâm văn hóa Pháp.
Năm 2008, Quebec kỷ niệm 400 năm thành lập và chúng tôi (Mạnh Bổng & Khánh Lan) có dịp đến Quebec thăm gia đình một người bạn gốc pháp quốc tịch Canada, Nicole Sévigny.
Nicole & Khánh Lan (2008)
Nicole, Mạnh Bổng and Nicole’s mother
Hôm ấy là một ngày mưa tầm tã, nhưng cũng không làm chùng bước những giáo dân đến dự thánh lể do Đức Thánh Cha (Đức Hồng Y) gián tiếp truyền hình và truyền thanh từ Vatican City. Quebec ăn mừng 400 thành lập rất lớn và hầu như đa số các buổi concert ngoài trời đều cho vào cửa tự do. Các cửa hàng thời trang bán giảm giá và các quán ăn cũng có giá đặc biệt.
Năm nay (2023) cũng như năm 2008, mùa đông đã về trên mảnh đất Canda và mang theo những cơn gió giá buốt. Vì thế mà thành phố cổ Quebec hôm nay chìm trong mưa với bầu trời màu xám nhạt với hàng hàng lớp lớp bụi tuyết nhỏ li ti bay lơ lửng trên không như thể bầu trời đang bị che phủ bởi một tấm voan mỏng màu trắng đục. Từng nẻo đường, góc phố gần như vắng hẳn bóng người dù đó là ngày cuối tuần. Một số người (có lẽ là du khách) bước vội vã dưới mưa, ngoại trừ chúng tôi, vẫn phớt tỉnh “Ông Trời” thơ thẩn, nhẩn nha chụp hình và ngắm phố.
Quebec 2008 & 2023
Phố cổ Quebec xưa nay vẵn nổi tiếng là có những nét quyến rũ với vẻ đặc trưng của thế giới cổ xưa, hơn thế nữa, Quebec mang đến cho du khách cơ hội thưởng thức hương vị và ẩm thực của nước Pháp mà không cần rời khỏi lục địa.
Dòng sông St. Lawrence hùng vĩ từ Terrasse Dufferin và Lâu đài Frontenac tuyệt đẹp.
Phố cổ Quebec năm nay chào đón lễ Giáng Sinh tưng bừng với các cửa hàng bày bán những sản phẩm cho mùa Giáng Sinh. Những nơ xanh nơ đỏ buộc vòng quanh cửa xổ, cửa ra vào. Những bóng đèn tím, hồng, cam, vàng treo lấp lành trên cây, nơi cao ốc, trên đường phố, chen lẫn giữa những hàng cây với lá vàng, lá đỏ còn vương lại của cuối mùa thu…Phố cổ Quebec như ru hồn lữ khách đa tình với vẻ đẹp thơ mộng lạ thường dưới tia nắng yếu ớt của một ngày mưa. Có lẽ, Phố cổ Quebec sẽ đẹp bội phần trong những ngày nắng ấm chẳng kém gì thủ đô ánh sáng Paris, trách sao nó được mệnh danh là “Little Paris“…
Christmas shopping
Dạo phố cổ Quebec dưới mưa
Phố cổ Quebec nổi bật với những con đường hẹp lát đá cộng thêm khung cảnh lộng lẫy của thành phố với cảnh trí xung quanh. Gần nhất là hai thành phố kiên cố, Vieux-Québec và Place Royale với những tòa nhà bằng đá và những con đường lát đá của quận Petit Champlain, nơi có nhiều quán rượu và cửa hàng nhỏ. Những con đường trải sỏi của Haute-Ville và Basse-Ville hay ghé vào các cửa hàng bánh ngọt để thưởng thức bánh kem cuộn hoặc bánh creperie nổi tiếng của Quebec.
14 ngày du lịch ngắm lá vàng rơi qua nhanh như một cơn gió thoảng nhưng đã để lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm đẹp.
Khánh Lan, Oct. 2023
*** Tài liệu dựa theo Wikipedia, the free encyclopedia.