• DU LICH,  Dương Viết Điền

    DU LỊCH ANH VÀ PHÁP QUỐC.

    Chiếc phi cơ hãng hàng không United Airlines Boeing 747 cất cánh tại phi trường quốc tế San Francisco lúc 1:00 giờ ngày 19 tháng 10 năm 2007 và đã đáp xuống phi trường quốc tế Heathrow tại Luân đôn ở Anh quốc lúc 7:10 sáng ngày 20 tháng 09 năm 2007 sau 10 giờ bay.

    Vừa xuống phi trường, toán chúng tôi sáu người gồm anh chị Lê văn Chính, anh chị Bùi phước Ty, và vợ chồng tôi cùng một số người khác phải ngồi chờ ông trưởng đoàn hướng dẫn du lịch từ Los Angeles dẫn một toán khác sang theo lời dặn của nhân viên tại đại lý bán vé máy bay ở California.

    Hai giờ sau, ông trưởng đoàn hướng dẫn người Hoa dẫn một toán khác từ Los Angeles cũng vừa đến. Vì chúng tôi có mang dấu hiệu của hãng du lịch Tour Ritz màu đỏ ở trên túi áo của từng người, cũng như ông trưởng đoàn cầm cây cờ nhỏ trên tay có in hình của hãng Tour Ritz trên lá cờ nên chúng tôi nhận ra nhau rất nhanh. Đọc tài liệu của hãng du lịch, chúng tôi đã biết ông trưởng đoàn là người Hoa mang tên Leung Reddy chứ chưa được diện kiến. Bây giờ chúng tôi mới thấy ông khi ông tập họp chúng tôi để điểm danh. Ông ta trạc độ 58 tuổi, người thấp, nước da ngâm ngâm. Thế là hai toán chúng tôi lên xe buýt qua Terminal 4 để đón một toán khác nữa cũng vừa từ New York sang. Sau khi đã tập họp ba toán lại với tổng số 42 người, ông Leung Freddy trưởng đoàn hướng dẫn du lịch chỉ thị cho tài xế xe buýt lái xe hướng về lâu đài Windsor Castle tại Anh quốc để bắt đầu cuộc hành trình du lịch 4 nước ở Âu châu gồm Anh, Pháp, Thụy sĩ và Ý.

    Vừa đến gần lâu đài Windsor Castle thì trên trời bỗng xuất hiện một vài đám mây và mấy phút sau trời bắt đầu mưa nhè nhẹ. Chúng tôi liền lấy dù ra để che mưa. Ông trưởng đoàn du lịch sau khi gặp một bà đầm người Anh liền giới thiệu với chúng tôi và cho chúng tôi biết tên bà ta là Venesha. Sau đó ông ta dặn chúng tôi hãy đi theo bà đầm này để nghe bà ta

    Lâu đài Windsor Castle tại Luân đôn nhìn từ trên không (Hình trích từ Wikipedia)

    thuyết minh, giải thích, kể chuyện về lịch sử lâu đài chúng tôi sắp vào xem. Theo sự hướng dẫn của ông trưởng đoàn du lịch, chúng tôi liền đi theo bà Venesha này để nghe bà ta kể chuyện. Cứ mỗi lần bà ta nói xong, ông trưởng đoàn lại dịch sang tiếng Hoa cho những người không biết tiếng Anh. Cứ theo lời giải thích của bà Venesha thì chúng tôi biết tổng quát được rằng, Windsor Castle nằm trong quận Birkshire thuộc thành phố Luân đôn. Đây là lâu đài lớn nhất thế giới. Diện tích của lâu đài này khoảng 484,000 square feet.Trong thời chiến, đây là thành lũy kiên cố chống ngoại xâm và cũng là nơi ở của các vị vua chúa qua các triều đại quân chủ của hoàng gia Anh. Tại lâu đài này, nữ hoàng Elizabeth II thường hay về đây để nghỉ cuối tuần. Thế rồi chúng tôi được hướng dẫn đi khắp các phòng ốc trong lâu đài cổ kính này. Nào là nơi các vị hoàng đế tiếp tân, nào là nơi các vị hoàng đế hội họp, nào là nơi cất giấu những vũ khí trong thời chiến như cung, tên, gươm, giáo , kiếm, nào là nơi ăn chốn ở của các nữ hoàng vv… Sau khi xem qua giường ngủ của các vị vua và của các nữ hoàng, một du khách trong đoàn chúng tôi  hỏi bà Venesha rằng, tại sao giường ngủ của nữ hoàng lại rộng hơn giường ngủ của vua. Bà ta vừa tủm tỉm cười vừa trả lời rằng, sở dĩ giường của nữ hoàng rộng hơn giường của vua là để thỉnh thoảng vua qua thăm nữ hoàng và ở lại với nữ hoàng!

    Giường Nữ hoàng ( Hình trích từ Wikipedia )

    BàVenesha vừa trả lời xong thì du khách chúng tôi đều nhoẻn miệng cười. Có người lại cười to lên như có vẻ thích chí, nhiều du khách khác lại chỉ mĩm miệng cười mà thôi.

    Thế rồi bà Venesha lại hướng dẫn chúng tôi đến nơi khác trong cung điện để tiếp tục tham quan tất cả những di tích lịch sử trong lâu đài Windsor Castle nầy.

    Lâu đài Windsor Castle năm 1907( Hình trích từ Wikipedia)

    Nữ hoàng Victoria ( Hình trích từ Wikipedia)

    Sau hơn một tiếng đồng hồ đi tham quan trong lâu đài Windsor Castle, chúng tôi tất cả 42 người ra điểm hẹn tại ngã ba đường để gặp ông trưởng đoàn. Sau khi điểm danh đầy đủ, ông Leung Freddy cầm một bì thư đựng tiền do chúng tôi đã nộp sẵn trao tặng cho bà Venesha rồi chúng tôi vỗ tay để cám ơn và tán thưởng sự tận tâm và thiện chí của bà trong trong thời gian hướng dẫn chúng tôi vừa qua. Sau khi từ giả bà venesha ông trưởng đoàn hỏi anh em trong đoàn du lịch chúng tôi rằng, nếu du khách nào muốn đến thăm đại học Cambridge thì nộp mỗi người 30 Euro, và số du khách đến tham quan phải trên 20 người mới được chấp thuận. Khi nghe ông trưởng đoàn nói như vậy một số người liền đưa tay lên. Ông trưởng đoàn đếm đi đếm lại vẫn không đủ 20 người nên phải hũy bỏ chuyến đi tham quan đại học Cambridge. Sau đó chúng tôi theo ông trưởng đoàn lên xe đến khu phố người Hoa để ăn cơm chiều .

    Theo gót chân ông Freddy, chúng tôi vào tiệm ăn Gerrard’s corner Restaurant ở đường Gerrard Street Sw1. Vì ông trưởng đoàn du lịch là người Hoa nên ông ta có lẽ đã quen biết nhiều tiệm ăn của người Hoa. Vì vậy, ông luôn luôn dẫn chúng tôi vào ăn tại các phố nguời Hoa ở. Ngồi trên xe buýt xuyên qua những con đường dẫn đến tiệm ăn, chúng tôi thấy đường sá tại thành phố Luân đôn rất chật hẹp nhưng thật sạch sẽ. Hai bên đường hầu như không có chỗ đậu xe. Chỉ thấy người qua lại thật tấp nập trên lề đường như ngày hội mặc dầu hôm đó là ngày thứ hai chứ không phải là ngày thứ bảy. Mấy cô gái người Anh với mái tóc bồng bềnh sánh vai cùng các bạn trai đi dọc đại lộ giữa phố chiều thật nên thơ. Rất nhiều đàn ông mặc veston, thắt cà vạt đi dạo phố chiều làm cho khu phố tăng thêm vẽ quý phái giữa chốn phồn hoa đô hội. Cũng lắm trai thanh gái lịch ngồi uống cà phê trong các quán cà phê dọc hai bên đường trông thật thanh bình, vui vẻ. Một điều khác lạ đập vào mắt tôi khiến tôi nhớ lại lúc còn theo học ở bậc trung học, một vị giáo sư đã kể cho chúng tôi nghe về sự luân lưu của xe cộ trong thành phố ở Anh quốc: tất cả đều lái xe về phía bên trái. Thảo nào tài xế xe buýt chúng tôi đang lái trên lane bên trái khiến tất cả du khách trên xe đều cảm thấy là lạ. Sau khi dùng cơm chiều tại phố người Hoa xong, chúng tôi được lệnh lên xe buýt để về khách sạn Guoman nằm trên đại lộ St Katherine’s way, London E 1W1LD. Khách sạn này toạ lạc trên bờ sông Thames và đối diện với chiếc cầu nổi tiếng the Tower Bridge. Vừa đến khách sạn, chúng tôi ai nấy cũng đều mệt mỏi sau mười tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay ngủ gà ngủ gật, và mấy tiếng đồng hồ đi xem lâu đài Windsor  nên vội vàng lấy hành lý thật nhanh để vào khách sạn nghỉ ngơi.

    Sau khi phân phối chìa khoá phòng cho chúng tôi, ông Leung Freeddy dặn dò chúng tôi rằng, sáng mai chuông điện thọai sẽ báo thức đúng 6 :15 giờ, ăn điểm tâm tại khách sạn 7:00 giờ, tập họp để đi tham quam các danh lam thắng cảnh tại Anh lúc7:45 giờ . Vừa ổn định chỗ ngủ tại các phòng trong khách sạn, anh Lê văn Chính, anh Bùi Phước Ty và tôi rủ nhau ra quán Starbucks gần khách sạn để uống cà phê và nói chuyện phiếm. Lần đầu tiên trong đời ngồi uống cà phê trong một quán ở bên đường nơi quê người đất khách tại Anh quốc, tâm hồn tôi cảm thấy hân hoan, hay hay, là lạ. Khoảng 11 giờ khuya, chúng tôi trở lại khách sạn để nghỉ ngơi ngõ hầu sáng mai thức dậy cho đúng giờ.  Theo lời dặn dò của ông trưởng đoàn hướng dẫn du lịch, chúng tôi đều có mặt trước khách sạn Guoman đúng 7:45 giờ sáng. Vì địa điểm tham quan hôm nay gần khách sạn nên chúng tôi chỉ đi bộ vài phút rồi băng qua đường là đến. Đó là chiếc cầu the Tower Bridge of the River Thames và The Tower of London. Cũng như chiều hôm qua tại lâu đài Windsor, sáng nay ông Leung Freddy cũng giới thiệu với chúng tôi một bà đầm người Anh khác tên là Catherine làm hướng dẫn viên để đến thăm The Tour of London. Dĩ nhiên ông trưởng đoàn du lịch cũng đi theo bà ta để thông dịch ra tiếng Hoa cho những du khách người Hoa. Vì hãng du lịch này của người Hoa có cái tên là Ritz Tours nên du khách hầu hết là người Hoa. Trong số 42 người thuộc đoàn du lịch chúng tôi, chỉ có 8 gười là người Việt, số còn lại là người Hoa cả.

    Thế là chúng tôi đi theo ông Leung Reddy và bà Catherine để nghe họ trình bày, giải thích, kể chuyện về chiếc cầu the Tower Bridge và the Tower of London. Theo sự trình bày và giải thích của bà Catherine chúng tôi được biết rằng, năm nhà thầu khoán chuyên nghiệp điều động 432 công nhân xây cất trong tám năm trời mới hoàn thành chiếc cầu nầy vào năm 1894. Hai khối đá gồm những tảng đá lớn ghép lại được đặt nằm dưới lòng sông

    để giúp xây cất cầu. Trên11,000 tấn thép được xử dụng để làm khung cho cầu và đường đi bộ. Sau khi hoàn thành xong, mặc dầu hệ thống nâng cầu rất phức tạp, nhưng máy nâng có thể đưa cầu lên tối đa 80 độ chỉ trong một phút mà thôi.

    Chiếc cầu The Tower Bridge bắc qua dòng sông Thames. (Hình trích từ Wikipedia)

    Sau khi đã tham quan the Tower Bridge, chúng tôi liền đi bộ băng qua đường để đến tham quan the Tower of London. Tại đây bà  Catherine cho chúng tôi biết tổng quát về di tích lịch sử này như sau : tháp Tower of London do William the Conqueror xây năm1078 . Đây vừa là chiến lũy chống ngoại xâm, vừa là nơi ở của Hoàng gia Anh vừa là ngục tù (đặc biệt dành cho những người tù cao cấp và những tù nhân thuộc Hoàng tộc). Đây cũng là nơi để hành quyết và tra tấn các tù  nhân và cũng vừa là xưởng đúc vũ khí, nhà ngân khố, sở thú, nơi đúc tiền, đài thiên văn . Từ năm 1303, đây cũng là nơi cất giữ châu báu ngọc ngà của Vương Quốc Liên Hiệp.

    The Tower of London (Hình trích từ Wikipedia)

    Một người lính đứng gác gần mấy khẩu thần công đặt trong the Tower of London. ( Hình trích từ Wikipedia)

    Tác giả chụp chung với hai nhân viên trong The Tower of London.

    Sau khi tham quan tháp the Tower of London xong, ông Leung Reddy cũng trao cho bà Catherine một bì thư đựng tiền trước mặt chúng tôi để cám ơn bà. Sau đó, ông Leung Reddy chỉ thị cho anh tài xế chở chúng tôi đi vòng quanh trong thành phố Luân đôn rồi dừng lại từng địa điểm  để xem như dinh Quốc hội, tháp Big Ben, quảng trường Trafalga, điện Burkingham, khu phố Westminster Abbey.

    Cứ mỗi lần dừng lại một địa điểm nào, ông trưởng đoàn liền giải thích cho chúng tôi nghe về nguồn gốc lịch sử của từng địa điểm đó.

    Khu phố Westminster Abbey( Hình trích từ Wikipedia)

    Những thắng cảnh tại thành phố Luân đôn

    Thành phố Luân Đôn, Ngự Lâm Quân trong ngày lễ sinh nhật thứ 80 của Nữ hoàng Elizabeth, Điện Burkingham (Hình trích từ Wikipedia)

    Toà nhà Quốc hội ( Hình trích từ Wikipedia)

    QUẢNGTRƯỜNG TRAFALGA

     

    Tháp Big Ben (Hình trích từ Wikipedia)

    Tại những nơi này, chúng tôi tha hồ chụp hình, quay phim để làm kỷ niệm trong chuyến du lịch tại Anh quốc. Sau khi tham quan những địa danh nói trên,ông trưởng đoàn nói anh tài xế xe buýt chở chúng tôi đến tiệm ăn Aroma ở China town để dùng cơm trưa. Và chiều hôm ấy, chúng tôi được tự do đi shopping tại China town rồi ai nấy tự túc mua vé xe buýt, xe tắc xi, xe điện ngầm để về lại khách sạn và bữa cơm chiều chúng tôi cũng sẽ tự túc đi tìm tiệm ăn mà  lo liệu lấy.

    Nhớ lại sau khi ăn cơm trưa xong, Ông Leung Freddy có mách cho chúng tôi một tiệm ăn của người Thái, đối diện với khách sạn chúng tôi đang trú ngụ nằm ở bên kia bờ sông Thames. Vì vậy sau khi đi shopping ở China town về, 6 người chúng tôi liền rủ nhau thả bộ qua cầu Tower Bridge để đi tìm tiệm ăn ở bên kia bờ sông Thames đối diện với khách sạn chúng tôi đang tạm trú. Sau vài phút đi bộ trên cầu hóng gió chiều và nhìn dòng sông Thames chảy qua cầu, chúng tôi đã tới bên kia cầu. Theo những bậc tầng cấp đi xuống đường, chúng tôi liền đến ngã tư gần cầu nhất rồi băng qua đường , đi ngược lại hướng hồi nãy để tới bên bờ sông. Đi dọc theo bờ sông đối diện với khách sạn bên kia bờ, chúng tôi thấy các tiệm ăn nằm san sát nhau. Tiệm nào tiệm nấy thực khách đều chật ních.

    Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ giá cả ở những tiệm nầy chắc phải đắt lắm. Vì vậy chúng tôi chỉ đi dạo dọc bờ sông Thames chứ không vào tiệm nào cả. Tuy nhiên vì trời cũng vừa tối và ai nấy cũng đều cảm thấy đói bụng cả rồi nên chúng tôi liền băng qua một đường hẻm để đi tìm tiệm ăn người Thái mà ông trưởng đoàn đã giới thiệu trưa nay. Khoảng năm phút sau chúng tôi đã thấy tiệm ăn của người Thái. Thế là sáu người chúng tôi vào ngay trong tiệm để dùng cơm tối. Khoảng một giờ sau chúng tôi rời tiệm ăn để trở về khách sạn. Trên đường trở về, chúng tôi cũng đi bộ băng qua cầu Tower Bridge như lúc ban chiều. Vì đã chín giờ tối nên trên cầu đèn điện rất sáng. Đi trên cầu nhìn xuống dòng sông, chúng tôi thấy mấy chiếc thuyền đậu sát bên bờ đằng kia phản chiếu ánh đèn điện xuống mặt nước sông Thames thật tuyệt đẹp.   

    Sau hai ngày du lịch tại nước Anh, theo chương trình đã vạch sẵn, sáng mai chúng tôi phải lên đường để qua nước Pháp.

    Vì đã được trưởng đoàn dặn dò chiều qua nên sáng nay chúng tôi thức dậy thật sớm để chuẩn bị lên đường. Thế là chúng tôi tất cả 42 người lên xe buýt để tiến về ga xe lửa làm thủ tục hải quan trước khi lên xe lửa vượt biển Manche qua đất Pháp. Đang say sưa nhìn cảnh vật dọc hai bên đường lần cuối, bỗng anh Bùi phước Ty nói nhỏ bên tai tôi:

    – Điền, farewell to London!

    Nghe anh bạn Bùi phước Ty nói như vậy lòng tôi bỗng chùng xuống đến ngậm ngùi! Thật thế, giờ phút chia ly đã điểm rồi! Chỉ vài giờ nữa là chúng tôi sẽ xa Luân đôn, xa Anh quốc ngàn năm. Biết bao giờ mới trở lại đây ? Thôi thì vĩnh biệt lâu đài Windsor, vĩnh biệt the Tower Bridge of the Thames River, vĩnh biệt the Tower of London, vĩnh biệt dòng sông Thames có dòng nước hiền hòa chảy ngang qua cầu tuyệt đẹp, khi mùa thu mới bắt đầu về qua biểu tượng mấy chiếc lá vàng vừa bay nhè nhẹ rồi rơi xuống giữa dòng sông. Bỗng tôi nhớ đến bài thơ When we two parted của thi sĩ Lord Byron Anh quốc nói về sự biệt ly khiến lòng mình thêm xúc động:

    When we two parted

    In silence and tears

    Half broken hearted

    To sever for years

    mà một thi sĩ nào đó đã dịch như sau:

    Giờ phút chia ly đã điểm rồi

    Nghẹn ngào lặng nuốt lệ thầm rơi

    Mang mang nửa cõi lòng tan tác

    Ly biệt xui chi tủi trọn đời.

    California, một chiều thu nhạt nắng .

               (tháng 10 năm 2007)

                  Dương viết Điền

    Sau khi mất hai giờ rưởi vượt biển Manche bằng xe lửa từ Waterloo để qua Pháp, như thường lệ, chúng tôi cũng làm thủ tục hải quan trước khi lên xe buýt đi xem các danh lam thắng cảnh của đất nước này. Tại ga xe lửa trên đất Pháp, chúng tôi lên xe buýt để tiến về sông Seine. Ông trưởng đoàn cho chúng tôi biết rằng trên đường đến bờ sông Seine, chúng tôi sẽ đi ngang qua trước điện Versaille nơi chúng tôi sẽ được ông ta hướng dẫn đến tham quan  ngày mai. Vì vậy ông nói với chúng tôi rằng khi xe buýt chạy ngang trước điện Versaille, ông ta sẽ nói “Đây là điện Versaille” và chúng tôi tất cả đều chào mừng bằng cách nói to lên một chữ “wow”. Hân hoan trước những lời ông trưởng đoàn đề nghị, tất cả chúng tôi đều bằng lòng ngay. Và khoảng một phút sau, khi xe vừa chạy ngang trước điện Versaille, ông trưởng đoàn du lịch cất tiếng nói thật to:

    -Đây là điện Versaille.

    Tất cả chúng tôi đều vui mừng, đồng thanh cũng cất tiếng nói thật to:

    -Wow !

    Theo chương trình đã vạch sẵn, ông trưởng đoàn du lịch hướng dẫn chúng tôi đến bờ sông Seine của nước Pháp ở thủ đô Paris để lên du thuyền chạy vài vòng trên dòng sông Seine ngõ hầu du khách có thể ngắm cảnh dọc hai bên bờ.

    Ước mơ nhìn dòng sông Seine mấy mươi năm trời bây giờ không ngờ đã thành sự thật.

    Du khách trên thuyền đang ngồi nhìn dòng sông Seine.

     

    Dòng sông Seine chảy qua thủ đô Paris ( Hình trích từ Wikipedia)

    Ngồi trên thuyền đang nhẹ nhàng lướt sóng, chúng tôi say sưa nhìn hai bên bờ không để mất một lâu đài, một biệt thự, không để sót một bến nước, một gốc cây. Đằng kia phía bên trái bờ sông Seine, những lâu đài thật nguy nga, những biệt thự thật tráng lệ đang đứng sừng sững dưới trời cao giữa thu đô Pari trông sao mà huy hoàng và lộng lẫy. Xa xa, tháp Eiffel vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt đang ngạo nghễ dưới trời cao giữa thủ đô nước Pháp như đang đợi chờ tất cả 42 người trong đoàn du lịch Tour Ritz đến tham quan ngày mai. Bỗng đâu, mấy chiếc lá vàng bay bay rồi rơi nhè nhẹ xuống dòng sông Seine khiến lòng tôi chợt nhớ mùa thu đang về giữa thủ đô Paris, để rồi văng vẵng bên tai tôi tiếng hát của ca sĩ Hoàng Dũng qua bài “ Mùa thu không trở lại” của nhạc sĩ Phạm trọng Cầu:

    Em ra đi mùa thu
    mùa thu không trở lại
    Em ra đi mùa thu
    sương mờ giăng âm u.

    Em ra đi mùa thu
    Mùa thu không còn nữa
    Đếm lá úa mùa thu
    Đo sầu ngập tim tôi.

    Ngày em đi
    Nghe chơi vơi não nề
    qua vườn Luxembourg
    Sương rơi che phố mờ
    Buồn này ai có mua?

    Từ chia ly
    Nghe rơi bao lá vàng
    Ngập giòng nước sông Seine
    Mưa rơi trên phím đàn
    Chừng nào cho tôi quên.

    Hôm em ra đi mùa thu
    Mùa thu không trở lại
    Lá úa khóc người đi
    Sương mờ dâng lên mi.

    Em ra đi mùa thu
    Mùa lá rơi ngập ngừng
    Đếm lá úa sầu lên
    Bao giờ cho tôi qu

    Bỗng sóng nước vỗ mạnh vào mạn thuyền khiến nước văng tung toé lên thuyền rồi tạt vào mặt tôi làm tôi trở về với thực tại. Chị Hồ thị Thu Hương, phu nhân của anh Lê văn Chính, đang cầm máy chụp hình đứng đối diện với tôi liền bảo tôi và bà xã tôi hãy đứng sát bên nhau một tí nữa, rồi nhìn về phía tháp Eiffel để chị ấy chụp cho một bức hình trên dòng sông Seine làm kỷ niệm. Sau đó, sáu anh em chúng tôi đứng sát bên nhau rồi nhờ một du khách trên thuyền chụp cho chúng tôi một tấm hình làm kỷ niệm luôn.

    Sau khoảng một giờ ngồi trên thuyền lướt sóng để ngắm nhìn hai bên bờ sông Seine, ông trưởng đoàn du lịch liền thúc dục chúng tôi bước xuống thuyền leo lên xe buýt lại, chuẩn bị đến trung tâm thương mại Lafayette ở China town của thủ đô Paris để đi mua sắm. Vừa đến trung tâm thương mại Lafayette, chúng tôi được ông trưởng đoàn du lịch Leung Freddy cho biết rằng, tất cả chúng tôi được tự do đi shopping trong hai giờ và đúng 6:oo giờ chiều phải có mặt tại nơi xe buýt đậu để đi ăn cơm tối. Tại đây chúng tôi đi qua đi lại nhìn áo quần bày bán trong các tủ kính mà chẳng ai mua sắm gì cả vì giá cả đắt quá. Anh Bùi phước Ty nói với tôi rằng tôi ít chú trọng đến ăn mặc nhưng anh ta cũng muốn cho tôi biết rằng, trước đây loại áo Montagu rất nỗi tiếng nhưng bây giờ không dám mua vì giá cả khá đắt. Thế rồi anh Ty dẫn tôi đến một cửa kính gần đấy và chỉ cho tôi một chiếc áo Montagu đang nằm trong tủ kính. Thấy tôi và anh Ty đang nhìn chiếc áo Montagu này, anh chàng đứng bán hàng tiến về phía chúng tôi.

    Khi anh ta đứng trước mặt tôi, tôi liền chỉ chiếc áo Montagu nằm trong tủ kính và hỏi:

    -Je voudrais cette chemise, c’est combien?( Cái áo này giá bao nhiêu vậy?)

    Anh ta trả lời:

    -Quatre-vingts francs (80 franc)

    Tôi nói ngay:

    -C’est trop cher!( Quá đắt )

    Nói xong tôi và anh Ty bỏ đi.

    Sau đó tôi và bà xã tôi lên thang máy để đi xem tổng quát cho biết trung tâm thương mại Lafayette ở Pháp trước khi ra chỗ hẹn tại nơi xe buýt đậu để cùng đoàn du lịch chuẩn bị đi ăn cơm tối. Sau khi ăn cơm tối xong, chúng tôi được ông Leung Freddy hướng dẫn đến một hý trường nỗi tiếng tại thủ đô Pari để xem một show thật ngoạn mục khoảng 3 tiếng đồng hồ, gọi là “ Moulin Rouge Cabaret Show”. Vì vé vào cửa cho mỗi người là 120 Euro tương đối đắt nên tôi nghĩ thầm rằng, không biết chương trình của show nầy có hấp dẫn không  đây. Vì vậy khi thấy ông trưởng đoàn đi ngang trước mặt, tôi có hỏi ông về nội dung chương trình như thế nào, ông bảo chờ xem rồi sẽ biết. Và đúng như ông trưởng đoàn nói “chờ xem rồi sẽ biết”. Sau khi xem xong, tôi thấy nội dung chương trình cũng khá hấp dẫn vì có những tiết mục là lạ như hai ca sĩ vừa đi vừa hát trên không trung lúc điện trong rạp đều tắt cả, một anh chàng vật lộn với con trăn dưới nước, hay là những vũ khúc sexy 50% vv… Lúc chương trình chưa bắt đầu, các nhạc công chơi nhạc cho các ca sĩ hát để du khách ai muốn nhảy thì lên sân nhảy rồi cứ tự nhiên như người Hà nội mà nhảy theo những điệu nhạc các ca sĩ đang hát giữa thủ đô Paris. Anh chị Bùi phước Ty cảm thấy ngồi không yên khi nghe nhạc trỗi lên trên sân khấu nên đã kéo nhau lên nhảy mấy bản bolero cũng đỡ ghiền. Khoảng 11 giờ khuya, chúng tôi ra khỏi rạp rồi lên xe buýt  về khách sạn Evergreen Laurel Hotel Paris ở tại số 8 Places Georges Pompidou 92300 Levallois để nghỉ ngơi.

    Cũng như thường lệ trước khi vào khách sạn nghỉ ngơi, ông trưởng đoàn thường báo cho chúng tôi biết giờ báo thức, giờ điểm tâm và giờ khởi hành đi xem các danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử tại các nước chúng tôi đến du lịch. Tuy nhiên vì mới đến nơi đất lạ xứ người nên hơi khó ngủ, anh Lê văn Chính, anh Bùi phước Ty và tôi lại rũ nhau nhau xuống phòng trà ở tầng dưới của khách sạn để uống nước trà và nghe nhạc cổ điển Tây phương do một Pianist trình diễn đàn piano. Ngồi nghe nhạc và nói chuyện phiếm khoảng một giờ sau chúng tôi mới lên phòng ngủ.

    Đúng 7:45 giờ sáng, tất cả 42 du khách chúng tôi có mặt đầy đủ trước khách sạn Evergreen Laurel để lên xe buýt đến xem Điện Versailles, một trong những niềm kiêu hãnh của Pháp quốc và sự đố kỵ của nhiều chế độ quân chủ tại Âu châu. Tại đây, chúng tôi cũng được ông trưởng đoàn giới thiệu một bà đầm người Pháp nhưng nói được tiếng Anh để hướng dẫn chúng tôi đi xem những di tích lịch sử của dòng họ các nhà vua Louis XIV, XV, XVI trong Điện Versailles. Cũng giống như vào tham quan các lâu đài Windsor ở bên Anh quốc, tại đây, chúng tôi cũng được hướng dẫn đi xem tất cả những gì nằm trong Điện Versailles như phòng tiếp tân của vua, phòng hội họp, phòng ngủ, phòng triển lãm những vũ khí thời đại phong kiến của chế độ, nơi trưng bày những ngọc ngà châu báu vv…

    Điện Versailles (Hình trích từ Wikipedia)

    Khi vào phòng này, chúng tôi được bà đầm người Pháp cho biết rằng, rất nhiều vàng nằm khắp trong phòng, trên cửa sổ, trong tủ kính, nơi cửa chính ra vào, trên kệ sách vv…đều là vàng 24 cà rá cả. Khi nghe bà ta nói như vậy anh Lê văn Chính nói với tôi rằng, chắc chắn có vàng lấy từ các nước thuộc địa về trong đó có vàng lấy từ Việt nam qua. Tôi liền mỉm miệng cười như đồng tình với anh ấy. Thế rồi anh em trong đoàn chụp hình quay phim liên hồi. Ai thích hình gì thì chụp hình ấy. Chúng tôi vừa quay phim vừa chụp hình say sưa đến nỗi đoàn du lịch chúng tôi đã qua phòng khác mà không biết. Thế là chúng tôi phải vừa đi vừa chạy cho kịp đoàn du lịch. Sau khi gặp bà đầm người Pháp nghe bà ta trình bày và giải thích chúng tôi mới biết rằng, sở dĩ bà ta nói rất nhanh rồi đi ngay qua phòng khác vì cứ mỗi năm phút lại có một đoàn du lịch khác vào nữa. Nếu không đi ngay thì phòng sẽ chật ních người và nếu không trình bày nhanh sẽ trễ những nơi khác không xem được theo chương trình đã vạch sẵn.

    Sau khi tham quan Điện Versailles, chúng tôi lại lên xe buýt để sang xem Bảo tàng viện

    Louvre. Nơi đây, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và thưởng ngoạn đến say mê mấy chục tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới cũng như xem tất cả những gì liên quan đến di tích lịch sử của triều đại Hoàng đế Napoleon vang bóng một thời.

    Bảo tàng viện Louvre (Hình trích từ Wikipedia)

    Điều vui vui cho tôi là khi nhìn bức tượng của Napoleon Đại đế trong Bảo tàng viện Louvre, tôi cứ cười thầm trong bụng mãi vì nhớ đến câu chuyện của một giáo sư dạy môn kinh tế học kể cho chúng tôi nghe cách đây 41 năm, khi thấy chúng tôi ngủ gà ngủ gật trong đại giảng đường. Vị giáo sư ấy kể rằng có một lần trước khi dẫn đoàn quân bách chiến bách thắng trở về, Napoleon Đại đế đã gởi thư về cho người tình là Josephine dặn nàng khoan tắm đã. Giáo sư ấy vừa kể xong thì tất cả sinh viên trong đại giảng đường tỉnh táo lại hết, không còn ai ngủ gà ngủ gật nữa.   Sau khi tham quan Điện Versailles và Bảo tàng viện Louvre, chúng tôi nghỉ ngơi để dùng cơm trưa tự túc, sau đó lại lên xe buýt vượt qua cầu bắc qua dòng sông Seine tiến về tháp Eiffel . Tại đây chúng tôi được ông trưởng đoàn nói sơ qua về nguồn gốc của tháp này theo đó tháp Eiffel do kỹ sư Alexandre Gustave Eiffel  thiết kế. Tháp được xây cất khoảng giữa năm 1887 và 1889, sau đó được khánh thành vào ngày 31 tháng 03 năm 1889. Trong lúc tạo dựng tháp này, khoảng 300 công nhân ráp nối 18,038 miếng sắt đã được tôi luyện, xử dụng hai triệu rưởi đinh tán. Tháp Eiffel cao 342 mét, nặng 7, 300 tấn.

    Tháp Eiffel và dòng sông Sein về đêm(Hình trích từ Wikipedia)

    Năm 2006, có 6 triệu du khách đến tham quan tháp này và kể từ lúc khánh thành tháp này cho đến ngày nay, đã có hơn hai trăm triệu du khách đến thăm.  Sau khi trình bày tổng quát những vấn đề liên quan đến tháp Eiffel, ông trưởng đoàn liền phát mỗi người một vé để lên tháp nhìn quang cảnh thành phố Paris giữa nắng chiều. Tiền mua vé này du khách chúng tôi đã nộp cho ông trưởng đoàn chiều hôm qua.Tất cả là 30 Euro cho mỗi người gồm vé ngồi trên thuyền để dạo trên dòng sông Seine và vé lên tháp Eiffel .Chúng tôi liền sắp hàng nối đuôi nhau vào thang máy để được đưa lên tháp Eiffel. Sau khoảng mười lăm phút , chúng tôi đã  lên được tầng thứ hai của tháp. Vừa bước khỏi thang máy để ra vị trí đứng nhìn xuống thành phố Paris, bà xã tôi bỗng buột miệng nói bên tai tôi :

    -Đẹp quá anh ơi! Nhìn xuống dưới kia kìa! Thành phố Paris sao mà đẹp quá! Dòng sông Seine càng đẹp hơn nữa anh à! Anh lấy máy ảnh ra mà chụp vài tấm hình đi anh.

    Mà thật thế, đứng ở tầng thứ hai của tháp Eiffel nhìn xuống, chúng tôi thấy toàn cảnh của thành phố Paris đẹp tuyệt trần! Xa xa, Điện Versailles, Bảo tàng viện Louvre, Điện Champs Elysees như nổi bật một góc trời. Đẹp nhất và nên thơ nhất là dòng sông Seine chảy qua thành phố Paris đang uốn khúc giữa nắng chiều. Bởi mùa thu đang về trên nước Pháp, vì trời thu đang ngự trị giữa thành phố Paris nên lá vàng từ trên một số cây dọc hai bên bờ sông Seine đang bay nhè nhẹ rồi từ từ rơi xuống dòng sông. Nhìn dòng sông Seine đang uốn khúc giữa nắng chiều thu, nhìn lá vàng bay là đà rồi rơi trên dòng nước biếc, lòng tôi bỗng xúc động đến ngậm ngùi rồi bâng khuâng nhớ đến những thi nhân của nước Pháp cứ mỗi độ thu về đã từng dệt nên những vần thơ thật lãng mạn, đa tình, thật nghẹn ngào, nuối tiếc! Một Guillaume Apollinaire với L’Adieu thật nức nở sầu thương, một Alphonse de Lamartine với Le Lac thật hoang vắng đơn côi, một Paul Verlaine với Chansons D’automne thật ê chề đau đớn, đầy ắp những kỷ niệm nghẹn ngào! Bất giác tôi ngâm bài thơ Chansons D’automne của Paul Verlaine khi thấy nắng chiều đang trải dài trên dòng sông Seine tuyệt đẹp:

    Les sanglots longs

    Des violons

    De l’automne

    Blessent mon coeur

    D’une langueur monotone

    Tout suffocant

    Et blême, quand

    Sonne l’heures

    Je me souviens

    Des jours anciens

    Et je pleure

    Et je m’en vais

    Au vent mauvais

    Qui m’emporte

    Decà delà

    Pareil à la

    Feuille morte

     « Tiếng đàn ai đó lê thê

    Vĩ  cầm réo rắt ê chề lòng đau

    Bơ vơ chuông đổ đồng hồ

    Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa

    Bao kỷ niệm, theo gió đưa

    Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa

    Bao năm lữ thứ xa nhà

    Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi…”

    (Lãng Du)

    Dương viết Điền,

    California, một chiều thu nhạt nắng. (tháng 10 năm 2007)

                 

  • DU LICH,  Khánh Lan

    Du lịch ngắm hoa anh đào và thăm bạn

    March 28, 2024: Cuộc thưởng ngoạn ngắm hoa anh đào vùng Washington D.C cuối tháng Ba đã đem đến cho chúng tôi nhiều ngạc nhiên và thích thú cũng như đã để lại trong chúng tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Tuy khởi đầu cuộc du lịch gặp nhiều trắc trở vì chuyến bay từ phi trường LAX đến phi trường Dulles International, Virginia bị đình trệ, “Stand by” flights đến ba lần vì hãng máy bay American đã “booked” quá tải, phải ngủ lại khách sạn một đêm, hành lý bị thất lạc, v.v… Tuy đó là “chuyện lớn” nhưng vẫn không làm nản lòng sáu chúng tôi gồm: Chị Tố  Đoan,  Kiều Chi, Tuyết Nga, Đức Hạnh, Khánh Lan, và Mạnh Bổng.

    Từ trái sang phải: Mạnh Bổng, Chị Hằng vợ anh Phạm Xuân Thái, Kiều Chi, Tố Đoan, Khánh Lan, Tuyết Nga, Đức Hạnh, Anh Phạm Xuân Thái. (Hình chụp tại Alexandia Harbor)

    March 29, 2024: Sau cùng chúng tôi đã được lên máy bay nhưng đường bay hoàn toàn thay đổi. Nếu đúng như chương trình hoạch định thì chuyến bay “one stop” của chúng tôi sẽ ghé phi trường Dallas Fort Worth (DFW) International, Texas rồi bay thẳng qua phi trường Dulles International, Virginia. Nhưng cuối cùng lại trở thành chuyến bay “Two stops”, máy bay đã dừng lại ở phi trường DFW, Texas và Des Moines International (DSM), Iowa trước khi bay đến phi trường Ronald Reagan National, Washington DC, thay vì đi đến phi trường Dulles International, Virginia như theo chương trình đã ấn định lúc ban đầu. Chính vì sự đảo lộn đó mà hành lý của chúng tôi đã đi theo máy bay về phi trường Dulles International, Virginia thay vì phi trường Ronald Reagan, Washington DC.

    Sau khi máy bay hạ cánh tại phi trường Ronald Reagan, Washington DC khoảng 11:30 tối, chúng tôi đã nhận thấy anh Phạm Xuân Thái đứng ở khu lấy hành lý từ bao giờ. Anh Phạm Xuân Thái là anh của Kiều Chi, anh là người đã sống tại tiểu bang Washington DC từ năm 1975 cho đến nay và cũng là bạn rất thân với gia đình NV Hồng Thủy. Từ đầu tháng Ba, Anh Thái đã rất chu đáo và tận tình trong việc hướng dẫn & hoạch định chương trình thăm viếng ba vùng Washington DC, Virginia, Maryland cho chúng tôi lần này. Trong khi Kiều Chi giới thiệu chúng tôi với anh Thái thì cũng là lúc chúng tôi được biết hành lý của chúng tôi hiện đang ở phi trường Duller International, Virgina.

    Từ giã anh Phạm Xuân Thái và Kiều Chi, chúng tôi thuê Uber về phi trường Dulles International, Virginia để lấy hành lý, lúc đó đã gần nửa đêm nên kho chứa hành lý của hãng máy bay American sắp đóng cửa. Lấy hành lý xong, chúng tôi đi lấy xe tại Dollar Rent A Car và lái xe về tư gia của NV Hồng Thủy, đồng hồ điểm 1:30 sáng. Thế mà NV Hồng Thủy vẫn thức để chờ đón chúng tôi. (Cám ơn lòng hiếu khách của chị Hồng Thủy). Như vậy, chúng tôi đã mất 2 ngày để bay từ California đến Washington DC.

    Khánh Lan, Ngân (bạn của Kiều Chi từ tiểu bang Kansas), Kiều Chi, Tuyết Nga, Đức Hạnh, Chị Tố Đoan.

    March 30, 2024: Ngắm hoa anh đào tại bờ hồ Tidal Basin, Vì là Easter Spring Break nên du khách đến thưởng ngoạn hoa anh đào rất đông và chúng tôi không sao tìm được chỗ đậu xe. Anh Mạnh Bổng và anh Xuân Thái đành phải hy sinh lái xe lòng vòng quanh khu Tidal Basin sau khi “drop chúng tôi off“, chờ chúng tôi đi xem hoa và chụp hình. (Cám ơn sự kiên nhẫn đáng yêu của hai anh).

    3,000 cây hoa anh đào Nhật Bản hơn 100 trăm năm tuổi đồng loạt nở rộ ở khu vực quanh bờ hồ Tidal Basin, thủ đô Washington D.C và đã thu hút hàng triệu người từ khắp nơi đến thưởng ngoạn. Quanh bờ hồ, những bông hoa đào đã nở rộ, rực rỡ. Những cánh hoa đào mong manh bay bay trong gió, những cành hoa đào nghiêng bóng xuống mặt hồ trong vắt tạo nên một khung cảnh thật thơ mộng và hữu tình.

    Tuyết Nga, Khánh Lan, Chị Hằng, Ngân, Kiều Chi, Tố Đoan, Hồng Thủy, Đức Hạnh.

    Hoa Anh Đào năm nay nở sớm do nhiệt độ bất thường tại Thủ đô Washington D.C., nhưng vẫn còn ưu ái để lại trên cành những chùm hoa màu trắng, màu Hồng xinh xắn. Du khách cũng như chúng tôi len lỏi, chen nhau ngắm hoa và chụp hình lưu niệm. Có lẽ để mừng lễ Phục Sinh nên khu Tidal Basin hôm nay vui quá, hàng ngàn cánh diều với nhiều hình dạng và màu sắc khác nhau tung bay phất phới trên bầu trời trông thật vui mắt, thật đẹp và hay lạ. Chuyến du lịch ngắm hoa Anh Đào năm nay của chúng tôi thật đúng lúc, đúng thời gian và “lucky” vì NV Hồng Thủy cho biết qua năm 2025 sẽ có khoảng hơn 200 cây hoa anh đào quanh khu Tidal Basin bị chặt, đốn đi vì rễ cây đâm xuống làm nứt hồ nước.

    NV Hồng Thủy & Khánh Lan

    Lincoln Memorial và Thomas Jefferson Monument cũng không xa nên chúng tôi tản bộ qua để chụp những tấm hình lưu niệm trước khi ra về.

    March 31, 2024: Ngắm hoa Anh Đào tại khu làng Kenwood: Theo lời chỉ dẫn của anh Phạm Hồng Thái, chúng tôi đi ngắm hoa anh đào tại khu làng Kenwood. theo tài liệu internet cho biết, Kenwood vào đầu những năm 1930 và 1940, một nhà phát triển địa phương đã trồng cây anh đào như một cách để thu hút những người mua nhà tại khu ngoại ô thành phố này. Hiện nay có hơn 1,200 cây hoa anh đào và những cây hoa Magnolia tại đây đã tô điểm cho khu làng Kenwood trở nên tuyệt vời với hàng trăm nghìn bông hoa nhỏ màu trắng xinh đẹp nở rộ trong mỗi mùa xuân. Làng hoa anh đào Kenwood là một trong những địa điểm ngắm hoa anh đào nổi tiếng tại thủ đô Washington D.C.

    Hoa Magnolia và Khánh Lan

    Khu làng Kenwood với những ngôi nhà trị giá hơn 1 triệu USD

    Kenwood là một khu phố đẹp với những ngôi nhà trị giá hơn 1 triệu USD nằm giữa River Road và Little Falls Parkway ở Chevy Chase. Nó được phát triển bởi Edgar Kennedy – ông chủ tòa nhà chung cư Kennedy-Warren trong Quận – và cộng sự của ông là Donal Chamberlin. Ted Beverly, người đã sống ở Kenwood từ năm 1978 cho biết các cây hoa anh đào được bắt đầu trồng cây ngay cả trước khi những căn nhà được bắt đầu xây cất. Những ngôi nhà đầu tiên tại Kenwood được hoàn thành vào năm 1929.

    Những con đường tràn ngập hoa anh đào

    Khi những cây anh đào được trồng xung quanh Tidal Basin vào năm 1912 đã truyền cảm hứng cho Kennedy và Chamberlin. Nhưng thực ra chính một cư dân Quận Montgomery mới là người đầu tiên đề xuất trồng những cây có hoa cho khu vực này, David Fairchild là một “nhà thám hiểm thực vật” của Bộ Nông nghiệp sống ở Chevy Chase. Năm 1906, ông đã nhập cảng 100 cây hoa anh đào từ Công ty Yokohama và trồng chúng trên sườn đồi trong khu đất của mình và nhận thấy cây phát triển mạnh ở khu vực này và đến năm 1934, 2,000 cây anh đào Yoshino đã được trồng tài Washington D.C.

    Vào mùa xuân, những cành hoa trĩu nặng uốn lượn trên các con phố Kenwood, che khuất bầu trời một màu trắng xáo tựa như một tấm màn phủ đầy tuyết và thu hút hàng ngàn du khách mỗi năm.

    Phong cảnh đẹp trong khu làng Kenwood

    Cũng trong ngày 31 tháng 3, chúng tôi tham dự buổi “Hội Ngộ Kinh Thương 2024” tại nhà Cô Vân Nga, giáo sư anh văn của trường Đại Học Kinh Thương Minh Đức, Saigon. Sau bao năm không gặp nhau, các anh chị Kinh Thương kẻ còn người mất, tay bắt mặt mừng.

    Khánh Lan và Cô Vân Nga

    Kinh Thương Hội Ngộ 2024

    Aril 1, 2024:  The US Capital, Botanical Garden, Hirshhorn Sculpture Garden, Galery Of Art Museum, v.v…Thật là một cực hình để tìm được một chỗ đậu xe tại các địa điểm này, vì thế Anh Mạnh Bỗng thường bỏ chúng tôi trước cửa để đi tìm chỗ đậu xe hoặc chạy lòng vòng quanh phố để 5 đứa con gái như chúng tôi có cơ hội chụp những tấm hình đẹp. (Cảm ơn anh Mạnh Bổng).

    The US Capital

    Hirshhorn Sculpture Garden, Galery Of Art Museum

    Botanical Garden, Khánh Lan, Tố Đoan, Đức Hạnh…cứ lội mưa mà đi…tỉnh bơ…

    April 2, 2024: The White House: Sau khi lòng vòng bên ngoài của The White House và chụp hình phía ngoài cổng. Chúng tôi đi ăn trưa tại khu VN Eden Center, đây là trung tâm sinh hoạt thương mại của người Việt giống như khu Little Sài Gòn ở quận Cam của chúng ta. Khánh Lan đã gặp Ông Nam Lộc tại đây như theo lời dặn của NV Việt Hải và chụp một tấm hình lưu niệm với ông như NV Việt Hải giao phó. Hôm ấy Ông Nam Lộc làm MC cho chương trình đại nhạc hội của tiệm Teletron.

    The White House

    Chúng tôi đi ăn trưa tại khu VN Eden Center

    Mạnh Bổng, Ngân, Hạnh, Khánh Lan, Kiều Chi, Xuân Thái, Tố Đoan, Tuyết Nga, Chị Hằng, Hồng Thủy, Mẫn

    Buổi trưa, họp mặt tại nhà của anh Phạm Xuân Thái & Chị Hằng và cũng là buổi tiễn chân bạn hai bạn  Mẫn & Ngân về lại tiểu bang Kansas. Tại đây, chúng tôi đã gặp con trai thứ của nhạc sĩ Hoàng Trọng, Ca nhạc sĩ Hoàng Cung FA và em họ của khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, Dương Nguyệt Thu Lan. Cũng tại đây, chúng tôi đã gặp nhiều anh chị khác như anh chị Hiệp & Thư, anh chị Tiến & Thu Lan. Tất cả các anh chị này đều hát rất hay và hát các nhạc phẩm thuộc thể loại nhạc tiền chiến mà chúng tôi rất yêu thích.

    Chị Hằng, Tuyết Nga, CNS Hoàng Cung Pha (Con của NS Hoàng Trọng), anh Xuân Thái, Mạnh Bổng, Đức Hạnh, Tố Đoan, Hồng Thủy, Khánh Lan

    Hàng đứng: Các anh Tiến, Mẫn, Thái, Hiệp, Hoàng Cung Pha và chị Hằng. Hàng ngồi: Tố Đoan, Khánh Lan, Tuyết Nga, Chị Thư, Ngân, Hạnh, Kiều Chi, Chị Thu Lan, NV Hồng Thủy

    Buổi tối, chúng tôi cùng NV Hồng Thủy đến dự buổi họp mặt văn nghệ tại tư gia của nhà văn tiến sĩ Lưu Nguyễn Đạt. Hôm ấy, ca sỹ Anh Dũng cũng đến giúp vui. Thật là thú vị được thưởng thức những tiếng hát rất hay và nghe những bản nhạc tiền chiến mà các anh chị đến giúp vui văn nghệ đã hát hôm ấy. Nhà văn tiếp sĩ Lưu Nguyễn Đạt đã tặng khánh Lan ba tác phẩm văn học của ông gồm: văn, thơ và biên khảo mà ông đã cho xuất bản cách đây vài năm trước. Ông cũng không quên gửi tặng NV Việt Hải một thi tập song ngữ: Heartfulness hay Hồn Nước.

    Họp mặt tại nhà của NV TS Lưu Nguyễn Đạt. NV Lưu Nguyễn Đạt & Ca Sĩ Anh Dũng

    Tại đây, chúng tôi cũng gặp được Thi sĩ Lê Thị Ý,  Bà là tác giả của bài thơ Tưởng Như Còn Người Yêu. Bài thơ này đã được Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Chúng tôi cũng có cơ hội phỏng vấn Bà về nguồn cảm hứng gì đã khiến Bà sáng tác bài thơ này. Bà nói, Bà sống ở Ban Mê Thuật, nơi mà Bà đã nhìn thấy và là nhân chứng của nhiều chiến sĩ đã nằm xuống, cảnh những đám tang và những thiếu phụ đã khóc than trong đau khổ vì mất người yêu, v, v…nên vì thương cảm cho hoàn cảnh của họ, Bà đã viết nên bài thơ này.

    NV Khánh Lan, TS Lê Thị Ý, NV Hồng Thủy

    April 3, 2024: Thăm cô của Tuyết Nga ở Virginia cách Maryland khoảng hơn một tiếng lái xe và dùng cơm trưa với gia đình của cô.

    Thăm gia dình Cô của Tuyết Nga

    April 4, 2024: Thăm viếng “The Colonial Williamsburg” ở thành phố Virginia.  Williamsburg là một thành phố của bang Virginia ở Hoa Kỳ, trước kia là thủ đô của Thuộc địa Virginia từ năm 1699 đến năm 1780 và đóng một vai trò quan trọng trong Cách mạng Hoa Kỳ. Nó tạo thành “Tam giác lịch sử” cùng với Jamestown và Yorktown. Trung tâm của nó là Colonial Williamsburg, một khu làng lịch sử và bảo tàng lịch sử với những sinh hoạt sống động, các diễn viên hoặc người bán hàng tại Colonial Williamsburg mặc những trang phục cổ xưa mô tả cuộc sống thuộc địa hàng ngày trên đường phố, cửa hàng và công xưởng.

    Colonial Williamsburg

    April 5, 2024, Philadelphia, Pennsylvania và thăm Cô của Khánh Lan: Chúng tôi quyết định đi thăm thành phố Philadelphia thuộc tiểu bang Pennsylvania và tiện thể thăm cô của Khánh Lan sau khi chúng tôi ghé thăm The Liberty Bell, The Love Park, the Old City Hall và The Rading Terminal Market. Rất tiếc là chúng tôi không có đủ thời gian để ghé thăm The Old town of Philadelphia và The Amis town. Đã bao năm không trở về đây, thành phố đã thay đổi rất nhiều, đẹp hơn và đông du khách hơn. (Đây là lần thứ ba Khánh Lan trở lại nơi này).

    Tại “Liberty Bell”

    Tuyết Nga & Đức Hạnh ở “The Rading Terminal Market”

    Ghé thăm gia đình Cô của Khánh Lan

    April 6, 2024, ghé thăm nhà thờ The Basilica of the National Shrine of the Immaculate Conception và dạo phố Old town Alexandria, National Harbor:

    The Basilica of the Nationa Shrine of the Immaculate Conception hay Vương cung thánh đường của đền thờ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội

    Địa chỉ: 400 Michigan Ave NE, Washington, DC 20017 và mở cửa chính thức năm 1959. Architect: Charles Donagh Maginnis và Architectural styles: Romanesque Revival architecture, Neo-Byzantine architecture.

    Basilica of the National Shrine of the Immaculate Conception là nhà thờ Công giáo La Mã lớn nhất ở Hoa Kỳ và Bắc Mỹ, và là một trong mười nhà thờ lớn nhất trên thế giới. Nhà thờ được Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ chỉ định là Thánh địa cầu nguyện và hành hương quốc gia. Vương cung thánh đường là đền thờ Đức Mẹ nổi tiếng của quốc gia, dành riêng cho bổn mạng của Hoa Kỳ; Đức Trinh Nữ Maria dưới danh hiệu là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và thường được gọi là Nhà thờ Công giáo của Hoa Kỳ. Được viếng thăm bởi Giáo hoàng Phanxicô, Giáo hoàng Benedict XVI, Thánh John Paul II, và Thánh Teresa of Calcutta, Vương cung thánh đường, sánh ngang với các thánh địa lớn của châu Âu và thế giới.

    Mang phong cách Byzantine-Romanesque, kiến ​​trúc thượng tầng đồ sộ là nơi có hơn 80 nhà nguyện và phòng thí nghiệm liên quan đến các dân tộc, nền văn hóa và truyền thống vốn là kết cấu của đức tin Công giáo. Vương cung thánh đường cũng là nơi lưu giữ bộ sưu tập nghệ thuật giáo hội đương đại lớn nhất trên trái đất. Mở cửa 365 ngày mỗi năm, Vương cung thánh đường đón gần một triệu du khách hàng năm, thu hút khách hành hương cũng như khách du lịch từ khắp nơi trên đất nước và trên thế giới.

    Vương cung thánh đường Đền thờ Quốc gia Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội phải mất 39 năm để xây dựng kể từ khi bắt đầu xây dựng vào năm 1920 cho đến khi hoàn thành vào năm 1959, sau một thời gian gián đoạn trong Thế chiến thứ hai. Các kiến trúc sư Maginnis và Walsh ở Boston đã chọn phong cách La Mã-Byzantine cho tượng đài Công giáo quốc gia để tượng trưng cho đức tin và tình yêu của Hoa Kỳ đối với người bảo trợ của nó, Đức Trinh Nữ Maria. Đức Maria dưới danh hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

    Kiến trúc La Mã được xác định bởi kích thước đồ sộ, tường dày, mái vòm, trụ cầu, vòm háng, tháp và xe cứu thương được trang trí, trong khi kiến trúc Byzantine được chú ý nhờ đặc điểm đặc biệt nhất của nó, mái vòm. Trong kiến trúc Byzantine, một mái vòm hình tròn hoặc hình elip được đặt trên một căn phòng hình vuông hoặc hình chữ nhật bằng các mặt dây chuyền, kết cấu hình tam giác giúp tăng cường và hỗ trợ phần đế giữ mái vòm. Phong cách Romanesque-Byzantine đã được chọn cho Đền thờ Quốc gia để cho phép xây dựng bên ngoài cùng một lúc và bên trong, để hài hòa với kiến trúc của Washington, D.C., và để phân biệt với Nhà thờ Quốc gia Washington – kiểu Gothic Nhà thờ Tân giáo có công trình đang được tiến hành vào thời điểm đó.

    Ngày nay, Vương cung thánh đường Đền thờ Quốc gia Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội là nhà thờ Công giáo La Mã lớn nhất ở Bắc Mỹ và nằm trong số mười nhà thờ lớn nhất thế giới và được xây dựng hoàn toàn bằng đá, gạch, ngói – không có khung hoặc cột thép kết cấu. Vương cung thánh đường chứa bộ sưu tập nghệ thuật giáo hội đương đại lớn nhất thế giới. Hơn nữa, sự trang trí nghệ thuật của Vương cung thánh đường, cả trong lẫn ngoài, đều phù hợp với phong cách kiến trúc La Mã-Byzantine. Bên ngoài của Vương cung thánh đường có hình tượng của các vị thánh cũng như các cổng vòm và cổng vòm được điêu khắc tinh xảo.

    Tympana được điêu khắc phù điêu trang trí các lối vào phía đông và phía tây bên trong cũng như các hốc khác nhau ở khu vực gian giữa và thánh đường. Cửa sổ kính màu và kính mài trang trí cho cả khu vực Nhà thờ Thượng và Hạ. Nghệ thuật Byzantine đáng chú ý ở việc sử dụng khảm và đá cẩm thạch. Điều này bao gồm việc trang trí khảm bảy mái vòm chính cùng với nhiều nhà nguyện và nhà nguyện bên cạnh. Nhà thờ cũng được trang trí bằng những tấm đá cẩm thạch tuyệt đẹp. Những viên bi mịn hơn mở ra cho phép các đường vân của đá cẩm thạch tạo thành các mẫu đối xứng. (dựa theo tài liệu Wikipedia)

    Old town Alexandria, National Harbor:
    Rời nhà thờ The Basilica of the Nationa Shrine of the Immaculate Conception, anh Phạm Xuân Thái đưa chúng tôi đi dạo phố Old town Alexandria và dùng bữa cơm trưa tại nhà hàng Thái. Ăn xong, chúng tôi đi đến National Harbor, chụp hình cùng với các pho tượng của các binh chủng Hoa Kỳ, pho tượng Marilyn Monroe, v.v…Sau cùng là thử thời vận, đen đỏ tại Casino. Xui quá, mỗi chúng tôi thua $20.

    Alexandria Harbor

    Dạo phố Alaxandria Harbor

    Dùng bữa cơm trưa tại nhà hàng Thái, Mai Restaurant

    Và dạo phố tại National Harbor

    The Famous Pictures

    April 7, 2024 thăm bạn của Chị Tố Đoan, một người bạn cùng quê và cùng trại tỵ nạn mà chị Tố Đoan đã không gặp lại từ ngày đi định cư tại Mỹ. Con gái của chị bạn này đã bị lạc đạn trong một lần đi chơi cùng các bạn tại Las Vegas khi em mới 21 tuổi, năm nay em mới 28 tuỗi. Em là đứa con gái duy nhất của bạn chị Tố Đoan.

    April 8, 2024: Đạo phố RIO, Buổi sáng, sau bữa ăn điểm tâm, Chị Hồng Thủy rủ chúng tôi đi mua sắm tại khu shopping Rio. Rio Shopping Center là khu mua sắm sang trọng của các khách hàng giầu có. Nơi đây có phong cảnh đẹp, hồ nước và các nhà hàng lịch sự. Sau khi mua sắm một vài món hàng và dạo phố, chúng tôi dùng bữa cơm trưa tại một nhà hàng Mexico.

    Rio Shopping Center

    Buổi chiều, chúng tôi cùng Chị Hồng Thủy chuẩn bị bữa cơm mời anh chị Thái & Hằng. Chị Hồng Thủy thật chu đáo và hiếu khách. Từ hôm trước, chị đã chuẩn bị thức ăn cho mọi người, nào là bún riêu cua, mì xào dòn. Đây là hai món ăn đặc biệt mà chị nấu rất ngon. Chiều nay, chúng tôi đã có một bữa tiệc gia đình thân mật và đầm ấm. Cám ơn Chị Hồng Thủy nhiều và nhiều lắm.

    Bữa cơm thân tình

    April 9, 2024: Ngày cuối ở Maryland và chuẩn bị về lại California. Chuyến bay non-stop lúc 5:30 chiều nay sẽ đưa chúng tôi trở về California. Hôm nay, chúng tôi không đi đâu cả và quyết định “spend some times” với Chị Hồng Thủy. Mười mấy ngày rong chơi, hôm nay là ngày đầu tiên chúng tôi “take it easy” và chị em ngồi nói chuyện với nhau như thể cùng sống chung trong một mái nhà từ lâu. Chúng tôi vừa ôn lại chuyện cũ và chia sẻ những chuyện mới. Có thể nói, đây là chuyến du lịch đầu tiên mà chúng tôi cảm nhận được cái không khí thân tình giữa tình bạn hữu, sự ân cần, chăm lo của một người chị (Hồng Thủy) khiến chúng tôi vô cùng cảm kích.

    Trước cửa nhà của Chị Hồng Thủy

    Chúng tôi cũng xin mượn giây phút này để gửi lời cảm ơn đến anh Phạm Xuân Thái và chị Hằng đã rất chu đáo và hướng dẫn rất tường tận các địa điểm du lịch cũng như thắng cảnh đẹp. Nhất là Chị Hồng Thủy đã tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu, nhiệt tình và chu đáo từ miếng ăn đến giấc ngủ như một người chị cả. Chúng em cảm ơn Chị thật nhiều.

    Khánh Lan, California 2024

    Khánh Lan tại “The Love Park”

  • DU LICH,  Dương Viết Điền

    DU LỊCH THỤY SĨ

    …Đúng 8:00 giờ sáng, chúng tôi tất cả đều có mặt trước khách sạn Evergreen Laurel để lên xe buýt rời nước Pháp để tiếp tục cuộc hành trình du lịch sang Thuỵ sĩ. Sau khi trưởng đoàn du lịch điểm danh xong, xe buýt từ từ chuyển bánh. Vì phải mất 9 giờ mới đến Thuỵ sĩ nên anh tài xế biết chắc ngày hôm ấy không thể đi xem danh lam thắng cảnh nào kịp. Điều này khiến anh tài xế lái xe thong thả, không vội vàng như những lần trước. Vì vậy lúc xe buýt chạy chầm chậm ngang qua những con đường giữa thủ đô Paris, chúng tôi ngoái cổ nhìn Paris lần cuối. Paris ơi! Biết bao giờ trở lại chốn phồn hoa đô hội này để nhìn lại dòng sông Seine thơ mộng uốn khúc giữa nắng chiều? Paris ơi! Biết bao giờ trở lại đây để lên tháp Eiffel nhìn xuống thành phố Paris đẹp tuyệt trần khi mùa thu đang về trên đất Pháp? Thôi thì trăng tròn rồi lại khuyết, hoa nở để mà tàn, sum họp rồi ly tan. Xin vĩnh biệt dòng sông Seine, vĩnh biệt tháp Eiffel, vĩnh biệt Điện Versaille, vĩnh biệt Bảo tàng viện  Louvre, vĩnh biệt Paris ! Xúc động trước sự ly biệt nầy, bất giác tôi cất tiếng hát bài “Adieu, Paris” của nhạc sĩ Trần văn Lương:

    Adieu, Paris
    (Vĩnh biệt Paris)

    Ami, c’est à Paris,
    Cette ville éternelle,
    Qú une ironie mortelle
    Du sort nous a unis.

    Anh yêu, thành phố Paris
    Muôn đời là kinh kỳ
    Éo le truyện trần thế
    Se ta như phu thê.

    Notre amour, à Paris,
    A embrasé ma vie,
    Et ces jours, ralentis,
    De douceur l’ ont remplie.

    Paris, ta yêu nhau
    Tình em như lửa cháy
    Ngày chầm chậm qua mau
    Đầy dịu dàng nhiệm mầu.

    Le bonheur, à Paris,
    Est, hélas, si fragile.
    Quand j’ai quitté la ville,
    Nos voeux étaient finis.

    Paris, ta hạnh phúc
    Nhưng sao quá mong manh
    Khi em rời kinh thành
    Hẹn ước đã tàn nhanh .

    Tu trouves, à Paris,
    Ta nouvelle romance.
    En ce lointain pays,
    Je pleure ma malchance.

    Hóa ra Paris này
    Anh có tình yêu mới
    Phương trời xa vời vợi
    Em khóc đời chơi vơi

    J’ enverrai à Paris
    Mon âme déchirée,
    Et à toi les sourds cris
    D ‘ une amante oubliée.

    Paris, em gửi về
    Hồn em đau não nề
    Trao anh tiếng nấc nghẹn
    Của người tình bị quên .

    Il fait beau à Paris,
    Ensemble on se promène.
    Tu parles et tu ris,
    Connais-tu pas ma peine?

    Paris, trời nắng to
    Người đẹp đi bên anh
    Anh cười nói bên cạnh
    Em đau, biết chăng anh?

    Il fait froid à Paris,
    Tu embrasses ta belle,
    L’ ardent feu de jadis
    Bru^le à présent pour elle.

    Paris, trời trở lạnh
    Ôm người đẹp bên anh
    Lửa tình xưa, nay dành
    Cho người mới yêu anh

    Il fait chaud à Paris,
    Ton coeur est en délire.
    Chaque mot qú elle dit
    T’ apporte le sourire.

    Paris, trời đang nóng
    Tim anh như lửa bỏng
    Lời nàng nghe như mộng
    Anh cười dễ như không .

    Il fait gris à Paris,
    Tu lui lis le poème,
    Jadis pour moi écrit,
    Quand tu m’ as dit : “Je t’ aime!”

    Paris, trời ủ rũ
    Đọc cho nàng thơ cũ
    Ngày xưa viết tặng em
    Anh đã nói : “ yêu em!”


    Il pleut fort à Paris,
    Heureux, tu oublies l’ heure.
    Jamais tu ne saisis
    Que pour moi Paris pleure.

    Paris, trời mưa to
    Mải vui, quên thời giờ
    Có khi nào anh nhớ
    Vì em, Paris nức nở .

    Il fait nuit à Paris,
    Lentement l’ ombre efface,
    Sous son pas, toute trace
    De mon faux paradis.

    Paris đã vào đêm
    Bóng tối xóa chậm êm
    Bóng đêm, giờ còn lại
    Thiên đường ma của em !

    Il est tard à Paris,
    S’ endort la citadelle.
    Tu ne penses qú à elle,
    Et n’ entends point mes cris.

    Paris, đêm vào khuya
    Thành phố trong giấc nồng
    Anh đang say bóng hồng
    Có nghe em khóc không .

    Adieu, ami,
    Adieu, romance.
    Adieu, souffrance,
    Adieu, Paris.

    Xin vĩnh biệt anh yêu
    Xin vĩnh biệt cuộc tình
    Xin vĩnh biệt khổ đau
    Paris, Vĩnh biệt nhau !


    (Nguyễn Đàm Duy Trung chuyển ngữ)
    April 6, 2002

    Chiếc xe buýt đã lăn bánh ra khỏi thành phố Paris . Ông trưởng đoàn du lịch đã cho chúng tôi biết phải mất chín giờ mới đến thành phố Lucerne ở Thuỵ sĩ. Vì vậy khuyên chúng tôi hãy nhìn ra hai bên đường xem những phong cảnh thơ mộng hữu tình để giết thì giờ. Thế rồi ông trưởng đoàn Leung Reddy bắt đầu kể chuyện vui cho anh chị em du khách trong đoàn du lịch nghe. Hết chuyện này ông ta kể đến chuyện khác. Ông ta nói liên tu bất tận. Cứ mỗi lần nói tiếng Anh xong ông ta lại nói sang tiếng Hoa để cho một số người Hoa không biết tiếng Anh cũng có thể nghe được. Hết kể chuyện ông ta lại bắt đầu ca hát. Ông hát liên tục sáu, bảy bài mà không biết mệt. Ai đề nghị bài nào ông ta hát bài đó. Dĩ nhiên nhạc ông ta hát tất cả đều là nhạc bằng tiếng Hoa.

    Chúng tôi tất cả 42 người lúc đầu ai cũng lắng tai nghe để cho quên đường sá xa xôi, để cho quên nơi đến tham quan trên đất Thuỵ sĩ còn xa ngút ngàn. Dần dần một số người trong đoàn bắt đầu ngủ gà ngủ gật. Một số người khác lại tham gia chương trình văn nghệ bỏ túi trên xe buýt với ông trưởng đoàn bằng cách lên cầm Micro hát một bài giúp vui.  Tôi và bà xã tôi khi thức khi ngủ. Nếu ngủ thì thôi còn thức thì cũng lắng tai nghe chương trình văn nghệ bỏ túi ấy. Vừa nghe chương trình văn nghệ vừa nhìn ra ngoài, tôi thấy cảnh vật dọc hai bên đường cũng thơ mộng lắm. Hằng trăm mẫu đất trồng nho nằm sát bên đường trông thật xinh xắn. Thỉnh thoảng cứ cách nhau vài trăm mét lại có một đàn bò trắng đang gặm cỏ dưới ánh nắng chiều trông thật đẹp mắt. Đặc biệt có nhiều đồi núi sao mà giống núi đồi ở Đà lạt quá. Nhất là những dãy núi đồi nằm phía bên phải con đường giống hệt như những núi đồi từ thác Liên khương về đến thành phố Đà lạt vậy. Không ngờ những nhận xét của tôi lại trùng hợp với nhận xét của anh Bùi phước Ty khi anh Ty ngồi ghế phía trước tôi ngoái cổ lại nói nhỏ với tôi:

    -Điền nhìn dãy núi đồi phía bên phải kìa, sao mà giống hệt như dãy đồi núi từ thác Liên khương về tới thành phố Đà lạt quá .

    Thế rồi cái gì đến đã đến. Chẳng mấy chốc xe buýt chúng tôi đã đến gần biên giới của Pháp và Thuỵ sĩ. Bỗng tài xế cho  xe dừng lại. Ông trưởng đoàn nói cho chúng tôi biết là chúng tôi có 20 phút để làm vệ sinh cá nhân. Thế là chúng tôi cùng nhau xuống xe buýt vào nhà hàng bên đường tìm nhà vệ sinh. Lúc này tôi vẫn còn đau bụng đi tháo dạ vì không biết đã ăn nhằm thực phẩm độc gì ở restaurant tại Anh hay tại Pháp nên tôi cố đi hơi nhanh để tìm nhà vệ sinh. Khi thấy nhà vệ sinh rồi, tôi liền mở cửa từng phòng để vào. Tất cả trong nhà vệ sinh này có 4 phòng để đi cầu. Tôi mở phòng nào cũng không được cả vì tất cả đều bị khoá hết. Nhìn vào phía dưới chẳng thấy ai trong nhà cầu cả. Chỉ thấy một phòng có người ở bên trong thôi. Thế là tôi đứng chờ trước phòng có người ngồi bên trong. Chờ một phút rồi mà anh chàng ở trong phòng chưa chịu ra trong lúc Tào Tháo rượt gần kịp tôi rồi! Bí quá tôi quay lưng lại xem có người nào làm việc trong nhà hàng này để hỏi xem tại sao ba nhà  cầu kia lại khoá lại. Bỗng có một bà bán trong nhà hàng này đi ngang qua, tôi liền đến hỏi bà ta bằng một câu tiếng Anh:

    -Mrs,why did you lock the door of the restroom like that?

    Nghe tôi hỏi như vậy bà ta chỉ mở to cặp mắt nhìn tôi như có vẻ không hiểu tôi nói gì cả.

    Thấy bà ta có vẻ như không hiểu câu hỏi của tôi tôi liền hỏi lại bằng tiếng Pháp:

    -Madame, pourquoi fermez vous la porte de la toilette ?

    Lại một lần nữa bà ta nhìn tôi rồi nheo mắt lại!

    Thấy thế tôi nghĩ bụng, Tào Tháo rượt tới nơi rồi mà bà ta vẫn không hiểu gì cả thì coi như  sắp bỏ mạng sa trường rồi! Bỗng một tia sáng loé lên trong đầu tôi, hay là ta hỏi bằng tiếng Tây ban nha xem sao. Nghĩ thế tôi liền hỏi ngay bà ta một lần nữa bằng tiếngTây ban nha:

    – Senora, por qué cerras Usted la puerta de tocador?

    Nghe tôi hỏi như vậy, bà ta liền trợn mắt nhìn tôi rồi đưa hai tay lên trời và bỏ đi khiến tôi kêu trời không thấu!

    Bỗng đâu ông trưởng đoàn Leung Reddy xuất hiện như là vị cứu tinh khẩn cấp của tôi. Tôi liền hỏi ông trưởng đoàn ngay, dĩ nhiên bằngtiếng Anh:

    -Tại sao họ lại đóng cửa cả ba phòng kia làm sao mà đi cầu đây ông Leung Freddy ?

    Ông trưởng đoàn vừa chỉ tay vào nhà cầu vừa trả lời:

    -Họ mới mở thêm một phòng nữa kia kìa anh vào đi.

    Vừa nghe ông trưởng đoàn nói như vậy tôi liền bay thật nhanh như hoả tiển liên lục địa vào phòng vừa mới mở. Vừa ngồi xuống chưa kịp đóng cửa, một dòng thác từ trong ruột già đổ xô ào ạt xuống nhà cầu làm cho tôi thất điên bát đảo! Đi du lịch mà gặp đại nạn như thế này thì đúng là kêu trời không thấu.

    Sau khi lên xe buýt an toạ, tôi nghĩ lại chuyện đi vào nhà vệ sinh vừa rồi khiến lòng tôi có một vài thắc mắc. Tại sao tôi nói cả ba thứ tiếng rồi mà bà ta vẫn không hiểu? Hay là vì tôi phát âm không rõ hoặc là nói tiếng bồi nên bà ta không nghe được? Hay bà ta là người Đức, người Ý mới không hiểu được ba thứ tiếng kia? Chỉ có trời biết!

    Tôi đang miên man suy nghĩ thì xe buýt bắt đầu chuyển bánh lên đường.

    Thường thì mỗi lần đến nước nào khi chuẩn bị để vượt qua biên giới lãnh thổ của hai nước, chúng tôi luôn luôn phải qua thủ tục hải quan. Nhưng có lẽ tại biên giới Thuỵ sĩ và Pháp, vấn đề thủ tục hải quan tương đối dễ dàng sao đó, và có lẽ ông trưởng đoàn đã báo cáo tổng số du khách trên xe trước rồi nên chỉ sau mấy phút anh tài xế trình bày với giới hữu trách tại biên giới Pháp vàThuỵ sĩ, xe chúng tôi liền được phép vưượt qua biên giới để tiến về thành phố Lucerne. Mất một ngày đi đường rồi nên khi trời vừa tối, xe buýt chúng tôi cũng vừa đến thành phố Lucerne của Thuỵ sĩ. Tại đây chúng tôi được ông trưởng đoàn sắp xếp phòng ốc ngay trong  khách sạn Astoria ở đường Pilatusstrasse 29,CH6002Lucerne Switzerland.Sau đó chúng tôi tự túc ăn cơm tối sau khi ông trưởng đoàn giới thiệu cho chúng tôi tiệm Mac Donal ở một góc đường gần khách sạn .

    Như vậy nếu tính ngày giờ đã đi qua, chúng tôi đã du lịch tại Anh quốc hai ngày (ngày 20 và 21), tại Pháp 2 ngày ( ngày 22 và 23). Và hôm nay là ngày 24 tháng 09 năm 2007, chúng tôi bắt đầu đến Thụy sĩ.

    Như thường lệ sau khi điểm tâm xong, chúng tôi tất cả 42 người đều tề tựu đông đủ trước khách sạn Astoria để lên xe buýt đi xem các danh lam thắng cảnh tại Thuỵ sĩ.

    Lúc này ngoài trời mưa đang bay nhè nhẹ nên chúng tôi đều mang dù và áo mưa theo.

    Sau khoảng nửa giờ vòng quanh trong thành phố, xe buýt bắt đầu dừng lại. Chúng tôi liền xuống xe đi theo ông Leung Reddy để ông ta hướng dẫn đến đài tưởng niệm The Lion Monument . Khi ông trưởng đoàn du lịch đang giải thích và đề cập đến di tích lịch sử của đài tưởng niệm nầy thì trời bắt đầu mưa hơi lớn. Chúng tôi liền lấy dù và áo mưa ra để mặc và che mưa. Vừa nghe ông ta giải thích, chúng tôi vừa quay phim vừa chụp hình. Nhìn đài tưởng niệm The Lion Monument, tôi thấy những nét điêu khắc trực tiếp trên đá thật tinh xảo và tuyệt vời.

    The Dying Lion Monument (Hình trích từ Wikipedia)

    Thảo nào nhà văn Mark Twain đã diễn tả bức tượng con sư tử đang hấp hối này là một mẫu đá buồn nhất và cảm động nhất trên thế giới. Sau đó ông trưởng đoàn cho chúng tôi tự do đi shopping và vào các tiệm xem đồng hồ Thuỵ sĩ . Nhân lúc tôi đang bị đau bụng tháo dạ uống thuốc Pepto Bismol chúng tôi mang theo sẵn vẫn không hiệu quả, sau khi uống thêm mấy viên thuốc nho nhỏ màu trắng chị Ánh Tuyết cho vẫn chưa cầm hẳn, tôi và bà xã tôi liền ghé vào một tiệm thuốc Tây trong thành phố hỏi mua lọai thuốc trị bệnh đi cầu tháo dạ tương đối mạnh hơn hai loại thuốc kia. Bà chủ tiệm thuốc Tây liền bán cho chúng tôi một vĩ thuốc có tên imodium và nói với chúng tôi rằng lọai thuốc này rất hay. Thật thế, sau khi uống hai viên vào, tôi không còn đi cầu nhiều lần nữa và từ từ ngưng hẳn. Khi đến Thuỵ sĩ, bà xã tôi cũng bị đi cầu tháo dạ liền uống thuốc Imodium vào nên cũng đỡ dần dần. Trưa ấy đang ngồi trên xe buýt, bỗng một chị người Hoa trong đoàn du lịch của chúng tôi đến xin thuốc vì chồng chị ấy cũng bị đi cầu tháo dạ. Bà xã tôi liền cho chị ấy vài viên Sau đó rất nhiều người cũng đến xin, vì chúng tôi cũng vừa hết bệnh nên còn mấy viên  cuối cùng bà xã tôi tặng hết cho họ luôn. Sau khi hỏi ra mới biết rằng khoảng hai phần ba du khách trong đoàn đều bị đi cầu tháo dạ cả! Họ cũng bị Tào Tháo rượt chạy như điên. Người thì bị rượt ban đêm, người thì bị rượt ban ngày. Kẻ thì  bị rượt lúc đang ngồi dùng cơm trưa, người thì bị rượt lúc đang đi shopping, người khác thì bị rượt lúc đang chụp hình, quay phim, nhưng tất cả những người bị Tào Tháo rượt đều câm lặng như hến! Chỉ biết lặng lẽ đi tìm nhà cầu để trút bỏ bầu tâm sự kỳ quái này mà thôi! Sau khi biết được chuyện nầy, ông trưởng đoàn du lịch nói với chúng tôi rằng, ông ta rất ngạc nhiên vì đã nhiều lần hướng dẫn những đoàn du lịch khác đi, ông ta chưa bao giờ gặp những trường hợp như thế nầy cả. Không biết vì “ lạ nước, lạ cái” ở quê người đất khách hay vì ăn nhằm những đồ ăn thiếu vệ sinh trong các tiệm ăn nên mới bị đi tiêu chảy gần hai phần ba đoàn du lịch như vậy.

    Trở lại vấn đề đi shopping ở trên, khoảng 30 phút sau chúng tôi lại theo gót chân ông trưởng đoàn du lịch đến xem thắng cảnh ở bên bờ hồ Lucerne Lake giữa thành phố Lucerne.

    Hồ Lucerne ở Thuỵ  sĩ (Hình trích từ Wikipedia)

    Nơi đây chúng tôi cũng đã đi qua chiếc cầu gỗ nỗi tiếng Kapell Bridge bắc qua hồ Lucerne thật đẹp và thơ mộng. Theo sự giải thích của ông trưởng đoàn du lịch, cầu nầy nằm gần nơi nối liền con sông với hồ Lucern. Chiếc cầu Kapell Bridge được xây cất vào năm 1335, chiều dài 200 mét. Tuy nhiên khi nhìn vào chiếc cầu người ta thấy có vẻ còn mới chứ không cũ lắm. Sở dĩ như vậy là vì năm 1993, một trận hoả hoạn đã thiêu rụi gần như toàn bộ cây cầu nầy và tất cả đều mới được sửa chữa và phục hồi lại.

    Vì vậy mà ngày hôm nay khi nhìn vào ai cũng thấy cây cầu có nhiều nét có vẽ tân kỳ.

    Cầu Kapell (Hình trích từ Wikipedia)

    Sau đó ông trưởng toán hướng dẫn chúng tôi lên một chiếc du thuyền  để được lái đi vòng quanh bờ hồ Lucerne vừa nhìn phong cảnh hữu tình vừa ngồi ăn cơm trưa thật vui thú và hạnh phúc. Chiếc du thuyền này gọi là “ Lake Lucerne Happy Hour Cruise”.Vé để được ngồi trên du thuyền này là 30 Euro cho mỗi một người. Khoảng một giờ sau, chúng tôi từ giả du thuyền rồi lên xe buýt để về lại khách sạn.

    Sáng hôm sau, chúng tôi lại tập họp đầy đủ trước khách sạn để ông trưởng đoàn hướng dẫn lên đỉnh núi Mt.Titlis. Đây là ngọn núi cao nhất ở Thuỵ sĩ , độ cao 10,000 feet khoảng 3 cây số. Trong đoàn chúng tôi có một số du khách không tham dự vụ leo lên đỉnh núi nầy. Có lẽ có người không thích, có người không đem đủ tiền để mua vé vv…

    Giá vé cho mỗi người để được lên đỉnh Mt.Tilis là 50 Euro. Lúc ở nhà, tôi cứ tưởng leo lên đỉnh núi bằng cách đi lên tầng cấp. Vì vậy tôi mang theo một cái gậy và một cái belt để thắt lưng dự trù gặp trường hợp leo núi khó khăn tôi phải chống gậy và mang dây belt vào, vừa để khỏi té vừa đỡ đau lưng vì lưng tôi bị đau cột sống từ lâu. Nhưng khi đến nơi tôi mới biết rằng, chúng tôi lên tận đỉnh núi Mt.Titlis cao chót vót kia bằng cách ngồi vào trong những chiếc xe nho nhỏ do một hệ thống dây cáp (cable) vĩ đại kéo từ dưới mặt đất từ từ lên tận đỉnh núi. Mỗi xe ngồi chỉ 6 người, xe này cách xe kia khoảng vài chục mét. Sau khoảng 15 phút, chúng tôi đã đến đỉnh núi Mt.Titlis cao 10,000 feet. Tại đây, nhìn chung quanh tất cả bốn phương tám hướng, chúng tôi chỉ thấy toàn tuyết và tuyết trắng xóa mà thôi .Chẳng thấy mây trời cũng chẳng thấy cây cối và núi đồi đâu cả. Dĩ nhiên vì chung quanh chỉ thấy một màn tuyết trắng nên khí hậu cũng lành lạnh. Tuyết bay khắp nơi rồi phủ vào cả áo quần của du khách.

    Đỉnh núi tuyết Mt. Titlis (Hình trích từ Wikipedia)

    Thấy quang cảnh cũng hay hay và là lạ nên anh em lại rủ nhau quay phim và chụp hình. Mỗi toán lên xem khoảng vài chục người nên sau khoảng mười lăm phút, chúng tôi lại được lệnh xuống núi để cho toán khác lên xem. Thế là chúng tôi lại vào ngồi trong xe nho nhỏ như lúc mới lên và hệ thống dây cáp từ từ di chuyển đưa chúng tôi xuống lại mặt đất.

    Sau khi điểm danh đầy đủ, ông trưởng đoàn du lịch bảo lên xe buýt để về lại khách sạn chuẩn bị ăn cơm chiều. Sau đó như thường lệ, ông trưởng đoàn thông báo cho chúng tôi biết sáng mai sẽ rời khách sạn để sang nước Ý.

     (Trích từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Âu Châu và Hạ Uy Di” xuất bản năm 2009)

     Dương viết Điền

  • DU LICH,  Dương Viết Điền

    Du Lịch Hạ Uy Di.

    …Sau khi tham quan tất cả các làng trong Trung Tâm Văn Hoá Polynesian, chúng tôi liền đến bờ hồ, nơi được chọn để tất cả các bộ tộc biểu diễn các vũ khúc của mình trên một chiếc phà hay chiếc đò, để xem các vũ khúc do các diễn viên của các làng hồi nãy trình diễn chung trong cùng một chương trình. Trên đoạn đường từ làng của bộ tộc TONGA đến bờ hồ, trời lúc đó đã về chiều, xa xa khói lam chiều từ mái nhà tranh sau lùm cây bay lên cao làm tôi bỗng nhớ nhà da diết. Bất giác, tôi hát bài Chiều, thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh do nhạc sĩ Dương thiệu Tước phổ nhạc:

    “Trên đường về nhớ đầy. Chiều chậm đưa trong ngày. Tiếng buồn vang trong mây. Tiếng buồn vang trong mây. Chim rừng thôi cất cánh. Xót xa tình ngây ngây. Có ai sầu vạn cổ.Chất trong hồn chiều nay.Chất trong hồn chiều nay. Tôi là người lữ khách. Trời chiều có làm khuây. Ngỡ hồn mình là rừng. Ngỡ hồn mình là mây.  Nhớ nhà châm điếu thuốc. Khói buồn vang trong mây.”

    Vừa hát xong bài Chiều thì chúng tôi cũng vừa đến bờ hồ.

    Nơi đây, tất cả các du khách đều ngồi ở những ghế đá có sẵn quanh bờ hồ nhìn ra giữa hồ để xem trình diễn. Một sân khấu lộ thiên ở cuối bờ hồ đã được dựng lên từ trước để các ca sĩ, các vũ công TRUNG TÂM đứng giới thiệu chương trình và các tiết mục trình diễn của từng bộ tộc.

    Các diễn viên của các bộ tộc gồm cả nam lẫn nữ mang áo quần đủ loại màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng,vừa hát vừa múa may quay cuồng trên một chiếc thuyền, hay phà theo những điệu vũ mang sắc thái văn hoá của bộ tộc mình, trông thật đẹp mắt, thật quyến rũ, thật thơ mộng. Đặc biệt các nam diễn viên hầu hết là những chàng trai vai u thịt bắp, nước da người nào người nấy rám nắng chứng tỏ ngày nào họ cũng phải trình diễn cho du khách thưởng ngoạn dưới ánh nắng mặt trời. Các nữ diễn viên múa thật điêu luyện, thật nhịp nhàng, uyển chuyển, chẳng khác gì vũ khúc của những tiên nữ ở trên Đào Hồng mà Lưu Nguyễn ngày xưa đã lạc bước vào thăm! Có bộ tộc thì vừa múa vừa hát những bản nhạc nghe thật nhẹ nhàng, êm dịu. Trái lại có những bộ tộc vừa hát vừa múa may quay cuồng vừa la hét thật ghê rợn như muốn ăn tươi nuốt sống người nào!

    Có một chiếc thuyền vì các diễn viên trình diễn vừa múa vừa nhảy quá mạnh khiến anh chàng chèo thuyền đứng thất thế nên rớt xuống nước ướt cả áo quần. Anh ta liền phải leo lên thuyền lại gấp rồi chèo cho chiếc thuyền đi nhanh để thuyền bộ tộc khác ra trình diễn.

    Sau đây là các hình ảnh của những thanh niên và thiếu nữ của các bộ tộc trình diễn trên hồ cho du khách xem:

    Màn trình diễn của bộ tộc này vừa chấm dứt thì một chiếc thuyền xuất hiện từ bờ hồ đằng xa từ từ tiến ra giữa hồ. Trên thuyền, một người đàn ông mang hia đội mũ, trang phục màu  vàng đỏ như những vị vua chúa ngày xưa, ngồi chểm chệ trên một chiếc ghế bành được đặt giữa thuyền. Bên cạnh là một người đàn bà bận áo quần muôn màu sặc sỡ: đó là Hoàng đế và Hoàng hậu của xứ HẠ UY DI một thời vang bóng. Hai bên có hai người lính cầm giáo đứng hầu.

    Chiếc thuyền này được người chèo thuyền chèo chầm chậm để du khách có thể quan sát, chiêm ngưỡng vua và hoàng hậu của xứ Hạ uy di, một xứ sở được mệnh danh là thiên đường hạ giới, một hải đảo mà văn sĩ Mark Twain gọi đây là miền đất thanh bình và hạnh phúc nằm giữa Thái bình dương với khí hậu quanh năm suốt tháng luôn luôn hiền hoà, dịu mát.

    Khi chiếc thuyền chở vị Vua và Hoàng hậu vừa biến mất cuối bờ hồ là xem như chấm dứt cuộc trình diễn ngày hôm nay của các bộ tộc, chúng tôi liền theo du khách vào Restaurant để chuẩn bị ăn cơm tối. Mặc dầu lúc bấy giờ đã 07 giờ chiều, nhưng vì mùa hè nên trời vẫn còn sáng. Sau khi làm thủ tục nộp vé vào cổng, cũng giống như buổi trưa lúc mới vào cổng để bắt đầu đi tham quan các làng, một thanh niên thân hình vạm vỡ và một thiếu nữ của một bộ tộc thay phiên nhau choàng cho chúng tôi mỗi người một vòng hoa tươi như mới hái từ trên cây xuống. Chúng tôi rất thích thú khi mang những vòng hoa này vì đây có lẽ là biểu tượng rõ nét nhất của cuộc du lịch trên xứ Hạ uy di nầy. Nhớ lại sáng nay khi được choàng những vòng hoa kết bằng những vỏ ốc nho nhỏ, chúng tôi cũng không được vui lắm và cũng hơi ngạc nhiên tại sao người ta lại không choàng cho mình vòng hoa mà lại choàng bằng vòng “võ ốc”. Sau khi suy nghĩ vài dây tôi nghiệm ra rằng trưa nay, có lẽ người ta chưa choàng cho mình những vòng hoa tươi, mà chỉ choàng bằng những vòng “võ ốc” vì trong thời gian đi từ làng này qua làng khác giữa trời nắng chang chang, những vòng hoa này sẽ bị héo đi chăng?

    Sau khi choàng những vòng hoa xong, họ cũng mời chúng tôi chụp chung một bức hình làm kỷ niệm. Khi đứng chụp hình với chúng tôi, chàng thanh niên và nàng thiếu nữ nầy cũng để các ngón tay thành biểu tượng của hangloose (relax) như chàng thanh niên và nàng thiếu nữ sáng nay vậy.

    Sau khi chụp chung một bức hình làm kỷ niệm, chúng tôi được nhận một tấm phiếu có đề số để vài giờ sau, nếu muốn lấy hình thì cầm phiếu ấy kèm thêm 15$ đến lấy hình về! Sau đó chúng tôi được mời vào phòng ăn để dùng cơm tối. Phòng ăn khá rộng rãi, có thể chứa khoảng 200 thực khách.

    Đối diện với phòng ăn là một sân khấu lộ thiên tương đối rộng được thiết lập đâu từ trước, nơi đây các diễn viên của các bộ tộc sẽ trình diễn văn nghệ giúp vui lúc du khách đang ngồi ăn cơm tối. Lần lượt từng bàn nọ đến bàn kia, chúng tôi tự động sắp hàng đi lấy dồ ăn kiểu self-service rồi đem về lại chỗ ngồi vừa ăn vừa xem văn nghệ. Tuy nhiên trước khi bắt đầu dùng cơm tối, một xướng ngôn viên đứng trên sân khấu thông báo cho toàn thể thực khách rằng, ai muốn đến xem lấy con heo quay dưới đất lên thì hãy tiến về phía trái của sân khấu. Con heo này được quay theo một tiến trình đặc biệt khác với heo quay như người ta vẫn làm ở nững nơi khác. Khi đến xem, tôi thấy người ta bắt đầu lấy lớp bao bố ở phía trên ra. Khi bao bố vừa

    được lấy ra, hơi nóng vẫn còn đang bốc lên. Sau lớp bao bố là một lớp lá chuối phủ lên trên. Hơi nóng cũng đang bốc lên từ lớp lá chuối này. Khi lấy hết lớp lá chuối, một chiếc rọ bằng sắt hiện ra trước mặt mọi người và dưới rọ là con heo đã được quay xong đang còn bốc hơi. Nước mỡ từ thân con heo quay chảy xuống đất toả mùi thơm phức khi người ta khiêng con heo lên để đem vào trong thái thịt cho thực khách dùng. Khi con heo vừa được nhấc lên, người ta thấy một lớp đá cuội nằm dưới cùng vẫn còn nóng và đang bốc hơi. Như vậy là lò lửa được thiết lập dưới đất bằng than, rồi được đun nóng thường xuyên trong một thời gian nào đó đủ để con heo vừa được quay chín vàng là có thể lấy ra ăn được. Sau khi xem lấy con heo quay ở lò quay ra, chúng tôi liền đi lấy thức ăn rồi vừa ngồi ăn vừa xem văn nghệ do các diễn viên của trung tâm văn hoá Polynesian trình diễn. Cũng giống như tại các làng chúng tôi ghé lại lúc buổi trưa và buổi chiều, tại đây chương trình văn nghệ gồm những vũ khúc và những bài ca cũng mang những  sắc thái của nền văn hoá từng bộ tộc. Các diễn viên nam nữ trình diễn rất nhuần nhuyễn. Nhìn những trang phục đủ màu sắc loè loẹt, nghe những lời ca khi thì nhẹ nhàng khi thì man rợ, khi thì chát chúa khi thì hãi hùng, du khách ngồi xem có thể đoán được nền văn hoá của từng bộ tộc như thế nào. Nếu đem so sánh những điệu vũ cũng như những giai điệu và tiết tấu trong các bản nhạc của nền văn hoá Polynesian này, tôi thấy nền văn hoá này không khác gì nền văn hoá của các dân tộc thiểu số ở nước ta bao nhiêu cả.

    Sau khoảng một giờ ngồi vừa dùng cơm tối vừa xem văn nghệ, chúng tôi lại chuẩn bị vào hội trường gần đấy để xem một màn trình diễn vĩ đại đầy đủ tất cả tiết mục mang hầu hết sắc thái văn hoá của các bộ tộc SAMOA, AOTEAROA, FIJI, HAWAII, MARQUESAS ISLANDS, TAHITI, TONGA. Sau khi nộp vé vào cửa, chúng tôi liền đi tìm số ghế để ngồi xem. Đứng trước chiếc ghế đã tìm ra số, tôi đảo mắt nhìn quanh một vòng trong hội trường mới thấy hội trường này thật là rộng, có thể chứa khoảng 10 nghìn người.

    Vị trí ngồi của khán giả xuôi như mái nhà từ cao xuống thấp trông giống như chỗ ngồi ở ngoài sân vận động vậy. Mặc dầu lúc bấy giờ đã gần 08 giờ tối nhưng trời vẫn còn sáng nên  chúng tôi nhìn lên sân khấu vẫn còn thấy sân khấu rất rõ ràng. Nói là nhìn lên sân khấu, nhưng thực ra là nhìn xuống vì chúng tôi đang ngồi ở một vị trí trên cao của hội trường.

    Nhìn thật kỹ trái, phải, trước, sau của sân khấu, tôi thấy đây là một ngọn núi nho nhỏ được biến chế, thiết lập, xây cất với những cây cối um tùm, rậm rạp bao bọc xung quanh. Một thác nước từ trên cao chảy xuống thường xuyên trông rất đẹp mắt nằm ngay phía sau sân khấu. Sân khấu là một mặt bằng diện tích rất rộng, bên trái, bên phải, phía sau sân khấu có những lối đi bằng đường hầm để các diễn viên đi từ sân khấu ra hậu trường và từ hậu trường ra sân khấu. Đặc biệt ở phía bên trái, bên phải của sân khấu nhìn lên cao, tôi thấy có hai mặt bằng tạo thành hai sân khấu nho nhỏ nằm ở lưng chừng núi, bao quanh với những cây cối um tùm để các diễn viên xuất hiện đột xuất khi trình diễn những vũ khúc man rợ giữa núi rừng. Tóm lại, mặt bằng sân khấu như là một thung lũng nho nhỏ được vây quanh bởi ngọn núi có cây cối rậm rạp và thác nước chảy liên tục đêm ngày.  

    Sau khi tất cả du khách an tọa đầy đủ trên các dãy ghế trong hội trường thì trời cũng bắt đầu tối, đèn điện trên sân khấu được bật sáng. Một vị đại diện lên chào du khách và đọc chương trình văn nghệ giúp vui, hầu hết là những vũ khúc của tất cả các bộ tộc mà tôi đã đề cập ở trên. Sau đó các vũ khúc của các bộ tộc bắt đầu. Trang phục của các diễn viên đủ tất cả màu sắc loè loẹt, sặc sở trên trần gian này. Xanh có, đỏ có, tím có, vàng có, nâu có, vv…Nhiều vũ khúc chỉ có hai hoặc ba người, nhiều vũ khúc năm hoặc mười người, có vài vũ khúc lên đến ba bốn chục người, năm chục người, hay gần một trăm người.

    Nhiều vũ khúc chỉ có nữ diễn viên của các bộ tộc trình diễn, lắm vũ khúc chỉ có nam diễn viên mà thôi, nhưng cũng có nhiều vũ khúc gồm cả nam lẫn nữ trình diễn chung với nhau.

    Khi những vũ khúc chỉ gồm những nữ diễn viên trình diễn, dưới ánh điện mờ mờ ảo ảo thêm vào những ánh trăng ảo ảo mờ mờ từ trên trời rọi xuống, tôi thấy những đôi tay của các thiếu nữ múa qua múa lại thật mềm mại, uyển chuyển, nhẹ nhàng, thật nhịp nhàng đều đặn, miệng luôn luôn nở những nụ cười thật là xinh. Toàn cảnh trên sân khấu trông rất đẹp mắt, thật ngoạn mục giống như những tiên nữ giáng trần đang múa những khúc nghê thường dưới chốn dương gian giữa rừng khuya đêm vắng.

    Bỗng đâu nơi hai sân khấu nho nhỏ ở trên cao giữa mấy lùm cây về phía trái và phía phải của sân khấu lớn xuất hiện hai cô sơn nữ mang gùi, mắt ngẩng lên nhìn ánh trăng đêm, nhìn lá vàng rơi, miệng cất tiếng ca giống như tiếng ca của đoàn vũ nữ đang vừa hát vừa múa dưới sân khấu chính, tạo thành một cảnh thật linh động như trên nguyệt điện của chị Hằng nga. Thấy hai cô sơn nữ mang gùi vừa múa vừa hát, vừa nhìn trăng rồi nhìn lá vàng rơi làm tôi chợt nhớ đến bài Sơn nữ ca.

    Bất giác tôi cất tiếng hát:

    “Một đêm trong rừng vắng, ánh trăng chênh chếch đầu ghềnh thấp thoáng bóng cô sơn nữ miệng cười xinh xinh. Một đêm trong rừng núi, có anh lữ khách nhìn trời xa xa biết đâu sơn nữ nhìn mình đăm đăm. Môt đêm trong rừng vắng, có cô sơn nữ miệng cười khúc khích ngắm anh lữ khách rồi lòng bâng khuâng. Một đêm trong rừng núi, có anh lữ khách nhìn trời xa xa ngắm trăng say đắm một mình bâng khuâng.

    Sơn nữ ơi! Đời ta như cánh chim chiều phiêu bạt thời gian vun vút trời mây. Sơn nữ ơi!

    Đành lòng sống với bên rừng thơ mộng cùng hoa với lá ngàn hương.

    Sơn nữ ơi! Làm chi cho đớn đau lòng trong một thời gian rồi thương rồi nhớ. Sơn nữ ơi!

    Hoàng hôn xuống rồi đợi chờ ai đây.

    Hãy nhìn trăng lên, rồi lu mờ dần. Khi nhìn chim bay, thiết tha về ngàn chờ đợi tay người sơn nữ. Khi nhìn chim bay, bay đi tìm đàn, khi nhìn gió cuốn, lá thu rời cành cuộn bay lên người sơn nữ. Sơn nữ ơi! Làm chi cho đớn đau lòng trong một thời gian rồi thương rồi nhớ. Sơn nữ ơi! Hoàng hôn xuống rồi đợi chờ ai đây.”

    Tôi vừa hát bài sơn nữ ca xong thì vũ kúc cũng vừa chấm dứt, đèn điện trên sân khấu bỗng vụt sáng. Thác nước sau sân khấu vẫn đổ xuống ào ào đều đều trông thật thơ mộng.

    Màn vũ tiếp theo tôi nghe giới thiệu không rõ thì bỗng đâu, mấy chàng thanh niên thuộc bộ tộc nào đó vừa nhảy ra sân khấu vừa cầm giáo, mác, đoản côn, trường côn, vừa nhảy vừa múa, vừa la, vừa hét, làm âm thanh dội cả một góc rừng thật đinh tai nhức óc. Mấy anh chàng nầy có rất nhiều hình xâm trên mặt, trên người, trên tay, sau lưng, đầu chít một vòng đầy những lông chim giống hình ảnh của dân da đỏ. Họ vừa đi, vừa chạy, vừa nhảy, vừa hét, vừa quay lui, quay tới, trông thật hãi hùng man rợ cứ tưởng như họ sắp ăn tươi nuốt sống người nào. Khoảng mười phút sau, mấy anh chàng này chia làm hai toán, mỗi toán đi vào mỗi đường hầm nằm hai bên sân khấu rồi mất dạng.

    Nói chung, tất cả các vũ khúc mang sắc thái văn hoá của mấy bộ tộc thuộc quần đảo Polynesia đều được trình diễn trong đêm cho tất cả du kách xem. Vũ khúc độc đáo nhất và nguy hiểm nhất là vũ khúc múa đuốc. Gần năm, sáu chục người ở trên sân khấu cầm đuốc được thắp sáng rực cả một góc trời. Họ vừa cầm đuốc vừa nhảy vừa múa, chàng nào cũng ở trần, chỉ mang một cái váy che thân, nếu sơ ý một tí là đụng lửa vào da sẽ bị phỏng ngay. Vậy mà chẳng có chàng nào bị phỏng cả. Tuy nhiên tôi nhớ hồi còn đang theo học ở bậc trung học, một giáo sư vật lý có giải thích cho tôi nghe về một chất hoá học dưới dạng chất lỏng. Nếu bôi chất lỏng này vào da hay bất kỳ chỗ nào trên cơ thể thì khi đụng lửa, da ở nơi đó vẫn không bị phỏng. Vì vậy trong các gánh xiệc, khi một người biểu diễn đưa một que vải tẩm dầu với lửa đỏ rực vào miệng, khi lấy que lửa ra, miệng anh ta vẫn không bị gì cả nhờ đã bôi trong miệng một lớp chất nước hoá học kia rồi. Vậy thì tôi nghĩ rằng, chắc các chàng diễn viên nầy đã bôi một lớp nước hoá học kia khắp cả cơ thể rồi nên mới múa may quay cuồng mà chẳng lo ngại gì chăng?

    Đó cũng là lý do tại sao khi tôi thấy một anh chàng diễn viên người hơi thấp, đầu chít một vòng dây gắn mấy sợi lông gà, tay cầm một ngọn đuốc sáng rực đứng múa may quay cuồng giữa cả một rừng đuốc trên sân khấu, quay ngọn đuốc vòng quanh cơ thể mình rất nhanh, rất mạnh, lắm lúc đụng chân, đụng tay mà chàng ta vẫn cười tươi như hoa nở!

    ….Đúng 6 giờ sáng, vừa nghe đồng hồ báo thức từ chiếc cell phone, chúng tôi liền vùng dậy ngay. Nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm ngoài xa , biết rằng sắp ra đi, biết rằng sắp giả từ, tôi và bà xã tôi tiến về phía cửa nhìn ra ngoài biển cả mênh mông bát ngát, nhìn xuống bãi biển sóng đang vỗ rì rào mà lòng buồn vời vợi vì “nghìn trùng xa cách, người sắp đi rồi, còn gì đâu nữa, mà khóc với cười!”. Bất giác tôi đọc mấy câu thơ của thi sĩ Lord Byron:

    When we two parted

    In silence and tears

    Half broken hearted

    To sever for years.

    mà một thi sĩ nào đó đã dịch là:

    “Giờ phút chia ly đã điểm rồi

    Nghẹn ngào lặng nuốt lệ thầm rơi

    Mang mang nửa cõi lòng tan tác

    Ly biệt xui chi tủi trọn đời.”

    Bỗng chuông điện thoại reo lên, tôi nhấc điện thoại lên nghe thì từ đầu dây, anh”TÀI xế” hỏi chúng tôi đã chuẩn bị hành trang xong xuôi chưa để xuống ăn điểm tâm mà lên đường. Sau đó chúng tôi liền xuống thang máy, ra nhà điểm tâm ăn qua loa vài món rồi lên lại phòng xách hành trang xuống văn phòng làm thủ tục trước khi rời khách sạn. Khoảng 5 phút đợi chờ, nhânviên khách sạn đã lái xe ra cho chúng tôi và chúng tôi bắt đầu lên xe nhắm hướng phi truờng HONOLULU trực chỉ. Vì sợ đến trễ sẽ vội vàng mệt nhọc nên chúng tôi quyết định đi thật sớm cho thoải mái .Theo chương trình, đúng 11 giờ máy bay sẽ cất cánh. Vì vậy chúng tôi quyết định đến phi trường trước khi bay 2 giờ để nếu vừa kẹt xe vừa làm thủ tục mất thì giờ cũng không thể nào bị trễ được. Vì đã thuộc đường đi nước bước nên anh“TÀI xế” lái một mạch đã đến phi trường. Sau khi làm thủtục trả xe rồi leo lên xe của hảng để vào phi trường làm thủ tục trước khi bay, chúng tôi đến trước giờ bay 1 giờ 30 phút nên cùng nhau ngồi chờ. Trước khi đi vào phòng đợi, chúng tôi phải đi ngang qua một phòng, tại đây có một ban nhạc đang trình diễn cho du khách xem trước khi du khách giả từ Hạ uy di. Khi đi ngang qua đây, tôi thấy một thiếu nữ có trang phục giống các cô đã trình diễn tại trung tâm văn hoá POLYNESIAN, cổ choàng một vòng hoa tim tím, vừa múa vừa hát theo tiếng đàn, tiếng trống của các nhạc công rất đẹp mắt và thật dễ thương.Sau những phút chờ đợi, chúng tôi được lệnh vào phòng để lên máy bay. Đúng 11 giờ, máy bay bắt đầu cất cánh rời phi trường HONOLULU để bay về California.

    Ngồi trên máy bay nhìn xuyên qua cửa kính, tôi thấy thành phố HONOLULU mỗi lúc một xa dần, xa dần, rồi quần đảo Hawaii cũng dần dần nhỏ lại, dần dần lu mờ. Thôi thế là hết! Biết bao giờ trở lại Hạ uy di để nghe sóng vỗ rì rào suốt ngàyđêm trên bờ biển. Biết bao giờ trở lại Hạ uy di để tắm nắng chiều trên bờ cát trắng dưới những bóng dừa loang loáng ánh nắng vàng. Xin tạm biệt Hawaii, xin tạm biệt các cô sơn nữ rất khả ái dễ thương như những nàng tiên giáng trần miệng luôn luôn nở những nụ cười tươi như hoa nở. Xin tạm biệt các chàng trai thân hình vạm vỡ, nước da ngâm ngâm của các bộ tộcSAMOA,AOTEAROA,FIJI,HAWAII,MARQUESA, TAHITI. Ngồi trong máy bay, tôi đưa tay vẫy chào Hạ uy di lần cuối mà lòng xao xuyến bâng khuâng, bất giác tôi cất tiếng hát bài Biệt ly của nhạc sĩ Doãn Mẫn:


    Biệt ly nhớ nhung từ đây
    Chiếc lá rơi theo heo may
    Người về có hay
    Biệt ly sóng trên giòng sông
    Ôi còi tàu như xé đôi lòng
    Và mây trôi nước trôi
    Ngày tháng trôi cùng lướt trôi
    Mấy phút bên nhau rồi thôi
    Đến khi bóng em mờ khuất
    Người về u buồn khắp trời
    Người ra đi với ngàn nhớ thương
    Mấy phút bên em rồi thôi
    Dáng em sống trong hồn tôi
    Xa cách ta còn tìm đâu ngày vui
    Biệt ly ước bao đường tơ
    Réo rắt trong muôn hương mơ
    Thành sầu tiễn đưa
    Biệt ly ước mong hoàng hôn
    Êm đềm về ru ấm tâm hồn
    Người yêu đương cách xa
    Đành sống vui cùng gió sương.

    California, ngày 14 tháng 10 năm 2006.
    Dương viết Điền
    (Trích từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Âu châu và Hạ uy di” xuất bản năm 2009).

  • DU LICH,  Phạm Hồng Thái

    ICON OF THE SEAS

    Icon of the seas là Siêu Du Thuyền mới và lớn nhất thế giới của Royal Caribbean Cruise Line, chính thức hạ thủy vào ngày 28 tháng 01 năm 2024. Đây là một du thuyền với thông số kỹ thuật đáng kinh ngạc:

    • Chiều dài: 364.75 mét (1,196.7 ft) (dài hơn chiều cao của Tháp Eiffel).
    • Chiều cao: 20 tầng.
    • Tổng trọng tải: 250,800 tấn.
    • Sức chứa: 9,950 người (bao gồm 7,600 khách và 2,350 thủy thủ đoàn).
    • Tổng cộng số phòng khánh tiết 2805, bao hồm179 dãy phòng, 1815 phòng khánh tiết có ban công, 276 phòng có cửa sổ hướng ra biển và 535 phòng.

    Icon of the Seas là tàu du lịch được đóng cho Royal Caribbean International Cruise Line và đã hoàn thành các chuyến chạy thử trên biển vào tháng 6 và tháng 11 năm 2023, sau đó giao cho Royal Caribbean Cruise Line ngày 27 tháng 11 năm 2023. Con tàu mới này đã ghé đến Cadiz, Tây Ban Nha và Ponce, Puerto Rico và CocoCay trước khi tới Miami vào ngày 10 tháng 01 năm 2024 . Icon of The Seas chính thức hoạt động ngày 27 tháng 01 năm 2024 tại Cảng Miami, Florida, Hoa Kỳ. Theo Wikipedia, chi phí đóng tàu là 1,65 tỷ Euro (Meyer Turku).

    Lễ khai mạc Icon of the Seas diễn ra vào ngày 27 tháng 1 năm 2024, khởi đầu cho các chuyến du ngoạn khởi hành từ Miami và chọn Miami là bến đậu chính cho đến tháng 4 năm 2026. Theo ông Matt Hochberg, Icon of the Seas là tàu du lịch mới nhất của Royal Caribbean và sẽ bắt đầu cung cấp các chuyến du ngoạn vào cuối tháng 01 năm 2024. Hành trình hoạt động của tàu là các hành trình Đông và Tây Caribe kéo dài một tuần. Mỗi chuyến sẽ ghé thăm các hòn đảo tư nhân của Royal Caribbean và CocoCay. Icon of the Seas có 2 tuyến đường chính:

    1. Chuyến du hành 7 ngày về phía Đông Caribbean gồm: Miami; Phillipsburg, St Maarten; Charlotte Amalie, St. Thomas; CocoCay hoặc CocoCay, Basseterre, St Kitts & Nevis, Charlotte Amalie, St. Thomas; Miami.
    2. Hành trình du lịch 7 ngày về phía Tây Caribbean gồm: Miami; Roatan, Honduras; Costa Maya, Mexico; Cozumel, Mexico; CocoCay; Miami.

    Icon of The Seas không chỉ là phương tiện di chuyển trên đại dương, mà còn được coi là một tòa nhà hay hay một thành phố di động với đầy đủ tiện nghi và sang trọng. Du ngoạn trên siêu du thuyền này, chắc chắn sẽ để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng khách thưởng ngoạn.Giá vé du lịch trên Icon of the Seas thay đổi tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi người như loại phòng lớn hay nhỏ và địa điểm du lịch, v.v… Giá vé sẽ nằm trong khoảng $2,000 – $10,000 cho mỗi hành trình du ngoạn 7 ngày. Du lịch bằng du thuyền (cruiseship) không chỉ là một phương tiện di chuyển, mà còn mang đến những trải nghiệm độc đáo và thú vị cho khách thưởng ngoạn phong cảnh đẹp bằng đường biển.

    Trên du thuyền, du khách sẽ được hưởng mọi tiện nghi và dịch vụ, tương tự như ở một khách sạn sang trọng trên đất liền. Trên tàu có bác sĩ, nhân viên y tế thường trực và sẵn sàng phục vụ trong trường hợp cần thiết. Các nhà hàng và quầy bar trên tàu luôn mở cửa để phục vụ du khách 24/24. Ngoài ra còn có rất nhiều tiết mục giải trí hấp dẫn như sân khấu Broadway biểu diễn những màn nhảy ngoạn mục cũng như các buổi hòa nhạc hầu như mỗi tối. Casino mở của chào đón khách thích thử thời vận, đỏ đen mỗi khi tàu nhổ neo ra biển. Các sinh hoạt lành mạnh khác như bơi lội, dạy khiêu vũ, phòng tập thể dục (Fitness Center), leo núi, v.v…khiến du khách không bao giờ cảm thấy buồn chán. Các quán ăn Fastfood như Hamburger, Pizza, Café, Ice Cream, v.v… mở cửa ngày đêmđể phục vụ khách hàng.

    Ngoài ra, du thuyền còn có các nhà hàng sang trọng và thực đơn đa dạng; chẳng hạn như nhà hàng Á châu là nơi du khách đến thưởng thức các món ăn từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, các nhà hàng với hương vị Ý, Pháp, Mỹ, v.v…cung cấp những thực đơn nội tiếng của quốc gia họ. Nhà hàng hải sản luôn có sẵn những loại hải sản tươi ngon.

    Trong suốt chuyến du lịch, du thuyền dừng lại nhiều địa điểm khác nhau. Du khách có thể ghé thăm những thành phố hải cảng ven biển của nhiều quốc gia mà du khách không cần di chuyển hành lý từ khách sạn này sang khách sạn khác. Điều này rất tiện lợi cho những người thích đi du lịch dài hạn cũng như thuận tiện cho những buổi họp mặt của gia đình nhất là có con nhỏ hay cho những buổi hội ngộ với bạn bè để tận hưởng những khoảnh khắc đáng ghi nhớ.

    Khi du thuyền dừng chân tại bất kỳ hải cảng (port) nào bao gồm trong chuyến du hành, du khách có thể mua những tour (excursion) trên tàu để đi thăm viếng các thành phố của hải cảng ấy. Giá của các tour tùy thuộc vào sự lựa chọn của du khách, trung bình giá mỗi tour từ $50 tới $300;  hoặc du khách cũng có thể trả giá các tour của tư nhân đứng bán ở ngoài phố hay dưới bến tàu. Giá vé thường rẻ hơn nếu mua theo nhóm từ 6 tời 15 người.

    Khi mới bước lên tàu, du khách sẽ thấy một bức tường kính cao, khổng lồ và nhiều tầngvới ánh sáng tự nhiên để có thể nhìn thấy đại dương tuyệt đẹp bao quanh con tàu. Kế đến Đường Tản Bộ Ngọc Trai (The Promenade là The Pearl) được xây bằng 3,000 viên gạch động học. Royal Promenade có sân trượt băng “Absolute Zero“, Giovanni’s Italian Kitchen and Wine Bar. Ngoài ra còn có quán bar Dueling Pianos, tiệm bánh pizza Sorrento, Point and Feather Pub, Spotlight Karaoke, Boleros và Schooner Bar.  

    ​Icon of the Seas có hơn 20 tiệm ăn, gồm 11 tiệm ăn miễn phí và 1,400 quầy rượu Bar với nhà pha chế rượu nổi tiếng như Tony Abou-Ganim. Chợ AquaDomecung cấp các món ăn riêng biệt, chẳng hạn như phô mai, bánh pita kiểu Hy Lạp, các món ăn châu Á. Ba địa điểm chính cho các buổi biểu diễn là AquaDome, sân trượt băng và Sân khấu Hoàng gia. Các buổi trình diễn mà du khách không thể bỏ qua tại AquaDome sẽ là “Aqua Nation!” và “Cướp biển vs Nàng tiên cá“. “Starburst” là tên của chương trình biểu diễn trượt băng tại đấu trường trượt băng Absolute Zero. “Ngày xửa ngày xưa” hay “Wizard of Oz” sẽ là những vở nhạc kịch nổi bật trên Icon of the Seas và chương trình kéo dài khoảng 90 phút.

    Công viên Icon of the Seas nổi bật so với các du thuyền khác nhờ đặc điểm độc đáo như không gian trong sạch, cây cối xanh tươi với hàng ngàn loài thực vật thuộc các giống khác nhau. Khu vườn ngoài trời là nơi mà du khách có thể tận hưởng những thức ăn, thức uống và giải trí. Khu vườn này mang đến sự thoải mái cho những bữa ăn ngoài trời hữu tình và thú vị với dàn nhạc sống cho phép hành khách tận hưởng bầu không khí sôi động giữa thiên nhiên.

    Icon of the Seas là du thuyền đầu tiên trong loại tàu du lịch Royal Caribbean mới với nhiều sinh hoạt thích thú và thu hút bộ óc hiếu kỳ của du khách, bao gồm công viên nước, khu vực mới dành riêng cho gia đình cũng như các buổi họp mặt của bạn bè, hội đoàn. Một câu lạc bộ nhạc jazz ở Công viên Trung tâm Icon, Lou’s Jazz ‘n Blues. Câu lạc bộ nhạc jazz là một địa điểm lý thú và thuận lợi để tổ chức “nhạc jazz trong công viên“, hành khách cũng có thể trổ tài biểu diễn nhạc Jazz tại đây.  Nếu rượu sâm banh là sở thích của du khách, họ có thế ghé qua Bubbles vì đây là cửa hàng bán rượu sâm banh hay nhâm nhi, thưởng thức những ly mimosas, prosecco. Nhà hàng sushi tọa lạc ngay gần lối đi vào Công viên Trung tâm Icon. Quán Izumi bên trong công viên có các món bánh cuộn, ​​nigiri và các món ngọt Nhật Bản. Quán rượu Trellis cũng ở trong công viên và lần đầu tiên có phục vụ đồ ăn.

    Khu vực AquaDome có sức nặng 363 tấn, phản chiếu qua hơn 600 tấm kính, trong khu vực này có AquaTheater với sân khấu kính khổng lồ chạy từ trần xuống sàn cho tầm nhìn 220 độ. Ở đây còn có những buổi trình diễn ngoài trời với các màn biểu diễn nhào lộn trên không, nhảy cao và lặn sâu trong thác nước cao  55 feet. Hai buổi biểu diễn rất ngoạn mục tai AquaTheater là “Aqua Nation!” và “Cướp biển vs Người cá.” Tại khu vực AquaDome, khi không có các buổi trình diễn, hành khách có thể ngồi tại đây, vừa thưởng thức thức ăn hoặc thức uống, vừa ngắm nhìn khung cảnh đại dương hay ngắm nhìn thác nước.

    Đặc biệt là khu vực Chill Island, du khách có thể hìn ra đại dương từ khu vực hồ bơi ba tầng với Swim & Tonic, quán bar bán rượu ngay trong hồ bơi lội. Đây là một thiết kế mới lạ để du khách vừa trầm mình trong nước vừa nhâm nhi ly rượu vừa ngắm đại dương.

    Royal Bay là hồ bơi lớn, ồn ào và vui nhộn nhất trên biển; trái lại, Cove là hồ bơi yên tĩnh, có ghế nằm trong nước để giải trí. Cloud 17 ban đầu được dự định là khu vực chỉ dành cho người lớn, nhưng Royal Caribbean đã thay đổi thành The Hideaway và mở cửa Cloud 17 cho tất cả khách hàng. Cloud 17 còn có bồn tạo sóng và quầy bar Lime & Coconut. Crown’s Edge vừa là đường đi bộ trên không, vừa là đường đi trên dây cho những du khách thích mạo hiểm. Du khách được buộc dây và đi bộ ở độ cao 154 feet so với mặt nước biển để tạo cảm giác mạnh, kéo dài khoảng hai phút rưỡi là đi đến cuối đường dây. Một thiết bị mô phỏng lướt sóng FlowRider trên tàu cho các du khách yêu thám hiểm leo núi đỉnh cao, trên tàu cũng có sân thể thao và sân mini-golf Lost Dunes.

    Basecamp hay Desserted là một quán sữa lắc có cồn hay lướt sóng Surfside, một khu phố mới dành riêng cho các gia đình trẻ và là trung tâm giải trí của Icon of the Seas. Trong khu phố này còn có các khu vực dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Có hồ bơi và một quán bar với các loại nước trái cây có pha rượu nhẹ cho phù hợp với phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên cũng có loại cocktail dành cho người lớn. Trẻ em sử dụng Splashaway Bay phải được huấn luyện ngồi bô đầy đủ, nhưng Baby Bay là nơi dành cho trẻ em vẫn còn mặc tã. Ngoài ra, cầu trượt trong Vịnh Splashaway yêu cầu các em nhỏ phải có chiều cao tối thiểu là 42” và sức nặng tối đa là 300 lbs.

    Tại khu Adventure Ocean và câu lạc bộ thanh thiếu niên, người lớn có thể giải trí tại hồ bơi Water’s Edge trong lúc các trẻ nhỏ chơi đùa ở Vịnh Splashaway và Vịnh Baby. Cả hai vịnh này đều có đầy đủ các đường trượt, đài phun nước, vòi phun nước, bồn đựng nước… The Hideaway là dạng câu lạc bộ bãi biển chỉ dành cho người lớn. The Hideaway  có hiên phơi nắng nhiều tầng, bồn tạo sóng và quầy bán rượu. Boong tắm nắng rộng rãi, và Phố Đi Dạo Royal Promenade trên Icon of the Seas dài 362 feet và có tầm nhìn ra đại dương.

    Giữa các boong 16 đến 19 là khu vực The Grove, dành cho hành khách hạng sang (suite) có phòng khách riêng và khu vực ngoài trời dành riêng cho họ. Khu vực này là khu vực lớn nhất của Royal Caribbean bao gồm hiên tắm nắng riêng, nhà hàng Coastal Kitchen và một quán ăn bình dân. The Grove mới chỉ dành cho khách lưu trú tại suite.

    ​           

    Ngày nay, du lịch bằng du thuyền dài hạn đã trở thành một xu hướng phổ biến và tiện lợi cho nhiều người ở tuồi về hưu hay có con nhỏ. Dưới đây là một số lợi ích khi chọn du lịch bằng du thuyền trong thời gian dài:

    • Giá tiền không chênh lệch nhiều so với thuê apartment hoặc condo cho những du khách du lịch dài hạn hay đã về hưu:
    • Giá tiền du lịch bằng du thuyền thường thay đổi, đặc biệt là khi lựa chọn các hành trình dài hạn, bạn chó thể được hưởng giá đặc biệt (30 ngày hoặc hơn).
    • Tiện nghi và dịch vụ y tế:
    • Bác sĩ và chăm sóc y tế: Trên du thuyền, luôn có bác sĩ và nhân viên y tế sẵn sàng phục vụ du khách trong trường hợp cần thiết.
    • Ăn uống và giải trí miễn phí: Bạn không phải lo lắng về việc tìm đồ ăn, thức uống hay giải trí. Các nhà hàng, quầy bar, sân khấu trình diễn và các hoạt động giải trí luôn sẵn sàng.
    • Du thuyền dừng lại ở nhiều địa điểm trong hành trình du lịch.
    • Du khách có thểm thăm viếng nhiều nơi mà không cần di chuyển từ khách sạn này sang khách sạn khác.
    • Du khách có thể giải trí trên tàu.
    • Thuận tiện cho gia đình và nhóm bạn:
    • Là lựa chọn tốt cho gia đình hoặc nhóm bạn để cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và tận hưởng những khoảnh khắc đáng nhớ.

    Muốn đi du lịch với giá rẻ, bạn có thể theo dõi tin tức trên internet hay email quảng cáo trong ngành du lịch đường biển (Cruise). Thứ Năm thường là ngày tốt nhất để đặt mua chuyến du lịch. Giá cả có thể thay đổi hằng ngày tùy theo số cung và cầu. Theo nghiên cứu của CruiseWatch, thứ Năm có nhiều đợt giảm giá nhất, trong khi mức tăng giá nhiều nhất xảy ra vào Thứ Tư. Tuy nhiên, nghiên cứu cung cho rằng giá du lịch vào cuối tuần thường không thay đổi.

    Giá vé du lịch thường rẻ hơn ở một số thời điểm trong năm như  khi mùa biển có sóng lớn, bão hay vào hạ giá phút cuối (Last minutes cruise). Thường thì từ tháng 1 đến tháng 3, các hãng du lịch đưa ra các chương trình hạ giá vào mùa sóng để thu hút du khách đặt chỗ sớm.

    Khi đặt mua vé, du khách phải đặt cọc (deposit) một khoản tiền nhỏ để giữ chỗ và phần còn lại sẽ phải thanh toán khoảng từ 60 đến 90 ngày trước khi khởi hành. Sau khoản thanh toán cuối cùng này, các hãng du lịch sẽ biết rõ hơn về các cabin trống của tàu. Nếu tàu quá trống, hãng du lịch có thể đưa ra các giá đặc biệt vào phút chót để lấp đầy các cabin chưa bán được. Mua vé theo đoàn thể (group) cũng được giảm giá.

    Muốn tìm hiểu thêm xin vào: https://www.explore.com/1228576/why-thursdays-are-the-best-day-to-book-a-cruise/

  • DU LICH,  Khánh Lan

    CELEBRITY ASCENT-TÀU DU LICH 7 NGÀY MỚI NHẤT QUA CÁC HẢI CẢNG: SPAIN, FRANCE & ITALY

    Celebrity Ascent là tàu du lịch mới nhất hoàn thành năm 2023 và được giao cho Celebrity Cruise Line từ xưởng đóng tàu ở Saint-Nazaire, Pháp. Lễ cắt thép cho Celebrity Ascent được tổ chức và chính thức giao hàng từ nhà máy đóng tàu Chantiers de l’Atlantique vào ngày 8 tháng 11 năm 2023. Tàu được thả neo vào tháng 1 năm 2023 và Celebrity Ascent dự định sẽ ra mắt du khách vào tháng 12 năm 2023.

    Year Built 2023-Capacity 3,260 passengers-Tonnage 140,600-Builder Chantiers de l’Atlantique (Saint-Nazaire, France)-Class Celebrity EDGE-Building cost 770 million EUR (900 million USD)-Speed 22 km / 41 km / h /25 mph-Leight 313m-Width 39m and the price ranges from $1,849.00 for an inside cabin to $5,736.00 for a suite.

    Celebrity Ascent là con tàu thứ tư trong dòng Edge Series từng đoạt giải thưởng, khởi sự  xây vào ngày 22 tháng 11 năm 2021 và thực hiện chuyến hành trình đầu tiên ngày 3 tháng 12 năm 2023 từ Florida. Celebrity Ascent có tất cả các tiện nghi như Resort Deck, Magic Carpet (phòng chờ có mái vòm đầu tiên trên thế giới trên biển), Rooftop Garden, v.v… Tàu du lịch Celebrity Ascent nặng 141 nghìn tấn, có 1646 phòng, hành khách tối đa là 3950 người và được phục vụ bởi 1400 thủy thủ đoàn. Celebrity Ascent thuộc Celebrity Cruise line.

    Celebrity Cruise Line được các du khách cũng như các chuyên gia công nhận là loại du thuyền hạng sang, Celebrity Cruises có tổng cộng 15 tàu đang hoạt động và cứ trung bình khoảng hai năm hãng du lịch này cho ra một tàu mới, du thuyền nổi tiếng và lâu đời nhất là Celebrity Millennium, đã 23 tuổi. Các du thuyền Celebrity khởi hành từ các thành phố của Hoa Kỳ như Honolulu, Miami, Boston và Seattle. Tuy nhiên, Royal Caribbean Group là chủ sở hữu và điều hành ba thương hiệu du lịch từng đoạt giải thưởng là Royal Caribbean International, Celebrity Cruises và Silversea Cruises, đồng thời cũng là chủ sở hữu 50% của một liên doanh vận hành TUI Cruises và Hapag-Lloyd Cruises.

    Celebrity Cruise Line được coi là một hãng du thuyền sang trọng, hầu hết khách là người lớn và không có nhiều trẻ nhỏ. Trẻ sơ sinh phải ít nhất 6 tháng tuổi hoặc 12 tháng tuổi tuy theo quy luật của mỗi du thuyền. Người cao tuổi được giảm giá và có giá đặc biệt dành cho cảnh sát, lính cứu hỏa, quân nhân. Celebrity cruise Line còn là lựa chọn tốt cho các thanh thiếu niên yêu thích các sinh hoạt về thể thao hay phiêu lưu. Tuy nhiên, trên thế giới có một số tuyến du thuyền dành cho người lớn như:

    • Luxury Cruise: Viking Cruises. 
    • Cruise for Older Couples: Saga Cruises. …
    • Cruise for Single Adults: Virgin Voyages. …
    • Adults-Focused Luxury Cruise: Regent Seven Seas Cruises. …
    • Adults-Focused All-Inclusive Cruise: Seabourn Cruise Line

    Trung tâm ẩm thực:

    Celebrity Ascent có 32 nhà hàng, quán bar, các thực đơn được chế biến bởi đầu bếp từng đoạt giải Michelin, Cornelius Gallagher, và các món ăn nấu được biến chế theo từng vùng mà du thuyền ghé thăm trên khắp thế giới. 14 quán cà phê, quán bar, 8 nhà hàng đặc sản, 4 nhà hàng ăn uống chính, 4 địa điểm ăn uống bình dân miễn phí và 2 nhà hàng độc quyền Eden Café cung cấp đủ loại đồ uống và các món ăn bình dân. Spa Café và Juice Bar, câu lạc bộ trẻ em Le Voyage và khu giải trí dành cho trẻ em, lớp dạy làm bánh pizza, phòng chơi máy điện tử và bắn cung, v.v…

    Ngoài ra còn có một số nhà hàng đặc biệt như Oceanview Café với Sunset Bar và khu ăn uống ngoài trời, gồm hai tầng và có cửa sổ làm bằng kính suốt từ trần đến sàn. Mast Grill với hồ bơi và khung cảnh đại dương, thực đơn gồm bánh mì kẹp thịt, salad hoặc bánh sandwich. Le Voyage của Daniel Boulud cho thực đơn đặc biệt trên thế giới do chính anh sáng tạo. Fine Cut Steakhouse với sườn cừu mềm Fed Fed, đuôi tôm hùm Maine nướng áp chảo với sốt tỏi kem hoặc gà nướng. Le Grand Bistro là quán rượu cổ điển của Pháp với khung cảnh, mùi hương và âm thanh hấp dẫn của một tiệm bánh ngọt nhộn nhịp.

    Le Petit Chef với loại hình nghệ thuật Skullmapping hoạt hình 3D của các nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới, thức ăn, nước uống với thực đơn do đầu bếp Michelin sáng tạo. Rooftop Garden Grill và Raw on 5 là quán ăn thân mật với một loạt món ngon, có tầm nhìn từ biển ra đến tận đường chân trời. Thực đơn tại Magic Carpet trên Tầng 5, gồm các món ăn thông thường như salad tôm, tôm hùm, sushi và sashimi do các đầu bếp sushi chuyên nghiệp chế biến.

    Nhà hàng Eden là một nhà hàng ẩm thực đặc biệt cung cấp thực đơn nhiều món khai vị, món chính và món tráng miệng. Blu, Blu, là nhà hàng độc quyền dành cho khách AquaClass, cung cấp các lựa chọn thực đơn ẩm thực lành mạnh, biodynamic wines, phong cách trang trí và dịch vụ hoàn hảo.

    Nhà hàng Cyprus là một nhà hàng Hy Lạp với thực đơn hải sản hấp dẫn và đồ uống thuộc khu vực Địa Trung Hải. Nhà hàng Tuscan với Tuscan Grille với thực đơn Ý, nổi bật với thiết kế cổ điển hiện đại lấy cảm hứng từ thời trang và phim ảnh Ý.

    Nhà hàng Normandie phục vụ ẩm thực Pháp đương đại trong khung cảnh hiện đại và tinh tế, gợi lên sự lãng mạn của mùa hè ở Paris trên các khu phố Pháp, với bảng màu hoa anh đào nở rộ.

    Nhà hàng Cosmopolitan là nhà hàng ăn chính của du thuyền Celebrity Ascent.

    Trung tâm gii trí:

    Với các quán rượu như Martini bar, Pool Bar, Sunset Bar và Craft Social Bar có, rượu vang, cocktai, bia ướp lạnh hay quán café đặc sản thơm ngon như Café al Bacio, Phòng chờ Retreat dành riêng cho khách của The Retreat có chương trình giải trí trực tiếp, không khí ấm cúng và hấp dẫn với quầy rượu đầy ắp thức ăn ngon. Retreat Lounge do Kelly Hoppen thiết kế với Boong tắm nắng Retreat Sundeck Retreat và bồn tắm nước nóng. Zen Grarden với không khí êm dịu, cây cối thiên nhiên.

    ​Resort Deck gồm Rooftop Garden, hồ bơi Solarium dành cho người lớn và Hồ bơi chính có bậc thang hướng ra ngoài đại dương. Magic Carpet với chỗ ngồi và quầy bar đầy đủ tiện nghi và trình diễn nhạc sống. Vườn Địa Đàng Eden sẽ mang lại nhiều ngạc nhiên cho du khách, tại đây, Eden có nhiều cửa kính hướng ra ngoài và ở bất kỳ địa điểm nào trên biển.

    Rạp hát là nơi giải trí thú vị với các vũ công nổi tiếng với các chương trình ca vũ đặc sắc mỗi tối. . Câu lạc bộ với các sinh hoạt như lớp học DJ và bắn cung, Trung tâm thương mại Grand Plaza bày bán những sản phẩm của các công ty thiết kế Jouin Manku. Casino xây theo phong cách Vegas. Hệ thông đèn Chandelier, một tác phẩm nghệ thuật ngoạn mục dưới ánh sáng rực rỡ. Những quán rượu phục vụ các loại rượu hấp dẫn như Bella Cera pha trộn với Chameleon cachaça, Bombay Sapphire gin, nước cốt chanh, rượu đắng Angostura và bia gừng. Loại rượu pha Marmalade Smash kết hợp rượu bourbon Bulleit, nước chanh, xi-rô đơn giản, mứt cam và gừng tươi. Khu vườn trên sân thượng được mở rộng ngay trên mép nước và khung cảnh đô thị sống động trên Edge Series nhờ vào các nhà thiết kế nổi tiếng trên thế giới như Kelly Hoppen, CBE và kiến trúc sư Tom Wright của WKK.

    The Martini Bar trong khu Grand Plaza với quầy bar hình tròn dưới ánh sáng rực rỡ của đèn chùm LED.

    Secondo Bacio trong khu Oceanview Café cung cấp cà phê đặc sản và nước trái cây ép. The Pool Bar là quầy rượu ngay trong hồ bơi, đây là pool bar đầu tiên được xây trên du thuyền.

    Excursions

    Hơn 280 điểm đến ngoạn mục và tùy thuộc vào sự lựa chọn của du khách.

    Kids and Teen Programs

    Chương trình dành cho trẻ em và thanh thiếu niên bắt đầu tại Camp At Sea mang đến cho trẻ em có cơ hội tham gia một số hoạt động giải trí, bao gồm săn tìm kho báu, nghệ thuật và thủ công, thể thao và các bữa tiệc theo chủ đề, tất cả đều dưới sự hướng dẫn của đội ngũ nhân viên trẻ có nhiều kinh nghiệm. Câu lạc bộ Thanh thiếu niên là nơi lý tưởng và có thể kết bạn mới, tham gia các cuộc thi trò chơi điện tử, các bữa tiệc dành cho thanh thiếu niên và các lớp học nấu ăn. Các hoạt động do đội ngũ cố vấn thanh thiếu niên.

    Ngoài viếc bơi lội trong hồ bơi, ngắm hoàng hôn trong những bồn tắm nước nóng, xem chiếu phim dưới bầu trời đầy sao, những bữa tiệc disco và giải đấu bắn cung, v.v… Lawn Club hoặc Resort Deck là nơi có những phông tuyệt đẹp để chụp những bức ảnh lưu niệm.

    Celebrity Ascent, 7 Night Spain France & Italy gồm:

    From Barcelona, Spain

    Du thuyền Celebrity Ascent đi từ Barcelona, Spain. Trong hành trình 7 Night Spain France & Italy sailing, Celebrity Ascent sẽ thăm viếng 6 hải cảng.

    Barcelona, Spain

    Barcelona được biết đến với kiến trúc độc đáo, bao gồm Sagrada Familia, một nhà thờ Công giáo La Mã lớn được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng Antoni Gaudi. Không những thế, Barcelona là một thành phố giàu văn hóa, lịch sử, giải trí, viện bảo tàng, phòng trưng bày di tích như Viện bảo tàng Picasso, Quỹ Joan Miro và Parc de la Ciutadella, Torre Giories, Arc de Triomf, Edificio Colon and La Rambia, Venetian Towers and Palau Nacional, Casa Mila, Gaudi’s Park, v.v…

    Barcelona còn là một địa điểm du lịch nổi tiếng với những bãi biển đẹp, cuộc sống về đêm, ẩm thực ngon và là quê hương của một số đội thể thao chuyên nghiệp, trong đó có FC Barcelona, một trong những câu lạc bộ bóng đá thành công nhất trên thế giới. Cảng Barcelona, ​​Tây Ban Nha nằm bên bờ biển Địa Trung Hải, là thủ đô của Catalonia, trung tâm văn hóa và là thành phố lớn thứ hai ở Tây Ban Nha. Ngôn ngữ đầu tiên là tiếng Catalan, tiếng mẹ đẻ của vùng Catalonia độc lập.

    Palma De Mallorca, Spain

    Palma de Mallorca, nằm ở Quần đảo Balearic và là thủ đô của Quần đảo Balearic, Palma de Mallorca cũng là tiền đồn của Tây Ban Nha ở Địa Trung Hải. Thị trấn Palma tự hào có quảng trường rợp bóng mát gần Nhà thờ Gothic và là một địa điểm du lịch nổi tiếng. Thành phố này nổi tiếng với kiến trúc tuyệt đẹp, trong đó có Nhà thờ La Seu nhìn ra Biển Địa Trung Hải, là nơi có nhiều bãi biển đẹp như Playa de Palma nổi tiếng. Thành phố này là nơi có nhiều bảo tàng viện, phòng trưng bày di tích lịch sử văn hóa, nổi tiếng với cuộc sống về đêm với nhiều quán bar, câu lạc bộ, nhà hàng và trung tâm mua sắm.

    Civitavecchia, Italy

    Civitavecchia (Rome) là một thành phố hải cảng hoàn hảo nhất về mặt địa lý trên thế giới, nằm ở vùng Lazio của miền trung nước Ý, cách Rome khoảng 80 km về phía tây bắc, là thủ đô của tỉnh Civitavecchia và là bến cảng của các tàu du lịch. Thành phố này được biết đến với bến cảng cổ xưa được Hoàng đế La Mã Trajan xây vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên và là nơi tìm hiểu về văn hóa của Ý.

    Pháo đài Michelangelo thành lập vào năm 108 sau Công nguyên cũng bởi Hoàng đế La Mã Trajan và ban đầu được gọi là Centumcellae. Đây là một cảng quan trọng của Đế chế La Mã và được sử dụng để vận chuyển hàng hóa của những người đến và đi từ Rome. Đây cũng là nơi diễn ra trận hải chiến lớn vào thế kỷ 16 giữa Đế chế Ottoman và Holy League. Nhiều di tích lịch sử, bao gồm Castello di Santa Severa, Torre di San Pancrazio, thời Phục hưng và các bức tường thời Trung cổ. Các thị trấn lân cận Tarquinia và Cerveteri là nơi có một số di tích Etruscan, Nhà thờ San Francesco, Nhà thờ San Pietro và Nhà thờ San Paolo.  

    Civitavecchia là một địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp từ những bãi biển đầy cát trắng nước trong ở Santa Marinella đến những bãi biển đầy đá ở Santa Severa. Nhà hàng và trung tâm mua sắm Porto di Civitavecchia là nơi tập trung nhiều cửa hàng, từ cửa hàng thời trang đến chợ địa phương bán đồ lưu niệm. Các cửa hàng bán đồ da nổi tiếng La Pelletteria hoặc đi thuyền đến các đảo Giglio và Giannutri với cửa hàng trang sức nổi tiếng Gioielleria Gioielli.

    La Spezia, Italy

    La Spezia là thành phố lớn thứ hai ở vùng Liguria, sau Genoa. Nằm gần giữa Genoa và Pisa, trên Biển Ligurian với cảnh tuyệt đẹp về vịnh và dãy núi Apuan Alps. La Spezia còn là nơi có căn cứ hải quân lớn của Ý và được coi là cửa ngõ vào Cinque Terre, là trung tâm thành phố lịch sử với các viện bảo tàng và trung tâm văn hóa. Những ngôi làng ven biển đẹp như tranh vẽ, những khu chợ và nhiều khu phố với những quán cà phê và nhà hàng xinh xắn dọc hai bên.

    Nhiều du khách sử dụng La Spezia làm điểm xuất phát cho các chuyến đi đến Cinque Terre và các điểm du lịch lân cận khác vì La Spezia là một thành phố gần Cinque Terre. Từ Rome, Tuscany hay Venice, du khách phải đi qua La Spezia để đến con đường ven biển Cinque Terre nếu đi xe. Nếu đi tàu, du khách phải đổi tàu ở ga La Spezia Centrale.

    La Spezia nằm ngay biên giới giữa Liguria, Tuscany và cách không xa Cinque Terre, Pisa và Florence.

    Portofino, Italy

    Mệnh danh là “Hòn ngọc vùng Riviera“, một địa điểm quyến rũ trên Biển Ligurian là nơi nghỉ mát yêu thích của nhiều người châu Âu giàu có và sang trọng. Từng là một làng chài yên tĩnh, đẹp như tranh vẽ nằm trên vùng Riviera của Ý, Portofino được biết đến với những tòa nhà đầy màu sắc, bến cảng tuyệt đẹp và khung cảnh ngoạn mục của Biển Địa Trung Hải. Ngôi làng là điểm nổi tiếng của khách du lịch đến để tận hưởng khí hậu ấm áp, làn nước trong vắt và bầu không khí độc đáo với thực vật tươi tốt.

    Ngoài phong cảnh thiên nhiên và bến cảng Portofino tuyệt đẹp, du khách có thể tận hưởng nhiều sinh hoạt như tản bộ trên những con đường thơ mộng, quyến rũ của Portofino hay đi thuyền ngắm cảnh bờ biển, hoặc chèo thuyền kayak. Portofino với nhiều nhà hàng, quán cà phê và cửa hàng mua sắm. Du khách cũng có thể tham dự những buổi họp văn hóa, thăm viếng nhà thờ hay viện bảo tàng địa phương hoặc tham dự vào những buổi lễ hội.

    Ý nổi tiếng với khu mua sắm sang trọng với các cửa hàng trang sức và cửa hàng thời trang nổi tiếng như La Bottega di Portofino, cửa hàng lưu niệm, phòng trưng bày nghệ thuật và cửa hàng đặc sản. Cửa hàng chuyên về các mặt hàng thủ công, đồ trang sức, đồ gốm và quần áo hay cửa hàng rượu vang và rượu mạnh của địa phương.

    Bãi biển ở Portofino có những bãi biển đẹp nhất thế giới được bao quanh bởi cây xanh và những vách đá tuyệt đẹp, khiến chúng trở thành địa điểm hoàn hảo và lãng mạn.  Bãi biển Spiaggia di Paraggi là một bãi biển cát trắng tuyệt đẹp với làn nước trong vắt và tầm nhìn tuyệt đẹp ra Biển Địa Trung Hải. Ngoài ra còn có một số bãi biển nhỏ hơn gần đó như San Fruttuoso, Camogli và Chiavari. Bãi biển San Fruttuoso, Paraggi và Santa Margherita Ligure là hai bãi biển tuyệt đẹp với làn nước trong vắt, nằm gần Portofino và là địa điểm nổi tiếng để bơi lội, tắm nắng và lặn với ống thở. Gần đó cũng có rất nhiều nhà hàng và quán bar, khiến nơi đây trở thành địa điểm tuyệt vời để thưởng thức đồ ăn hoặc đồ uống giải khát.

    Marseille, France

    Marseille là một thành phố cảng nằm ở vùng Provence của Pháp và đã tồn tại từ khi người Hy Lạp Phocaean xâm chiếm vào khoảng năm 600 Trước Công nguyên. Đây là thành phố lớn thứ hai ở Pháp và lớn nhất ở vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur, đồng thời là thành phố đông dân nhất ở Pháp sau Paris. Thành phố này được biết đến với lịch sử, văn hóa, ẩm thực phong phú và là nơi có nhiều điểm du lịch đẹp và nổi tiếng.

    Marseille có tất cả cảnh đẹp của vùng đất Địa Trung Hải bao gồm Cảng Cũ của Marseille, nhà thờ Đức Bà De la Garde và Công viên Quốc gia Calanques. Thành phố này còn nổi tiếng với cuộc sống về đêm với nhiều quán bar, câu lạc bộ và nhà hàng. Marseille cũng là nơi có nhiều viện bảo tàng lịch sử với các phòng trưng bày di vật của các nền văn hóa khác. Nổi tiếng với khí hậu dịu mát của vùng Địa Trung Hải, những bãi biển tuyệt đẹp và phong cảnh đẹp như tranh vẽ. Marseille là một nơi tuyệt vời để học hỏi thêm về nền văn hóa, lịch sử và ẩm thực độc đáo của Pháp. Các hoạt động ngoài trời như đi bộ, đi xe đạp và chèo thuyền cũng rất phổ biến. Công viên Quốc gia Calanques gần đó là địa điểm không thể bỏ qua đối với những người yêu thiên nhiên.

    Cảng Cũ của Marseille là địa điểm không thể bỏ qua đối với bất kỳ hành khách du lịch nào đến thăm thành phố này. Bến cảng đẹp và là bến đậu của rất nhiều thuyền, nhà hàng và cửa hàng mua sắm, du khách có thể đi dạo dọc theo bờ sông, ngắm cảnh bằng thuyền hay thuyền Kayak. Calanques là một loạt vách đá vôi bao quanh vịnh nhỏ tuyệt đẹp nằm ngoài khơi Marseille. Calanques cũng là nơi có nhiều bãi biển hẻo lánh, khiến chúng trở thành địa điểm tuyệt vời để bơi lội và tắm nắng.

    Nhà thờ Đức Bà de la Garde xinh đẹp này nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhìn ra thành phố, bến cảng cũng như các khu vực xung quanh. Vương cung thánh đường de la Garde với lối kiến trúc phức tạp và cũng là nơi trưng bày một số hiện vật tôn giáo và tác phẩm nghệ thuật.

    Ẩm thực Marseille nổi tiếng với nhiều nhà hàng và quán cà phê phục vụ các món ăn truyền thống của vùng Provence. Nhiều nhà hàng được trao giải Michelin, phục vụ một số món ăn Pháp ngon nhất trong nước và nổi tiếng với các món ăn hải sản. Mua sắm tại các khu chợ ở Cảng Marseille (Provence) có nhiều loại sản phẩm địa phương tươi sống hay mua gia vị và hàng thủ công.

    La Vieille Charite, Les Terrasses du Port và Le Panier Le Panier là những trung tâm mua sắm xinh đẹp nằm ở trung tâm thành phố Marseille. Nó cung cấp nhiều loại quà lưu niệm, từ các mặt hàng truyền thống của vùng Provence đến nghệ thuật và đồ trang sức hiện đại. Trung tâm cũng có nhiều nhà hàng và quán cà phê, khiến nơi đây trở thành một nơi tuyệt vời để ghé thăm.

    Bãi biển ở Marseille (Provence), Pháp là nơi quy tụ của một số bãi biển đẹp nhất Địa Trung Hải với cát trắng, nước trong vắt và tầm nhìn tuyệt đẹp ra Biển Địa Trung Hải. Các bãi biển nổi tiếng nhất gần cảng là Les Goudes, Calanque de Sormiou và Calanque de Morgiou. Les Goudes là một bãi biển nhỏ với làng chài đẹp như tranh vẽ, trong khi Calanque de Sormiou và Calanque de Morgiou đều là những vịnh nhỏ tuyệt đẹp với làn nước trong vắt và những vách đá. Bãi biển Carry-le-Rouet, Les Goudes và Calanque de Sugiton có rất nhiều nhà hàng, quán bar và nhiều hoạt động khác chẳng hạn như chèo thuyền kayak, lướt ván và chèo thuyền. Bãi biển còn nổi tiếng với những khối đá tuyệt đẹp, khiến nơi đây trở thành một địa điểm tuyệt vời để chụp ảnh.

    Khánh Lan, 2024

  • DU LICH,  Lê Nguyễn Nga

    ÂU CHÂU, TRĂM NĂM CỔ KÍNH

    Từ lúc trẻ được biết đến Âu Châu chỉ qua sách vở, lòng tôi hằng mơ ước được đặt chân đến trời Âu.  Thật là vui, một chuyến thăm Âu Châu đã đến với tôi và một nhóm bạn vào

    tháng 7 năm 1997.  Đó là chuyến Tour Du Lịch COSMO. Mười chín ngày với nhóm 45 người. Riêng nhóm bạn chúng tôi gồm sáu người cùng làm chung một department tại Cali.

    Chuyện du lịch được khởi hành với chuyến bay từ Los Angeles đến London.

    Theo lịch trình chúng tôi sẽ tham quan sáu nước gồm:

    – London, Anh quốc 

    – Đi tàu qua Belgium, 

    – Đi xe bus 18 ngày

    – Luxembourg 1 ngày

    – Thụy Sĩ. 2 ngày, một đêm

    – Ý Đại Lợi. 4 ngày 3 đêm 

    – Pháp   

    Chuyến đi xe lửa qua đường hầm đi qua 101 hầm đến đất Pháp.  Chuyến đi qua nhiều nơi nên phải rất nhanh và luôn sẵn sàng di chuyển mỗi buổi sáng sớm, nên có được tên vui là Pyjama Tour.  Ngay sau khi máy bay đáp xuống, trạm đầu tiện là London, chúng tôi book hotel, mang tên là ROYAL HOTEL, khách sạn này không đẹp lắm.  Tha hồ được viếng thành phố đẹp, đầu tiên chúng tôi đi ngang qua London Bridge, thấy rõ London Tower sừng sững.  Nơi đây có nhà tù nổi tiếng của Anh từ vài trăm năm trước.

    London, Anh Quốc

    Điện Buckingham

    London có nhiều lâu đài cổ xưa. Nổi tiếng nhất là điện Buckingham.  Thật thú vị được xem đoàn vệ binh cỡi ngựa hoàng gia, xem lính gác đổi phiên trước cửa điện Buckingham của Nữ Hoàng Elisabeth II. Chúng tôi tham quan các Chateaux, các nhà thờ nói tiếng của England,  Westminster Abbey, và nhiều nhà thờ đẹp của Anh Giáo.

    Trung Tâm Luân Đôn  

    Chúng tôi đi dạo trong thành phố thấy xe bus hai tầng.  Chúng tôi đi dạo và ăn trưa rất ngon với món ăn phổ biến là “fish and chip”.  Dạo phố nơi đâu cũng thấy người dân ăn mặc lịch sự, dáng người cao và thon.  Chỗ nào cũng thấy nhiều cửa hàng với bảng hiệu có chữ Royal.

    Chỉ trên một đoạn đường thôi đã có tới hai tiệm mang tên Bistro of the King và The King of Bistro.

    Di chuyển thông dụng nhất là xe bus hai tầng.  Dòng sông nổi tiếng, với nhà gare mang tên Thames, luôn tấp nập.

    Hôm sau chúng tôi ra bến cảng, đi tàu qua Pas de Calais vào đất liền của Âu Châu.  Pas de Calais hay Chanel 5, là một eo biển nhỏ giữa UK và đất liền Âu Châu.  CaLais mang chứng tích lich sử của những trận chiến lớn của Âu Châu và thế giới, trong đó có Thế Chiến thứ 2.

    Nơi đây đã ghi lại chiến tich vĩ đại của quân đội Đồng Minh đã đổ bộ lên bờ biển Normandie ngày 6 tháng 6, 1944.  Cuộc chiến thắng này đã giải phóng Paris khỏi sự xâm lăng của quân đội Đức Quốc Xã.

    Belgium là một đất nước nhỏ, văn minh.  Người dân sống mức trung bình, êm ấm. Lâu đài của Hoàng gia thật to rộng, uy nghiêm và trang trọng.

    Đoàn xe của chúng tôi đi ngang qua Bruges.  Bruges là một dòng sông nhỏ có nhiều chiếc du thuyền đẹp. Đây cũng được gọi là Venice của Belgium.  Chúng tôi ngủ lại đêm tại Belgium.

    Rời Belgium. Qua đến Luxembourg một vương quốc nhỏ, đẹp nhưng rất giàu.  Đã qua nhiều triều đại, ít chiến tranh với nếp sống yên bình, giàu sang.

    SWITZERLAND

    Đoàn xe di chuyển qua Thụy Sĩ ghé lại thăm Geneve. Chúng tôi ngủ lại đêm trong một hotel nhỏ trên một ngọn đồi vắng, rất yên tĩnh. Sáng hôm sau chúng tôi đến viếng Lucerne trung tâm biển hồ gồm bốn hồ gần nhau. Chung quanh là những ngọn núi đẹp nổi tiếng, thu hút người trượt tuyết vào mùa đông.  Đất nước thanh bình, nhà cửa xinh đẹp.  Người dân được sống yên ấm trong đất nước được mệnh danh là hòa bình nhất  thế  giới. Từ sáng sớm mặt trời vừa lên đã được ăn điểm tâm nhẹ với cafe sữa và bánh mì fromage. Chúng tôi đi thăm những thắng cảnh nổi tiếng. Trong đó có chiếc cầu treo dài và đẹp nhất nước. Được đi thăm Lucerne và đi du thuyền trên hồ, hồ đẹp với những căn nhà nhỏ xinh đẹp chung quanh hồ của các nhà tỷ phú trên thế giới.   

    Hôm nay sẽ đi vào một đất nước mà tất cả moi người đều mong đợi. Xe đi trên quốc lộ hai bên là đồng cỏ hay là những canh đồng hoa. Âu Châu rất  đẹp, và rất nhỏ, chúng tôi được di chuyển theo ba biên giới. Trong đó có biên giới lịch sử chiến tranh Alsace Loraine giữa Đức và Pháp. Chúng tôi đang đi đến Italy.

    ITALY.

    Đến ranh giới Italy chúng tôi thấy những cánh đồng hoa, nhiều nhất là hoa hướng dương. Bên cạnh những cảnh sống gần với nông trại. Chặng đường  dẫn  đến  một thanh phố nhỏ yên  tĩnh, nhưng đã  thu hút khách du lich với một tháp nghiêng.

    PISA

    Đoàn xe dừng lại tại Pisa. Thật lạ thay, tôi được chiêm ngưỡng Leaning Tower. Một kỷ niệm là một tháp bi nghiêng khoảng 30 degree mà vẫn đứng vững mãi.  Chụp hình kỷ niệm và mua quà kỷ niệm. 

    Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình, tuy mệt nhưng vui và đầy thú vị.

    Rome.

    Thật cảm động khi được nhìn lịch sử oai hùng của thời La Mã xưa. Một đấu trường đã sụp đổ nhưng vẫn còn được để nguyên để moi người được chiêm ngưỡng sự tồn tại của lịch sử oai hùng thời La Mã.

    Text Box: Đấu trường coliseumXe chạy giữa thành phố, chúng ta đang sống trong hiện tại và thấy được “đấu trường – Coliseum” của thời cổ La Mã hơn 2.000 năm trước.                                         

    Florence

    Florence là trung tâm văn hoá, đầy di tích xưa. Chúng ta được chiêm ngưỡng những bức tượng của Leonardo Da Vince.  Được thăm viếng các di tích văn hóa.  Căn nhà với balcon lịch sử chuyện tình Romeo – Juliette. Nhưng bức tượng nam khoả thân. Nổi tiếng nhất là bức tượng David của Michael Angelo.

    Vatican

    là một quốc gia nhỏ riêng biệt và độc lập.  Là nơi Đức Giáo Hoàng ban hành Thánh Lễ.  Bước vào Toà Thánh, nhìn kiến trúc thật đẹp ngoài tưởng tượng. Trần nhà thật ý nghĩa với các tượng hình của Michael Angelo, Leonardo Da Vince.

    Xe bus của chúng tôi đi đến Venice là một địa thế ở bờ biển phía bên khác.

    Venice

    Trên thuyền Gondola

    Thành phố nổi trên cửa biển, đang bị xụp xuống dần gần mặt nước biển.  Nhưng mức nước biển ngày càng cao hơn trước.  Được thuê thuyền nhỏ Gondola, chèo tay, ngắm thành phố floating cảm giác thật thú vị. Nhưng, khi nhìn nước thấy vùng vịnh biển nước đen quá không sạch mà thấy mất cảm hứng.   Đi thuyền giữa những tiệm buôn. Thú vị nhất là ghé vào xem nơi “thổi ve chai” với những sản phẩm đắt tiền viền vàng.

    Chúng tôi ở lại đây ba ngày. Ngủ lại Italie ba đêm, sáng hôm sau về Pháp, băng đường xe lửa xuyên qua núi giữa hai biên giới. Một chuyến đi xe lửa thú vị.

    MONACO

    Trên bờ biển Monaco, Xe xuyên qua 101 hầm về Pháp

    Chúng tôi ghé Monaco, một quốc gia nhỏ, độc lập.  Trong thành phố được xem lâu đài trang trọng. Các đường đi lót gạch đỏ, sạch sẽ.  Được viếng thăm Monte Carlo, một sòng bài nổi tiếng của Âu Châu. Vương quốc Monaco với những đường núi cao vòng vo bên biển đẹp. Nơi đây chúng tôi dừng lại ăn tối và đi viếng cảnh đẹp, với chiếc du thuyền lịch sử của Prince tặng hoàng hậu Grace Kelly khi đám cưới.

    PHÁP  

    Lyon

    Một thành phố yên tĩnh với sân bay xưa, với nhà gare mang tên Lyon mà nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã viết.

    Text Box: Quốc khánh Pháp, 14-7 tại Lyon“Lên xe tiễn em đi – Gare  Lyon đèn vàng…

    Đến đây tình cờ chúng tôi gặp được cuộc diễn binh Ngày Quốc Khánh Pháp 14 Juillet. Chúng tôi phải dừng lại hơn một tiếng để xem diễn binh.  Rồi sau đó tiếp tục di chuyển về đến Paris.

    Paris

    Trước khi đến Paris, chúng tôi dùng dinner tại restaurant Bạch Mã “White Horse / Cheval Blanc” và ngủ đêm tại Paris.  Chặng đường dài đầy quyến rũ nhưng Paris vẫn là niềm hãnh diện của nước Pháp cho đến hôm nay.

    – Tuy nhiên câu nói của người Pháp- “Voir Paris et Mourrir”. Có thể sẽ bị phai mờ vì phương tiện du lịch trên toàn cầu đã đưa hàng triệu người đến viếng Paris mỗi năm.

    Vào đến trung tâm phải đi ngang đại lộ huy hoàng nhất, Champs Elysees. Con đường này dẫn đến cung điện Elysees, là nơi cư ngụ và làm việc của tổng thống Pháp. Cũng là nơi tiếp đón các nguyên thủ quốc gia trên khắp thế giới.

    Arc de Triomphe

    Khải Hoàn Môn được làm để chào đón Đại đế Napoleon thắng trận trở về nước.  Trung Tâm Paris, Khải Hoàn Môn mở ra năm ngã đường lớn nhất Paris.

    Eiffel Tower. 

    Chúng tôi mua vé lên xem kính viễn vọng thấy toàn cảnh Paris theo giòng sông Seine uốn khúc.  Rất nhiều tỉnh và thành phố được mang tên ghép với sông Seine, ví dụ Neuilly Sur Seine.

    Thủ đô Paris hình tròn, với một hệ thống đường hầm rất tiện việc di chuyển hàng ngày cho người dân sinh sống và cho khách du lịch đến từ các nước trên thế giới.  Đường hầm Metro coi như là một phương tiện chung cho người Text Box: Nga và các bạn dưới chân tháp Eiffelcid:948fe475-1183-7869-9b74-68b6e23edb3d@yahoo.comdân Pháp đến làm việc tại Paris. Phương tiện chung của Parisiens và của khách du lịch đến từ các nơi trên thế giới.

    Kế đến chúng tôi đi ngang qua đại lộ Opera, với một nhà hát OPERA nổi tiếng, đi qua vườn cây Tuleries, cảnh đẹp.

    Louvre

    Paris là nơi có rất nhiều viện bảo tàng, vì nước Pháp yêu chuộng văn hóa.  Paris là biểu tượng của văn hóa và nghệ thuật của cả thế giới.  Từ xa chúng tôi đã thấy khuôn viên Louvre. Trước mặt Louvre là một kim tự tháp. Du khách trước khi vào xem, phải đi qua đường hầm. Hầu như tất cả công trình văn minh của thế giới được gom lại và tàng trữ nơi đây. Từ thời cổ đại Hy lạp, qua thời Phục Hưng, Baroque, rồi đến Hiện Đại đều hiện diện trong viện bảo tàng cổ kính này.

    Cung Điện Versailles

    Cung điện huy hoàng, của Hòang Gia xưa, qua nhiều đời vua thăng trầm trên 2.000 năm lịch sử. Trước cổng chính, ta nhìn thấy nhiều building to lớn, oai nghiêm với những cánh cổng mạ vàng.  Bên trong với những bức hình nổi tiếng của các vị vua qua nhiều triều đại vàng son, chen lẫn với triều vua đau khổ.  Tranh của Vua Louis 16, và hoàng hậu Marie Antoinette. Vua và hoàng hậu này bị chém đầu trong cuộc Cách Mạng Pháp 1789.

    Đi thăm viếng Cung điện Versailles.  Một hoàng cung hùng vĩ với cả chục toà buildings to lớn. Bên trong cung điện trang hoàng với hàng trăm chandeliers của thời vua xưa. Nét đẹp sáng láng. Trên tường những phòng rộng lớn với hàng trăm bức chân dung các vị vua và di tích lich sử tràn ngập.  Hàng trăm năm đã trải qua nhưng kỳ tích vẫn còn ở lại Cung điện Versailles mãi mãi.

    Vườn hoa Versailles

    Phía sau Điện Versailles là Vườn Thượng Uyển của các Vị Vua xưa. Hồ nước phun, vườn cây cắt xén ngắn, gon và rất đẹp. Có một hồ nuôi rùa, có cả trăm con rùa nhỏ. Được biết là rùa nay đã được nuôi dưỡng liên tiếp sinh nở từ vài trăm năm qua.  Lâu đài tráng lệ thì vẫn còn đây, nhưng nhiều thăng trầm của các triều vua đã qua.

     Lê Nguyễn Nga  2012

  • DU LICH,  Khánh Lan

    Tu viện Benedictine và Vương Cung Thánh Đường Montserrat, Barcelona, Spain

    Từ Barcelona, ​​sau 90 phút lái xe qua con đường uốn quanh núi mang đến tầm nhìn tuyệt đẹp ra khắp thung lũng, cũng như vùng nông thôn đẹp như tranh vẽ và những ngôi làng nhỏ rải rác trên đồi thì đến ngọn núi Montserrat cao 4.051 feet. Quảng trường của Vương cung thánh đường Hoàng gia Montserrat xây trên vị trí bên vách đá, kiến trúc theo phong cách tân La Mã và là một kỳ quan tuyệt đẹp, một tác phẩm điêu khắc theo phong cách La Mã nổi tiếng thế kỷ 12 của Virgen Moreneta.

    Montserrat là ngọn núi lởm chởm như răng cưa của Montserrat và Tu viện Benedictine. Tu viện Benedictine và Vương Cung Thánh Đường Montserrat đã từ lâu được Tây Ban Nha coi là bảo vật quốc gia, là khu bảo tồn về văn hóa và tôn giáo uy nghi này nằm cách thành phố Barcelona chừng 50 cây số về hướng đông-bắc. Giữa sơn thủy Địa Trung Hải du khách có dịp tản bộ qua hàng ngàn bậc thang và những con đường mòn để hướng về tu viện Benedictine, Montserrat. Nơi đây không chỉ đặc biệt nhờ vẻ kiến trúc, địa thế sơn thủy, mà còn bởi các huyền thoại với bức tượng linh thiêng Đức mẹ đồng trinh Black Madonna.

    Lịch sử Tu viện bắt đầu vào năm 880 có một nhóm trẻ chăn cừu nhìn thấy luồng ánh sáng từ bầu trời ở vùng núi Montserrat. Và cùng lúc đó, các em bé chăn cừu đã nghe được tiếng hát của các thiên thần và những giai điệu trong các bản nhạc khiến các em được đón nhận với một niềm vui rạng rỡ. Một tháng sau đó, cha mẹ của các em cũng tận mắt chứng kiến ​​những “phép lạ” tại đây. Các vị trưởng lão tôn giáo cũng đã chứng kiến hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria trong hang động nơi phát đi những ánh sáng kỳ lạ đó. Kể từ đó khu hang động này đã trở thành một nơi tôn nghiêm thánh thiện cho người dân bản xứ và khách hành hương đến thăm viếng và cầu nguyện.

    Nói về lòng sùng kính Đức Mẹ Montserrat đã có từ xa xưa. Đó là vào thế kỷ thứ VII, khi vó ngựa của người Ả-rập chiếm đóng Tây Ban Nha. Bức tượng Đức Mẹ Black Madonna đã được cất giấu trong khi đội quân Hồi Giáo Ả-rập tấn công, và mãi cho đến thế kỷ thứ 9 thì người ta mới tìm lại đước bức tượng Đức Mẹ Black Madonna.

    Statue of Black Madonna, Montserrat

    Vào năm 1025, Đức Giám Mục cai quản địa phận Barcelona đã chính thức cho thành lập tu viện Montserrat. Trong hai thế kỷ 12 và 13, một Vương Cung Thánh Đường Santa Maria Basilica đã được xây cất tại Montserrat. Trong thời gian này du khách bắt đầu hành hương đến tu viện Montserrat mỗi ngày một đông. Một sự kiện lạ lùng xảy ra vào năm 1493, các tu sĩ của tu viện Montserrat đã tham gia cùng nhà thám hiểm Christopher Columbus đi chinh phục Mỹ Châu lần thứ hai và một trong những hòn đảo của khu vực Trung Mỹ được đặt theo tên Montserrat. Đảo Montserrat Trung Mỹ hiện nay là xứ tự trị thuộc Anh Quốc, tọa lạc trong quần đảo Leeward, thuộc vùng biển Caribbean. 

    Vương Cung Thánh Đường Santa Maria ở Montserrat với lối kiến trúc theo trường phái Gothic pha trộn với nét nghệ thuật kiến trúc Tây Ban Nha. Ngay trước tiền sảnh Vương Cung Thánh Đường là một khoảng sân có mái che 5 vòm. Trung tâm thánh đường luôn làm mê hoặc du khách với những bức tường đá cẩm thạch màu đen và màu trắng, như với Thánh đường Rome do danh họa Michelangelo thiết kế.  Xung quanh nhà thờ, du khách bị cuốn hút bởi nhiều nếp trang trí công phu. Đây là một phong cách trang trí thắp sáng của Tây Ban Nha có từ sau cuộc nội chiến Tây Ban Nha năm 1811-1812. Những cột trụ trung tâm ở gian giữa là những tác phẩm điêu khắc của các nghệ sĩ bậc thầy như: Ezekial, Jerome, Isiah và Daniel.

    Tác phẩm điêu khắc bằng gỗ Tượng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria Màu Đen (The Black Madonna) nằm ở phía sau của nhà thờ. Theo truyền thuyết, khi khởi công xây Tu viện này, các thày tu dòng Benedictine có ý định di dời bức tượng Đức Mẹ đi một nơi khác để xây tu viện, nhưng khi bắt đầu đưa bức tượng Đức Mẹ đi thì trời đổ mưa, giông bão nổi lên và bức tượng Đức Mẹ Balck Madonna nặng tới độ không thể di dời được, và đó cũng chính là ý của Đức Mẹ nên mọi người quyết định không chuyển bức tượng Đức Mẹ đi nơi khác nữa mà đặt nguyên tại đó rồi xây tu viện. Và đó cũng chính là lý do mà Bệ Thánh và Cung Thánh của Tu viện lui về phía sau của Tu viện.

    Santa Maria Basilica, Montserrat

    Nói về bệ thánh hay bệ thờ Đức Mẹ, bức tượng được đóng khung trong một ô cửa sổ được trang trí tuyệt đẹp, và du khách có thể diện kiến Đức Mẹ ở mọi nơi, kể cả lúc ngồi nghỉ mệt trên băng ghế dài của nhà thờ. Ở hai bên tượng của Đức Mẹ có chín cái đèn bằng bạc, đại diện cho 8 Giáo phận của Catalunya và Montserrat. Tượng Đức Mẹ ở tu viện Montserrat có màu đen với tên gọi là The Black Madonna được giải thích theo các tu sĩ tại đây, thì màu đen đó không phải là màu da của phụ nữ Phi Châu mà là màu tối của gỗ theo thời gian. Cũng vì sắc đen của khuôn mặt Đức Mẹ nên người dân địa phương đã có biệt danh cho Đức Mẹ là La Moreneta (người phụ nữ da đen nhỏ).

    Abbey of Montserrat

    Vào năm 1844, Đức Giáo Hoàng Leo XIII trong lời rao giảng tin mừng đã nói “tượng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria Màu Đen tại Montserrat là một trong những bức tượng Đức Mẹ nổi tiếng nhất thế giới”! Cố Đức Giáo Hoàng Joan-Phaolo đệ nhị, vào năm 1982 sau khi Ngài qua khỏi sau vụ ám sát năm 1981 đã tới đây để tạ ơn và dâng kính Đức Mẹ trước hồng ân “phép lạ” mà Ngài đã lãnh nhận từ Đức Mẹ.

    Tượng Montserrat đã thu hút rất nhiều người đến vùng núi này. Vương cung thánh đường Hoàng gia là một trong những địa điểm hành hương quan trọng nhất ở Tây Ban Nha trong hàng trăm năm. Hầu hết các ngày trong tuần, ca đoàn thiếu nhi hát trong tu viện vào giữa trưa. Nơi đây có một bảo tàng, nhà hàng và cửa hàng.

    Khánh Lan ghi lại di tích tu viện Benedictine và Vương Cung Thánh Đường Montserrat qua bài viết của tác giả Diễm Thi

  • DU LICH,  Dương Viết Điền

    DU LỊCH Ý ĐẠI LỢI

    DU LỊCH Ý ĐẠI LỢI

    Dương viết Điền

    Đúng 8:00 giờ sáng, xe buýt từ từ chuyển bánh  để qua nước Ý đến thành phố Milan .

    Milan là một trong những hành phố lớn nhất của nước Ý. Nơi đây có nhiều di tích lịch sử nên ông trưởng đoàn cho chúng tôi vào thành phố nầy để thưởng ngoạn.  Thành phố nầy cũng là trung tâm của thời trang về nhiều loại sản phẩm nỗi tiếng nhất thế giới như áo quần, giày dép, crystal pha lê vv…Vì vậy chúng tôi được ông trưởng đoàn cho lên tàu vượt dòng sông để đến bờ bên kia xem trung tâm chế tạo ly, tách và những sản phẩm được chế tạo bằng cát rồi biến chế để trở thành trong sáng như thuỷ tinh, pha lê.

    Sau đó để tiếp tục cuộc hành trình, chúng tôi được hướng dẫn đến thăm nhà thờ nỗi tiếng Milan, người Ý gọi là Dumo Di Milano. Nhà thờ này được xây dựng từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 19 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Đây là một trong những nhà thờ lớn nhất thế giới, sau đền thánh Saint Peter ở La mã. Tôi và bà xã tôi cũng đã vào xem nhà thờ này trong khi nhiều người khác thích đi shopping ở ngoài hơn vì biết rằng nhà thờ này còn đang tiếp tục được xây cất chưa hoàn thành. Khi đến gần một cột trụ xây bằng đá ở trong nhà thờ, tôi dang tay ôm cột trụ để ước luợng khoảng bao nhiêu người ôm mới xuể. Sau đó tôi thấy rằng phải đến bốn người mới ôm hết cột trụ này. Điều này chứng tỏ cột trụ bằng đá trong nhà thờ Milan to đến chừng nào.

    Thánh  đường Dumo Di Milano (Hình trích từ Wikipedia)

    Sau đó chúng tôi đến xem bức tượng của nhà danh họa Ý đại lợi, Da Vinci, người Ý gọi là Leonardo Da Vinci, tác giả của hai bức danh họa Mona Lisa và The last Supper. Ông trưởng đoàn cho chúng tôi biết rằng, Leonardo Da Vinci không những là một danh hoạ mà còn là một nhà toán học, một kiến trúc sư, một điêu khắc gia, một nhạc sĩ, và cũng là một văn sĩ nữa.

    Nhà danh họa Leonardo Da Vinci (Hình trích từ Wikipedia)

    Sau đó chúng tôi đến xem hý trường La scala nỗi tiếng của thành phố. Hý trường bị hoả hoạn vào tháng 02 năm 1776, sau đó được xây dựng lại và đã được khánh thành vào ngày 03 tháng 08 năm 1778. Đây là Opera House lớn nhất của thành phố Milan.

    Hý trường La Scala (Hình trích từ Wikipedia)

    Sau khi đi xem một số di tích lịch sử trong thành phố, chúng tôi nghỉ ngơi để ăn cơm trưa. Chiều hôm đó chúng tôi được ông trưởng đoàn hướng dẫn đến ngôi nhà cũ của nàng Juliete trong chuyện tình Romeo và Juliete mà văn sĩ nỗi tiếng Anh quốc Shakespear đã viết lại trong tác phẩm của ông ta.

    Lúc bắt đầu bước vào ngõ hẻm dẫn vô nhà ở của nàng Juliete, tôi thấy một tấm bảng nho nhỏ vuông vắn gắn trên một cột bằng đồng nhỏ đề mấy chữ bằng tiếng Ý:

    CASA DI GIULIETTA (Ngôi nhà của Juliete ).

    Đi theo ngõ hẻm vào trong, chúng tôi thấy bức tượng bằng đồng của nàng Juliete đứng trước ngôi nhà nhìn ra ngoài đường.Nhiều du khách đang chụp hình bức tượng, kẻ khác lại đứng gần bức tượng rồi nhờ bạn bè chụp một tấm hình để làm kỷ niệm. Tôi và bà xã tôi cũng muốn chụp mỗi người một tấm hình để làm kỷ niệm. Tuy nhiên tôi phải đợi một du khách khác đang đứng sát bức tượng để nhờ bạn anh ta chụp xong tôi mới đến gần được. Nhưng ông du khách này lại đùa giởn thật kỳ quái làm mất thì giờ của những người khác đang chờ: ông ta cứ đưa tay vừa thoa vừa bóp cái vú bên phải của bức tượng, vừa cười một cách trơ trẻn. Sau khi bạn ông ta chụp xong, vợ chồng tôi mới thay phiên nhau tiến đến gần bức tượng để chụp hình làm kỷ niệm.

    Bức tượng Juliete

    Sau đó chúng tôi liền mua vé để vào trong ngôi nhà của nàng Juliete cách đây mấy trăm năm mà xem cho được tường tận khi nhớ lại chuyện tình của chàng Romeo và nàng Juliete sao mà buồn vời vợi. Một chuyện tình thật bi thương và cay đắng, một chuyện tình thật nghẹn ngào đầy nước mắt. Khi vào trong chúng tôi thấy một số đồ đạc của gia đình Juliete vẫn còn nguyên vẹn tuy có hơi cũ mà thôi. Chiếc giường của nàng còn đó. Trên giường có trải một tấm ra trắng .Cạnh chiếc giường là hai chiếc ghế bằng gỗ mà trên hai chiếc ghế này, đã nhiều lần Romeo trốn vào đây ngồi bên cạnh Juliete để tỏ bày tâm sự , để chàng và nàng cùng nhau nức nở lệ sầu. Vì cấm chụp hình lúc vào xem trong ngôi nhà này, nhưng vì một lần đi là một làn khó, biết bao giờ trở lại được nơi nầy nên nhanh như chớp, tôi đưa máy chụp hình cầm sẵn trên tay chụp liền hai hình để làm kỷ niệm: một hình chụp chiếc giường nàng Juliete nằm, một hình chụp hai chiếc ghế bằng gỗ nơi chàng Romeo và nàng Juliete ngồi tâm sự chuyện tình cách đây mấy trăm năm.

    Chiếc giường gỗ của Juliete nằm.

    Hai chiếc ghế đặt trong nhà Juliete.

    Sau đó tôi và bà xã tôi ra đứng tại cửa sổ, nơi nàng Juliete đêm đêm đứng trông ngóng chàng Romeo đến thăm nàng. Bỗng bà xã tôi hỏi:

    -Làm sao mà Romeo leo lên cửa sổ nầy được anh ?

    Nghe bà xã tôi hỏi như vậy tôi không biết trả lời làm sao cả. Bởi vì khi đứng trên cửa sổ tầng thứ nhất của ngôi nhà Juliete nhìn xuống, tôi thấy khó mà leo lên được cửa sổ nầy thật. Tuy nhiên có một bức tường chung của nhà hàng xóm bên cạnh với nhà của nàng Juliete  nằm phía bên phải cách cửa sổ của nhà nàng Juliete khoảng ba thước nên tôi nghĩ rằng, anh chàng Romeo có thể leo lên bức tường ấy rồi đu dây qua được cửa sổ nầy chăng?

    Bỗng thấy chị Thu Hương đang cầm máy chụp hình đứng dưới nhìn lên cửa sổ chúng tôi đang đứng, tôi cất tiếng nói vọng xuống:

    -Juliete đấy à, Juliete ơi ! Romeo đang đứng trên cửa sổ đây nè, chụp cho Romeo một tấm hình đi Juliete.

    Sau khi nghe tôi nói xong, chị Thu Hương nhìn lên, điều chỉnh camera ba mươi dây rồi bấm nút. Khi tia flash loé sáng, chị ấy cười đắc chí vì đã chụp được một Romeo « dỏm » đứng bên cạnh một Juliete cũng « dỏm » là bà xã tôi, tại cửa sổ thật của nhà nàng Juliete thật ở tại thành phố Verona (Milan) trên đất nước Ý.

    Sau khi từ giả nhà Juliete để ra ngoài, chúng tôi thấy trên mấy bức tường, hằng trăm câu viết, chữ ký của du khách viết để kỷ niệm nằm chằng chịt sát bên nhau. Thôi thì đủ loại mực, xanh, đỏ, tím, vàng vv…, và đủ các thứ ngôn ngữ trên cõi ta bà này.

    Vì chuyện tình Romeo và Juliete là một chuyện tình buồn vời vợi mà tất cả mọi người trên thế giới đều biết từ lâu nên khi đã đến thăm đất Ý đại lợi, du khách của tất cả các nước với hằng chục ngôn ngữ khác nhau, không thể không ghé lại ngôi nhà của Juliete được bởi đây là cơ hội ngàn năm một thưở. Đó là lý do tại sao ta thấy quá nhiều ngôn ngữ được viết trên mấy bức tường này vậy.

    Cửa sổ nhà Juliete (Hình trích từ Wikipedia)

    Sau khi tham quan ngôi nhà của nàng Juliete, ông trưởng đoàn bảo anh em chúng tôi lên xe để đến thành phố Venice ăn cơm tối. Khoảng một giờ đồng hồ sau xe buýt đã đến khách sạn Sheraton Padova ở Corso Argentina 535129 Padova tại Ý.  Sau khi ăn uống xong chúng tôi lên phòng ngủ để sáng mai tiếp tục cuộc hành trình của mấy ngày du lịch còn lại. Cũng giống như những lần khác, đúng 8:00 giờ sáng, sau khi ăn điểm tâm xong chúng tôi lại lên xe buýt để đi tham quan những danh lam thắng cảnh trong thành phố. Tại đây dưới sự hướng dẫn của ông trưởng đoàn, chúng tôi đến xem đại giáo đường thánh Mark, the Magical Piazza San

    Marco và chiếc cầu Bridge of Sighs.

    Thánh đường The Magical Piazza San Marco

    The Bridge of Sighs (Hình tích từ Wikipedia)

    Tên chiếc cầu nầy do thi sĩ Lord Byron đặt ra . Vì khi tội nhân nào vào nhà tù cũng đi ngang chiếc cầu nầy và khi đi qua cầu nầy, tội nhân hay than vắn thở dài nên nhà thơ Lord Byron đặt tên là cầu thở dài(Bridge of sighs). Sau đó, chúng tôi được hướng dẫn đến  địa điểm bước xuống thuyền để đi vòng quanh trên lạch nước the Grand Canal thơ mộng nằm giữa thành phố Venice gọi là “Serenade Gondola Ride”. Du khách muốn được ngồi trên thuyền này phải mua vé, 35 Euro cho mỗi người. Nhóm chúng tôi vẫn 6 người như thường lệ ngồi trên một chiếc thuyền màu đen do một anh chàng người Ý khoẻ mạnh chèo thuyền đưa chúng tôi dạo quanh con lạch . Thuyền này cách thuyền kia khoảng mười thước. Thuyền nào ít người thì có ban nhạc ngồi chung. Họ vừa đàn vừa hát giúp vui cho du khách ngồi trên các thuyền thưởng thức. Dưới ánh nắng dịu hiền của mùa thu mới về trên đất Ý, chúng tôi ngồi trên thuyền nghe tiếng đàn, tiếng hát của mấy chàng ca sĩ người Ý ở chiếc thuyền trước mặt cũng khiến cho tâm hồn chúng tôi cảm thấy rộn ràng, hân hoan, cảm thấy hạnh phúc, vui tươi. Bất giác tôi cất tiếng hát bài Le Beau Danube Bleu của nhạc sĩ nổi tiếng Johann Strauss Jr mà nhạc sĩ Phạm Duy dịch sang tiếng Việt là Dòng Sông Xanh :

    Một dòng xanh xanh, một dòng tràn mông mênh

    Một dòng nồng ý biếc, một dòng sầu mấy kiếp

    Một dòng trời xao xuyến, một dòng tình thương mến

    Một dòng còn quyến luyến, một dòng nhớ

    Quay về miền đời lúc mơ huyền

    Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu

    Cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai.

    Những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui

    Thả ý thắm theo người chở gió về xuôi.

    Hát vang lên cho vui, cô nàng ngồi bên tôi

    ……………………………………………..

    Lạch nước The Grand Canal (Hình trích từ Wikipedia)

    Ngồi trên thuyền dạo chơi trên lạch nước The Grand Canal tại thành phố Venice

    Vì cảnh mấy chiếc thuyền đen đang lướt nhẹt trên lạch nước chảy quanh thành phố Venice dưới ánh nắng thu thật tuyệt đẹp nên chúng tôi thay phiên nhau quay phim, chụp hình. Thuyền này chụp thyền kia, người kia chụp người nọ liên hồi.

    Khoảng nửa giờ sau anh chàng lái thuyền người Ý cho thuyền chúng tôi cập bến rồi gác mái chèo. Chúng tôi liền lên bờ và theo ông trưởng đoàn để đi ăn cơm trưa.

    Thế rồi chiều hôm ấy, chúng tôi đến tham quan tháp nghiêng Pisa rồi chụp hình làm kỷ niệm. Vì tháp hơi nghiêng và lên tầng cấp hơi khó khăn, cũng như phải mua vé mới lên xem được, vì vậy rất nhiều người trong đoàn du lịch chúng tôi không muốn lên xem. Riêng nhóm 6 người chúng tôi nhất quyết lên xem cho được mặc dầu tôi bị đau lưng và bà xã tôi mới bị té sáng qua nên lưng bị sưng lên làm hơi đau đớn. Trước khi leo lên tháp Pisa, ông trưởng đoàn cũng nói cho chúng tôi biết sơ tiểu sử về di tích của tháp này. Tháp The Leaning Tower of Pisa tiếng Ý là Torre pendente di Pisa hay là La Torre di Pisa. Tháp này là cấu trúc thứ ba trong quãng trường Piazza del Duomo và được xây đứng một mình bên cạnh nhà thờ thành phố Pisa ở Ý. Lúc xây thì tháp thẳng đứng, nhưng sau khi xây xong vào năm 1173, tháp bị lệch hướng và nghiêng về phía đông nam vì có một nền móng của tháp bị yếu vì thiếu chất nền. Tháp cao 55.86 mét, rộng 4.09 mét, đỉnh rộng 2.48 mét. Từ dưới lên trên có tất cả 294 tầng cấp. Độ nghiêng của tháp 5.5 và nặng

    14, 500 tấn. Tháp nầy được xây qua 3 giai đọan trong thời gian 177 năm. Sau khi xác định lại một lần nữa, các kiến trúc sư cho biết rằng tháp sẽ vẫn còn vững chắc ít nhất 300 năm nữa. Sau khi nghe ông trưởng đoàn trình bày xong, chúng tôi liền đến gần tháp để mua vé  rồi leo lên tháp tham quan.

    Tháp nghiêng Pisa (Hình trích từ Wikipedia)

    Vì phải mua vé để lên cho kịp giờ nên anh Lê văn Chính đi nhanh đến chỗ bán vé để mua trước cho anh em chúng tôi trong lúc tôi, bà xã tôi và chị Thu Hương phụ giúp chúng tôi đi gởi xách và túi đeo lưng của tôi  tại phòng gởi vì không được mang xách, túi đeo lưng lên tháp. Sau đó, tôi và bà xã tôi dìu tay nhau kẻ sau người trước vừa đi lên chầm chậm vừa nghỉ. Đến tầng thứ tư của tháp Pisa, vì quá đau lưng nên bà xã tôi không muốn đi lên nữa. Nhờ sự thuyết phục và động viên của tôi và nhờ tôi dìu bà xã tôi đi chầm chậm, cuối cùng chúng tôi đã lên được đỉnh của tháp Pisa. Lúc đứng trên tháp Pisa nhìn xuống, tôi nói với bà xã tôi rằng chúng mình đã chiến thắng nhờ cố gắng khắc phục được sự đau lưng nên mới lên tới đỉnh tháp Pisa. Thế rồi chúng tôi chụp vài bức hình làm kỷ niệm trước khi đi xuống.

    Hình chụp trên đỉnh tháp Pisa.

    Sau khi về khách sạn nằm nghĩ lại vụ leo lên tháp, tôi thấy tôi và bà xã tôi thật liều lĩnh và quá chịu đựng vì đã leo tất cả 294 tầng cấp (bậc thềm) đang trơn trợt vì có nước ở các tầng cấp trong khi lưng chúng tôi đau nhói lúc đang leo. Có lẽ một lần đi là một lần khó cũng như biết rằng chẳng bao giờ trở lại tháp Pisa nầy nữa nên phải  quyết chí mà thôi .

    Sau khi từ giả tháp nghiêng Pisa, chúng tôi được ông trưởng đoàn du lịch hướng dẫn về khách sạn Grand Hotel Guinigi ở tại Via Romana 1247, Lucca thuộc tỉnh Lucca nướcÝ để nghỉ ngơi và ăn cơm tối.

    Sáng hôm sau ông trưởng đoàn du lịch đưa chúng tôi đi tham quan một số di tích lịch sử trong thành phố Florence. Chúng tôi đã đến xem Cổng Thiên Đàng (the Door of Paradise) hay còn gọi là the Bronze Door of the Baptistery, quãng trường Signoria, trung tâm thương mại Duomo và di tích “ the 13 Santa Crose”. Sau khi tham quan những di tích lịch sử nầy chúng tôi đuợc hướng dẫn đi xem các cửa tiệm bán áo quần, giày dép vv…làm bằng da thuộc của thú vật chính hiệu con nai vàng. Đến chiều, ông trưởng đoàn du lịch dẫn chúng tôi đến thành phố nổi tiếng nhất trên thế giới của Thiên chúa giáo, đó là thành phố La mã. Tại đây ông trưởng đoàn cho chúng tôi vào tham quan toà thánh Vatican trước. Sau khi mua vé vào cửa xong, 36 Euro cho mỗi một người, chúng tôi đứng sắp hàng nối đuôi nhau để vào xem. Vì hằng trăm đoàn du lịch từ khắp nơi trên thế giới đổ xô về đây để tham quan toà thánh La mã, nên chúng tôi tuy đã sắp hàng nối đuôi nhau rồi, nhưng vẫn di chuyển rất chậm chạp từng bước một và phải mất một giờ bốn mươi lăm phút mới vào được bên trong toà thánh La mã. Tại đây, chúng tôi được tham quan quãng trường và đại giáo đường Thánh St.Peter. Trong lúc nhìn kỹ lối kiến trúc và những bức tượng được đặt trong đền Thánh St.Peter, anh Lê văn Chính đi bên cạnh tôi ca ngợi liên tục. Anh nói:

    -Điền thấy không, nhìn lối kiến trúc của ngôi đền từ ngoài vào trong từ trong ra ngoài, cũng như những nét điêu khắc, chạm trổ thật điêu luyện và tinh vi của mỗi bức tượng, mình phải thán phục những nghệ nhân cách đây mấy thế kỷ. Nếu so sánh nghệ thuật thưở ấy và bây giờ mình phải nói nghệ thuật của người xưa quá tuyệt vời.

    Theo sự trình bày và giải thích của một cụ già ngườiÝ được ông trưởng đoàn du lịch giới thiệu cho chúng tôi, đại giáo đường Saint Peter tiếng Ý gọi là Basilica di San Pietro in Vaticano. Đây là một trong bốn đại giáo đường quan trọng nhất của La mã. Đại giáo đường này là biệt thự nỗi bật nhất bên trong thành phố Vatican và được xây dựng ngay trên nơi hoang tàn đổ nát của đại giáo đường cũ. Đại giáo đường này chiếm một diện tích 5.7 acres và có khả năng chứa trên 60,000 người.

    Thánh đường Peter (Hình trích từ Wikipedia)

    Tân ước không đề cập đến sự hiện diện của thánh Peter tại La mã, nhưng truyền thống của Thiên chúa giáo nghĩ rằng, ngôi mộ của thánh Peter được an táng ở phía dưới đền thờ của ngài. Vì lý do nầy, nhiều Giáo hoàng, bắt đầu với những vị đầu tiên, đã được an táng nơi đây. Đại giáo đường ngày hôm nay được xây trên chỗ hoang tàn đổ nát cũ bắt đầu ngày 18 tháng 04 năm 1506 và hoàn thành xong vào năm1626. Vào ngày 23 tháng 12 năm 1950, trong lần phát thanh trước lễ Giáng sinh trên toàn thế giới, đức Giáo Hoàng Pio 12 thông báo cho toàn thể thế giới biết rằng các nhà khảo cổ đã tìm ra ngôi mộ của Thánh Peter sau 10 năm tìm kiếm dưới hầm mộ của đại giáo đường.

    Còn quãng trường Thánh Peter ( Piazza di San Pietro) nằm ở phía đông của nhà thờ do Gianlorenzo Bernini kiến tạo giữa năm 1656 và 1667. Quãng trường này được bao quanh bởi một số dãy cột hình bầu dục với hai đôi cột, theo kiểu thật giản dị của Hy lạp thưở trước, tạo thành chiều rộng của quãng trường. Mỗi cột mang một cái mũ trên cột theo lối kiến trúc cũ. Những dãy cột này như như dang rộng vòng tay quanh quãng trường, như ôm ấp niềm tin trong cánh tay của người mẹ ở trong giáo đường.

    Quãng trường Thánh Peter(Hình trích từ Wikipedia)

    Sáng nay đáng lẽ chúng tôi vào thăm di tích cổ thành La mã trước, nhưng khi đến nơi, các đoàn du lịch khác nối đuôi nhau vào xem quá đông nên ông trưởng đoàn sau khi hướng dẫn chúng tôi đi thăm một vài di tích ở bên ngoài thành liền thay đổi chương trình, qua thăm toà thánh La mã trước. Trong khi điểm danh lại trên xe buýt, ông trưởng đoàn thấy mất tích hai người. Ông liền chỉ thị cho tài xế xe buýt phải chờ hai vợ chồng người Hoa kia trở lại rồi mới khởi hành. Trong lúc đó, ông trưởng đoàn cầm cây cờ hãng du lịch Tour Ritz chạy tới chạy lui trong mấy đám đông mất mười lăm phút toát mồ hôi hột vẫn không tìm thấy hai người kia đâu cả. Cuối cùng, ông trưởng đoàn quyết định cho tài xế lái xe buýt qua thăm toà thánh La mã nếu không sẽ bị trễ dây chuyền ở những nơi khác. Cũng may là ông trưởng đoàn đã cho tất cả du khách trong đoàn biết số cell phone của ông ta nên khi hai vợ chồng người Hoa kia bị lạc, họ đã gọi cell phone cho ông trưởng đoàn . Sau đó nghe đâu ông chồng người Hoa này bị Tào tháo rượt nên phải tìm nơi đi cầu. Vì vậy bà vợ phải chờ ông ta nên khi ông trưởng đoàn tập họp du khách lại để lên đường, hai vợ chồng người Hoa này không ra kịp nên bị lạc. Đi du lịch kiểu này vợ chồng luôn luôn phải sát cánh bên nhau mới khỏi bị lạc nhau. Thà lạc đoàn du lịch rồi nhờ cảnh sát tìm cách liên lạc lại sau chứ vợ lạc chồng hay chồng lạc vợ thì rắc rối cho cuộc tình! Cuối cùng hai vợ chồng người Hoa này đã gọi tắc xi về khách sạn. Không hiểu đồ ăn thức uống tại các tiệm ăn như thế nào mà hết nửa đoàn du lịch chúng tôi đều bị Tào tháo rượt! Vì vậy vấn đề đi tìm phòng vệ sinh lắm lúc làm trở ngại cho cả đoàn. Dĩ nhiên đây là những trường hợp xảy ra ngoài ý muốn của mọi người.

    Trở lại vấn đề trên, sau khi tham quan toà thánh La mã xong, chúng tôi liền lên xe buýt để đến xem cổ thành La mã. Tại đây ông trưởng đoàn hướng dẫn đi thăm những di tích lịch sử còn lại tại thành phố La mã như the eternal Colosseum, the Roman Forum, Constatine’s Triumphal Arch, Spanish Steps, và Trevi Fountain.

    Cũng như những nơi khác, cứ mỗi lần đến thăm di tích nào ông trưởng đoàn cùng người hướng dẫn địa phương lại phải giải thích cũng như thuyết minh về nguồn gốc của từng thắng cảnh một. Chúng tôi khi thì lắng tai nghe khi thì đành bỏ nghe để  chụp hình, quay phim những nơi chúng tôi đến tham quan vì mỗi lần đi là một lần khó nên phải nhanh tay chụp hình để làm kỷ niệm, nếu không lúc ông trưởng đoàn dẫn đến những thắng cảnh khác thì không sao chụp lại hình nơi mình đã đến được. Vì vậy nhiều lúc các du khách say sưa chụp hình nầy, chụp hình nọ nên đã bị đi lạc đoàn du lịch mấy lần khiến ông trưởng đoàn kêu trời không thấu!

    The Roman Forum. ( Hình trích từ Wikipedia)

    The Arch of Constatine. (Hình trích từ Wikipedia)


    Cổ thành La mã (Hình trích từ Wikipedia)

    The Spanish Steps. (Hình trích từ Wikipedia)

    The Trevi Fountain. (Hình trích từ Wikipedia)

    Cũng như những nơi khác, chúng tôi thay phiên nhau chụp hình, quay phim cổ thành La mã để làm kỷ niệm. Thế rồi chiều hôm ấy, sau mười mấy ngày đi du lịch qua 4 nước Anh, Pháp, Thuỵ sĩ, Ý, sau khi tham quan những nơi đã vạch sẵn trong chương trình du lịch, chúng tôi còn khoảng một đến hai giờ đồng hồ nữa là chấm dứt cuộc du lịch 4 nước Âu châu. Chỉ còn một hai giờ phù du còn lại, chúng tôi được ông trưởng đoàn cho đi shopping để mua sắm quà kỷ niệm tặng bạn bè và nhìn thành phố La mã lần cuối trước khi đi ăn cơm tối, rồi về khách sạn nghỉ ngơi để sáng mai lên máy bay trở lại quê nhà.

    Cuối cùng ông trưởng đoàn tập họp điểm danh chúng tôi trước khi hướng dẫn chúng tôi về khách sạn Holiday Inn Rome Eur Parco dei Medici ở tại Viale Castello della Magliana 65, 00148 thành phố Rome tại Ý.

    Tại đây, ông trưởng đoàn dẫn chúng tôi vào một tiệm ăn người Ý để dùng cơm tối. Vì đây là bữa cơm chung vui cuối cùng của tất cả du khách trong đoàn nên mỗi người đóng góp 45 Euro cho ông trưởng đoàn để ông ta đặt trước tại nhà hàng. Vì là một bữa tiệc ly biệt nên tối hôm ấy ông trưởng đoàn du lịch đã cùng anh em trong đoàn chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác say sưa bên nhau rất là vui vẻ. Vui nhất là các anh bồi bàn ngườiÝ. Họ luôn luôn diện veston, thắt cà vạt lúc bưng đồ ăn ra cho thực khách. Không biết đây có phải truyền thống đùa vui trong tiệm ăn của người Ý hay không mà mấy anh chàng bồi bàn này mỗi lần bưng một món ăn cho một phụ nữ, họ thường cầm theo một cánh hoa hồng để tặng cho người phụ nữ đó. Trước khi tặng cho người phụ nữ nào, các anh chàng này làm một dấu hiệu để xin các nàng một nụ hôn. Nhiều nàng chiều ý chàng để cho chàng hôn lên má, nhiều nàng lại không muốn chiều chàng vì có chồng bên cạnh nên chỉ biết cười rồi ngoảnh mặt đi. Tuy nhiên có một chàng bồi bàn lại liều lĩnh khi xin nàng một nụ hôn và vì thấy nàng cười có vẻ như ưng ý, chàng ta liền lấy một khăn trắng để sẵn trên bàn rồi thả nhẹ để phủ  trên đầu và mắt người chồng ngồi bên cạnh nàng. Nhanh như chớp, anh chàng bồi bàn kia vừa hôn nhẹ lên má nàng vừa trao cánh hoa hồng cho nàng. Vì động tác của chàng bồi bàn quá nhanh nên nàng trở tay không kịp. Cuối cùng nàng chỉ biết ngồi cười hì hì trong lúc chồng nàng cũng vừa lấy chiếc khăn trắng ra khỏi đầu. Tất cả thực khách thấy thế đều cười to lên khiến người chồng của nàng kia cũng ngạc nhiên không biết tại sao mọi người lại cười như thế. Tiếp theo trò tặng hoa hồng của mấy anh chàng bồi bàn là những bài hát nhạc dạo của hai chàng ca sĩ ngườiÝ. Lúc chúng tôi đang ngồi chờ những thức ăn khác, có hai thanh niên người Ý bước vào. Anh chàng lớn tuổi hơn thì cầm kèn clarinet, anh chàng nhỏ tuổi hơn cầm đàn guitare. Cả hai vừa đàn vừa hát một bản nhạc của nước Ý. Sau khi họ hát xong chúng tôi vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Nhiều người lấy tiền tặng cho họ. Tôi cũng lấy 5 đô la để sẵn trong túi ra tặng cho họ. Sau đó tôi đề nghị họ hát bài “Torna A Surriento” của nhạc sĩ  người Ý tên là Ernesto De Cutis, tức là bài Come back to Sorrento ( Trở về mái nhà xưa ). Anh chàng lớn tuổi hơn bảo tôi rằng họ không biết bài đó. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chàng ta nói như vậy bởi vì bài này rất phổ biến tại nước Ý và đã ra đời cách đây hơn 100 năm cả thế giới đều biết.Tuy nhiên ba mươi giây sau họ nói với tôi rằng họ đùa chơi vậy thôi, để họ hát cho mà nghe! Có thế chứ ! Tôi liền nhìn anh Bùi Ty ngồi trước mặt rồi nói :

    -Ca sĩ Ý mà không biết bài “Trở về mái nhà xưa” của nhạc sĩ Ernesto De Cutis thì đập vỡ cây đàn guitare đi là vừa Ty há.

    Thế là anh chàng lớn tuổi thổi kèn clarinet trong lúc anh chàng cầm đàn guitare vừa đàn vừa hát bài “Trở về mái nhà xưa” bằng tiếng Ý thật du dương, nhẹ nhàng, thật khoan thai và điêu luyện.

    Hai ca sĩ hát dạo người Ý đang trình diễn

    Lúc tiếng hát vừa dứt anh em vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Sau đó anh chàng lớn tuổi hỏi chúng tôi rằng trong chúng tôi  ai là người biết nhảy đầm, tôi liền chỉ ngay anh chị Bùi Ty ngồi trước mặt tôi. Thế là hai anh chàng này mời anh chị Bùi Ty đứng lên để họ đàn và hát cho anh chị Bùi Ty nhảy. Bài “Besame mucho” nhạc của Mễ tây cơ được hai anh chàng kia chọn để hát  cho anh chị Bùi Ty nhảy. Họ đàn bản nhạc này theo điệu cha cha cha và anh chị Bùi Ty cứ thế nhảy liên tục cho đến hết bài làm cho phòng ăn trở nên vui nhộn khác thường. Sau khi tiếng hát vừa dứt, anh chị Bùi Ty vừa về lại chỗ ngồi  thì ông trưởng đoàn du lịch thừa thắng xông lên rót rượu đỏ trong chai ra hết rồi mời anh chị em cùng nâng cốc chung vui. Sau khi cạn ly, chúng tôi liền có đôi lời từ biệt với nhau rồi tất cả lên xe buýt để về khách sạn nghỉ ngơi, sáng mai chuẩn bị lên đường trở về quê cũ. Theo lời dặn của ông Leung Reddy, trưởng đoàn du lịch, chúng tôi dậy thật sớm và đúng 5:00sáng , chúng tôi lên xe buýt để vào phi trường lên máy bay qua Thụy sĩ. Tại thuỵ sĩ, chúng tôi lại sang máy bay khác để về San Francisco. Sau khi dẫn toán chúng tôi vào phi trường, ông trưởng đoàn từ biệt chúng tôi để về lại khách sạn dẫn toán còn lại vào phi trường một lần nữa vì toán nầy phải qua Luân đôn rồi từ phi trường Heathrow tại Luân đôn, họ sẽ lên máy khác để bay về Los Angeles.

    Lúc máy bay vừa cất cánh bay cao giữa mây trời bát ngát, tôi ngoái cổ nhìn xuống những lâu đài cổ kính, những biệt thự nguy nga của nước Ý mà lòng buồn vời vợi. Mới hôm qua đây, chúng tôi đã vào tham quan những kiến trúc thật tinh xảo, những nhà thờ thật vĩ đại, những công trình xây cất quá công phu và đầy nghệ thuật. Mới hôm qua đây chúng tôi đã cùng nhau chụp biết bao nhiêu tấm hình, quay biết bao nhiêu là phim ảnh khi vào trong toà thánh La mã, khi viếng thăm cổ thành, khi leo lên tháp Pisa, khi ngồi trên thuyền lướt nhẹ trên lạch nước trong thành phố Venice thật nên thơ và dịu hiền. Vậy mà giờ phút này đây tất cả đều xa dần, xa dần , chỉ còn thấy mây trời bay trong nắng. Chuyến du lịch bốn nước Âu châu giờ đây đã chấm dứt sau mười hai ngày phiêu bạt giang hồ để trở về mái nhà xưa, trở về nơi quê cũ . Không có gì thoải mái và tuyệt đẹp bằng quê nhà. Không có gì hiền hoà và ấm cúng bằng nơi ta ở. Bỗng đâu văng vẵng bên tai tôi giọng ca bài “Trở về mái nhà xưa” bằng tiếng Ý của hai anh chàng thanh niên người Ý cầm cây đàn guitare và cây kèn clarinet hát dạo trong đêm tiệc chia tay của chúng tôi ở nhà hàng tại nướcÝ chiều qua:

    TORNA A SURRIENTO

    Vide ‘o mare quant’è bello.
    Spira tantu sentimento,
    Comme tu a chi tiene mente,
    Ca scetato ‘o faie sunnà.
    Guarda, guá, chisto ciardino.
    Siente, sié sti sciure arance,
    Nu profumo accussì fino
    Dinto ‘o core se ne va.

    E tu dice: “Í parto, ađio!”
    T’alluntane a stu core,
    Da sta terra de l’ammore
    Tiene ‘o core ‘e nun turnà?
    Ma nun me lassà,
    Nun darme stu turmiento!
    Torna a Surriento,
    Famme campà!

    Vide ‘o mare de Surriento,
    Che tesoro tene ‘nfunno,
    Chie ha girato tutto ‘o mummo
    Nun l’ha visto comm’a ccà.
    Guarda attuorno sti Sserene,
    Ca te vonno tantu bene
    Te vulessero vasà.

    E tu dice: “Í parto, ađio!”
    T’alluntane a stu core,
    Da sta terra de l’ammore
    Tiene ‘o core ‘e nun turnà?
    Ma nun me lassà,
    Nun darme stu turmiento!
    Torna a Surriento,
    Famme campà!

    Rồi cũng lại văng vẵng bên tai tôi giọng hát của ca sĩ Trần thái Hoà  bài “Trở về mái nhà xưa “ bằng tiếng Việt:

    Về đây khi mái tóc còn xanh xanh.
    Về đây với mầu gió ngày lang thang
    Về đây xác hiu hắt lạnh lùng.
    Ôi lãng du quay về điêu tàn.

    Đâu tiếng đàn ngoài hiên mưa?
    Và đâu bướm tơ, vui cùng mùa?
    Một mùa Xuân mới, mắt êm nắng hào hoa.

    Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan.
    Về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan.
    Về đây nhé! Cắm xong chiếc thuyền hồn
    Ôi thoáng nghe dây lòng tiếc đờn.

    Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh.
    Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh.
    Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh.
    Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn

    Đốt ánh đèn in bóng vào rêu xanh.
    Sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh.
    Và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về
    Đang khóc than trên đường não nề.

    Thôi nhé đừng hoài âm xưa
    Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà
    Người ngồi im bóng
    Lắng nghe tháng ngày qua.

    California, một chiều thu nhạt nắng .

               Dương viết Điền (tháng 10 năm 2007)

                 (Trích từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Âu Châu và Hạ Uy Di” xuất bản năm 2009)

  • DU LICH,  Dương Viết Điền

    Du Lịch Alaska.

    Để quý độc giả khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên khi đọc mục này, tôi chỉ trích những đoạn văn, những hình ảnh quan trọng có ý nghiã cho cuộc du lịch mà thôi. Vì thế cứ mỗi đoạn văn được trích từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Alaska”, tôi đều để ký hiệu ba chấm (. . .) như là để tiếp nối những đoạn văn khác.Vì tác phẩm “ Ký Sự Du Lịch Alaska” dày mấy trăm trang nên không thể đăng hết vào đây được. Mong quý độc giả thông cảm.

    Được biết Alaska là tiểu bang của Hoa Kỳ nằm về phía Tây Bắc của lục địa Bắc Mỹ. Biên giới phía Đông là thị trấn Yukon và tỉnh British Columbia nằm trong lãnh thổ Gia Nã Đại. Phía Bắc giáp Bắc Băng Dương, phía Tây và Nam giáp Thái Bình Dương. Alaska là tiểu bang lớn nhất của Hoa Kỳ. Khoảng một nửa dân số (735.132 người) sống tại thành phố Anchorage. Thủ đô là Juneau. Kinh tế của Alaska chuyên về dầu lửa, hơi đốt và ngư nghiệp. Du lịch cũng chiếm một vị trí quan trọng cho nền kinh tế của tiểu bang này. Mặc dầu hằng ngàn năm trước đây, Alaska do thổ dân nơi đây làm chủ, nhưng từ thế kỷ thứ 18 trở về sau, các cường quốc Âu châu đến đây chiếm đóng để khai thác và buôn bán làm ăn. Hoa Kỳ đã mua Alaska của Đế quốc Nga vào ngày 30 tháng 3 năm 1867 với giá 7.2 triệu dollars, khoảng 2 cent một mẫu Anh ($4.74/km2). Nhiều cơ quan hành chánh đổi thay tại

    xứ này trước khi trở thành lãnh thổ chính thức vào ngày 11 tháng 5 năm 1912. Alaska chính thức được thừa nhận là tiểu bang thứ 49 của Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 1 năm 1959. Một vài sự kiện đặc biệt tại Alaska là nhiều lúc trăng tròn đúng 12 giờ trưa, đúng ngọ. Có khi quá 30 ngày mặt trời không lặn, không có đêm. Tại Ketchikan, mưa quanh năm suốt tháng đúng 365 ngày, và lắm lúc mưa bụi trong nắng gọi là liquid sunshine. Ngoài ra lại có chuyện tuyết ngược nữa: gió thổi mạnh làm tuyết bay lên trời, đến nơi khác tuyết lại rơi xuống đất.

    Để độc giả biết thêm một vài chi tiết nữa về Alaska, tôi xin đăng bài sau đây của Dịch giả Phạm Khánh lấy từ trên mạng:

    “Tại sao Nga lại bán Miếng Đất Vàng Alaska cho Hoa Kỳ ?”

    “Cho đến nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng: Mỹ đã ăn cướp Alaska từ Nga, hoặc chỉ mới thuê lãnh thổ này, mà đến một lúc nào đó sẽ trả lại. Tuy nhiên, sự thật là Nga đã bán Alaska cho Mỹ với giá 7,2 triệu USD vào năm 1867.

    Tờ check được dùng để trả tiền mua Alaska,

    mang mệnh giá 7,2 triệu dollar Mỹ (Source upsieutoc.com)

    Có một điều nhiều người không hiểu là tại sao Nga lại bán miếng đất đầy vàng Alaska cho Mỹ?

    Tờ Russia Beyond the Headlines (RBTH) của Nga đã có một bài phân tích về sự kiện trên.

    * Alaska trước khi bán:

    Trong thế kỷ 19, Alaska của Nga là một Trung tâm thương mại thế giới. Tại thủ phủ Novoarkhangelsk (nay là Sitka) của Alaska, các hoạt động giao dịch diễn ra rất nhộn nhịp với các mặt hàng như: vải Tàu Chệt, trà, và thậm chí là nước đá đông đặc, mặt hàng mà miền Nam nước Mỹ rất cần trước khi phát minh ra tủ lạnh. Ở đây cũng phát triển ngành đóng tàu, và có rất nhiều nhà máy, cũng như rất nhiều mỏ vàng. Do đó, việc bán vùng đất này được coi là một điều điên rồ.

    Các thương nhân Nga kéo tới Alaska để mua ngà hải mã (một loại ngà đắt tiền như ngà voi) và lông rái cá biển có giá trị từ người dân địa phương.

    Các giao dịch thương mại được kiểm soát bởi các Công ty Nga-Mỹ (RAC), do các nhà thám hiểm và doanh nhân Nga thành lập từ thế kỷ 18. Công ty này cũng kiểm soát tất cả các mỏ, và khoáng sản của Alaska. Nó có thể ký hiệp định thương mại với các nước khác một cách độc lập, có lá cờ, và tiền tệ riêng.

    Sa Hòang cấp cho công ty này những đặc quyền trên. Tuy nhiên, chính phủ không chỉ thu các khoản thuế lớn, mà còn làm chủ một phần lớn công ty này – Sa Hòang và các thành viên trong gia đình là cổ đông của RAC.

    Ông đã xây dựng trường học và các nhà máy, dạy dân địa phương cách trồng củ cải và khoai tây, xây dựng pháo đài, và nhà máy đóng tàu, mở rộng các hoạt động buôn bán rái cá biển. Ông yêu mến Alaska không chỉ vì nơi này giúp ông kiếm được nhiều tiền, mà còn bằng tình yêu thực sự nữa.

    Dưới sự lãnh đạo của Baranov, RAC có khoản doanh thu khổng lồ: hơn 1.000% lợi nhuận. Khi Baranov nghỉ hưu, và rời bỏ vị trí của mình, sĩ quan quân đội Hagemeister đã lên thay ông. Hagemeister đã tuyển thêm nhiều nhân viên, và cổ đông mới trong quân đội. Thay vì chú trọng đến việc điều hành và phát triển công ty, ông này lại tìm cách chiếm đoạt lợi nhuận kinh doanh, và chính những hành động đó đã hủy hoại RAC.

    * Lợi lộc bẩn thỉu:

    Ban lãnh đạo mới của công ty này đã tự cho mình mức lương khổng lồ, những nhân viên quản lý thông thường có thể kiếm tới 1.500 rúp mỗi năm (tương đương với mức lương của các Bộ trưởng và các Thượng nghị sĩ), trong khi người đứng đầu của công ty có mức lương tới 150.000 rúp. Họ mua lông thú từ người dân địa phương với giá chỉ bằng một nửa. Kết quả, trong 20 năm sau, người dân ở đây đã giết chết gần như tất cả các con rái cá biển, khiến cho ngành thương mại có lợi nhuận nhất của Alaska bị dập tắt.

    Trước tình hình đó, RAC bắt đầu tìm kiếm các nguồn thu nhập khác. Do đó việc buôn bán đá đông, và trà bắt đầu, nhưng những người lãnh đạo lại không đủ sức điều hành tốt công ty và cũng không bao giờ nghĩ đến việc giảm lương của chính mình. Kết quả, RAC đã phải nhận trợ cấp của nhà nước – 200.000 rúp mỗi năm. Nhưng cuối cùng công ty này cũng bị phá sản.

    Sau đó, Chiến tranh Crimea (1853-1856) nổ ra, Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ cùng chống lại Nga. Với tình huống đó Nga không thể cung cấp cũng như bảo vệ Alaska, vì các tuyến đường biển ở đó đã bị kiểm soát bởi các tàu của quân đồng minh. Thậm chí cũng không thể khai thác vàng ỏ đây. Nga lo sợ rằng Alaska sẽ bị Anh cướp mất, và Nga sẽ chẳng được lợi lộc gì.

    Căng thẳng giữa Moscow, và London tăng lên, trong khi mối quan hệ với các nhà chức trách Mỹ đang êm ấm hơn bao giờ hết. Cả hai gần như cùng có ý tưởng mua bán Alaska.

    Vì vậy Baron Eduard de Stoeckl, phái viên của Nga tại Washington, đã thay mặt Sa Hoàng mở cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Mỹ William Seward.

    * Cờ Nga bị hạ xuống:

    Trong khi hai bên đang đàm phán, dư luận ở cả hai nước cùng phản đối thỏa thuận trên. Các phương tiện Nga tràn ngập những câu hỏi như: “Sao chúng ta có thể từ bỏ vùng đất mà chúng ta đã bỏ rất nhiều công sức và thời gian để phát triển, vùng đất đã có kết nối điện báo, và có nhiều vàng?”. Trong khi truyền thông Mỹ thì phẫn nộ: “Tại sao Mỹ cần vùng đất băng giá đó hả?”.

    Không chỉ có báo chí, Quốc hội Mỹ cũng không chấp thuận việc mua bán này. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những bất đồng đó, ngày 30/3/1867, tại Washington, hai bên đã ký thỏa thuận bán Alaska với diện tích 1,5 triệu ha cho Mỹ với giá 7,2 triệu USD, một khoản tiền được cho là chỉ mang tính tượng trưng.

    alt Ở thời điểm đó, một vùng đất bình thường ở Siberia với diện tích tương tự có thể có giá gấp 1395 lần. Nhưng khi đang phải đối mặt với tình cảnh sẽ bị mất Alaska, mà không kiếm được đồng xu nào, thì có vẻ như việc chấp thuận thỏa thuận trên vẫn là một giải pháp tốt hơn nhiều đối với Nga.

    Việc bàn giao chính thức Alaska cho Mỹ được thực hiện ở Novoarkhangelsk. Những người lính Mỹ và Nga xếp hàng bên cạnh cột cờ, lá cờ Nga bị hạ xuống, và được đánh dấu bằng phát súng đại bác. Sau đó, người Mỹ đã đổi tên thủ phủ Novoarkhangelsk thành Sitka. Hàng trăm người Nga quyết định không lấy quốc tịch Mỹ, đã phải đi khỏi khu vực này bằng tàu buôn.

    Một thời gian ngắn trôi qua, vàng đã bắt đầu được khai thác. Các cơn sốt vàng bắt đầu nổi lên ở Alaska, giúp người Mỹ kiếm được hàng trăm triệu USD”.

    (Phạm Khánh dịch)

    ……Bước ra khỏi phòng Art Gallery là đến phòng trà ngay. Phòng này tương đối đẹp mắt, lãng

    mạn đầy nghệ sĩ tính. Một màn ảnh thật lớn trong phòng để máy chiếu khuếch đại hình ảnh của các nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu nằm trước mặt.Tại đây ban nhạc của du thuyền trình diễn thường xuyên cho du khách đến thưởng thức. Cũng như nhiều show hài hước hay trò chơi cho các trẻ nhỏ để giải trí cho du khách từng giờ.

    Một cầu thang bằng nhôm đã được thiết lập từ phòng nghe nhạc lên tầng trên, để du khách nào

    muốn lên ngồi nghe nhạc trên ấy thì cứ tự nhiên như người Hà nội, với những chậu cây hoa lá cành thật thơ mộng nằm cuối cầu thang. Nhiều cặp tình nhân du khách trẻ tuổi đến đây thấy phòng này có vẻ ấm cúng và lãng mạn nên ngồi nghe nhạc suốt ngà. Họ

    thường ngồi ở tầng trên để vừa nhâm nhi cà phê, vừa nghe nhạc cổ điển Tây phương của Mozart,

    Strauss, Chopin, Bethoveen, Tchaikovsky v.v…, vừa nhìn sóng biển đang xô đuổi nhau giữa lòng đại dương dưới ánh nắng vàng. Lắm lúc có nhiều trò chơi tiêu khiển dành cho giới trẻ, hay hai nhân viên thuộc ngành hoả đầu vụ biểu diễn trên sân khấu làm cho du khách ngồi uống cà phê nơi đây được nhiều phen cười đùa thoả thích. Nhiều lần khán giả vỗ tay hoan hô nhiệt liệt vang dội cả một góc du thuyền. Nhiều du khách khoái chí kêu bia hay rượu uống thay vì gọi cà phê khi thấy hai nhân vật đóng kịch quá hấp dẫn và tài tình.

    Sau khi rời phòng trà để đến những địa điểm giải trí khác, vừa đi khoảng một phút, tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy một cô gái ngồi uống cà phê chỉ một mình thôi giống hệt như chiều hôm qua, khi đi ngang qua đây, tôi cũng thấy cô ta chỉ ngồi một mình.

    Đi du lịch mà thơ thẩn một mình chắc phải có uẩn khúc gì đây về cuộc sống chăng? Hay vì tuyệt vọng về chuyện tình yêu đôi lứa?

    Nói đến tình tuyệt vọng, tôi bỗng nhớ đến bài thơ “Sonnet” của thi sĩ nổi tiếng người Pháp là Alexis Félix Arvers, sinh năm 1805, qua đời năm1850. Ông có xuất bản tập thơ “Mes heures perdues” nhưng ít người biết đến. Thi sĩ Alexis Félix Arvers chỉ nổi tiếng nhờ bài thơ “Sonnet” mà thôi. Nhờ cảm hứng thình lình mà ông ta đã sáng tác nên bài thơ này.

    Thấy cô gái kia buồn bã ngồi nhìn ra biển cả bao la, tôi như cảm thông được chuyện tình buồn vời vợi của nàng, nên vừa đi vừa đọc bài thơ “Sonnet” của thi sĩ Alex Félix Arvers đầy cay đắng, ngậm ngùi. 

    S O N N E T

    Mon âme a son secret, ma vie a son mystère,
    Un amour éternel en un moment conçu.
    Le mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire,
    Et celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.

    Hélas ! J’aurais passé près d’elle inaperçu,
    Toujours à ses côtés et pourtant solitaire.
    Et j’aurais jusqu’au bout fait mon temps sur la terre,
    N’osant rien demander et n’ayant rien reçu.

    Pour elle, quoique Dieu l’ait faite douce et tendre,
    Elle ira son chemin, distraite et sans entendre
    Ce murmure d’amour élevé sur ses pas.

    A l’austère devoir pieusement fidèle,
    Elle dira, lisant ces vers tout remplis d’elle:
    -“Quelle est donc cette femme?” et ne comprendra pas.

                                                                                                                                                                              Alexis Félix Arvers

    TÌNH TUYỆT VỌNG

    Lòng ta chôn một khối tình,
    Tình trong giây phút mà thành thiên thâu.
    Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
    Mà người gieo thảm như hầu không hay.

     
    Hỡi ơi ! Người đó ta đây,
    Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?
    Dẫu ta đi trọn đường trần,
    Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi.

     
    Người dù ngọc nói hoa cười,
    Nhìn ta như thể nhìn người không quen.
    Đường đời lặng lẽ bước tiên,
    Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình.

     
    Một niềm tiết liệt đoan trinh,
    Xem thơ nào biết có mình ở trong.
    Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng :
    -“Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?”


                                     Khái Hưng dịch

    ———————————————————-

    ……..Sau khoảng 30 phút băng qua rừng thưa và nghe cô Teresa giải thích sự hình thành và phát triển của một số loài thảo mộc đặc biệt, đoàn chúng tôi đã đến ven biển nên cô hướng dẫn viên cho đoàn dừng lại. Tại đây, cô Teresa chỉ cho chúng tôi thấy dãy núi bên kia eo biển bị tuyết phủ ngập thường xuyên quanh năm suốt tháng.

    Dưới biển nổi trên mặt nước là những khối băng nho nhỏ nằm trơ gan cùng tuế nguyệt suốt tháng quanh năm và chỉ tan ra khi trời nắng gắt mà thôi. Thấy một khối băng nho nhỏ nằm ngay sát bờ, chúng tôi liền cầm lên quan sát rồi thay nhau chụp hình làm kỷ niệm, bởi mấy khi lên được xứ lạnh cóng triền miên ở tận vùng Bắc cực nầy.

    Cô Teresa cho biết mẩu băng này nằm trơ gan cùng tuế nguyệt giữa đại dương đã 200 năm.

    Sau thời gian băng rừng để nhìn tuyết phủ trên núi, chúng tôi liền theo hướng dẫn viên Teresa băng qua một con đường mòn trong rừng để ra lại bến xe buýt hồi nãy.

    Tại đây, sau khi điểm danh lại số khách du lịch của đoàn chúng tôi, cô Teresa bảo mọi người lên xe và tài xế lái xe trực chỉ đến bờ biển để lên tàu nhỏ ra khơi xem cá voi theo chương trình đã vạch sẵn.

    Khi xe buýt dừng lại, chúng tôi được hướng dẫn đi băng qua một chiếc cầu tương đối ngắn và nhỏ để đến bến tàu.

    Đến bờ biển được khoảng mười lăm phút thì cô Teresa đã liên lạc được ca-nô.

    Thế là chúng tôi nhảy ngay lên ca-nô nho nhỏ và ông tài công cho nổ máy rồi khởi hành ra biển ngay.

    Tàu chạy với tốc độ nhanh làm cho sóng biển rẽ thành hai đường thật đẹp mắt. Trên tàu có một cửa kính được mở ra nên khi có cơn gió thổi mạnh nước biển theo gió tạt vào trong tàu làm ướt áo vài du khách ngồi xem sóng biển. Cô Teresa đứng ngay bên người tài công, vừa nhìn du khách, vừa giải thích và trình bày về địa điểm cũng như thời gian cá voi xuất hiện cho du khách biết. Lại chỉ có một du khách nho nhỏ có đầu óc thích tìm tòi, học hỏi và đam mê những điều mới lạ, nhất là bầy cá voi đang quậy trước cảnh đại dương bao la bát ngát, nên đã liên miên hỏi hướng dẫn viên Teresa về những điều cậu ta muốn biết. Đó là cậu David Châu, 8 tuổi, du khách đã chất vấn cô ta trong rừng thưa mấy giờ trước đây cả đoàn ai cũng biết. Dĩ nhiên cô Teresa cảm thấy rất thích thú khi có người nêu câu hỏ

    Vì thế cô ta nhất định làm vừa lòng cậu du khách nho nhỏ này bằng cách từ từ trả lời những câu hỏi của cậu David Châu để làm cho cậu ta thoả mãn. Một du khác người ngoại quốc ngồi bên tôi khi thấy cậu nho nhỏ này cứ hỏi cô Teresa mãi cũng có vẻ thích thú nên nhìn tôi mỉm miệng cười hoài. Bỗng mọi người trên ca-nô la lên rồi chồm về mạn tàu bên phải để nhìn khi thấy mấy con cá voi nhảy lên trên không, lượn vòng đùa giỡn rồi lặn chìm lại xuống biển. Nhìn mấy con cá voi đang đùa giỡn trong nắng giữa biển cả bao la, tôi chợt nhớ đến một bài thơ mang tựa đề “What Whales and Infants Know” của Thi Sĩ Kim Cornwall sáng tác năm 2012:

    What Whales and Infants Know (Kim Cornwall)                                                                                                                                          

    A beluga rising from the ocean’s muddy depths
    reshapes its head to make a sound or take a breath.

    I want to come at air and light like this,
    to make my heart
    a white arc above the muck of certain days,
    and from silence and strange air

    send a song

    to breach the surface
    where what we most need lives.

    Tạm dịch:

        Cá voi mẹ và con

    Một con cá voi

    nhô đầu lên từ lòng đại dương

    tạo lại hình dáng của chiếc đầu

    rồi phát thành tiếng kêu

    hay là đang thở.

    Tôi muốn đến giữa lòng đại dương

    đầy ánh sáng như thế này,

    để cho tâm hồn mình

    được uốn lượn

    thành hình cung màu trắng

    một vài ngày,

    từ sự tĩnh lặng

    và bầu không khí lạ thường

    gởi một bản tình ca

    làm rối bời

    khuôn mặt đại dương

    Nơi đây chúng ta cần sự sống.

    Tung tăng trên mặt nước, khi thì chúng đùa giỡn bên phải, khi thì chúng giỡn đùa bên trái. Tùy theo vị trí cá voi xuất hiện, người tài công cho tàu quay qua quay lại để du khách nhìn được dễ dàng. Vì tàu quay qua, quay lại, quay tới quay lui nên bị chóng mặt rồi say sóng vì chưa bao giờ đi biển cũng như tuổi còn quá nhỏ dại nên cậu David Châu, người thường xuyên làm cho cô Teresa có việc làm, đã phải đến nằm kê đầu vào bố nình vì cảm thấy buồn nôn.

    Du khách trên tàu vẫn mỏi mắt nhìn ra khơi. Nếu người nào thấy cá voi xuất hiện ở đằng xa thì chỉ tay cho mọi người trên tàu cùng xem. Bỗng tàu di chuyển qua lại gần mấy thùng màu đỏ làm mốc định vị cho tàu bè đi ngang qua biết, chúng tôi thấy hai con cá voi đang nằm trên mấy thùng màu đỏ đó thật vui mắt.

    Sau hơn một tiếng đồng hồ nhìn mấy con cá voi đùa giỡn trên biển, hướng dẫn viên Teresa báo cho ông tài công đã đến lúc rời địa điểm để trở lại du thuyền Norwegian Pearl dùng cơm trưa.

    Cũng như thường lệ, mỗi lần dùng điểm tâm hay cơm trưa, tối, chúng tôi thường lên tầng 12 theo thói quen, ít khi đi địa điểm khác. Cứ mỗi lần du khách bước vào phòng ăn là có nhân viên của du thuyền đứng chờ sẵn trước cửa để xịt thuốc (alcohol) vào tay du khách hay trao một miếng giấy ẩm ướt cho du khách lau tay để khử trùng. Trưa ấy tôi tách khỏi gia đình để đi trước lên phòng ăn. Khi vừa bước vào phòng, tôi thấy một thanh niên đang đứng đánh đàn guitare ngay cửa ra vào để đón chào du khách vào dùng cơm trưa.

    Chàng ta vừa đàn vừa hát, bên cạnh là một nữ nhân viên đứng cầm bình xịt alcohol để khử trùng hai bàn tay cho du khách.

    Một du khách đang vỗ tay bên cạnh chàng guitarist Nhìn chàng thanh niên vừa đàn vừa hát làm cho một du khách vốn là một nghệ sĩ, cảm thấy hân hoan trong lòng nên anh du khách này liền mượn cây đàn guitare và cũng đứng ngay cửa ra vào, rồi vừa đàn vừa hát bản nhạc “ L’amour c’est pourrien” của Enrico Macias cho các du khách khác trên du thuyền Norwegian Pearl vào dùng cơm trưa nghe.

    Một du khách mượn đàn để vừa đàn vừa hát bản nhạc L’amour, C’est pour rien.

       
    Một du khách mượn đànđể đàn bản nhạst pour rien   
    Một du khách mượn đànđể đàn bản nhạc“L’amour c’est pour rien”   

    L’amour c’est pour rien(Enrico Macias)

    Comme une salamandre, l’amour est merveilleux
    Et renait de ses cendres comme l’oiseau de feu,
    nul ne peut le contraindre
    Pour lui donner la vie.
    et rien ne peut l’eteindre                                
    Sinon l’eau de l’oubli.
    L’amour, c’est pour rien.
    Tu ne peux pas le vendre.
    L’amour, c’est pour rien.
    Tu ne peux l’acheter.
    Quand ton corps se revelille,
    Tu te mets a trembler.
    Mais si ton coeur s’eveille,
    Tu te mets a rever.
    Tu reves d’un echange avec un autre aveu,
    Car ces frissons etranges
    Ne vivent que par deux.
    L’amour, c’est pour rien.
    Tu ne peux pas le vendre.
    L’amour, c’est pour rien.
    Tu ne peux l’acheter.
    L’amour, c’est l’esperance,
    Sans raison et sans loi.
    L’amour comme la chance
    Ne se merite pas.
    Il y a sur terre un etre
    Qui t’aime a la folie,
    Sans meme te reconnaitre
    Pret a donner sa vie.
    L’amour, c’est pour rien.
    Tu ne peux pas le prendre.
    L’amour, c’est pour rien.
    Mais tu peux le doner.
    L’amour, c’est pour rien.
    L’amour, c’est pour rien.

    Tình cho không biếu không  (Phạm Duy)

         

    Ngon như là trái táo chín
    Thơm như vườn hoa kín
    Mong manh như dây tơ chìm
    Nhẹ êm như là mây tím.

    Tình là rất cao mù khơi
    Tình là thấp như biển vơi
    Tình tỏa khắp, khắp cuộc đời
    Đi bao la khắp nơi nơi…

    Tình cho không, biếu không
    Ân tình ai cũng cho được nhiều.
    Tình cho không, biếu không
    Chớ nên mua bán tình yêu.

    Khi em mơ niềm yêu dấu
    Em run như là tơ liễu
    Khi con tim em xoay động
    Và tình yêu vừa lên tiếng

    Tình cần có hai lời ca
    Tình là bãi khô cần mưa
    Diều chờ gió dong ngoài trời
    Đêm khuya mong sáng yên vui.

    Ta yêu nhau là mong nhớ
    Không băn khoăn hoặc suy nghĩ
    Như say mê như hi vọng
    Tình yêu như là may mắn.
    Tình là mắt ta vừa che
    Tình là biết yêu người xa
    Người tình vẫn nhớ mong dù
    Ta không quen biết bao giờ.

    Tình cho không không thiếu
    Không bán mua tình yêu!

    Sáng ngày 20 tháng 6 năm 2015, như thường lệ, chúng tôi đến phòng điểm tâm để ăn sáng. Hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc du ngoạn nên chúng tôi đành phải từ giả Alaska để trở lại “quê nhà” ở California. Thế nên chúng tôi chẳng có gì phải bận rộn như những ngày qua, vì phải vội vàng theo chân các hướng dẫn viên để đi xem danh lam thắng cảnh. Lúc còi tàu hú vang rền và nhổ neo rồi lướt sóng đại dương để về bến cảng Seattle, chúng tôi ngồi nhìn phố xá của Alaska mà lòng buồn vời vợi, vì phải xa cách xứ sở của băng hà tuyết trắng, của sóng biển dạt dào giữa đại dương bao la bát ngát mà mới hôm qua đây, chúng tôi đã ngụp lặn và đắm chìm trong hạnh phúc và tràn đầy niềm vui của mấy ngày du ngoạn tại Alaska, và trên du thuyền Norwegian Pearl ở tận cực Bắc của địa cầu. Ngồi dùng điểm tâm sát bên cửa kính trên du thuyền, tôi đưa tay vẫy chào lần cuối bến cảng ở Alaska và thấy bến cảng xa dần, xa dần rồi mất hẳn ở tận chân trời đầy tuyết trắng.

    Hình chụp từ trên du thuyền lúc tàu nhổ neo rời bến cảng

    Lúc chiếc du thuyền ra giữa đại dương tràn ngập ánh bình minh đẹp tuyệt trần, tôi vẫn còn nhìn về phía chân trời xa vời vợi, nơi có dãy băng hà phủ cả một góc trời suốt tháng quanh năm và mãi mãi trơ gan cùng tuế nguyệt.

    Bất giác tôi ngâm bài thơ “Alaska Trắng” của Thi Sĩ Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang đăng trong bài “Mười Điều Về Alaska, Đất, Mặt Trời Nửa Đêm”của chính tác giả, như để tiếc nuối thời gian du ngoạn quá ngắn ngủi ở xứ tuyết trắng băng hà nầy.

    ALASKA TRẮNG

    Yêu em trắng dải băng hà,

    Trắng từ thiên cổ, trắng già muôn năm.

    Yêu em trăng ngọ (1) rất rằm,

    Muôn đom đóm tuyết (2) chỗ nằm đùa chơi.

    Bắc quang nhẩy múa rạng ngời (3),

    Hoàng hôn khuya tím, mặt trời nửa đêm (4).

    Yêu em. Gió cứng. Bão mềm,

    Sương treo. Nắng lỏng (5). Mây chìm. Khói hoang.

    Yêu em. Tuyết ngược. Mưa ngang (6).

    Bỏ thôi, hạ giới (7), nhân gian hồ đồ.

    Đời ta trắng Eskimo,

    Nghìn thu trang sử cột-thờ-totem (8).

    Bao la riêng của anh, em.

    * Ghi Chú (của Thi Sĩ Nguyễn Xuân Quang)

    (1) Trăng ngọ: ở Alaska có ngày trăng tròn như trăng rằm còn thấy vào lúc đúng ngọ, giữa trưa.

    (2) Những tinh thể tuyết lóng lánh như muôn ngàn đom đóm tuyết bay lượn.

    (3) Bắc quang là áng sáng Bắc  (aurora borealis, Northern lights)

    (4) Ở Alaska có khi quá nửa đêm mặt trời mới lặn. Có chỗ có khi hơn ba mươi ngày mặt trời không lặn, không có đêm, lúc đó một ngày ở đó dài hơn ba mươi ngày «hạ giới».

    (5) Nắng lỏng:ở Ketchikan một năm gần 360 ngày mưa,  có năm độ mưa lên tới 3.900 mm. Mưa bụi hay giọt bụi nắng, mưa trong nắng gọi là ‘liquid sunshine’.

    (6) Tuyết ngược: gió hất tung tuyết từ mặt đất lên trời mang đi chỗ khác rơi xuống thành tuyết ngược.

    Mưa ngang: gió trên Bắc Cực thổi tạt ngang bưng những trận mưa từ phương xa lại tạo thành những trận mưa ngang.

    (7) Dân Alaska gọi những người Mỹ ở 48 tiểu bang phía dưới là «dân 48 miệt dưới» (lower 48), hạ giới.

    (8) Cột thờ totem có một khuôn mặt dùng ghi lại lịch sử, truyền thuyết, tình sử…

    (Trích từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Alaska” xuất bản năm 2015).

     Dương viết Điền

  • DU LICH,  KÝ SỰ

    DU LICH PHI CHÂU

    Châu Phi: South Africa, Zimbabwe và Boswana từ ngày 28/8 – 13/9/2023 với công ty du lịch Exoticca.

    1.  South Africa: 

                 South Africa còn được gọi là Cộng hòa Nam Phi, nằm ở phía nam châu Phi.  Thường mỗi quốc gia chỉ có một thủ đô nhưng Nam Phi có ba thủ đô: Pretoria – thủ đô hành chính (administrative capital), Cap Town – thủ đô lập pháp (legislative capital) và Bloemfontein – thủ đô tư pháp (judicial capital).  Chưa kể Johannesburg tuy không chính thức nhưng cũng được mệnh danh là “thủ đô kính tế”…  South Africa nổi tiếng với sự đa dạng về văn hóa, thiên nhiên, lịch sử và có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như Johannesburg, Cap Town, Kruger National Park….

           Khởi hành từ phi trường Los Angelos, CA và sau gần 30 tiếng ngừng, nghỉ và chuyển máy bay ở London, chúng tôi đã đến thành phố Johannesburg, South Africa, được đưa về ăn tối và ngủ qua đêm ở khách sạn Garden Court.  Sáng hôm sau, chúng tôi được xe của công ty chở đi Mpumalanga để thăm Kruger National Park.  Chuyến đi này hơn 7 tiếng đồng hồ, dọc đường nghỉ ăn trưa và thăm ba thắng cảnh nổi tiếng thu hút nhiều du khách yêu vẻ đẹp thiên nhiên: Blyde River Canyon, Three Rondavels và God’s Window.

    –  Blyde River Canyon: là một trong những thung lũng với hẻm núi đẹp và lớn nhất trên thế giới, nằm ở tỉnh Mpumalanga, South Africa.  Hẻm núi này có độ dài khoảng 25 km và được tạo ra bởi sông Blyde River, cung cấp cảnh quan đẹp tuyệt vời với những vách đá đỏ và cây cỏ xanh mướt.  Dọc theo đường đi là những điểm đẹp nổi tiếng như Three Rondavels, God’s Window…

    –  Three Rondavels: là ba đỉnh đá đặc biệt có hình dáng giống với các lều tròn truyền thống của người Bantu, gọi là “rondavels”.  Từ đỉnh cao này, chúng ta có thể thưởng ngoạn toàn cảnh tuyệt đẹp của thung lũng và sông Blyde.

    –  God’s Window (Cửa Sổ của Thượng Đế): là một địa điểm gần với Blyde River Canyon, nổi tiếng với khung cảnh tuyệt mỹ của sự hoang sơ và đa dạng trong thiên nhiên.  Từ God’s Window, chúng ta có thể nhìn thấy những dãy núi, khe núi và rừng rậm trải dài đến tận chân trời, tạo nên một cảm giác như đang đứng trước một cửa sổ thiên đàng.

           Chúng tôi đến Ingwenyama Resort vào lúc chạng vạng tối, sau khi về phòng, tắm rửa, chúng tôi đã có một bửa tối buffet thật ngon.   

           –  Ingwenyama Conference & Sport Resort:  ở thành phố nhỏ White Water trong tỉnh Mpumalanga, cách Johannesburg khoảng 5 tiếng và Kruger National Park 45 phút lái xe.  Đây là khu nghỉ dưỡng yên tĩnh, đẹp trang nhã, lịch sự, thức ăn ngon.  Chúng tôi sau khi thăm viếng Kruger Natonal Park đã có một ngày nghỉ nhàn hạ và chụp nhiều hình kỷ niệm ở resort này.

          –  Kruger National Park, South Africa: là một trong những công viên quốc gia hàng đầu của Nam Phi và cũng là một trong những khu bảo tồn động vật hoang dã lớn nhất trên thế giới, nơi du khách có thể trải nghiệm các chuyến safari thú vị và khám phá vẻ đẹp thiên nhiên cũng như có cơ hội thấy nhiều loại động vật hoang dã, bao gồm cả “Big Five” (sư tử, voi, trâu nước, báo, tê giác).  Những con thú hoang này thường đi ra ngoài vào sáng sớm hay chiều muộn nên chúng tôi đã phải dậy sớm đi từ 5 giờ sáng.  Rất may mắn trong chuyến safari này, chúng tôi đã thấy được nhiều thú hoang trong đó có voi, trâu rừng, báo, ngựa vằn, nai, hươu, linh dương, chó sói, khỉ đột, hươu cao cổ, heo rừng, gà rừng, diều hâu và nhiều loại chim khác…  Đặc biệt trong chuyến đi này, chúng tôi đã nhìn thấy một con báo từ xa và một con nai đã bị con báo bắt ăn thịt và treo xác trên một cành cây để dành ăn dần…

           Sau ba ngày ở Ingwenyama Resort, chúng tôi lên xe bus về lại phi trường Johannesburg để bay đi Cap Town.  Trên đường ra phi trường Johannesburg, chúng tôi đã ngừng lại thăm thành phố Pretoria.

    –  Pretoria:  là thủ đô hành chính của Nam Phi, thường là nơi làm việc của Tổng Thống, nằm ở phía bắc Nam Phi.  Pretoria là một trung tâm về văn hóa, chính trị và giáo dục, nổi tiếng với kiến trúc đa dạng và vị trí lịch sử quan trọng.  Pretoria còn là quê hương của loài phượng tím nở rộ vào cuối tháng 10, nhuộm tím cả thành phố lãng mạn cổ kính.  Nếu Johannesburg sầm uất, hối hả và ngột ngạt thì Pretora ngược lại – có phần chậm rãi và yên tĩnh, cho chúng ta một cảm giác thanh bình êm ả.

            Chuyến bay dài hơn 2 tiếng đã đưa chúng tôi từ phi trường Johannesburg đến Cap Town lào lúc 8 giờ tối, sau đó được đưa về khách sạn Cresta Grande nằm giữa trung tâm thành phố.  Sau một ngày dài mệt mỏi, chúng tôi đi ngủ sớm sau khi dùng cơm tối ở khách sạn.  Sáng hôm sau, chúng tôi bắt đầu đi thăm và khám phá Cap Town, một thủ đô của Cộng hòa Nam Phi từ lâu tôi đã được nghe danh nhưng mãi đến bây giờ mới có dịp viếng thăm và thấy thành phố này quả thực rất đẹp, văn minh, sạch sẽ (đặc biệt các toilet ở phi trường, sạch sẽ nhất trong những toilet trên thế giới nơi tôi từng đến)  và người dân hiền lành, lịch sự và tốt bụng hơn trong trí tưởng tượng của tôi nhiều.  Chúng tôi đã dùng phương tiện Hop-on Hop-Off Tour bus để đi thăm toàn cảnh Cap Town, đặc biệt ghé thăm những nơi nổi tiếng như Victoria & Alfred Waterfront Marina, Signal Hill, Kirstenbosch National Botanical Garden, Table Mountain, Chapman’s Peak Drive, Boulder Beach, Cape of Good Hope…, tất cả mọi nơi đều để lại cho chúng tôi những ấn tượng tuyệt đẹp.

     –  Cap Town: thủ đô lập pháp và là thành phố lớn nhất của Nam Phi, nằm ở cực Nam của châu Phi, nơi biển Đại Tây Dương và biển Ả Rập gặp nhau.  Vị trí này tạo nên một cảnh quan hùng vĩ với dãy núi nổi tiếng như Table Mountain và 12 Apostles nằm bên cạnh biển xanh biếc, những bãi biển tuyệt đẹp như Camps Bay và Cliffton Beach với bãi cát trắng mịn.  Thành phố này có một kiến trúc, lịch sử và văn hóa đa dạng, thể hiện qua nghệ thuật, âm nhạc và ẩm thực đa quốc gia.  Đây là một nơi đến tuyệt vời cho những ai muốn khám phá vẻ đẹp và văn hóa của Nam Phi.

    –  Victoria & Alfred Waterfront Marina:  là hải cảng đẹp với nhiều trung tâm thương mại và vui chơi hàng đầu của Cap Town, nơi du khách có thể mua sắm, ăn ngon, thăm bảo tàng viện, dạo chơi, ngắm hải cẩu phơi mình trên bờ trong nắng ấm hoặc đi du thuyền ngắm toàn bộ thương cảng rất đẹp.

    –  Signal Hill: nằm cạnh núi Table Mountain, là nơi du khách và dân địa phương thường đến để ngắm cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp và bắn pháo hoa vào mùa lễ hội.  Đỉnh đồi này có một bảo tàng quân sự và nhiều pháo cổ điển, từng được sử dụng để phát tín hiệu giao thông và báo hiệu thời tiết cho thủy thủ đoàn.

    – Kirstenbosch National Botanical Garden:  nằm dưới chân núi Table Mountain, là một trong những vườn bách thảo quốc gia đẹp nổi tiếng nhất thế giới với trên 7,000 đủ loại thực vật bản địa được trồng trong khu viên rộng 36 hecta này.  Chúng tôi đã có một buổi sáng thư giản yên bình đi trên những con đường mòn ngắm cây cảnh và nghe nhiều tiếng chim hót líu lo.

    –  Table Mountain: là một đỉnh núi nổi tiếng tại Nam Phi, nằm ở trung tâm của Cap Town, có thể nhìn thấy được gần khắp mọi nơi ở Cap Town.  Nó được gọi là “Table Mountain” (Núi Bàn) là do hình dạng phẳng đỉnh của nó, trông giống như một tấm bàn lớn đặt ngang.  Table Mountain có độ cao khoảng 1,085 m trên mực nước biển và từ đỉnh núi, có thể nhìn thấy cảnh quan của cả thành phố Cap Town và vịnh Table Bay tuyệt đẹp.  Để lên đến đỉnh Table Mountain, chúng tôi đã dùng hệ thống cáp treo hiện đại.  Nhưng chẳng may khi lên được đến đỉnh, nhìn xuống dưới chúng tôi chẳng thấy được gì vì lúc đó mây và sương mù bao phủ chung quanh, gió thổi mạnh và trời rét buốt nên chúng tôi chỉ chụp hình loanh quanh rồi một tiếng sau, vội vàng theo cáp treo xuống núi.  

    –  Chapman’s Peak Drive:  là một trong những con đường ngắn, 9 km, ngoạn mục nhất ở South Africa, nổi tiếng với  các khúc cua quanh co và các chỗ dừng xe vị trí tuyệt vời để ngắm cảnh biển và núi.

    –  Boulders Beach: là bãi biển ở Simon’s Town, phía nam Cap Town, nơi sinh sống của một loài chim cánh cụt đặc biệt, được gọi là African Penguin hoặc Cape Penguin.

    –  Cap of Good Hope: nằm ở phía nam của bán đảo Cap Peninsula, là một biểu tượng của South Africa, nổi tiếng với việc có một bảo tàng và những con sóng mạnh mẽ của Đại Tây Dương gặp nhau với biển Ấn Độ Dương, được nhiều du khách viếng thăm và chiêm ngưỡng khung cảnh biển cả và các vách đá cao và đồng cỏ xanh tuyệt đẹp.

          Sau 3 ngày 4 đêm ở Cap Town, chúng tôi đáp chuyến bay đế́n thăm một nước khác ở châu Phi:  Zimbabwe.

    2.  Zimbabwe:

               Zimbabwe là một quốc gia không giáp biển, nằm ở phía Bắc của South Africa, giữa hai nước South Africa và Zambia, thủ đô là Harare và có khoảng 15 triiệu dân, tiếng Anh là ngôn ngữ chính.  Zimbabwe nổi tiếng với Hwange National Park và Victoria Falls, có di sản văn hóa và lịch sử phong phú.  Đất nước tuy có nhiều tài nguyên nhưng chưa được phát triễn, phần đông dân chúng sống trong cảnh đói nghèo.

          Chúng tôi đến phi trường Victoria Falls Airport của nước Zimbanwe  vào khoảng 1:30 pm, được đưa về ở  tại Nguni Lodge, cách phi trường không xa, rất xinh xắn, thơ mộng với những mái nhà lợp tranh, hồ bơi và cây cảnh xanh mát chung quanh.  Chúng tôi chỉ ở đây có 1 ngày 2 đêm nhưng cũng đã xem được những cảnh đẹp nổi tiếng và có những kỷ niệm vui, buồn lẫn lộn.

    –  Sunset Cruise on the Zambezi River:  chúng tôi đã có một buổi chiều tuyệt vời khi đi trên chuyến du thuyền ngắm hoàng hôn trên sông Zambezi, một trong những con sông lớn nổi tiếng nhất châu Phi.  Chúng tôi đã uống rượu vang, thưởng thức những món khai vị bản xứ thật ngon, chiêm ngưỡng mặt trời lặn trên sông tuyệt đẹp và ngắm những con cò trắng, hươu, nai, voi, cá sấu, hà mã ngâm mình trong nước, phơi mình trong nắng hoặc lang thang trên cánh đồng hoang…

    –  Victoria Falls: thác nước lớn nhất thế giới có chiều rộng khoảng 1.7 km và chiều cao khoảng 108 m (Niagara Falls rộng khoảng 1.6 km va cao 51 m), nằm ở biên giới giữa Zimbabwe và Zambia, phía Nam của châu Phi.  Thác Victoria được hình thành bởi nước sông Zambezi cung cấp, từ độ cao 108m đổ thẳng xuống một phiến đá lớn.  Kẽ nứt được hình thành rộng khoảng 1.7 km.  Từ đó nước sông bị hẫng nên tạo thành một thác nước vô cùng thú vị.  Cảnh đẹp ấn tượng này được một nhà thám hiểm người Scotland tên David Livingstone tìm ra vào ngày 16/11/1855.  Thác được lọt vào danh sách Di sản thế giới, 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất.

    – Kituso Primary School & Village: không nằm trong chương trình du lịch, chúng tôi yêu cầu được đi thăm một làng quê để tìm hiểu đời sống của người dân ở đây và được người tour guide đưa đi thăm trường tiểu học Kituso và một làng quê cách Victoria Falls khoảng 10 phút lái xe.  Nói là “trường” nhưng thật ra đó là hai phòng nhỏ lợp mái tôn, trong lớp chỉ có hai cái bàn và vài ba cái ghế, các em bé thay phiên nhau ngồi đọc, viết ở bàn.  Hôm chúng tôi đến thăm trúng vào ngày Thứ Bảy, trường nghỉ học nhưng vì được tin có du khách đến thăm nên cô giáo và các phụ huynh đã mang con em ̣mặc đồng phục đến trường, khoảng độ 30 em, tất cả ngồi ở sân đất sau trường, dưới bóng cây, chờ chúng tôi thăm viếng.  Nhìn cảnh thiếu thốn của trường và các em, chúng tôi không khỏi xót xa và mọi người chúng tôi đã đóng góp ít nhiều giúp đỡ trường và mua quà bánh cho các em.

           Rời trường, chúng tôi được đưa đến một làng nhỏ kế bên gồm 5,6 căn nhà cho 37 người dân ở đó.  Một cô bé 14 tuổi và người mẹ được cử làm đại diện tiếp đón chúng tôi.  Chúng tôi được cho biết làng không có điện, nước, người dân phải đi khiêng nước cách làng vài ba cây số.  Nguyên cả làng chỉ có một cái bếp, một phòng chứa đồ ăn và tất cả mọi người trong làng tụ tập nơi đây để nấu nướng, ăn uống chung với nhau.  Họ chỉ có ăn ngày hai bửa, sáng và chiều, thức ăn thường là những loại ngũ cốc địa phương nấu loãng như cháo, hiếm khi có rau trái, thịt thà trung bình 1-2 lần một tuần. Làng không có trường trung học, được cô bé kể phải đi bộ 5 km mới đến trường, trưa nhịn đói…

           Chúng tôi ra về sau khi biếu một ́it tiền, lòng bồi hồi thương xót cảnh nghèo khó của dân làng ở đây cũng như của phần đông dân chúng trong xứ sở này và không khỏi liên tưởng cảnh nghèo khổ thiếu thốn tương tự ở những làng quê VN…

           Hôm sau, sau khi ăn sáng, chúng tôi lên xe van đi mất hơn một tiếng, băng qua biên giới đến thành phố giáp ranh Kasane, ở hai đêm tại Chobe Safari Lodge nằm bên bờ sông Chobe nổi tiếng để thăm nước láng giềng: Botswana.

    3. Botswana:

               Botswana là một quộ́c gia không giáp biển, nằm ở phía Bắc của South Africa và giáp ranh với bốn nước Namibia, Zimbabwe, Zambia và South Africa, thủ đô là Gaborone và có khoảng 2.3 dân, ngôn ngữ chính là tiếng Anh. Botswana, trù phú hơn Zimbabwe, có một nền kinh tế mạnh mẽ, chủ yếu là khai thác mỏ kim cương và du lịch, nổi tiếng với động vật hoang dã và một trong những nơi thu hút khách du lịch hàng năm này là Chobe National Park.

    –  Chobe National Park:  nằm ở phía Bắc của Botswana, gần biên giới với South Africa, Zimbabwe và Zambia và là công viên quốc gia lớn thứ ba ở Botswana, lấy tên từ con sông Chobe, chảy dọc theo ranh giới phía Bắc của công viên.  Chobe National Park nổi tiếng khắp thế giới về sự đa dạng của động vật hoang dã, bao gồm cả “Big Five”.  Cũng như chuyến safari ở Kruger National Park, South Africa chúng tôi ra đi từ lúc 5 giờ sáng, khi chưa rạng đông, trời lạnh như cắt và mỗi người trong xe được phát cho một cái mền quấn người cho ấm.  Loài  thú chúng tôi nhìn thấy đầu tiên là voi, rất nhiều voi, đi từng đàn, nhìn những chú voi con đi sát cạnh mẹ thấy thật thương và cảm độ̣ng.  Đang mãi ngắm voi thì người tài xế nhận được tin có hai con báo, ông ta bảo chúng tôi

    ngồi cẩn thận và chạy xe thật nhanh đến đ̣ịa điểm đó vì sợ đến chậm hai con báo bỏ đi mất.  Ông chạy xe như bay trên những con đường mòn hẹp, lắm lúc cán trên những bụi cây để đi và đây là lần đầu tiên tôi thấy sự lợi hại của four-wheel drive… Khi đến nơi thì đã có mười mấy chiếc xe chen chúc ở đó để mọi người nh̀ìn ngắm hai con báo trong rừng, một con trên cành cây đang ăn thịt một con nai, một con dưới đất, cách xa mọi người khoảng 300 m.  Tôi đã phải vất vả lắm mới nhìn thấy chúng vì quá xa và hình dáng chúng lẫn vào cây rừng, may mà máy ảnh tôi có ống kính dài nên tôi mới có thể trông thấy và chụp hình hai con báo đó.  Hôm đó chúng tôi cũng đã nhìn thấy nhiều thú vật hoang dã, có lẽ còn nhiều hơn ở Kruger National Park, như hươu, nai, ngựa vằn, voi, cá sấu, linh dương, heo rừng, khỉ, trâu nước, gà rừng, ngựa vằn, hươu cao cổ… và nhiều loại chim đặc biệt.  Chỉ tiếc là trong chuyến đi này chúng tôi đã không nhìn thấy sư tử và tê giác là hai loài thú ngày càng hiếm hoi trên thế giới.

    –  Sunset Cruise on the Chobe River:  Buổi chiều chúng tôi ̣đi du thuyền để ngắm mặt trời lặn đẹp tuyệt vời trên sông Chobe, một trong những con sông nổi tiếng nhất châu Phi.  Con sông này là nhịp tim của cả khu vực, tạo thành môi trường sống lý tưởng cho vô số động vật phụ thuộc vào nước, trong đó có hà mã, cá sấu…  Trong chuyến cruise này chúng tôi đã thấy nhiều nai, cá sấu, heo rừng, trâu nước, hà mã, nhiều loại chim và nhất là voi, đặc biệt là cảnh đàn voi lội qua sông thật ngoạn mục, voi con dùng vòi quấn đuôi voi mẹ thấy thật thương và cảm động.

              Buổi cơm tối tại Chobe Safari Lodge, tôi đã có dịp thưởng thức món  đuôi cá sấu rất ngon mềm và những món ăn địa phương khác cũng thật ngon.  Hôm sau chúng tôi được chở ra phi trường Victora Falls để bay đến Johannesburg, rồi từ Johannesburg đến London và từ London về lại Los Angelos, một chặng đường dài gần 30 tiếng, kết thúc một chuyến đi thăm châu Phi thật thú vị với những kỷ niệm tuyệt vời khó quên.

    Xin mời quí Thầy Cô, quí anh cḥi và các bạn cùng PL đi thăm vài nước châu Phi qua hình ảnh cho vui.

    https://photos.app.goo.gl/xZNwRqb5qpSA91UFA

    Kính chúc sức khỏe và an lành.

    Thân kính,

    PLang

    Phan Lang