• Khánh Lan,  NGHIÊN CỨU,  Văn Thơ

    Tình bạn tri kỷ, tâm giao … dư âm hoài niệm tại Từ Mai Gia Trang (GS Trần Huy Bích)

    Khánh Lan

    Theo danh nhân thi ca Kahlil Gibran (1883-1931), thi sĩ và họa sĩ người gốc Lebanese (Li-băng), được xem như một trong các đạo sư vĩ đại của thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông chứa đựng những thông điệp cao cả, nhất quán và vượt thời gian về một thế giới đại đồng, tôn giáo hòa đồng, tình huynh đệ, một tình thương vĩnh hằng nối kết con người với nhau trong tình yêu thương nhân loại từ Thượng đế giữa một trần gian hiệp nhất với không gian. Do vậy, Ngôn sứ (prophet), được hiểu như một sứ giả chuyển giao một thông điệp bằng ngôn từ…” Về Tình bạn.”

    Một người tuổi trẻ thưa, Hãy nói cho chúng tôi về tình bạn và Gibran đáp lại rằng:”Người bạn là những cần thiết của các bạn được đáp ứng”.

    Phải chăng,Giáo sư Từ Mai Trần Huy Bích chính là cánh đồng bao la với con tim vĩ đại và Từ Mai Trang là điểm hẹn để các bạn gieo hạt yêu thương và sẽ gặt hái tình bạn chân thật với lòng biết ơn người đã vun tưới nó …

    Cánh đồng Từ Mai Trang là bàn ăn đầy ắp thực phẩm và cái lò sưỡi kia là nơi ấp áp trong mùa đông lạnh giá. Đến gia trang của Thày Từ Mai Huy Bích hẳn các bạn đã tìm đến nơi tràn ngập sự bình an. Các bạn ơi, bạn có biết, bạn đã tìm đến một nơi để nghe thông điệp ngôn sứ của Thày Từ Mai Huy Bích về thế nào là tình bạn thực sự. Xin thưa rằng khi bạn đến với Từ Mai Gia Trang là bạn đã nghe The Prophet, một danh tác về tình bạn của cụ Khalil Gibran, giáng cơ qua Thày Từ Mai Trần Huy Bích.

    Tình Bạn và thi ca

    Một thi tác, bài thơ “The Pleasures of Friendship“, của thi sĩ Stevie Smith về ý nghĩa sâu xa của tình bạn.

    Stevie Smith [1902-1971]

    Stevie Smith sinh ra ở miền Bắc nước Anh nhưng bà chuyển đến London rất sớm. Bà là một trong những nhà thơ được yêu thích nhất nước Anh, giành được Huy chương Vàng của Nữ hoàng về Thơ vào năm 1969. Bài thơ “Không vẫy tay chào chia tay nhưng chết đuối” của bà thường xuyên nằm trong số 10 bài thơ hay nhất ở Anh trong các cuộc bình chọn của đài phát thanh Vox Pop.

    Những niềm vui của tình bạn (The Pleasures of Friendship):

    Niềm vui của tình bạn thật tuyệt vời,

    Thật thú vị biết bao khi được đi thăm một người bạn!

    Tôi đến bên bạn tôi, chúng tôi đi dạo trên bãi cỏ,

    Và những giờ phút như phút trôi qua.

    Phân tích bài thơ The Pleasures of Friendship: Bài thơ này ca ngợi những niềm vui giản dị của tình bạn, sự hài lòng trong những trải nghiệm được sẻ chia và thời gian trôi qua. So với những tác phẩm u ám hơn của Smith, nó mang đến một khoảng thời gian nghỉ ngơi sảng khoái với giọng điệu vui vẻ và tập trung vào những khía cạnh tích cực của sự kết nối tình bạn giữa con người với nhau. Nó phản ảnh của sự mong muốn được an ủi bằng sự thoải mái của thời hậu Thế chiến thứ hai, nhấn mạnh tầm quan trọng của mối liên kết giữa con người với nhau trong một thế giới đang phục hồi tái thiết sau chiến tranh và chịu dựng những mất mát.

    NV Việt Hải, GS Quyên Di, Chị Topaz, GS Trần Huy Bích, Minh Khai, GS Dương Ngọc Sum.

    Nói về tình bạn, Khánh Lan cũng đã sáng tác một bài thơ về tình bạn như sau:

    Tình Bạn Vô Biên

    Thời gian trôi lặng lẽ

    Thấm thoát bảy thập niên

    Văn thuần, thơ hiệp ý

    Tâm đắc bạn văn chương.

    Ước giao tình Tri kỷ           

    Xướng họa cùng ngâm nga

    Thầm khen thơ ý lạ

    Đáng yêu hạ bút thôi.

    Nhớ mãi những buổi chiều

    Cảm tác đôi vần thơ

    Vô biên về tình bạn

    Luôn đậm đà thiết tha.

    Hỡi tâm hồn khoáng đạt

    Mãi say đắm mộng mơ

    Những dòng thơ hoa mỹ

    Vằng vặc dưới trăng ngà.

    Xuân về tại Từ Mai Gia Trang:

    Trong bữa tiệc Tân Niên tại Gia Trang của Giáo Sư Từ Mai Trần Huy Bích, Nhà Văn Khánh Lan đã chúc Tết quý Thày Cô qua mấy câu thơ và gởi lời chân thành cám ơn Giáo Sư Trần Huy Bích cùng quý vị niên trưởng và quý anh chị em…

    Xuân về kính chúc quý thầy cô.

    An khang, thịnh vượng, bao niên kỷ.

    Trường thọ, Thanh Nhàn, khoáng đạt tâm

    Văn chương, lịch sử thời thông suốt

    Rạng danh nhà giáo khắp bốn phương.

    Nhân dịp xuân về Khánh Lan đã thảo một bài thi ca Hán Việt, tứ ngôn tứ tuyệt thể biền ngẫu cân đối:

    Mai khai phú quý.

    Đào tải an khang

    Thọ sinh vạn phúc

    Lộc cung thắng lợiPhúc cầu toàn gia.

    Mùa xuân đến, thiên nhiên chuyển mùa, không gian bừng sinh, Khánh Lan đã họa bài thơ chúc mừng xuân mới như sau:

    Xuân nay trở về 

    Không gian tái sinh

    May mắn vào cửa 

    Hoan hỉ tràn dầy.

    Khánh Lan cho rằng không hẳn chỉ có mùa Xuân ở Trung Hoa hay Việt Nam, mà mùa Xuân còn ở những nơi như Teipei (Đài Bắc Đài Loan), Seoul (Đại Hàn) …

    Đôi Nét về Thi Ca Truyền Thống Nhật Bản (Haiku) và thi ca Truyền Thông Đại Hàn (Sijo)

    Dựa theo bài viết trên trang nhà KBS-World-Âm Điệu Ngàn Xưa thì “khi ta đề cập đến thi ca truyền thống Nhật Bản, người ta thường nghĩ về thể thơ Haiku (句) bởi lẽ đây là một thể thơ thịnh hành ở Nhật Bản. Haiku là sự dung nạp và kết tinh của nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người phương Đông như Hoa, Nhật, Hàn hay Việt tộc. Tương tự như thơ Haiku của người Nhật Bản, thơ Sijo (소지) của Đại Hàn. Xét về thơ cổ Sijo là thể thơ truyền thống của dân tộc Hàn, một bài thơ thuộc thể loại này thường có bố cục ba dòng truyền thống. Thơ cổ Sijo là thể thơ truyền thống của dân tộc Hàn. Một bài thơ thuộc thể loại này thường có bố cục ba dòng. Mỗi dòng có hai nhịp, mỗi nhịp có từ 3 đến 4 chữ. Vậy nên thơ cổ Sijo còn được gọi là thể thơ ba dòng sáu nhịp.

    동짓달 기나긴 밤을 한 허리 둘에 내어
    춘풍 이불 아래 서리서리 넣었다가
    임 오는 밤이어들란 구비구비 펴리라.

    Thơ cổ Sijo vừa là tác phẩm văn học vừa có thể trở thành lời của bài hát với những câu chữ ngắn gọn nhưng lại sâu sắc, có thể diễn tả mọi cung bậc của cảm quan, cảm xúc. Sau này bố cục truyền thống của thơ cổ Sijo dần biến đổi cách tân, thành thể loại có số âm tiết nhiều hơn được gọi là Saseolsijo. So với thơ cổ truyền Pyeongsijo, nhịp điệu và tiết tấu của thơ cổ Saseolsijo nhanh và sôi động hơn.

    Thơ cổ phổ nhạc Pyeongsijo và Saseolsijo

    Một bài thơ cổ Sijo thường có khoảng trên dưới 45 chữ. Đây là thể loại thơ cổ phổ biến và còn được gọi là Pyeongsijo. Sau này bố cục truyền thống của thơ cổ Sijo dần biến đổi thành thể loại có số âm tiết nhiều hơn được gọi là Saseolsijo. So với thơ cổ Pyeongsijo, nhịp điệu và tiết tấu của thơ cổ Saseolsijo nhanh và sôi động hơn.

    Trong tên của thể loại thơ cổ phổ nhạc Saseoljireumsijo, từ “Saseol” có nghĩa là “ca từ nhiều chữ”, ám chỉ không theo quy tắc thơ ba bốn chữ mà sáng tác tự do. Còn “Jireum” có nghĩa là “hét lên”, ám chỉ là “phần đầu của khúc hát được hát với giọng cao”. Vốn dĩ thơ cổ Pyeongsijo được hát với giọng đều đều, không quá cao hay quá thấp. Nhưng trích đoạn “Sanjunghae” (Giữa rừng xanh) mà chúng ta vừa nghe lại có phần đầu được hát bằng giọng rất cao. Câu ca mượn lời thoại giữa người thợ săn và con ngỗng trời để ví von tâm trạng sầu thảm của những người yêu nhau khi chia tay. Ngỗng trời nói rằng:

    Hỡi anh thợ săn vai đeo súng trong rừng xanh núi thẳm

    Dù anh có vác súng bắn muôn thú

    Thì cũng đừng bắn ngỗng trời đang khóc vì mất đôi

    Nghe vậy, người thợ săn liền trả lời, rằng: “Dù có vô tình thế nào đi chăng nữa thì chúng tôi cũng đâu nỡ bắn những con vật đáng thương”.

    Theo dòng chảy của thời gian, thơ cổ phổ nhạc chữ tình Pyeongsijo phát triển thành thể loại thơ cổ phổ nhạc tự do Saseolsijo trong sáng, đầy hứng khởi. Ví như “Saseol Nanbongga” (Lan phùng ca thể thơ tự do) có đoạn:

    Cô gái trước nhà đi lấy chồng, chàng trai sau nhà đi treo cổ

    Người chết thì không tiếc nhưng chẳng qua là không có dây thừng

    Chàng bỏ thiếp đi, chưa đi được 10 dặm đã đổ bệnh

    Chưa đi được 20 dặm đã gặp toán cướp

    Chưa đi được 30 dặm đã phải quay về bên thiếp

    Vài nét khác biệt giữa thơ cổ phổ nhạc Sijo và dân ca Minyo ở Hàn Quốc

    Trước hết ta hay xem quá trình hình thành nên các khúc dân ca Minyo ở Hàn Quốc. Dân ca Minyo thường không phải là những khúc hát có người phổ nhạc và người soạn lời riêng. Dân ca Minyo vốn là dòng nhạc mà ai cũng có thể nói lên tâm tư tình cảm của mình theo nhịp điệu nhất định nào đó. Và theo dòng chảy của thời gian, nó được nhiều người đồng cảm, hát theo và định hình thành khúc hát dân gian. Rồi mỗi người lại chỉnh sửa chút ít cho hợp với phong cách và tâm tư tình cảm của mình. Gần đây nghệ sĩ Lee Hee-mun đã biến tấu khúc ca “Saseol Nanbongga” thành khúc hát đại chúng“Saseol Nanbong” có phong cách và sắc thái khác hẳn với khúc ca gốc và còn được giới trẻ ngày nay hưởng ứng hơn nữa. Thế nên những người có tuổi khi nghe khúc hát này còn nói rằng “Liệu có thể gọi đây là khúc hát truyền thống hay không?”. Tuy nhiên, “Saseol Nanbong” của nghệ sĩ Lee Hee-mun vẫn được coi là một khúc hát truyền thống”.

    Nguồn:

    * Khúc thơ phổ nhạc “Pureun Sanjunghae” (Giữa rừng xanh) theo thể loại Saseoljireumsijo / Lee Jun-ah

    * Khúc thơ cổ phổ nhạc “Lan phùng ca” theo thể loại thơ tự do Saseolsijo / Kim Yeong-im 

    * Khúc hát “Saseol Nanbong” mang âm hưởng hiện đại / Lee Hee-mun

    Sau đây là bài đoãn thi chúc Tết theo thi ca Hàn ngữ: Bài “Vừa Đủ“. Bài “Vừa Đủ” là Thi Ca Biền Ngẫu Dạng Thức: 10-10-10-10. Ý tưởng khi Nếp sống vừa đủ là một triết lý hay nhân sinh quan của thi sĩ Nguyễn Công Trứ trong bài thơ nổi danh “Chữ nhàn “… trong chiều hướng tương đồng, bài thơ “Vừa Đủ” của Khánh Lan dưới đây như lời chúc đầu năm đến các mọi người: “Năm mới chúc mọi người vừa đủ, vừa đủ”

    Bài thơ Vừa Đủ

    Vừa đủ HẠNH PHÚC cho tâm hồn được bình an

    Vừa đủ THÀNH CÔNG cho mình luôn mãi kiên cường

    Vừa đủ HY VỌNG để thấy mình đủ hạnh phúc

    Vừa đủ THÀNH CÔNG để giữ cho mình mãi nhiệt tâm.

    Trích dẩn thơ của Nguyễn Công Trứ: Bài “Chữ Nhàn”.

    Link: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc

    Bài Thơ Chữ Nhàn của Thi Hào Nguyễn Công Trứ

    Thị tại môn tiền náo,

    Nguyệt lai môn hạ nhàn.

    So lao tâm lao lực cũng một đàn,

    Người trần thế muốn nhàn sao được?

    Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,

    Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài.

    Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi,

    Mười lăm trẻ, năm mươi già, không kể.

    Thoắt sinh ra thì đà khóc choé,

    Trần có vui sao chẳng cười khì?

    Khi hỷ lạc, khi ái dục, lúc sầu bi,

    Chứa chi lắm một bầu nhân dục.

    Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,

    Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?

    Cầm kỳ thi tửu với giang san,

    Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.

    Ngã kim nhật tại toạ chi địa,

    Cổ chi nhân tằng tiên ngã toạ chi.

    Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,

    Ai hay hát mà ai hay nghe hát?

    Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,

    Để ông Tô riêng một thú thanh tao.

    Chữ nhàn là chữ làm sao?

    Dẫn giải ý thơ “TRI TÚC TIỆN TÚC”

    Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc

     (Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ).

    Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn”

     (biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn)

    Hai câu thơ trên có nghĩa là làm người phải biết thế nào là đủ thì mới có thể vui hưởng cuộc sống. Ai không biết thế nào là đủ sẽ luôn cố sức, lao tâm lao lực để có nhiều hơn, hay để thõa mãn tự ái và tham vọng của mình. Nhưng đời người không phải lúc nào cũng may mắn vì theo quy luật đời sống thì có nhiều biến thiên, thăng trầm như trăng tròn rồi lại khuyết, …không khéo, khi hết thời mà không biết dừng sẽ bị mất hết những cái mình đang có. Thật vậy, chỉ có những người sống phải đạo, có ân phước của thánh thần mới được che chở tránh được những cơn lốc bất ngờ của số mệnh. Người có tài mà ỷ tài, kiêu ngạo thì bao nhiêu nỗ lực để đạt tham vọng không đáy của cá nhân rốt cuộc cũng sẽ trở thành công dã tràng mà thôi.

    Bài “Chữ Nhàn” được nhiều người coi là tuyệt tác trong các bài hát nói. Tác giả vạch rõ chữ nhàn rất dễ kiếm, ai cũng có thể có, dễ như thế mà các thi nhân từ xưa chưa ai tìm ra được. Những câu thơ cổ mà tác giả mượn dẫn vào thực là đắc cú, phân minh, chuyển đi láy lại tài tình. Vì thế, ngày xưa những khách phong lưu đi hát ưa nghe bài này, là có ý mượn tiếng giai nhân để kể lại áng văn chương danh cú.

    Sự bình an là trạng thái tâm trí, tinh thần của một người khi cảm thấy yên tĩnh, thoải mái, không có lo lắng, căng thẳng hay áp lực. Nó thường được miêu tả như một cảm giác an tĩnh, yên bình và ổn định bên trong thân tâm ta. Sự bình an được xem là một trong những yếu tố quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là trong thời đại ngày nay với nhịp sống nhanh, áp lực của công việc và sự bận rộn trong cuộc sống. Sự bình an giúp chúng ta có thể tập trung, đạt hiệu quả khi làm những việc tốt hơn, tăng cường sức khỏe và tạo ra cảm giác hạnh phúc. Bình an là khi ta cần để tâm trí mình được nghỉ ngơi, nhìn sâu bên trong bản thân mình và tìm hiểu về bình an nội tâm. Vậy, giá trị của an bình, yên ổn là gì?

    Xét về ý tưởng “Đi tìm sự bình yên trong tâm hồn“, ai trong chúng ta cũng đều mong ước có được một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Nếu không dành thời gian để nhìn nhận mọi việc một cách đầy đủ, chúng ta sẽ không thể cảm nhận được cảm giác yên bình. Muốn giữ được sự bình yên trong tâm, chúng ta biết giữ lấy sự tĩnh lặng của tâm hồn, sự buông lỏng những căng thẳng lo âu. Cố gắng trong công việc là điều cần thiết nhưng chúng ta cũng phải biết cho đi, sẵn sàng giúp đỡ người khác, thấy được những giá trị tốt đẹp của cuộc sống… Cho nên bình yên là cảm giác xuất phát từ nội tâm. Đó là khi chúng ta vui vẻ, thoải mái, cảm thấy hài lòng với những điều mình đang có; là khi ta sống lạc quan, tích cực; không tham lam, đấu đá, tranh giành; không suy nghĩ, ghen ghét, đố kỵ với những người xung quanh…

    Bình yên giống như liều thuốc bổ giúp mỗi người thêm khỏe mạnh, hạnh phúc. Bình yên giúp mỗi người sẽ càng yêu và trân trọng hơn những điều bình dị quanh mình. Có được sự bình yên trong cuộc đời là vô cùng quý giá, là bởi vì dẫu cho chúng ta có công danh, sự nghiệp như ý nhưng trong lòng không có được sự bình yên thì cuộc đời cũng sẽ mất đi ý nghĩa đích thực. Trái lại, khi chúng ta luôn cảm thấy bình yên, tất thảy mọi điều tốt đẹp sẽ tới, cuộc đời mỗi người vì thế mới trọn vẹn, ý nghĩa. Khi cảm nhận vừa dủ là vừa đủ, hãy bình yên giúp mỗi người biết buông bỏ những thứ không cần thiết để có cuộc sống hạnh phúc. Có thể thấy là sự bình yên trở thành thứ tài sản vô giá mang đến cho con người cuộc sống viên mãn, từ đó sản sinh ra nhiều giá trị nhân sinh cao đẹp khác như: tình yêu thương, lòng vị tha, tính bao dung; loại bỏ những thói quen, giá trị tiêu cực mà không hề đắn đo, suy tính. Khi một cá nhân hạnh phúc thì xã hội sẽ hạnh phúc. Và khi xã hội hạnh phúc luôn là khát vọng luôn mơ ước của mỗi quốc gia và toàn thể nhân loại.

    Bình yên là tấm gương phản chiếu của hạnh phúc. Muốn có được bình yên, bạn sẽ tự khắc biết cách đi tìm, bởi “không ai mang lại cho bạn sự bình yên ngoài chính bạn”. Dựa theo tư tưởng của Lão Tử trong Lão giáo; Hầu như toàn bộ Đạo Đức Kinh của Lão Tử nhằm nói đến sức mạnh của cái Nhu, của Vô Vi. Trong ý niệm đó, đặc biệt ở chương 8, Nước được coi như hình ảnh đặc thù để chuyển tải một triết lý sống và cũng chính là một nghệ thuật sống lý tưởng. Ông cho thấy đường lối sống Đạo tự nhiên như nước chảy xuôi: ở thì chuộng chỗ thấp, ân tình thì chuộng thâm sâu, xử sự chuộng lòng nhân, nói thì chuộng chân thật, cai trị thì làm cho cuộc sống an bình, làm việc thì hợp với tài năng, hành động thì hợp thời đúng lúc. Đức tính của nước là làm lợi cho tất cả thiên hạ mà không tranh công đoạt lợi, gặp chỗ thiếu thì chảy vào, chỗ thừa thì chảy ra, trên đời làm mưa, dưới đất thành sông lạch: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh”. Lão Tử nhận ra ưu điểm của nước là tính vô kỷ, vị tha, “Nhu thắng cương“, như cung cách ứng xử: “Cường đại xử hạ, nhu nhược xử thượng”: cư xử mạnh bạo là hạng dưới, mềm dịu là hạng trên. Thực tế cho ta thấy thái độ khắt khe, cứng cỏi là tiêu biểu những tâm hồn cằn cỗi, thấp kém. Uyển chuyển, khéo léo, dịu dàng mới tiêu biểu những tâm hồn cao thượng. Bởi vậy có câu thơ:

    Phàm phu mới cứng, mới cương,

    Dịu dàng mới thực lối đường người trên

    Bản chất của nước (l’eau, water) là như thế, không câu nệ vào một hình thức, khi tràn vào đủ nước ngưng lại trong trạng thái tĩnh lặng, bình yên. Đấy là nước, Nước lại còn có tính cách nén chịu, sự nén chịu của con đường Nhu: “Thọ quốc chi cấu”: nhận lấy cho mình bụi bặm của quốc gia. Đồng thời “Thọ quốc chi tường”: nhận lấy cho mình sự rủi ro của nước nhà. Đó cũng là tận cùng của vị tha, nhưng chính nhờ thế mới thực làm chủ được sơn hà, xã tắc. Nước nhà, xã hội cần thành công, gia dình cần hạnh phúc, với ý tưởng sao cho “vừa dủ“. Thi ca hạnh phúc, cho tâm hồn được bình an:

    Tóm lại, thể thơ Haiku của người Nhật Bản, hay thơ Sijo của Đại Hàn là những loại thơ biền ngẫu, y như thơ Lục Bát của Việt Nam (6-8), chịu sự chi phối của quy luật sắp sẵn.

    Khánh Lan, Kỷ niệm Từ Mai Gia Trang, Tháng 3 mùa Xuân Hội Ngộ 2024.

  • Kiều My,  KÝ SỰ,  NGHIÊN CỨU,  Sinh Hoạt,  TẠP GHI,  Việt Hải,  Vương Trùng Dương

    NIỀM VUI MÙA GIÁNG SINH

    NHÂN VĂN NGHỆ THUẬT VÀ TIẾNG THỜI GIAN: MERRY CHRISTMAS 2023 AND HAPPY NEW YEAR 2024 DO CHỊ TÂM AN THU HÌNH.

    Trước giờ khai mạc, Xướng Ngôn Viên Pham Khanh phỏng vấn GS Trần Mạnh Chi, NV Khánh Lan và chủ nhân công ty dược thảo Princess Lifestyle, Ông John Tạ và Xướng Ngôn Viên Lưu Mỹ Linh. Mời quý quan khách vào xem.

    Ngày lễ Giáng Sinh thật tưng bừng, hoa đèn đủ màu sắc rợp trời lung linh huyền ảo. Giáng Sinh là một niềm vui lớn lao của biết bao gặp gỡ thân tình, thương mến. Hòa cùng niềm vui trên khắp hành tinh trong mùa Giáng Sinh, Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian đã có một buổi tiệc tưng bừng chào đón mùa yêu thương, mùa an lành… đến với mọi tạo vật trên khắp địa cầu. Vì, Thiên Sứ trên các tầng trời cũng đã đồng thanh ca hát trong đêm thánh, đêm con Thiên Chúa giáng trần:

    “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”

    Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian mừng Lễ Giáng Sinh

    KHÁNH LAN KHUI “APPLE CIDER” ĐÃI KHÁCH

    Trời Nam California thật êm ả, dịu dàng… như trong lòng mọi người đến với nhau, cho nhau những nụ cười hân hoan, ấm áp, cho nhau niềm vui của mùa Giáng sinh, trong bầu không khí thân thiện và thật bình an!  Lời cầu chúc  Merry Christmas âm vang trong hội trường, luôn là lời chúc thật đẹp mỗi mùa Giáng sinh. Suốt một năm dài vật lộn với cuộc sống, tháng mười hai là thời gian mà mọi người mong đợi mùa lễ lớn, để được thư giản và vui chơi. Đây cũng là dịp thân nhân, bạn bè đoàn tụ, gặp gỡ để cùng chung vui trong ngày hội lớn cuối năm.

    Tiếng đàn, tiếng hát đã vang lên! Giờ đây cả hội trường rất sống động và niềm vui của mọi người đang chắp cánh bay cao. Trong buổi tiệc hôm nay, quy tụ giới tinh hoa của người Việt hải ngoại, mà một vài vị quan khách từ xa đến tham dự đã nhận xét và ca ngợi. Từ những bậc trưởng thượng như các vị giáo sư khả kính: Dương Ngọc Sum, Trần Huy Bích, nhạc sĩ Lê Văn Khoa và phu nhân ca sĩ Ngọc Hà; các nhà văn như Nguyễn Quang, nhà văn Người Việt Phạm Quốc Bảo; ký giả nhà văn Du Miên và phu nhân Ngọc Hà; nhà báo nhà văn Vương Trùng Dương; nữ sĩ Dương Hồng Anh, nhà thơ Lê Trọng Nguyễn Nga.

    Hành ngồi: NV Phạm Quốc Bảo, NV Việt Hải, KS Nguyễn Văn Viễn, GS Dương Ngọc Sum, GS Trần Huy Bích, NV Nguyễn Quang. Hàng đứng: Lệ Hoa, NV Khánh Lan, NS Dương Hồng Anh, NT Lê Trọng Nguyễn Nga, Thụy Lan, Katherine Minh Thư, Micheal Jean.

    Quan khách tham dự tiệc

    Đặc biệt có cựu đại tá Lê Thương, bình luận gia kiêm nhà văn Phạm Gia Đại, giáo sư Phạm Hồng Thái, thi sĩ John Tạ kiêm giám đốc Cty Princess Lifestyle cùng phu nhân Susan Xuân Tạ, nhà văn Hạo Nhiên Trần Thế Ngữ, thi sĩ Trần Quốc Thái, hiền tài Ngô Thiện Đức, nhà văn Kiều My cùng các em Minh Phượng, Đình Khôi; nhà văn Khánh Lan và phu quân Mạnh Bổng, ca sĩ Thụy Lan và phu quân Michael Jean François,… Ông bà Trần Chính San Diego; ông bà Nguyễn Mạnh Kính. Ca nhạc sĩ Lâm Dung, Ái Liên, ca sĩ Trần Hào Hiệp, các ca sĩ Lisa Trần, Quỳnh Thúy, Mỹ Linh, Tony Hiếu và Thanh Mai, Hùng Ngọc, Ngọc Châu và Khắc Đức, xướng ngôn viên Phạm Thanh…

    TS John Tạ, Michael Jean François, cựu đại tá Lê Thương, Thụy Lan

    Cựu võ bị Đà Lạt khóa 16 ông Hoàng Đình Khuê, hải quân khóa 17 ông Bùi văn Tẩu và phu nhân, anh Nguyễn văn Viễn chủ nhân công ty xây cất Vincent Construction,  cựu trung tá không quân Phạm Đăng Khải và phu nhân Thanh Mỹ, ca sĩ Dương Viết Đang, ông bà Phan Cảnh Cho, anh Vĩnh Than và phu nhân là cựu đại úy cảnh sát biệt đội Thiên Nga, ký giả Thanh Huy của Việt báo, cựu tù nhân chính trị Vũ Hoàng Hải trong Mạng Lưới Nhân Quyền, cùng nhà truyền thông Tâm An, nhạc ca sĩ Nguyễn Văn Thành (phong trào Dân Chủ Ca và phu nhân; chị Minh Khai (em nhạc sĩ Lam Phương) và anh Khanh, nhiếp ảnh gia Paul Lê văn Phú, nhạc sĩ Phạm Vĩnh, ca sĩ Katherine Lê (ái nữ nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn) và nhà thơ Lê Trọng Nguyễn Nga.

    Hàng ngồi: NS Phạm Vĩnh, CS Quỳnh Thúy, XNV Lưu Mỹ Linh, Ông John Tạ. Hàng đứng: Michael Jean François, Susan Tạ, Khánh Lan, Thụy Lan

    Hàng ngồi: Minh Khai, Minh Châu, Tuyết Mai, Tony Hiếu. Hàng đứng: Lệ Hoa, Ngọc Châu, Kim Hương, Katherine Minh Thư, NV Phạm Gia Đại.

    Đặc biệt, lần đầu tiên nhạc sĩ keyboardist Đinh Trung Chính, người bạn văn nghệ của anh Trần Mạnh Chi, là người bảo trợ và phụ trách phần âm nhạc và âm thanh cho chương trình. Người nhạc sĩ tài ba đầy nhiệt huyết này đã mang đến tiếng nhạc rộn ràng và niềm phấn khởi trong lòng mọi người, như lân gặp pháo…trong bầu không khí sống động vui tươi. Xin chân thành cảm tạ nhạc sĩ Đinh Trung Chính và kỷ thuật viên,…

    Nhạc sĩ keyboardist Đinh Trung Chính

    Hai MC tài ba của nhóm là cô Mộng Thủy và anh Trần Mạnh Chi, đã điều khiển chương trình khá xuất sắc. Những tiếc mục đã được giới thiệu và thực hiện trôi chảy.

    MC khả ái Mộng Thủy và MC tài ba, anh Trần Mạnh Chi

    Trong buổi tiệc đình đám này, dưới sự chủ tọa của nhà văn Trần Việt Hải, bên cạnh là phu nhân ca sĩ Lệ Hoa khả ái. Nhà văn đã bày tỏ: Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian thành lập cách đây 8 năm gồm 5 người: Lý Tòng Tôn đã ra đi, họa sĩ Lưu Anh Tuấn  vì sức khỏe không thể tham dự, giáo sư Trần Mạnh Chi, hiền tài Ngô Thiện Đức và nhà văn Việt Hải.

    GS Trần Mạnh Chi là một trong 5 vị đã thành lập nhóm NVNT năm 2015 và NV Việt Hải

    Nhà văn Việt Hải và Anh Ngô Thiện Đức, một trong 5 vị đã sáng lập ra nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật

    Sau đó, Ngô Thiện Đức tiếp lời: Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian sinh hoạt về văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc. Ngoài ra còn tổ chức những buổi vinh danh các vị giáo sư, giúp ra mắt sách cho những thi sĩ,  nhà văn trẻ, là thế hệ tiếp nối cho những thế hệ sau này để duy trì nền văn hóa Việt Nam ở hải ngoại. Giúp giới trẻ nối bước các bậc cha anh về văn hóa theo truyền thống” uống nước nhớ nguồn” vậy.

    Và tiếp theo là phần trình bày của nhà văn duyên dáng của Khánh Lan tường trình tổng kết về các sinh hoạt trong năm 2023 và những dự định cho năm 2024. Mở đầu với lời chào trân trọng đến quý Giáo sư, Văn thi sĩ, các anh chị em thành viên và thân hữu, Khánh Lan kính chúc quý vị hiện diện trong buổi tiệc một mùa Giáng Sinh an lành, hạnh phúc và một năm mới 2024 với vạn sự như ý, an khang thịnh vượng và sức khỏe vẹn toàn.

    Tiếp theo, Khánh Lan mở đầu bài tường trình bằng bốn câu thơ do cô sáng tác, qua  giọng ngâm thật truyền cảm:

    “Chào mừng quan khách gần xa

    Hàn huyên phút chốc thì là người thân

    Chúng ta mới cũ quây quần

    Hôm nay lễ hội ân cần xin thưa”

    Trước khi trình bày về những thành tích hoạt động của năm 2023, NV Khánh Lan nói: “Kính thưa quý vị, LN NVNT & TTG sau 8 năm thành lập, đây là lần thứ 6 mà chúng ta họp mặt mừng chúa Giáng Sinh và cùng nâng ly mừng năm mới 2024. Theo truyền thống của hội, chúng ta có 3 buổi họp mặt quan trọng gồm: Tiệc mừng Chúa Giáng Sinh, Mừng Tết Nguyên Đán và kỷ niệm ngày thành lập của nhóm“.

    Xong nhà văn Khánh Lan nói tiếp: “Cũng như mọi năm, Khánh Lan xin được tường trình về những sinh hoạt của nhóm trong năm 2023 và những dự định cho các chương trình của năm 2024“.

    Trong năm 2023:

     1/ Tưởng niệm NS Minh Đức Hoài Trinh và mừng sinh nhật NV Nguyễn Quang.

     2/ RMS 3 tác phẩm: TLVD Hậu Duệ và Thân Hữu tập 2 do Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian bảo trợ Tam Giáo Đồng Nguyên và Phân Tâm Học và Đời Sống của Khánh Lan

    3/ Tiệc kỷ niệm 8 năm thành lập của NVNT& TTG

    4/ Du lịch Âu Châu và tham dự “Chiều Thu Paris, Văn Học Nghệ Thuật” do các văn nghệ sĩ Câu Lạc Bộ văn hóa Paris Việt Nam tổ chức.

    Những sinh hoạt dự định cho năm 2024:

    • Mừng Xuân Giáp Thìn
    • Mừng sinh nhật của các thành viên LN NVNT & TTG
    • NV Nguyễn Quang : The Manifest Destiny ( Anh ngữ )
    • NS Dương Hồng Anh: tập thơ Những Gì Để Nhớ
    • Tưởng nhớ Nhà Văn Hóa Khai Trí Nguyễn Hùng Trương
    • GS/NS Lê Văn Khoa: Hồn Việt và Ước Mơ
    • Tập nhạc: do các thành viên NVNT & TTG sáng tác
    • Dự định ra ebook, youtube các sách: Khái Hưng, Thạch Lam, Võ Phiến, Nguyễn Xuân Vinh…
    • Du lịch mùa thu Nhật Bản và Đại Hàn.
    • RMS của nhà văn Kiều My: Thi phẩm Như Lá Cỏ Tàn Phai  và Tuyển tập: Thêm Ngày Nữa Để Yêu Thương.
    • Kỷ niệm 9 năm thành lập của Liên Nhóm NVNT & TTG

    Sau phần tường trình của NV Khánh Lan là phần Văn nghệ Giáng Sinh. Từ trên sân khấu, tiếng nhạc tưng bừng trổi lên khai mạc chương trình ca nhạc Giáng Sinh.  Mở đầu với nhạc phẩm Jingel Bells – Tiếng chuông rộn rã của Jingle Bells cất lên qua tiếng hát của toàn ban ca sĩ NVNT & TTG đã âm vang trong hội trường. Mang đến bầu không khí đầy hương vị của mùa Giáng Sinh. Là một trong những bản nhạc Giáng Sinh được hát nhiều nhất trên khắp thế giới.

    Mở đầu với nhạc phẩm Jingel Bells

    Tiếp theo với Ban tam ca Cherry Three Lệ Hoa, Thụy Lan và Minh Thư trong áo dạ hội màu đỏ rực rỡ, đã mang khán giả trở về với niềm vui Giáng sinh,  qua những ca khúc đầy hương vị của Christmas bằng Anh ngữ. Giai điệu vui tươi nhưng thật thánh thiêng đã mạng lại cảm giác ấm áp trong không khí se lạnh của đêm đông lạnh giá. Đồng thời cũng chuyển tải niềm vui và tình yêu, khỏa lấp những buồn đau trong mùa Noel.

    Lệ Hoa, Thụy Lan, Katherine Minh Thư với liên khúc:

    • Joy to the World – niềm hoan ca bất tận

    Joy to the world nguyên là một khúc thơ trích từ bản tụng ca The Psalms of David do nhà thơ Issac Watts viết năm 1719, sau được nhạc sỹ Dr. Lowell Mason phổ nhạc và trở thành một trong những bài hát Giáng sinh nổi tiếng nhất, luôn vang lên khắp thế giới mỗi mùa Noel. Bài hát ca ngợi niềm vui sướng hạnh phúc khi con người sống với đức tin chân thành, và cao hơn nữa, có được niềm tin vào chính bản thân, vào mọi người xung quanh, vào cuộc sống tươi đẹp này.

    Có thể nói Joy to the World là ca khúc gắn liền với bất kỳ một album Giáng sinh nào. Hầu hết các ca sỹ mọi dòng nhạc đều đã hơn một lần ngân nga điệp khúc “Joy to the world. The Lord has come. Let earth receive her King. Let every heart prepare him room…”. Từ Natalie Cole đến Charlotte Church, từ Dolly Parton tới Whitney Houston, Boy II men v.v. với nhiều thể loại Christian, Pop, R&B, Jazz, hòa tấu …chuyển tải những cảm xúc đặc biệt tới người nghe dịp lễ Giáng Sinh. Bài ca Joy to the World phổ thông từ khi ra đời năm 1719. Và vào  cuối thế kỷ 20, “Joy to the world” là bài thánh ca Giáng sinh được hát nhiều nhất tại Bắc Mỹ.

    • Feliz Navidad.

    Theo tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa như Merry Christmastiếng Anh, Joyeux Noel tiếng Pháp.  Là ca khúc rất vui ca, là một trong những ca khúc tiêu biểu của mùa Giáng Sinh. Với câu điệp khúc đơn giản và lặp đi lặp lại, một ballad hoan ca rộn ràng, điệp khúc sôi dộng, như: I wanna wish you a Merry Christmas, I wanna wish you a Merry Christmas, I wanna wish you a Merry Christmas, From the bottom of my heart.

    “Feliz Navidad” là bài hát thịnh hành vào dịp lễ Giáng sinh do ca nhạc sĩ người Puerto Rico José Feliciano sáng tác năm 1970. Bằng những đoạn tiếng Tây Ban Nha đơn giản, với lời chúc mừng Giáng sinh/Năm mới truyền thống, “Feliz Navidad, próspero año y felicidad” hay “Merry Christmas, and a happy New Year” và lời chúc chân thành từ đáy lòng vui ca lễ cuối năm. Feliciano cho điệp khúc mang thanh âm pop, cùng lời chúc lành trong tiết điệu vui nhộn “Feliz Navidad” dược viết với đoạn điệp khúc đơn giản: “I wanna wish you a Merry Christmas from the bottom of my heart”. Thông điệp ca khúc đơn giản nhưng lại quá đỗi ngọt ngào. Đã đưa Feliz Navidad trở thành bài hát mà mỗi khi giai điệu của nó ngân lên trong đêm Christmas, tất cả mọi người đều muốn nhảy múa xung quanh cây thông Noel trong bầu không khí se lạnh ngày cuối đông.

    • Mary’ Boy Child.

    Lời ca khúc kể một câu chuyện cổ tích – về ngày Chúa Hài Đồng giáng sinh đến với nhân loại. Ca khúc này vẫn luôn là bản nhạc Giáng Sinh được yêu thích vượt thời gian, mỗi mùa Giáng Sinh đến. Mary’s Boy Child được viết năm 1956 và lời ca kể về ngày Thiên chúa Giáng sinh đến với con người. Tên gốc của ca khúc này là “Mary’s Little Boy Child” nhưng khi nhóm nhạc disco lừng danh người Jamaica Boney M. cover lại vào năm 1978, họ đã đổi thành “Mary’s Boy Child / Oh My Lord”.

    Đôi dòng về bài hát… Bài hát có nguồn gốc khi Jester Hairston đang ở cùng với một người bạn. Người bạn yêu cầu anh ấy viết một bài hát cho một bữa tiệc sinh nhật.  Hairston đã viết bài hát với một nhịp điệu calypso vì những người trong buổi tiệc sẽ chủ yếu là người Tây Ấn. Tiêu đề ban đầu của bài hát là “He Pone and Chocolate Chai“, pone là một loại bánh mì ngô và Nó chưa bao giờ được ghi lại dưới hình thức này. Một thời gian sau, Walter Schumann, tại thời điểm tiến hành Choir của Hollywood Schumann, yêu cầu Hairston viết một bài hát Giáng sinh mới cho dàn hợp xướng của mình. Hairston nhớ lại nhịp điệu calypso từ bài hát cũ của mình và đã viết lời cho nó. Harry Belafonte nghe bài hát được biểu diễn bởi dàn hợp xướng và xin phép ghi lại nó.  Nó đã được ghi lại vào năm 1956 cho album An Evening with Belafonte. Một phiên bản đã được chỉnh sửa sau đó đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn, đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Anh trong tháng 11 năm 1957. Đây là đĩa đơn đầu tiên bán được hơn một triệu bản chỉ riêng ở Anh.  Cho đến nay, phiên bản của Belafonte đã bán được hơn 1,19 triệu copes.  Năm 1962, Phiên bản đầy đủ đã được bổ sung vào một vấn đề tái phát hành album đầu tiên của Belafonte cho Wish You a Merry Christmas.

    Bài hát này cũng được ghi lại bởi Mahalia Jackson vào năm 1956 nhưng có tựa đề “Mary’s Little Boy Child“. Một trong những phiên bản cover nổi tiếng nhất của bài hát là từ nhóm nhạc disney Boney M. Đức, từ năm 1978, “Baby Boy của Mary – Chúa ơi“. Phiên bản này đã đưa bài hát này lên đỉnh cao của các nước thuộc liên hiệp Vương Quốc Anh. Đây là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại ở Anh và đã bán được 1,87 triệu bản vào tháng 11 năm 2015.

    Sau những âm thanh rộn ràng vui nhộn, tâm hồn mọi người bỗng trở nên lắng đọng qua giai điệu thánh thiêng du dương, êm ái bay bỗng… trong một ca khúc Giáng Sinh tuyệt vời và nổi tiếng khắp hoàn vũ, mà không thể thiếu trong mùa Giáng Sinh. Ca khúc này do ban tam ca Kiều My, Minh Phượng và Đình Khôi trình bày, đó là:

    • Silent Night – Đêm Thánh Vô cùng

    Tiếng Việt từ tiếng Anh (Silent Night) mà nguồn gốc từ Stille Natcht tiếng Áo.Mang một âm điệu kỳ diệu, êm đềm…như gửi đến thông điệp tình yêu và hòa bình… khiến cho người nghe cảm nhận được sự bình an và ấm áp trong cõi lòng giữa mùa đông lạnh giá của đêm Giáng Sinh. Mọi cảnh vật xung quanh bỗng trầm lắng để họp thành một nhạc khúc rung cảm êm dịu, mọi âu lo biến thành những giây phút thanh thản, để tận hưởng niềm hạnh phúc đang đến…Thật tuyệt vời!

        Kiều My, Đình Khôi, Minh Phương

    Blue Christmas Qua hai giọng ca truyền cảm của Lâm Dung và Ái Liên.  Mùa lễ đầu tiên, sau khi mất người thân yêu, thật vô cùng khó khăn để vượt qua. Ngay cả dựng lên cây thông Noel hay nướng những chiếc bánh ngọt thơm ngon…

    Lâm Dung và Ái Liên với Blue Christmas

    Thật ngoạn mục! Nhà văn nhà báo Vương Trùng Dương kiêm thêm chức phó nhòm, luôn bận rộn với máy ảnh, hầu mang đến cho NVNT&TTG những hình ảnh quý giá thật đẹp, màu sắc rực rỡ, để lưu niệm những hình ảnh đáng ghi nhớ trong những sự kiện. Bên cạnh đó, còn có Tâm An trong Mạng Lưới Nhân Quyền, quay video những khoảnh khắc đầy ý nghĩa của những buổi tiệc họp mặt, thật đẹp.

    Nhà truyền thông Tâm An trong Mạng Lưới Nhân Quyền

    Ngoài ra, có một phó nhòm thứ hai là anh Paul Lê Văn, đã chụp những bức ảnh đầy nghệ thuật, như những hình ảnh lưu niệm mãi mãi. Thay mặt NVNT&TTG, KM chân thành cảm tạ sự nhiệt tình của các vị: Vương Trùng Dương, Tâm An và Paul Lê Văn.

    Nhà văn, Ký giả, Nhiếp Ảnh Gia, Chủ nhân, Chủ nhiệm, chủ bút Nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa Vương Trùng Dương

    Nhiếp Ảnh Gia Paul Levan

    Seven Lonely Days, một tiếc mục khá thú vị, ca sĩ Katherine Minh Thư gây ấn tượng cho mọi người khi cô ôm đàn guitar, vừa đàn vừa hát ca khúc Seven Lonely Days. Thật “ Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh!”, vì thân phụ cô là cố nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn, nổi tiếng qua nhạc phẩm Nắng Chiều.

    Katherine Minh Thư, ái nữ của NS Lê Trọng Nguyễn

    La Vie En Rose – Bản nhạc nổi tiếng vượt thời gian của Édith Piaf, qua giọng hát điêu luyện của ca sĩ Ngọc Hà, phu nhân của Gs, Ns Lê Văn Khoa. Tiếng hát cao vút của cô khiến lòng người phơi phới, cảm thấy cuộc đời đẹp như những hoa hồng tươi thắm.

    Ca sĩ Ngọc Hà, phu nhân của GS, NS Lê Văn Khoa

    Ha Long Bay’s By Night – Thơ của thi sĩ John Tạ, do GS. Phạm Vĩnh phổ nhạc. Ca sĩ Thụy Lan trình bày nhạc phẩm này bằng Anh ngữ, đã chạm đến trái tim người nghe. Cô kể về một chuyện tình đẹp tuyệt vời bên vịnh Hạ Long vào đêm trăng thơ mộng. Cảnh đẹp trữ tình của vịnh Hạ Long, đã khiến trái tim đôi tình nhân say đắm như đang khiêu vũ.

    …..”Khi màn đêm buông xuống và những vì sao mờ dần

    Tình yêu chúng ta vẫn là dạ khúc Vĩnh Cửu

    Vịnh Hạ Long đêm mãi trong tim ta     

    Một minh chứng cho tình yêu không bao giờ rời xa”

    Thụy Lan with Ha Long Bay’s By Night

    Li thơ thật trữ tình của thi sĩ John Tạ, phối hợp với dòng nhạc thật đẹp của nhạc sĩ giáo sư Phạm Vĩnh, qua tiếng hát điêu luyện truyền cảm của Thụy Lan, khiến mọi người phải vỗ tay khen ngợi. Chúc mừng thi sĩ John Tạ và Gs Ns Phạm Vĩnh đã mang đến cho người thưởng lãm âm nhạc một tác phẩm xuất sắc.

    Phần cắt bánh:  mọi thành viên NVNT&TTG quây quần bên chiếc bánh Buche De Noel để chụp bức ảnh kỷ niệm Giáng Sinh 2023, kèm theo những nụ cười rạng rỡ trên môi.

    Cờ Bay Trên Thành Phố Quảng Trị Thân Yêu & Đoàn Quân Chiến Thắng Trở Về. Với sự hiện diện của cựu đại tá Lê Thương, thân phụ của ca sĩ Thụy Lan, dịp này, toàn ban họp xướng hai bài Cờ Bay Trên Thành Phố Quảng Trị Thân Yêu và Đoàn Quân Chiến Thắng Trở Về. Không ngoài mục đích gợi nhớ về những trang sử oai hùng đến cựu đại tá, mà ông đã phần nào đóng góp xương máu. Đưa ông trở về dĩ vãng một thời oanh liệt của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Đây là sự ưu ái mà NV Việt Hải có nhã ý dành cho cựu đại tá Lê Thương. Thật là một mỹ ý đầy ý nghĩa!

    Tiết mục xổ số: tiết mục này rất hấp dẫn nhưng cũng không ít hồi hộp. Những phần quà thưởng đầy ắp trên bàn do các mạnh thường quân bảo trợ như: Ông John Tạ, giám đốc Cty Princess Lifestyle, nhà văn Khánh Lan, ca sĩ Minh Thư v.v…

    MC Mộng Thủy quảng cáo quà tặng cho Tiết mục xổ sốgồm: hai bao gạo (25 pounds mỗi bao) & một thùng nước mắm (6 chai) do Katherine Minh Thư tặng, một 5 gói thuốc bổ (mỗi bịch 2 lọ) do anh John Tạ gởi tặng và một bình succulents plants & một cái White Hammock (võng màu trắng) do Khánh Lan gởi tặng.

    MC Mộng Thủy & MC GS Trần Mạnh Chi vớiTiết mục xổ số

    Và lô độc đắc: Một thùng nước mắm Phú Quốc, 6 chai do Katherine Minh Thư tặng

    Chị Kính đã trúng lô độc đắc

    Chương trình dạ vũ – Được mở đầu với bản Đoàn Lữ Nhạc điệu Psaodoble qua hai giọng ca gạo cội của nhóm: Lâm Dung và Ái Liên. Từng cặp dìu nhau ra sàn nhảy trong vũ điệu quân hành hào hứng.

    Somewhere My Love  – Một bản nhạc nổi tiếng của điệu luân vũ trong phim Doctor Jhivago, qua giọng hát trầm ấm lả lướt của ca sĩ Mạnh Bỗng .

    Tiếp theo là những ca khúc qua điệu Rumba, Cha cha cha, Tango, Slow Rock, Twist, Techno…qua những tiếng hát Tony Hiếu, Thanh Mai và Thụy Lan, Dương Viết Đang, Ngọc Châu, Khắc Đức, Phạm Gia Đại, Ngọc mai, Trần Hào Hiệp, Lisa Trần, Quỳnh Thúy, Ngô Thiện Đức…

    Bế mạc chương trình –

    Tiệc đã tàn, mọi người chia tay mang trong tim niềm vui còn đọng lại. Trên đường về, nhà nhà đã thắp sáng lên những ngôi sao rực rỡ, những hoa tuyết sáng ngời, cùng những chú nai vàng xinh xắn và những cây thông xanh lập lòe ánh đèn màu… trước sân nhà trong khu xóm. Niềm vui Giáng Sinh tràn dâng trong lòng người và lan tỏa khắp nơi nơi, chắc chắn sẽ còn lặp lại mãi mỗi mùa Giáng Sinh về…

                                                                            Cảm tạ

    Nhà văn Trần Việt Hải cùng toàn ban Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian chân thành cảm tạ tất cả quý vị quan khách tham dự buổi tiệc Giáng Sinh 2023. Kính chúc quý vị một mùa Giáng Sinh an lành.

    12/18/2023. Kiều My.

    Kim Hương & Khánh Lan

    Khánh Lan & Mạnh Bổng

    Khắc Đức & Ngọc Châu

    Tuyết Nga & Khánh Lan

    KHG Lâm Quốc Dân & phu nhân Kim Hương

    CS Thanh Mỹ & chị Ngọc Châu

    Kiều My, Việt Hải, Lê Trọng Nguyễn Nga, Khánh Lan

    GS Phạm Hồng Thái, NV Việt Hải, NT Lê Trọng Nguyễn Nga, GS Trần Mạnh Chi, KTS Mạnh Bổng

    Phạm Thái, Kiều My, Việt Hải, Lê Trọng Nguyễn Nga, Khánh Lan, Mạnh Bổng

    ÁI LIÊN, LỆ HOA, KIỀU MY, NS HỒNG ANH, THỤY LAN, NT LÊ TRỌNG NGUYỄN NGA, MỘNG THỦY, KATHERINE MINH THƯ, LÂM DUNG, SUSAN XUÂN TẠ

    MẠNH BỔNG, KHÁNH LAN, TUYẾT NGA, NGỌC CHÂU, KHẮC ĐỨC

    GS Trần Mạnh Chi và gia đình

    Minh Châu, Quốc Dân, Kim Hương, Ngọc Châu

    Ông John Tạ & Phu Nhân, Susan Tạ, Thụy Lan, Michael Jean François, Mộng Thủy

    Cô Lisa và Ông Trần Hào Hiệp

    Tuyết Nga, Khánh Lan, NV Nguyễn Quang, Ngọc Châu, Minh Khai

    Lâm Dung, Tuyết Nga, Quốc Dân, Kim Hương, Ngọc Châu, Ái Liên

    TÌM HIỂU THÊM:

    Hơn 50 năm qua, vào đúng đêm vọng Giáng sinh, khắp nơi luôn vang vọng một ca khúc rạng ngời niềm hân hoan của con người chào mừng Chúa Giáng trần với niềm tin năm mới sẽ bình an, tốt đẹp. Và đó lại là sáng tác của một người không được sáng mắt từ nhỏ và không bao giờ trông thấy cảnh tượng tươi đẹp của lễ Giáng sinh. Những bài nhạc Giáng sinh ca ngợi Thiên Chúa Giáng Trần đã được sáng tác bởi nhiều nhạc sĩ nổi tiếng trong vườn âm nhạc như:

    It’s beginning to look a lot like Christmas; Last Christmas; Driving home for Christmas; Run Rudolph Run; Winter Wonderland; Santa Claus is Coming to Town; Jingle Bell Rock; Dancing around the Christmas tree; Little Drummer Boy; Silent Night; Mary’s Boy Child; We wish you a Merry Christmas; Please Come Home for Christmas; A Merry Little Christmas và kết thúc bằng niềm hân hoan vô vàn với bài… Feliz Navidad.

    Feliz Navidad

    Cuối cùng là bài hát ấn tượng với đoạn điệp khúc đơn giản: “I wanna wish you a Merry Christmas from the bottom of my heart”. Thông điệp ca khúc đơn giản nhưng lại quá đỗi ngọt ngào. Đã đưa Feliz Navidad trở thành bài hát mà mỗi khi giai điệu của nó ngân lên trong đêm Christmas, tất cả mọi người đều muốn nhảy múa xung quanh cây thông Noel trong không khí se lạnh ngày cuối đông.

    Mary’s Boy Child

    Lời ca khúc được viết giống như một câu chuyện cổ tích, kể về ngày Chúa Giáng Sinh đến với nhân loại. Được nhóm Boney M thể hiện vào năm 1978 và đã nhanh chóng leo lên đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc tại Anh. Từ đó cho đến nay, ca khúc Mary’s Boy Child vẫn luôn là bản nhạc Giáng Sinh được yêu thích vượt thời gian mỗi khi mùa Christmas sắp cận kề.

    Last Christmas

    Do ban nhạc Wham biểu diễn và được phát hành vào năm 1984. Đây là một bài hát Noel bất hủ được nhiều nghệ sĩ cover nhất, mang lại nhiều cảm xúc, đặc biệt là với những người Châu Á. Bài hát kể về câu chuyện của một chàng trai cuồng si, hết mình vì tình yêu trong mùa Giáng Sinh. Nhưng người con gái anh yêu lại rời bỏ ra đi, khiến anh ấy cô đơn, tuyệt vọng trong mùa Noel lạnh giá.

    We Wish You A Merry Christmas

    Nếu nói đến những giai điệu về dịp Noel thì không thể bỏ qua ca khúc We Wish You A Merry Christmas chân phương, quen thuộc với biết bao thế hệ trong hơn 500 năm qua. Bài hát được dành cho tất cả mọi người và bất cứ ai cũng có thể cất cao giọng hát của mình trong đêm Giáng Sinh. Mang giai điệu nhẹ nhàng, câu từ đơn giản nhưng ca khúc này lại được đóng nhận nồng nhiệt trên toàn thế giới.

    Joy To The World

    Bài thánh ca này nổi bật vì được phổ biến rộng khắp trong các giáo hội Cơ Đốc, chuyền tải thông điệp niểm vui và tình yêu thế chỗ cho tội lỗi và buồn đau trong đêm Noel. Bản nhạc Giáng Sinh này có gia điệu rộn ràng, mang lại không khí đêm mùa đông se lạnh nhưng đầy hân hoan và luôn khiến cho người nghe có cảm giác ấm áp khi thưởng thức trong nhà thờ cùng một dàn đồng ca lớn

    Silent Night

    Silent Night là bài hát Giáng sinh nổi tiếng nhất thế giới. Bài hát mang giai điệu du dương, ca từ nhẹ nhàng, theo thông điệp về tình yêu, hòa bình khiến bạn cảm nhận được sự bình yên và ấm áp của đêm Giáng sinh. 

    Theo tiếng Tây Ban Nha, Feliz Navidad có nghĩa như Merry Christmas (tiếng Anh); Joyeux Noel (tiếng Pháp); Buon Natale (tiếng Ý) và Mừng Giáng sinh trong tiếng Việt. Năm 1970, có một nghệ sĩ 25 tuổi, có tài sáng tác và đàn ca rất hay tên là José Feliciano chuẩn bị phát hành album nhạc Giáng sinh.

    Đĩa nhạc có bao bì tuyệt đẹp, trông như một gói quà giấy màu vàng đồng thắt nơ xanh lá cây và đỏ, đúng màu truyền thống Noel rất quen thuộc với nhãn quan người Âu Mỹ. Đĩa nhạc mang chính tên của chàng nghệ sĩ tác giả José Feliciano. Mọi việc sáng tác, thiết kế, ghi âm đã gần hoàn tất thì nhà sản xuất Rick Jarrard nêu ý kiến rằng José nên có một ca khúc Giáng sinh mới hoàn toàn, hát tiếng Tây Ban Nha để thêm lực hút cho album.

    Suy nghĩ mãi không ra ý, một buổi chiều gần đến thời hạn phải kết thúc dự án, José cảm thấy nhớ thời mình còn là chú nhóc con nhà nghèo sống ở Puerto Rico rồi lại là những ngày nghèo túng khác ở New York. Nhớ âm thanh cuộc sống là chính, vì anh nào có thấy chi đâu.

    José Monserrate Feliciano Garcia chào đời ngày 10 Tháng Chín 1945 tại Lares, Puerto Rico, con trai thứ tư trong gia đình có đến 10 người con trai. José sinh ra đã bị mù. Bù lại, thính giác của anh phát triển hơn mức bình thường nên khi ba tuổi đã biết gõ nhịp trên lon thiếc khi nghe chú của mình khảy đàn cuatro (đàn giây, nhỏ hơn guitar bình thường).

    Theo bố mẹ và các anh, em trai qua Mỹ định cư khi năm tuổi, chú nhóc José không cảm thấy lạc lõng nhiều lắm nhờ gia đình có thuê căn hộ trong khu Spanish Harlem ở New York City. Tự mày mò tập chơi accordion khi lên bảy, có cây guitar đầu đời khi lên chín, mỗi ngày tập chơi 14 tiếng và để rồi cũng năm chín tuổi ấy đã lần đầu xuất hiện trước công chúng, trong nhà hát Teatro Puerto Rico, khu phố Bronx.

    Đó là những năm 1950 khi mà nhạc rock đang trỗi dậy nhưng jazz vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống người dân Mỹ. José thích nghe cả Ray Charles lẫn Sam Cooke. Nhưng ở nhà trường thì anh học guitar classic. Năm 17 tuổi, José nghỉ học, đi làm để phụ bố mẹ nuôi các em.

    Đàn hát bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha ở ven đường lẫn trong các quán rượu ở khu Greenwich Village rồi chìa cái nón ra để ai muốn cho bao nhiều thì cho. Vậy mà từng bước, anh trở thành nghệ sĩ có danh thơm biểu diễn các loại nhạc Latin, jazz, pop, rock. Và rồi José đã có những lúc đồng sáng tác và biểu diễn cùng những siêu sao như Johnny Cash, Jimi Hendrix, Diana Ross, Quincy Jones…

    Và cảm hứng đã đến, ca khúc Feliz Navidad ra đời, trở thành một trong những “bài tủ” nổi tiếng nhất của José Feliciano cùng với những bài do anh cover của các nghệ sĩ/ban nhạc khác (điển hình thành công nhất là Light my fire của nhóm The Doors và California Dreamin’; Che Sera…). Lời ca ngắn gọn bằng hai thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha, dễ hiểu, gợi lên những hình ảnh vui tươi, lạc quan trong bối cảnh Giáng sinh và năm mới, bám vào lòng người nghe và cứ ở lại trong đó mỗi khi mùa Giáng sinh về.

    Từ đầu thập niên 1970 đến nay, Feliz Navidad đã được ghi âm bởi vô số nam nữ nghệ sĩ tài hoa, riêng bài do chính José Feliciano trình bày thì được yêu thích và yêu cầu streaming, download nhiều nhất. ASCAP công nhận Feliz Navidad là một trong 25 ca khúc Giáng sinh được nghe nhiều nhất mọi thời trên thế giới. Năm 2020, kỷ niệm 50 năm bài này ra đời, người ta tổng kết rằng nó đã được trình bày ở gần 90 nước, từ Argentina, Ấn Độ, Canada, Israel, Na Uy, Nam Phi, New Zealand đến Nhật… Và nó cũng được khắc ghi vào Grammy Hall of Fame.

    Tháng Mười Một 2021, José Feliciano tung album Behind This Guitar để kỷ niệm 50 năm phát hành Feliz Navidad, rồi tiếp thêm album Behind this guitar deluxe với bản ghi âm Feliz Navidad đặc biệt, quy tụ tiếng đàn tiếng hát của 30 nghệ sĩ đến từ khắp thế giới, từ Lin-Manuel Miranda đến anh em nhà Jonas Brothers. Ngoài ra ông còn hát tuyệt tác Eagle when she flies với nữ hoàng nhạc country Dolly Parton!

    ——————————————————————–

    Nguồn Gốc Ca Khúc Silent night Nổi Tiếng (Đêm thánh vô cùng)

    Silent night bản nhạc giáng sinh sâu lắng và ý nghĩa đã được dịch thành hàng trăm thứ tiếng và đã được cất lên hàng triệu triệu lần vào những dịp cuối năm, vang vọng từ những ngôi nhà thờ nhỏ bé ở Andes cho đến những thánh đường hoành tráng ở Antwerp hay La Mã. Ít ai biết được “Silent Night” lôi cuốn bao người có một nguồn gốc kỳ lạ…

    Bài Thánh Ca Kỳ Diệu. Việt Hải Los Angeles

    (Dedicated to the one I admire and respect. Xmas 2010)

    http://chimviet.free.fr/…/vhan100_LmTranCapTuong%20.htm

    Nguồn Gốc Ca Khúc Silent night (Đêm thánh vô cùng)

    “Silent night” đã được dịch thành hàng trăm thứ tiếng và được cất lên hàng triệu triệu lần vào những dịp cuối năm.

    Bài hát này vang vọng từ những ngôi nhà thờ nhỏ bé ở Andes cho đến những thánh đường hoành tráng ở Antwerp hay La Mã. Ít ai biết được “Silent Night” lôi cuốn bao người có một nguồn gốc kỳ lạ. ..

    Câu chuyện bắt đầu từ 11-12-1792, tại Salzburg, Áo. Cậu bé Joseph Mohr sinh ra trong gia đình một thợ đan nghèo, cha bỏ đi. Đến ở với bà ngoại nghèo khổ túng thiếu, mỗi khi đói rét, Joseph thường lang thang đâu đó để quên đi. Chính những lần cuốc bộ đó đã làm thay đổi cuộc đời cậu và cả cách thức chào đón Noel trên thế giới.

    Một lần, Joseph ghé vào một nhà thờ trong làng và gặp ông Johann Hiernle, người chỉ huy dàn hợp xướng. Joseph bắt đầu tham gia sinh hoạt cộng đồng. Nhận thấy tài năng thơ ca, âm nhạc của Joseph, khi cậu đủ tuổi, Hiernle cho cậu vào học tại một trường ngữ văn nổi tiếng tại Kremsmnster. Rồi Joseph tốt nghiệp trường dòng, được phong linh mục khi vừa 23 tuổi. Về một nhà thờ ở miền núi xinh đẹp, Joseph sáng tác rất nhiều bài thơ. Xúc cảm từ một mùa Noel tuyết trắng phủ không khí yên ắng của đất trời trong một buổi sáng nọ,

    Joseph ngồi xuống chiếc bàn gỗ và viết một mạch bài thơ ngắn mang tên “Stille Nacht! Heilige Nacht!” (tiếng Anh có nghĩa là “Silent Night! Holy Night!”; tạm dịch “Đêm thinh không! Đêm linh thiêng!).

    Rồi Joseph chuyển đến nhà thờ Thánh Nicholas. Đêm trước Noel 1818, cây đàn dương cầm bị hỏng. Không thể để ngày Noel thiếu lễ nhạc, cha Joseph nảy ra ý định cho ca đoàn hát cùng với tiếng đệm guitar. Thời gian cấp bách, ông nhớ lại bài thơ ngắn “Stille Nacht! Heilige Nacht!” và đề nghị Franz Gruber (người chơi đàn cho nhà thờ) lo phần nhạc, Joseph đệm guitar và hát giọng nam cao, Franz hát giọng trầm và cứ sau mỗi đoạn thì ca đoàn của nhà thờ sẽ hòa chung phần điệp khúc. Vào gần nửa đêm, giáo dân trong vùng tưởng như thường lệ người chơi đàn đại phong cầm tấu lên những bài ca mừng Noel hùng tráng… Nhưng không, chỉ nghe thánh thót luyến láy tiếng đàn guitar nhẹ nhàng nâng giai điệu Silent Night phảng phất âm hưởng dân ca vùng nông thôn nước Áo chầm chậm lan tỏa ra trong tĩnh lặng thinh không của một thời khắc thiêng liêng…. Một Noel thật đáng nhớ.

    Sau đó Joseph Mohr được thuyên chuyển đến nơi khác và trong suốt 7 năm sau đó Silent Night đã chẳng bao giờ được cất lên.

    Tình cờ một người thợ tên Karl Mauracher đến sửa đàn cho nhà thờ Thánh Nicholas. Sửa xong, Mauracher mời ông Gruber thử đàn. Khi Gruber lướt phím xướng cho đoạn nhạc mở đầu của Silent Night, Mauracher cảm ngay vẻ đẹp bài hát nên xin đem cả nhạc và lời của “Silent Night” về làng Kapfing. Hai gia đình ban nhạc nổi tiếng Rainers và Strassers được mời thưởng thức và liền bị cuốn hút, quyết định đưa bài hát mới vào các lễ hội âm nhạc mừng Noel. Sau đó nhà Strasser đã đưa Silent Night vòng quanh Bắc Âu. Đến năm 1834, họ biểu diễn cho Đức vua Frederick William đệ IV của nước Phổ, quá ấn tượng, vua truyền lệnh ca đoàn của cung đình phải xướng bài hát này vào mỗi dịp Noel.

    Gia đình Rainers thì lại sang Mỹ vào năm 1839 và đã biểu diễn Silent Night bằng tiếng Đức ngay tại Đài tưởng niệm Alexander Hamilton ở bên ngoài khuôn viên nhà thờ Trinity của New York. Năm 1863, Silent Night được Jane Campbell và John Young dịch sang tiếng Anh. ..

    Silent Night vẫn được cho là của các thiên tài âm nhạc như Haydn, Mozart, Beethoven. Mãi đến 1995, cuộc tranh luận mới chấm dứt khi người ta tìm lại được bản viết tay của Joseph Mohr. Ngay trên góc trên bên phải của bài nhạc, Joseph viết “Soạn nhạc: Fr. Xav. Gruber”.

    GIÁNG SINH VÀ NHỮNG BẤT NGỜ KỲ DIỆU TỪ MỘT CA KHÚC.

    Giáng sinh tưng bừng. Giáng sinh rợp trời hoa đèn dủ sắc mầu lung linh huyền ảo.

    Giáng sinh nếu chưa mang lại niềm vui thánh thiện, thì ít nhất, Giáng Sinh cũng là một niềm vui lớn lao của biết bao gặp gỡ thân tình thương mến.

    Từ rất lâu, Giáng sinh không chỉ là ngày Đại lễ của người Công giáo, nhưng đã trở thành một lễ hội lớn của mọi người thuộc nhiều xã hội và tôn giáo khác nhau.

    Tính phổ cập của Kitô giáo được thể hiện rất rõ qua Đại lễ Giáng sinh, đặc biệt, Giáng sinh còn gắn liền với một bài Thánh ca, tuy là Thánh ca của nhà đạo, nhưng đã được mọi giới qua mọi thời đại nhiệt tình đón nhận và thiết tha yêu mến. Đó là ca khúc : “Đêm thánh vô cùng”, ca khúc này có một lịch sử rất thú vị.

    Bất ngờ và kỳ diệu

    “Stille Nacht” Tiếng Áo, “Silent night”, tiếng Anh hoặc “Đêm thánh vô cùng”

    Thật là thú vị, khi được biết ca khúc vô cùng danh tiếng ấy lại được sáng tác bởi người không phải là nhạc sĩ, trong một hoàn cảnh bất đắc dĩ, buộc phải sáng tác.

    Đêm vọng Giáng Sinh, tức đêm 24/12 năm 1818, cây đàn Organ của Nhà thờ Thánh Nicholas (Nicola-Kirche) ở Obendorf thuộc nước Áo đột nhiên bị hỏng.

    Cha xứ là Linh mục Josef Mohr rất bối rối không biết tính sao, đang lúng túng thì Ngài chợt nhớ tới một bài thơ ngắn mà Ngài đã sáng tác từ 2 năm trước đó (1816). Bài thơ rất đơn sơ này có tựa là “Đêm Thánh”. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, cha xứ muốn có một ca khúc mới dành cho lễ nửa đêm, nhưng làm sao bây giờ, vì Ngài không phải là nhạc sĩ để có thể phổ nhạc bài thơ này ?

    Làm sao bây giờ, khi gần hết hạn và Thánh lễ nửa đêm sắp bắt đầu ?

    Một ý nghĩ lại sáng lên, còn ai khác trong lúc này, ngoài Frank Gruber, là người vẫn thường chơi đàn Organ cho nhà thờ, ông là giáo viên và cũng là bạn thân của Cha. Thế là, Ngài đã tìm gặp ngay F. Gruber để nhờ soạn phần giai điệu và phối âm bài thơ “Đêm thánh”, nhưng …bằng đàn Guitar.

    Lúc đầu, F. Gruber không đồng ý với đề nghị của J. Mohr, vì e rằng giáo dân đến dự lễ sẽ không thích loại âm nhạc được trình bày với đàn guitar vì vốn vẫn quen với đàn Organ xưa nay. Nhưng vì không còn sự lựa chọn nào khác, F. Gruber đành phải chấp nhận và bắt tay vào việc. Hết sức bất ngờ, chỉ trong vài giờ đồng hồ, phần nhạc của ca khúc được hoàn tất.

    Thoạt tiên, những người dự lễ tỏ ra kinh ngạc khi nghe ca khúc được trình bày với đàn guitar, nhưng chẳng bao lâu mọi người bị mê hoặc bởi giai điệu ngọt ngào của bài hát.

    Kể từ đó bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng đã trở thành một bài hát gây ấn tượng nhất cho đêm thánh giáng sinh hài nhi Ki-tô.

    Dẫu cùng niềm tin hay không, người ta cũng không thể không rung động trước những vẻ đẹp, và đặc biệt, là nét đơn sơ nhưng rất sâu sắc của bài hát, chính vì thế đã lan rộng khắp địa cầu như một điều tự nhiên.

    Bài Đêm Thánh Vô Cùng đã được chuyển ngữ sang nhiều thứ tiếng trên hoàn vũ. Người ta còn hát với tiếng Et-ki-mô và với thổ ngữ Ban-tu ở Phi Châu. Không có một âm hưởng nào, đời hay đạo, được quốc tế biết tới nhiều như bài thánh ca Giáng sinh khiêm nhu này của Áo quốc.

    Ca khúc Giáng sinh này đã được dịch ra hơn 300 thứ tiếng trên khắp thế giới, và là một trong những bài hát được yêu thích nhất trong mọi thời đại. Ca khúc vẫn thường được trình diễn không cần nhạc đệm. Mặc dù được sáng tác bởi hai tín hữu Công giáo, nhưng bài hát này đã có một vị trí đặc biệt trong các nhà thờ thuộc Giáo hội Luther.

    Xuyên qua lịch sử Ki-tô giáo, bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng đã trở thành một biểu tượng chân thực cho mầu nhiệm sâu kín, đêm Thiên Chúa giáng trần của người tín hữu Ki-tô.

    Thực tế, có chăng một đêm nào êm dịu hơn, thánh thiêng hơn, cái đêm được nhìn thấy một hài nhi, vị Sứ giả của Trời cao, sinh ra trong một máng cỏ nơi chuồng súc vật, trong khi đó, các gia súc quen thuộc như bò và lừa lại thổi hơi cho ấm hài nhi? Chuyện hoang đường hay sự thật? Thật không quan trọng về điều này, vì niềm tin không thể áp đặt cho ai, nhưng trọng điểm dễ nhận biết là, ca khúc đã khơi động niềm xúc cảm cho nhân loại.

    Thật khá lý thú, khi mà hầu hết các âm hưởng nhạc Giáng sinh truyền thống đều bị mai một hoặc thay đổi, trong khi âm hưởng của bản Stille Nacht vẫn lưu giữ được nguyên vẻ trong sáng về hình thức và cách cấu trúc ban đầu.

    Sự kiện đáng chú ý và cảm động hơn nữa, là bài Đêm Thánh Vô Cùng có từ nguồn gốc Ki-tô giáo đã được các tôn giáo khác đón nhận. Có nơi tại Á Châu còn hát bài này ngay cả trong những đền Chùa Phật giáo…

    Mọi người đều biết rằng trong thế chiến thứ hai, Đức và Mỹ đã đồng ý với nhau có một cuộc hưu chiến trong đêm Giáng Sinh để binh sĩ cùng tham dự thánh lễ nửa đêm, hôm đó mọi người đã cùng nhau hát lên bài “Đêm Thánh Vô Cùng”.

    Từ đầu thập niên 1900, Nhà thờ Thánh Nicholas đã không còn nữa do sự tàn phá của lũ lụt. Một ngôi nhà thờ mới đã được xây dựng bên cạnh một chiếc cầu. Một nhà nguyện nhỏ gọi là “Stille-Nacht-Gedachtniskapelle” (Nhà nguyện Tưởng nhớ Ca khúc Đêm Yên lặng), được dựng lên ngay tại địa điểm của ngôi nhà thờ đã bị phá hủy, và ngôi nhà kế cận được biến thành Nhà bảo tàng.

    Nơi đây, quanh năm thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng đông nhất vẫn là trong tháng 12.

    Hiện nay, trong Bảo Tàng Đêm Yên lặng và Nhà nguyện kỷ niệm tại Oberndorf, mọi người còn được thấy bản viết tay bài thơ “Đêm thánh”của Cha J. Mohr. Cả bản giai điệu viết tay của F. Gruber, giai điệu chịu ảnh hưởng của âm nhạc truyền thống tại các vùng nông thôn, phảng phất những nét đặc trưng của dân ca Áo.

    Cả bài thơ và giai điệu của bài ca đều rất đơn sơ giản dị, nhưng lại gây xúc động vô cùng nên đã chinh phục được toàn thế giới. Điểm nổi bật hơn hết là so với âm điệu của các bài thánh ca Noel khác, bài “Đêm Thánh Vô Cùng” tiêu biểu cho đêm hạ sinh một hài nhi – Thiên Chúa, đến với trần gian và sống với con người. Chính nhờ thế, bài Thánh ca ấy đã giúp cho Đại lễ Giáng sinh thêm rất nhiều ý nghĩa. Thật khó hình dung, lễ Giáng sinh mà lại thiếu bài Thánh ca “Đêm thánh vô cùng”.

    Nhưng ngày lễ không chỉ là dịp để cho ta kỷ niệm, nhớ tới hoặc nghĩ về, vì như thế sẽ chẳng sinh ích lợi bao nhiêu, vì lễ nào rồi cũng qua, như bao nhiêu Thánh lễ đã qua và từng được dự trong đời, nhưng phải là những nhắc nhở và đòi buộc ta phải sống với mầu nhiệm Giáng sinh, nghĩa là Chúa cũng phải được sinh ra, phải lớn lên ở ngay trong lòng mình. Nghĩa là, ta cũng phải đổi thay, phải tự điều chỉnh để nên giống Chúa hơn qua từng ngày. Nghĩa là, ta phải thực sự ý thức, để không thể tự hài lòng và an tâm với lối sống hời hợt, nặng phần trình diễn của các hình thức ồn ào ở bên ngoài.

    Lạy Chúa !

    Xin luôn nâng đỡ và nhắc nhở, để con biết vâng theo ý Chúa, hơn là bắt Chúa phải chiều theo ý con, nhờ thế, con sẽ có được niềm vui và sự bình an mà Thiên thần đã ngợi ca chúc tụng khi hài nhi Giêsu sinh ra năm nào :

    “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Ước gì Đêm Giáng Sinh Mừng Ngôi Hai Con Chúa xuống thế làm Người là Đêm Thánh mà Chúa đang hiện diện trong tâm hồn nơi sâu thẳm của từng người, của lòng tin luôn tràn đầy nguồn ân sủng và Bình An của Chúa.

    ———————————————————————–

    Hoàn cảnh ra đời Silent Night (Đêm Thánh Vô Cùng)

    200 năm qua, cứ vào mỗi đêm Giáng sinh, giai điệu bài thánh ca kinh điển Silent Night – vốn quen thuộc với người Việt Nam với cái tên Đêm Thánh Vô Cùng – đều mang lại những khoảnh khắc thiêng liêng, ấm áp, đưa con người xích lại gần nhau hơn. Đã có nhiều phiên bản dịch lời Việt ca khúc này, nhưng nổi tiếng nhất là bản của Nguyễn Văn Đông, đặc biệt là phiên bản đầu tiên của nhạc sĩ Hùng Lân. Click để nghe Thái Thanh hát Đêm Thánh Vô Cùng (lời Hùng Lân) Click để nàng Hoàng Oanh hát Đêm Thánh Vô Cùng (lời Nguyễn Văn Đông) Bài thánh ca Silent Night được ra đời vào mùa Giáng Sinh năm 1818 tại nhà thờ nhỏ bé thuộc làng Obendorf vùng Salzburg của nước Áo. Bài hát được Franz Xaver Gruber soạn nhạc, còn phần lời là của “thầy Sáu” trong nhà thờ tên là Joseph Mohr. Chuyện kể rằng trước khi về nhà thờ Thánh Nicholas ở Salzburg, Joseph Mohr đã về một nhà thờ ở miền núi xinh đẹp và sáng tác rất nhiều bài thơ. Một mùa đông đầu thế kỷ 19, với niềm xúc cảm khi nhìn miền tuyết trắng phủ và không khí yên ắng của đất trời nơi đây, Joseph đã viết 1 bài thơ ngắn mang tên “Stille Nacht! Heilige Nacht!” (tiếng Anh có nghĩa là “Silent Night! Holy Night!”; tạm dịch “Đêm thinh không! Đêm linh thiêng!). Xem bài khác Hoàn cảnh sáng tác “Xập Xám Chướng” của nghệ sĩ Tùng Lâm Ca khúc Đêm Xuân (Dạ Khúc) và chuyện tình Phạm Duy – Thái Hằng Click để nghe 1 phiên bản Silent Night của 1 cô bé 4 tuổi hát Sau đó Joseph chuyển đến nhà thờ Thánh Nicholas. Vào đêm trước Noel 1818, cây đàn dương cầm của nhà thờ bị hư, mà ngày lễ thì không thể thiếu nhạc nên cha Sở là Joseph Kessler có ý định cho ca đoàn hát cùng tiếng đàn guitar. Khi đó Joseph Mohr nhớ lại bài thơ ngắn năm xưa và đề nghị người chơi đàn cho nhà thờ là Franz Gruber soạn giai điệu dựa theo bài thơ. Vào gần nửa đêm, giáo dân trong vùng tưởng như thường lệ người chơi đàn đại phong cầm trong nhà thờ sẽ tấu lên những bài ca mừng Noel hùng tráng… Nhưng không, chỉ nghe thánh thót luyến láy tiếng đàn guitar nhẹ nhàng nâng giai điệu của Silent Night phảng phất âm hưởng dân ca vùng nông thôn nước Áo chầm chậm lan tỏa ra trong tĩnh lặng thinh không của một thời khắc thiêng liêng… Một Noel thật đáng nhớ. Tuy nhiên sau đó Joseph Mohr được thuyên chuyển đến nơi khác và Silent Night bị rơi vào quên lãng suốt 7 năm. Một ngày kia, tình cờ có một người thợ tên Karl Mauracher đến sửa đàn cho nhà thờ Thánh Nicholas. Sửa xong, Mauracher mời ông Gruber thử đàn. Khi Gruber lướt phím xướng cho đoạn nhạc mở đầu của Silent Night, Mauracher cảm ngay vẻ đẹp bài hát nên xin đem cả nhạc và lời của “Silent Night” về làng Kapfing để trình diễn. Hai gia đình ban nhạc nổi tiếng Rainers và Strassers được mời thưởng thức và liền bị cuốn hút, họ quyết định đưa bài hát mới này vào các lễ hội âm nhạc mừng Noel. Sau đó nhà Strasser còn đưa Silent Night đi trình diễn vòng quanh Bắc Âu. Đến năm 1834, họ biểu diễn cho vua Frederick William đệ IV của nước Phổ. Vì quá ấn tượng, vua truyền lệnh ca đoàn của cung đình phải xướng bài hát này vào mỗi dịp Noel. Gia đình Rainers thì lại sang Mỹ vào năm 1839 và đã biểu diễn Silent Night bằng tiếng Đức ngay tại Đài tưởng niệm Alexander Hamilton ở bên ngoài khuôn viên nhà thờ Trinity của New York. Năm 1859, Silent Night được linh mục John Freeman Young ở giáo phận Floria dịch sang tiếng Anh và nhanh chóng trở thành một nhạc phẩm Giáng sinh được yêu thích ở khắp mọi nơi trên thế giới. Ca khúc có những quãng nhạc bình dị, những ý nhạc ngắn gọn, nhấc lên hạ xuống nhịp nhàng như hơi thở nên rất dễ hát. Silent Night có thể được biểu diễn trên những sân khấu lớn bởi các ngôi sao nổi tiếng hoặc theo chân các em nhỏ đến từng ngôi nhà theo phong tục của phương Tây. Giai điệu của bài hát như một sự nín thở chờ đón một sự kiện vĩ đại sắp xảy ra: Sự ra đời của Chúa Jesus. “… Silent night! Holy night! All is calm, all is bright ‘Round yon Virgin Mother and Child, Holy infant so tender and mild, Sleep in Heavenly peace! Sleep in Heavenly peace!” “… Đêm yên tĩnh! Đêm linh thiêng! Tất cả thật êm đềm, tất cả thật rạng rỡ Quanh Đức mẹ Đồng Trinh và Con của Người Chúa hài đồng thật hiền dịu và tốt lành Ngủ say trong sự yên bình tuyệt vời! Ngủ say trong sự yên bình tuyệt vời!” Click để nghe Silent Night vẫn được cho là của các thiên tài âm nhạc như Haydn, Mozart, Beethoven. Mãi đến 1995, cuộc tranh luận mới chấm dứt khi người ta tìm lại được bản viết tay của Joseph Mohr. Ngay trên góc trên bên phải của bài nhạc, Joseph viết “Soạn nhạc: Fr. Xav. Gruber”. Bài Silent Night được dịch ra 140 ngôn ngữ trên khắp thế giới, nhưng dù được hát với ngôn ngữ nào, thì giai điệu bài hát đều gợi lên một khung cảnh quen thuộc của đêm Giáng sinh xứ lạnh: Khi đó đường phố rất yên tĩnh, vắng lặng, những ngôi nhà ngủ yên, ngập trong tuyết trắng. Khung cảnh ấy đẹp đẽ mơ màng như trong chuyện cổ tích. Đúng 12 giờ đêm, chuông nhà thờ đổ vang và Silent Night được cất vang từ dàn đồng ca, nghe như tiếng vọng từ thiên đường. Đó là một khoảng khắc thiêng liêng, lòng người tràn đầy sự thành kính và biết ơn. Tưởng như trong giây phút, mọi cái xấu, cái ác đều được xóa sạch khỏi mặt đất. Lịch sử vẫn còn ghi lại câu chuyện về đêm hưu chiến Giáng sinh huyền thoại trong Thế chιến thứ nhất tại Mặt trận phía Tây năm 1914. Bất chấp sự phản đối từ chỉ huy, các binh sĩ Đức và Anh đã tự động ngừng giao tranh. Các binh sĩ Đức vừa trang trí khu vực xung quanh chιến hào của họ trong vùng Ypres thuộc Bỉ, vừa ca vang những ca khúc Giáng sinh, trong đó quen thuộc nhất là bài Silent Night bằng tiếng Đức. Khi đó các binh sĩ Anh cũng bắt đầu ra khỏi hào sâu ở bên kia chιến tuyến và đáp lời bằng chính bài hát đó ở phiên bản tiếng Anh. Đó là giây phút diệu kỳ khi hai bên bặt tiếng sung và thay vào đó là tiếng hát ca ngợi Thiên Chúa. Suốt đêm ấy, họ cùng hét vang: “Chúc mừng Giáng sinh” với nhau. Họ thậm chí còn tặng nhau quà lưu niệm cho nhau. Đấy là đêm hoàn toàn không có máu đổ, không có ai phải ngã xuống, đúng nghĩa “Đêm yên tĩnh” như tên gọi của bài hát. Hơn cả vị trí của một bài thánh ca nổi tiếng, Silent Night đã trở thành một biểu tượng của hòa bình. Vào mỗi dịp Giáng sinh, người ta lại lắng nghe với Silent Night như một sự thanh lọc tâm hồn, tìm về với cái Thiện. Ca khúc đem lại cho người nghe một viễn cảnh tốt đẹp về một thế giới hòa bình, không có hận thù, không thiên tai, địch họa, không có tiếng khóc hay sự chia ly, chỉ còn là “đêm yên tĩnh” với những đứa trẻ say ngủ trong vòng tay cha mẹ. Bài Silent Night đã được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại hồi tháng 3/2011. Năm 2013, tạp chí Time, sau một thời gian khảo sát tại Văn phòng bản quyền Mỹ (U.S. Copyright Office) cũng tuyên bố Silent Night là ca khúc Giáng sinh được yêu thích nhất trên thế giới với 733 lần được thu âm, tính riêng từ 1978 trở lại đây.

    -Mary’s Boy Child

    Lời ca khúc được viết giống như một câu chuyện cổ tích, kể về ngày Chúa Giáng Sinh đến với nhân loại. Được nhóm Boney M thể hiện vào năm 1978 và đã nhanh chóng leo lên đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc tại Anh. Từ đó cho đến nay, ca khúc Mary’s Boy Child vẫn luôn là bản nhạc Giáng Sinh được yêu thích vượt thời gian mỗi khi mùa Christmas sắp cận kề.

    Last Christmas

    Do ban nhạc Wham biểu diễn và được phát hành vào năm 1984. Đây là một bài hát Noel bất hủ được nhiều nghệ sĩ cover nhất, mang lại nhiều cảm xúc, đặc biệt là với những người Châu Á. Bài hát kể về câu chuyện của một chàng trai cuồng si, hết mình vì tình yêu trong mùa Giáng Sinh. Nhưng người con gái anh yêu lại rời bỏ ra đi, khiến anh ấy cô đơn, tuyệt vọng trong mùa Noel lạnh giá.

    We Wish You A Merry Christmas

    Nếu nói đến những giai điệu về dịp Noel thì không thể bỏ qua ca khúc We Wish You A Merry Christmas chân phương, quen thuộc với biết bao thế hệ trong hơn 500 năm qua. Bài hát được dành cho tất cả mọi người và bất cứ ai cũng có thể cất cao giọng hát của mình trong đêm Giáng Sinh. Mang giai điệu nhẹ nhàng, câu từ đơn giản nhưng ca khúc này lại được đóng nhận nồng nhiệt trên toàn thế giới.

    Joy To The World

    Bài thánh ca này nổi bật vì được phổ biến rộng khắp trong các giáo hội Cơ Đốc, chuyền tải thông điệp niểm vui và tình yêu thế chỗ cho tội lỗi và buồn đau trong đêm Noel. Bản nhạc Giáng Sinh này có gia điệu rộn ràng, mang lại không khí đêm mùa đông se lạnh nhưng đầy hân hoan và luôn khiến cho người nghe có cảm giác ấm áp khi thưởng thức trong nhà thờ cùng một dàn đồng ca lớn

    Feliz Navidad

    Cuối cùng là bài hát ấn tượng với đoạn điệp khúc đơn giản: “I wanna wish you a Merry Christmas from the bottom of my heart”. Thông điệp ca khúc đơn giản nhưng lại quá đỗi ngọt ngào. Đã đưa Feliz Navidad trở thành bài hát mà mỗi khi giai điệu của nó ngân lên trong đêm Christmas, tất cả mọi người đều muốn nhảy múa xung quanh cây thông Noel trong không khí se lạnh ngày cuối đông.

    Silent Night

    Silent Night là bài hát Giáng sinh nổi tiếng nhất thế giới. Bài hát mang giai điệu du dương, ca từ nhẹ nhàng, theo thông điệp về tình yêu, hòa bình khiến bạn cảm nhận được sự bình yên và ấm áp của đêm Giáng sinh.

    Nếu bạn thích nghe nhạc Giáng sinh theo đúng từng thời điểm thì thứ tự bấm máy chọn bài chắc sẽ như thế này: 1.It’s beginning to look a lot like Christmas; 2.Last Christmas; 3.Driving home for Christmas; 4.Run Rudolph Run; 5.Winter Wonderland; 6.Santa Claus is Coming to Town; 7.Jingle Bell Rock; 8.Dancing around the Christmas tree; 9.Little Drummer Boy; 10.Silent Night; 11.Mary’s Boy Child; 12.We wish you a Merry Christmas; 13.Please Come Home for Christmas; 14.A Merry Little Christmas và kết thúc bằng niềm hân hoan vô vàn với bài… Feliz Navidad.

    Theo tiếng Tây Ban Nha, Feliz Navidad có nghĩa như Merry Christmas (tiếng Anh); Joyeux Noel (tiếng Pháp); Buon Natale (tiếng Ý) và Mừng Giáng sinh trong tiếng Việt. Năm 1970, có một nghệ sĩ 25 tuổi, có tài sáng tác và đàn ca rất hay tên là José Feliciano chuẩn bị phát hành album nhạc Giáng sinh.

    Đĩa nhạc có bao bì tuyệt đẹp, trông như một gói quà giấy màu vàng đồng thắt nơ xanh lá cây và đỏ, đúng màu truyền thống Noel rất quen thuộc với nhãn quan người Âu Mỹ. Đĩa nhạc mang chính tên của chàng nghệ sĩ tác giả José Feliciano. Mọi việc sáng tác, thiết kế, ghi âm đã gần hoàn tất thì nhà sản xuất Rick Jarrard nêu ý kiến rằng José nên có một ca khúc Giáng sinh mới hoàn toàn, hát tiếng Tây Ban Nha để thêm lực hút cho album.

    Suy nghĩ mãi không ra ý, một buổi chiều gần đến thời hạn phải kết thúc dự án, José cảm thấy nhớ thời mình còn là chú nhóc con nhà nghèo sống ở Puerto Rico rồi lại là những ngày nghèo túng khác ở New York. Nhớ âm thanh cuộc sống là chính, vì anh nào có thấy chi đâu.

    José Monserrate Feliciano Garcia chào đời ngày 10 Tháng Chín 1945 tại Lares, Puerto Rico, con trai thứ tư trong gia đình có đến 10 người con trai. José sinh ra đã bị mù. Bù lại, thính giác của anh phát triển hơn mức bình thường nên khi ba tuổi đã biết gõ nhịp trên lon thiếc khi nghe chú của mình khảy đàn cuatro (đàn giây, nhỏ hơn guitar bình thường).

    Theo bố mẹ và các anh, em trai qua Mỹ định cư khi năm tuổi, chú nhóc José không cảm thấy lạc lõng nhiều lắm nhờ gia đình có thuê căn hộ trong khu Spanish Harlem ở New York City. Tự mày mò tập chơi accordion khi lên bảy, có cây guitar đầu đời khi lên chín, mỗi ngày tập chơi 14 tiếng và để rồi cũng năm chín tuổi ấy đã lần đầu xuất hiện trước công chúng, trong nhà hát Teatro Puerto Rico, khu phố Bronx.

    Đó là những năm 1950 khi mà nhạc rock đang trỗi dậy nhưng jazz vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống người dân Mỹ. José thích nghe cả Ray Charles lẫn Sam Cooke. Nhưng ở nhà trường thì anh học guitar classic. Năm 17 tuổi, José nghỉ học, đi làm để phụ bố mẹ nuôi các em.

    Đàn hát bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha ở ven đường lẫn trong các quán rượu ở khu Greenwich Village rồi chìa cái nón ra để ai muốn cho bao nhiều thì cho. Vậy mà từng bước, anh trở thành nghệ sĩ có danh thơm biểu diễn các loại nhạc Latin, jazz, pop, rock. Và rồi José đã có những lúc đồng sáng tác và biểu diễn cùng những siêu sao như Johnny Cash, Jimi Hendrix, Diana Ross, Quincy Jones…

    Và cảm hứng đã đến, ca khúc Feliz Navidad ra đời, trở thành một trong những “bài tủ” nổi tiếng nhất của José Feliciano cùng với những bài do anh cover của các nghệ sĩ/ban nhạc khác (điển hình thành công nhất là Light my fire của nhóm The Doors và California Dreamin’; Che Sera…). Lời ca ngắn gọn bằng hai thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha, dễ hiểu, gợi lên những hình ảnh vui tươi, lạc quan trong bối cảnh Giáng sinh và năm mới, bám vào lòng người nghe và cứ ở lại trong đó mỗi khi mùa Giáng sinh về.

    Từ đầu thập niên 1970 đến nay, Feliz Navidad đã được ghi âm bởi vô số nam nữ nghệ sĩ tài hoa, riêng bài do chính José Feliciano trình bày thì được yêu thích và yêu cầu streaming, download nhiều nhất. ASCAP công nhận Feliz Navidad là một trong 25 ca khúc Giáng sinh được nghe nhiều nhất mọi thời trên thế giới. Năm 2020, kỷ niệm 50 năm bài này ra đời, người ta tổng kết rằng nó đã được trình bày ở gần 90 nước, từ Argentina, Ấn Độ, Canada, Israel, Na Uy, Nam Phi, New Zealand đến Nhật… Và nó cũng được khắc ghi vào Grammy Hall of Fame.

    Tháng Mười Một 2021, José Feliciano tung album Behind This Guitar để kỷ niệm 50 năm phát hành Feliz Navidad, rồi tiếp thêm album Behind this guitar deluxe với bản ghi âm Feliz Navidad đặc biệt, quy tụ tiếng đàn tiếng hát của 30 nghệ sĩ đến từ khắp thế giới, từ Lin-Manuel Miranda đến anh em nhà Jonas Brothers. Ngoài ra ông còn hát tuyệt tác Eagle when she flies với nữ hoàng nhạc country Dolly Parton!

    ——————————————————————–

    Feliz Navidad, Feliz Navidad. Feliz Navidad, prospero ano y felicidad

    I want to wish you a Merry Christmas, I want to wish you a Merry Christmas

    I want to wish you a Merry Christmas from the bottom of my heart….

    Thánh ca là nhạc hát trong nhà thờ; tình ca là nhạc có tình yêu, thường là tình yêu nam nữ. Có một loại nhạc Giáng Sinh nói về Giáng Sinh chỉ trong khía cạnh văn hóa thuần túy, không sâu vào tâm linh như thánh ca. Đây là loại nhạc Giáng Sinh thế tục, ta có thể gọi như thế, hay ta tạm gọi là dân ca, một loại nhạc truyền thống dân tộc, không tôn giáo, về Giáng Sinh.

    Hôm nay chúng ta nghe qua các dân ca Giáng Sinh quốc tế rất phổ thông, và chúng ta đều đã nghe trước đây, vì chúng quá phổ thông tại mọi nơi trên thế giới. Các video clips dưới đây đều có lời nhạc tiếng Anh để các bạn tiện theo dõi và hát theo. Trước mối bài hát chúng ta sẽ có một giới thiệu ngắn cho bài.

    Và chúng ta có các bài sau đây:

    1. Deck The Halls

    2. Carol of the Bells

    3. It’s the Most Wonderdful Time of the Year

    4. Let It Snow

    5. The Little Drummer Boy

    6. O Christmas Tree

    7. The Most Wonderful Day of the Year

    8. We Need A Little Christmas

    9. Rudolph the Red-Nosed Reindeer

    10. Jingel Bells

    11. Jengel Bell Rock

    12. Santa Claus Is Coming To Town

    13. We Wish You A Merry Christmas

    14. 12 Days Of Christmas

    15. Rockin’ Around The Christmas Tree

    16. Feliz Navidad

    Mời các bạn !

    1. Deck the halls

    “Deck the Halls” (đầu đề nguyên thủy là “Deck the Hall”) là một bài hát Giáng Sinh / Năm Mới truyền thống của dân Welsh, ở vùng Wales, là một nước thuộc, Liên Hiệp Hoàng Gia Anh (United Kingdom of England) ở phía tây nước Anh. Điệp khúc fa-la-la có lẽ vao thời nguyên thủy là nhạc mở đầu của đàn harp. Bản nhạc này có từ thời thế kỷ 16, và là một phần của một bản nhạc mùa đông, Nos Galan.

    Điệp khúc Fa-la-la có từ một bản nhạc luân vũ thời trung cổ và dùng trong bài Nos Galan. Các phần còn lại của lời nhạc là đo người Mỹ sáng tác khoảng đầu thê kỷ 19.

    2. Carol of the Bells

    “Carol of the Bells” là bài nhạc Giáng Sinh do nhà soan nhạc người Ukraine tên Mykola Leontovych soạn nhạc, với lời nhạc tiếng Anh do Peter J. Wilhousky viết sau đó. Ngoài tên Carol of the Bells, bản nhạc này còn được biết đến trong thế giới tiếng Anh với tên “Ukrainian Bell Carol”. Âm diệu của bản nhạc là một âm điệu Ukraine gọi là “Shchedryk”, với các nhóm 4 bốn gọi là “ostinato motif” rất được ưa chuộng và làm bản nhạc rất nổi tiếng trong thế giới tiếng Anh.

    3. It’s the Most Wonderful Time of The Year – Andy Williams

    “It’s the Most Wonderful Time of the Year” được viết năm 1963 bởi Edward Pola và George Wyle, được thu âm năm đó và làm nổi tiếng bởi Andy Williams trong album Giáng Sinh tên “The Andy Williams Christmas Album”.

    4. Let It Snow – Dean Martin

    “Let It Snow! Let It Snow! Let It Snow!”, còn có tên “Let It Snow”, là bài hát do Sammy Cahn viết lời và nhạc sĩ Jule Styne viết nhạc năm 1945. Bản nhạc được viết vào tháng 7 năm 1945 trong thời gian trời nóng kỷ lục ở California! Được ghi âm lần đầu bởi Vaughn Monroe, bản nhạc trở thành nổi tiếng, lên đến số 1 trên bảng âm nhạc Billboard. Và mặc dù được xem là nhạc Giáng Sinh, nhưng từ Giáng Sinh không hề có trong bài.

    5. The Little Drummer Boy

    “The Little Drummer Boy,” có tên nguyên thủy là “Carol of the Drum,” do nữ nhạc giá cổ điển người Mỹ tên Katherine Kennicott Davis viết năm 1941. Đến năm 1955 bài hát được Trapp Family Singers thu âm và năm 1958 được ban hợp xướng Harry Simeone Chorale thu âm và làm nổi tiếng từ đó.

    Lời nhạc là lời kể chuyện của một câu bé nghèo kể lại chuyện cậu được Ba Vua gọi đến máng cỏ của Thánh Gia, và vì không có quà cho Chúa Hài Đồng, cậu bé đánh trống với sự đồng ý của Mẹ Maria, “Tôi chơi thật tốt cho Chúa” và “Chúa mỉm cười với tôi”.

    6. O Christmas Tree

    “O Tannenbaum” trong tiếng Đức và “O Christmas Tree” trong tiếng Anh là bài hát Giáng Sinh của Đức.

    A Tannenbaum là một loài thông ở Đức, thường gợi hứng cho các nhạc sĩ Đức soạn nhạc về “Tannenbaum”. Bản Tannenbaum đầu tiên có lẽ viết từ thế kỷ 15. Bài Tannenbaum nổi tiếng nhất là bài viết lời năm 1824 bởi nhạc sĩ organ Leipzig và nhà soạn nhạc Ernst Anschütz. Nhạc là nhạc của một bài dân ca cổ tên (Lauriger Horatius).

    7. The Most Wonderful Day of The Year

    “The Most Wonderful Day of The Year” do Johnny Marks viết năm 1964. Johnny Marks là nhạc sĩ chuyên viết nhạc Giáng Sinh và có một số bài nổi tiếng khắp thế giới như “Rudolph, the Red-Nosed Reindeer,” viết nhac với lời là một bài thơ do người anh rể viết.

    8. We Need A Little Christmas

    “We Need a Little Christmas” là môt bản nhạc Giáng Sinh trong nhạc kịch Broadway của Jerry Herman tên Mame, hát lần đầu tiên bởi Angela Lansbury trong nhạc kịch đó năm 1966.

    Trong nhạc kicnh, Mame hát bản nhạc này sau khi cô bị mất hết tài sản vì thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1929, và Mame quyết định là cô, cậu cháu trai Patrick, và hai người làm trong nhà “cần một chút Giáng Sinh” cho vui một chút.

    9. Rudolph the Red Nosed Reindeer

    “Rudolph the Red-nosed Reindeer” laf một chú nai tưởng tượng với đầu mũi đỏ chói. Là chú nai thứ chín của Ông Già Noel, dẫn đầu đoàn nai kéo xe của Ông Già Noel. Vì thế cậu còn có tên “Nai Thứ Chín Của Ông Noel”. Chính đầu mũi sáng chói của Rudolph soi sáng đường đi cho đoàn nai kéo xe đưa Ông Già Noel đi trong đêm.

    Rudolph xuất hiện lần đầu tiên trong tập sách mỏng của Robert L. May năm 1939 do công ty Montgomery Ward phát hành. Bản nhạc Rudoff the Red-nosed Reindeer do Johnny Marks viết năm 1964.

    10. Jingle Bells

    “Jingle Bells” là một trong những bản nhạc Giáng Sinh được hát nhiều nhất trong thế giới tiếng Anh. Bản nhạc được James Lord Pierpont (1822–1893) viết năm 1857 và phát hành với tên “One Horse Open Sleigh”.

    11. Jingel Bell Rock

    “Jingle Bell Rock” do Joseph Carleton Beal (1900–1967) và James Ross Boothe (1917–1976) viết. Beal là một người làm nghề Pulbic relations ở New Jersey và Boothe là một nhà văn ở tiểu bang Texas. Bản nhạc được Bobby Helms ghi âm và làm nổi tiếng năm 1957.

    12. Santa Claus Is Coming To Town

    “Santa Claus is Coming to Town” do John Frederick Coots và Haven Gillespie viết, và hát lần đầu tiên bởi Eddie Cantor trên radio tháng November 1934. Bản nhạc thành công tức thì với 100 nghin tờ nhạc bán ngày hôm sau và hơn 400 nghìn bản bán trong dịp Giáng Sinh.

    13. We wish you a Merry Christmas

    “We Wish You a Merry Christmas” là một bài hát Giáng Sinh của Anh từ vùng miền tây nước Anh thế kỷ 16. Vào thời đó những người giàu có truyền thống phát kẹo, nhất là kẹo Sôcola, cho những đoàn hát nhạc Giáng Sinh trên đường phố. Đây là một trong ít bản nhạc Giáng Sinh có nhắc đến Năm Mới trong đó.

    14. 12 Days of Christmas

    “The Twelve Days of Christmas” là 12 ngày lễ hội bắt đầu từ ngày 25 tháng 12 đến ngày 5 tháng 1. 12 ngày này có tên là Christmastide hay Twelvetide. Ngày 6 tháng 1, là ngày Lễ Ba Vua, chứng tỏ qiuyeen lực của Giêsu là Con Thượng Đế đối với Ba Vua đến từ phương Đông.

    “The Twelve Days of Christmas” là bài hát Giáng Sinh kể hàng loạt quà tặng quý tặng nhau trong 12 ngày đó. Dù là phát hành lần đầu tiên ở Anh năm 1780, có bằng chứng cho rằng bài nhạc có nguồn gốc từ Pháp trước đó.

    15. Rockin’ Around The Christmas Tree

    “Rockin’ Around the Christmas Tree” do nhạc sĩ nhạc Giáng Sinh Johnny Marks viết và ca sĩ Brenda Lee ghi ăm 1958, nhưng phải đến 1960 khi Brenda Lee nổi tiếng bản nhạc mới nổi tiếng theo.

    16. Feliz Navidad

    “Feliz Navidad” là bài nhạc Giáng Sinh / Năm Mới do ca nhạc sĩ người Puerto Ric0 tên José Feliciano viết năm 1970. Với điệp khúc Tây Ban Nha giản dị, câu chào Giáng Sinh và Năm Mới truyền thống–“Feliz Navidad, próspero año y felicidad” hay “Merry Christmas, and a happy New Year”–và câu tiếng Anh đơn giản–“I wanna wish you a Merry Christmas from the bottom of my hear–bài nhạc nhanh chóng trở thành bản nhạc Giáng Sinh kinh điển trong thế giới tiếng Anh.

    Vương Trùng Dương.

    ——————————————————————————————————————————————————————-

    Xmas Song: ‘Feliz Navidad’

    José Feliciano‘s “Feliz Navidad,” originally released in 1970, celebrates the most wonderful time of the year in both English and Spanish. The repeating chorus, “Feliz Navidad / Próspero año y felicidad,” means “Merry Christmas, a prosperous year and happiness.”

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Próspero año y felicidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Próspero año y felicidad

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    From the bottom of my heart

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    From the bottom of my heart

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Próspero año y felicidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Próspero año y felicidad

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    From the bottom of my heart

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    From the bottom of my heart

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Próspero año y felicidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Feliz Navidad

    Próspero año y felicidad

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    From the bottom of my heart

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    I wanna wish you a Merry Christmas

    From the bottom of my heart…. 

    VIỆT HẢI

  • ĐỖ BÌNH, PARIS,  NGHIÊN CỨU

    Thi Họa Sĩ Vũ Hối – Đỗ Bình

    Tâm hồn con người là một thế giới mênh mông muôn màu và đầy bí ẩn. Đối với người nghệ sĩ, sự đa cảm lại càng bén nhạy hơn vì chỉ một thoáng cảm xúc về ngoại cảnh cũng đủ biến hiện thực thành ý niệm khởi đầu cho một tác phẩm. Nếu hội họa là nghệ thuật của đường nét ánh sáng màu sắc, nhạc là nghệ thuật của âm thanh, tiết tấu và thơ là nghệ thuật của lời, thì sáng tạo nghệ thuật là tố chất cần thiết của người nghệ sĩ. Thi ca và hội họa từ thời cổ đại đến nay về hình thức, cấu trúc đã có nhiều thay đổi, nhưng giá trị đính thực vẫn hướng về chân thiện mỹ.

    Từ ngàn xưa người Việt đã biết vẽ tranh nặn tượng điêu khắc. Ngành mỹ thuật mang tính dân gian, trang trí. Những loại hình thể đó truyền lại nhau theo lối thủ công nghiệp. Tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống Hà Nội, ngành điêu khắc, đúc tượng, các đồ thờ tự bằng sơn mài chỉ “cha truyền, con nối”, không có trường sở chính thức để nghiên cứu học hỏi về mỹ thuật. Theo những tài liệu còn lưu trữ ở thư viện Paris, lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam thật sự khởi sắc từ khi có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (L’école Supérieure des Beaux-Art de L’Indochine). Trường được thành lập ở Hà Nội năm 1925 do họa sĩ Victor Tardieu, một người Pháp làm hiệu trưởng suốt 12 năm. Trường đã được sự cộng tác đắc lực của họa sĩ Joseph Inguimberty, giảng dạy từ năm 1925 cho đến khi bị giải thể năm 1945 (vì chiến tranh). Họa sĩ Victor Tardieu thuộc trường phái Cổ điển cuối thế kỷ 19 và từng là bạn học với danh họa Henri Matisse, Raoult. Họa sĩ Joseph Inguimberty tốt nghiệp trường Trang Trí Quốc Gia Pháp. Ông yêu đất nước Việt Nam nên có nhiều họa phẩm sơn dầu, rất nhập thần về phong cảnh đồng quê Việt.

    Họa sĩ Victor Tardieu và Joseph Inguimberty là hai họa sĩ bậc thầy đã hướng dẫn các sinh viên Việt Nam làm quen với kỹ thuật hội họa phương Tây, biết những nét căn bản của trường phái Cổ điển. Với những kiến thức được học hỏi bài bản, sau khi tốt nghiệp, các họa sĩ có thể tự chọn cho mình một trường phái khác, một con đường riêng: Tân cổ điển, Ấn tượng, Lập thể, Trừu tượng, Siêu thực, nhưng vẫn phát huy truyền thống nghệ thuật của nước nhà như lụa và sơn mài. Từ đó ngành Mỹ Thuật của Việt Nam mới có những tên tuổi lớn: Tô Ngọc Văn, Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Công Văn Chung, Đỗ Đức Thuận, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Thạch Lam, Nguyễn Tường Lân, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường (người vẽ áo dài kiểu Le Mur), Lưu Văn Sìn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Văn Tỵ, Trịnh Hữu Ngọc, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Dung, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Đức Nùng, Dương Hướng Minh, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Trọng Hợp, Phan Tại, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm, Tạ Khúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Phan Thông, Lê Thanh Đức, Mai Văn Hiến, Trần Duy, Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Kim Đồng, Văn Cao, Văn Giáo, Lê Quốc Lộc, Phạm Viết Song, Tạ Tỵ, Phạm Đăng Trí…

    Từ ngàn xưa “Cầm, Kỳ, Thi, Họa” đánh đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh là bốn cái thú của kẻ tao nhã. Nhưng biết đàn làm thơ và vẽ tranh chưa hẳn là nghệ sĩ. Hành trình đi tìm Chân Thiện Mỹ của nghệ thuật là bước vào con đường thênh thang nhưng đầy gian nan khó khăn mà người nghệ sĩ phải tự mình tìm lối đi riêng. Trong làng văn nghệ có những trường hợp nghịch lý: Người đã có tác phẩm được ra mắt công chúng chưa hẳn đã hay hơn những người có tác phẩm nhưng chưa in, hoặc ít phổ biến. Giá trị đích thực của một tác phẩm không hẳn được công chúng hoan nghênh khi mới ra mắt, mà giá trị đích thực phải qua thử thách với thời gian và được công chúng yêu mến lưu truyền lâu dài, hoặc được giới nghiên cứu phê bình văn học công nhận. Trong giới nghệ sĩ, những người vừa là thi sĩ vừa là họa sĩ mà mỗi lãnh vực đều xuất sắc mang dấu ấn, nhưng được công chúng biết đến thì không nhiều! Có người, do thiên phú, khởi đầu con đường văn nghệ chỉ làm thơ và có những bài thơ xuất sắc độc đáo, nên được công chúng biết, rồi sau đó mới học vẽ và miệt mài với cây cọ mảng màu để thành họa sĩ. Ngược lại có người đã là họa sĩ, sau yêu thơ, nghiên cứu thơ, làm thơ, đắm đuối vì thơ thành thi sĩ. Đó là những người đam mê và am tường thấu đáo bài bản về hai bộ môn nghệ thuật. Vào thập niên 60 của thế kỷ trước ở miền Nam, những nghệ sĩ có thi phẩm trình làng và tranh triển lãm không nhiều. Họ được công nhận là thi họa sĩ: Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, thi họa sĩ Vũ Hối, thi họa sĩ Phạm Tăng, thi họa sĩ Mùi Quý Bồng, thi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật, thi họa sĩ Lưu Nguyễn Đạt, thi họa sĩ Huỳnh Ngọc Điệp, thi họa sĩ Bồng (Phạm Văn Thoại), thi họa sĩ Phạm Kế Viêm, v.v. (GS Phạm Kế Viêm và GS Phạm Văn Thoại là thi họa sĩ có tài nhưng rất khiêm nhường, ít muốn trình bày tác phẩm của mình nên người đời chỉ biết hai ông ở lãnh vực dạy học).

    Những nghệ sĩ khi ở trong nước đã là họa sĩ hoặc thi sĩ, ra hải ngoại sau năm 1975 đeo đuổi thêm ngành nghệ thuật khác như thi họa sĩ Vi Vi Võ Hùng Kiệt, (họa sĩ Vi Vi tốt nghiệp Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, có nhiều tác phẩm tranh màu nước, sơn dầu nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 và ở hải ngoại, được giải thưởng cao quý của chính phủ Canada với những bức tượng điêu khắc), thi họa sĩ Nguyễn Tư ở Úc, thi họa sĩ Diễm Châu Cát Đơn Sa ở Mỹ, v.v. Ở Pháp, Paris nói riêng, những người theo ngành nghệ thuật tạo hình không nhiều. Đây là đất của các danh họa quốc tế lâu đời. Muốn có tên trên tháp vàng đó, ngoài tài năng xuất chúng, còn phải quen biết những danh họa có tầm vóc quốc gia, quốc tế, những tổ chức uy tín có thế lực tiền tài của người bản xứ đỡ đầu giới thiệu. Những họa sĩ VN dù có tài nhưng không đủ tài chánh và phương tiện làm những cuộc triển lãm lớn để quảng bá những tác phẩm của mình đến giới thưởng lãm, qua những phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí… Vì thế họ đành chấp nhận chờ thời, và vẫn miệt mài theo đưổi con đường nghệ thuật. Vào thế kỷ 19, khu nghệ sĩ Montparnasse và hiện nay là khu nghệ sĩ trên đồi Montmartre có biết bao nghệ sĩ có tài. Họ là những họa sĩ thuộc nhiều quốc tịch, trong đó có một số ít là người Việt. Cũng ở những nơi này đã có một số danh họa Pháp từng sống và hành nghề, nhưng rất tiếc họ đã mất trước khi tranh của họ nổi tiếng được thế giới biết. Giá mỗi bức tranh tính bằng vàng! Những họa phẩm mới ngày nào còn nằm trên những con đường nhỏ, những ngõ cụt bày bán với giá hời cho khách du lịch, bỗng một số bức họa như có phép nhiệm mầu tỏa sáng, được nâng niu đưa vào trưng bày ở viện bảo tàng quốc gia để người đời chiêm ngưỡng. Tranh cũng có số phận!

    Những họa sĩ Việt thành danh ở Pháp có nhiều cuộc triển lãm và giải thưởng cao ưý, nay đã mất như Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Điềm Phùng Thị, Dương Cẩm Chương, Vĩnh Ấn, Thái Tuấn, Minh Châu Thái Hạc Oanh, Phạm Tăng, Lê Bá Đảng, Anh Trần, Vũ Thái Hòa. Những họa sĩ thành danh, còn sống, có nhiều cuộc triển lãm, có người dạy ở các trường Cao Đẳng Mỹ Thuật vùng Paris: GS Nguyễn Cầm, GS Lê Tài Điển, GS Đỗ Văn Bình, GS Vũ Công Minh…. Họa sĩ Võ Hoài Nam, Nguyễn Đức Tăng, Hồng Loan, Vương Đình Thư, Nguyễn Minh, Hoàng Đình Tuyên, Nguyễn Long Diên, Oanh (Phạm Hoàng Oanh, con thứ của BS Phạm Khắc Hy, cựu Đại Sứ đầu tiên của VNCH tại Pháp), Duy Nga, trưởng nữ họa sĩ Duy Liêm (tranh sơn mài Thành Lễ, bìa nhạc…), Phạm Trọng Chánh (điêu khắc), Huỳnh Thanh Lý (vẽ áo dài), Vương Thu Thủy (điêu khắc), Văn Tấn Phước (thư họa)…. Những họa sĩ trung niên như Vũ Đình Lâm (điêu khắc), Vũ (Trần Trọng Vũ), con trai nhà thơ Trần Dần, Vũ Hòa, Ngọc Tuyết, Trang Thanh Trúc, Trúc Tiên, Julien Nguyen Verhaeghe (TS Thẩm Mỹ Học, phê bình nghệ thuật, con trai trưởng nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thanh & Nguyễn Mây Thu, học trò của Lê Tài Điển, Nguyễn Cầm).

    Tác giả và Tác phẩm:

    Trong thế giới vô tận của nghệ thuật đã có biết bao nhiêu nhiều nghệ sĩ tài danh đã để lại cho đời những tác phẩm tuyệt tác. Xin có đôi dòng cảm nhận về con người và tác phẩm của thi họa sĩ Vũ Hối. Ông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Do thiên phú, Vũ Hối đã biết làm thơ và hoa tay vẽ đẹp ngay từ thuở nhỏ. Ông lấy bút hiệu là Hồng Khôi năm 1957, nhưng sau này ông ký tên thật làm bút hiệu. Ông có dáng người cao dong dỏng, bản tính đôn hậu dễ mến, hay cười, rất khiêm nhường và chân tình khi xử thế với bằng hữu, thêm có óc khôi hài, thỉnh thoảng xen câu chuyện tếu làm mọi người vui. Là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế, ông được mời vẽ chân dung Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại Tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings in Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting). Là nghệ sĩ Á Châu duy nhất được vinh danh về Sáng Tạo Nghệ Thuật cho thế giới, tại Atlanta, Hoa Kỳ ngày 5-11-1994.

    Vũ Hối có tên trong:

    – Văn Học Tự Điển thời Việt Nam Cộng Hòa.

    – Bách Khoa Tự Điển Larousse, bộ tự điển nổi danh nhất của Pháp và thế giới.

    – Tự Điển Danh Nhân Thế Giới (Dictionary of International Biography) ấn hành tại Anh Quốc năm 1998.

    – 5000 Personalities of The World, do American Biographical Institute ấn hành năm 2000.

    – Nhà Thư Họa Việt Nam duy nhất được ghi tên trong Tuyển Tập Thư Họa Bậc Thầy Đông Phương, ấn hành tại Tokyo, Nhật Bản năm 2006, Bộ 6 (International Editon).

    Ngoài danh tài về họa, Vũ Hối còn là một nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, đã xuất bản nhiều thi tập:

    – Mùa Giao Cảm (thơ, 1958). Vần Thơ Màu Trắng (thơ, 1959) được phiên dịch ra Anh và Pháp ngữ năm 1959 tại Sài Gòn. (La Poésie de Couleur Blanche).

    – Những Dấu Chân Đi (truyện ngắn), xuất bản năm 1960 và 1963. Chiêm Bao Trở Giấc (thơ), xuất bản năm 1997.

    – Nghìn Thương Đất Mẹ (thơ và thư họa), năm 1999.

    – Thơ Nhạc Trong Tranh (CD, 2000). Mây Ngàn (thơ, thư họa Norway 2003). Nghệ Thuật (thơ, thư họa 2007). Thư Họa Truyện Kiều, Nguyễn Du 2003).

    Thơ là cõi vô tận nên không thể nào trang trải tâm hồn nhà thơ chỉ qua ít dòng trên trang giấy. Do đó, mời qúy đọc giả thưởng thức vài bài thơ tác giả không lấy bút hiệu Hồng Khôi, mà ký tên thật. Bài thơ “Men Chiều Cali” đăng trong tập tuyển Ba Cụm Hoa Tình Yêu, xuất bản năm 1997. Nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh và Vũ Hối đã ký tặng người viết tại Paris ngày 21.06. 1997. Bài thơ như sau:

    Vẽ cả trong tranh khung trời lộng gió

    Vẽ cả men tình, một độ lên ngôi

    Nâng niu ta vẽ cành hoa Nhân Ái

    Những đóa hoa cười, nở mãi trên môi!

    Nắn nót tình thơ, khung trời lộng gió

    Mười ngón tay hoa, vướng nhạc bỗng trầm…

    Ta về đâu ướp lạnh miền Đông Bắc

    Nhớ Cali, từng vạt nắng hanh vàng

    E ấp hành trang: men chiều kỷ niệm

    Phong kín gửi người: nỗi chứa chan!

    Vẽ người thương, giữa khung trời lộng gió,

    Vẽ mình ta, ngồi đếm nỗi cô liêu

    Vẽ cánh chim rừng, một trời lạc xứ

    Cali ơi! Xin gởi nồng ấm men chiều!

    Tác giả đã diễn tả nỗi lòng mình, một kẻ tha hương tạm dung nơi miền Đông Bắc Mỹ lạnh lẽo mà chan chứa tình người nhưng vẫn thèm nắng ấm Cali như nắng quê nhà, để sưởi nỗi nhớ về một quê hương xa ngàn dặm. Chất họa trong con người thi sĩ qua hình ảnh trong câu: “Vẽ cánh chim rừng, một thời lạc xứ”. Đây không phải là ngôn ngữ hình tượng của hội họa, nhưng ngôn ngữ mang chất ẩn dụ để diễn tả những thân phận tha hương với nỗi niềm cô đơn. Nhưng trong câu “Khung trời lộng gió” có những hình tượng, thơ và họa đều có thể vẽ và tả được. Nhưng có câu “Vẽ cả men tình một độ lên ngôi” thì chỉ có thơ mới diễn tả được, mà những màu sắc và đường nét của hội họa không thể vẽ được! Thơ Vũ Hối nhẹ nhàng, tha thiết, đượm chất nhân ái. Nhà thơ không mang thù hận vào thơ dù đã mất mát, trải qua nhiều năm tháng trong ngục tù CS, và để lại nơi chốn đọa đày đó một phần ánh sáng! Vận nước thay đổi, lòng người gian dối, hiểm ác đối xử nhau nghiệt ngã, thi sĩ vẫn gượng cười, vẫn giữ niềm tin hướng về chân thiện mỹ. Bài thơ lục bát:

    Nửa

    Đời ta nửa tỉnh, nửa say

    Nửa đen, nửa trắng, nửa ngày, nửa đêm

    Nửa vui với cảnh ưu phiền

    Nửa sông cồn cát, nửa triền núi cao

    Nửa thương, nửa nhớ, nghẹn ngào

    Nửa cười tha thiết, nửa ngao ngán tình

    Nửa hồn đau kiếp nhân sinh

    Chênh vênh nửa cuộc hành trình bể dâu

    Chập chờn nửa giấc canh thâu

    Cười say bên ngọn đèn dầu nửa khuya.

    Đó là tiếng lòng, nỗi u uất như tiếng thở dài về thân phận mình, thân phận của kiếp người, rộng lớn hơn là của đất nước mà một phần lãnh thổ đang bị lấn chiếm bởi ngoại xâm. Nhà thơ đã trút hết tâm tư dệt thành câu thơ buồn. Câu thơ mở đầu: “Nửa tỉnh, nửa say”. Tỉnh ở đây tác giả muốn nói đã nhận thức giá trị cao quý của sự sống, nhà thơ đã trải qua biết bao khổ đau mà vẫn giữ tâm an lạc làm thơ vẽ tranh cho đời. Say trong thơ không phải say vì men rượu mà say vì đất nước, nhà thơ nhìn quê hương như bức tranh mang gam màu buồn dù rằng nơi ấy trong chốn phồn hoa, có những tòa nhà cao tầng đèn lấp lánh; những con đường rực sáng làm lóa mắt người qua lại hầu khỏa lấp che giấu sự nghèo đói của một phố thị đông người! Thi sĩ Vũ Hối là người bất khuất, không chịu uốn cong mình, trong tù mà vẫn hiên ngang thực hiện một tác phẩm nhằm phản kháng lại chế độ khi vẽ bức tranh Mặt Trời Đỏ. Trong tranh chỉ có một cây khô trụi lá, cành nhọn đâm về hướng mặt trời, diễn tả dưới chế độ đỏ, sự sống bị hủy diệt, dù thành cây khô, cành nhọn vẫn đâm vào chế độ! Sự phản kháng của nhà thơ đã bị những đòn thù của cai tù nên đã bị mất một mắt! Một con mắt còn lại nhìn đời nửa đen nửa trắng. Phần con mắt mất ánh sáng là một hố đen sâu thẳm, nửa trắng là chút ánh sáng sót lại để nhìn màu sắc trên đời, nhất là với người họa sĩ, ánh sáng là nguồn sống, là niềm hy vọng. Hai câu thơ cuối: “Chập chờn nửa giấc canh thâu, Cười say bên ngọn đèn dầu nửa khuya.”

    Nhà thơ nặng tình với quê hương. Dù đang sống tha hương, nhưng tâm hồn vẫn quanh quẩn nơi quê nhà. Đêm khuya thao thức bên ngọn đèn dầu, nghĩ chuyện nước và thấy bất lực trước thời cuộc, nên nhà thơ cười để tự chế nhạo mình cũng là chế nhạo những nhiễu nhương đảo điên sự đời. Chữ say ở đây không phải vì rượu mà say vì tê tái đau buồn cho mệnh nước nổi trôi, quê hương vẫn lầm than. Sau bao năm dưới xã hội chủ nghĩa, dân vẫn nghèo, vẫn phải quay quắt vì miếng cơm manh áo mưu sinh. Còn những kẻ cơ hội trở nên giàu có, chìm đắm trong vật chất đã đánh mất lương tâm. Người cầm quyền thì mải mê tranh đoạt quyền lực, nên đã xa rời niềm đau nỗi khốn cùng của dân đen, khiến con người và đất nước đang mất dần bản sắc tình tự dân tộc! Bài thơ dù viết đã lâu nhưng vẫn mang tính hiện thực về một xã hội Việt Nam bị tha hóa hôm nay.

    Từ Hội Họa Đến Thư Họa

    Trời phú cho Vũ Hối một bàn tay tài hoa để vẽ và một trái tim đa cảm để làm thơ. Năng khiếu bẩm sinh đó đã mở cánh cửa nghệ thuật cho người nghệ sĩ bước vào con đường hội họa để thành danh. Ông vẽ từ tranh sơn dầu qua tranh lụa. Từ hiện thực đến siêu thực, nên khi chuyển sang thư pháp không khó khăn mà còn đầy chất sáng tạo. Thư pháp là nghệ thuật viết chữ đẹp đã có từ hàng ngàn năm trước đối với văn tự của nhiều nước trên thế giới. Ngày xưa ở Trung Hoa đời Đường có những nhà thư pháp nổi tiếng như Vương Hi Chi, Vương Hi Hiến, Nhan Tài Khanh, Liễu Công Quyền. Ở những nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, thư họa là nghệ thuật dùng bút lông mực tàu để viết chữ như vẽ những câu thơ, câu đối, câu ca dao, hay ngạn ngữ, danh ngôn bằng chữ Hán, chữ Nôm. Thuở xưa, nước ta có những nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến. Kể từ khi có chữ quốc ngữ có vài người như các nhà thơ Đông Hồ, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương cũng đem thư pháp vào chữ Quốc Ngữ trước Vũ Hối. Mặc dù bước vào con đường thư pháp sau, Vũ Hối đã sáng tạo ra lối vẽ riêng để thành trường phái Luân Vũ Họa hay Hội Họa Sinh Động (Paintings in Motion) để lột tả hết sắc thái độc đáo của con chữ. Để diễn tả thần khí của thư họa nét vẽ mang sắc thái con chữ có lúc chứa ý chí rực lửa theo lối ‘hỏa tự’, có lúc trầm mặc tĩnh lặng chứa tư tưởng hiền triết theo lối ‘thủy tự’ diễn tả qua những đường nét nghệ thuật viết chữ Việt, tạo thành bức tranh rồng bay phượng múa.

    Vũ Hối Và Những Sinh Hoạt Nghệ Thuật Bên Trời Âu

    Năm 1997, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Chiêm Bao Trở Giấc, xuất bản năm 1997.

    Tháng 9 năm 2002, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Mây Ngàn, viết chung với thi sĩ Hoài Việt TS Nguyễn Văn Hướng. Thi phẩm khổ lớn, giấy màu, láng, rất đẹp do nhà xuất bản Anh Em ở Na Uy in năm 2002. Dịp này họa sĩ Vũ Hối mang tặng tôi bức tranh lụa Đôi Chim Trên Cành Trúc, màu sắc, phong cảnh thật đẹp.

    Mộng Hòa Bình (Vũ Hối)

    Trong cuốn tuyển tập đặc biệt Vũ Hối Nghệ Thuật Thư Họa, khổ lớn, giấy láng, hình màu rất đẹp do nhà xuất bản EM T.MO S.J Magazine in năm 2007, người viết được thi họa sĩ chọn một tấm hình sinh hoạt ngày ra mắt sách và thư họa của Vũ Hối năm 1997 tại Paris, do Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris tổ chức, để đưa vào tuyển tập cùng với nhiều tấm hình của sinh hoạt khác.

    Tháng 6 năm 2008, người viết và nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, tác giả nhạc phẩm tiền chiến vang bóng một thời “Trăng Mờ Bên Suối” sang Washington, D.C. ra mắt sách và CD nhạc, do Hội Văn Bút VN Hải Ngoại tổ chức. Dịp đó họa sĩ Vũ Hối đã tặng chúng tôi mỗi người một bức thư họa.

    Vào năm 2009 họa sĩ Vũ Hối cùng một số anh chị em văn nghệ sĩ từ Mỹ, Canada, Âu Châu sang Paris sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề “Thu Tao Ngộ”. Sau buổi sinh hoạt, đêm đó trở về nhà tôi, hai người bạn thời thơ ấu Vũ Hối và Nguyễn Thùy cùng nhau tâm sự. Sáng hôm sau trong lúc dùng điểm tâm, Vũ Hối nói:

    “Mình với Nguyễn Thùy nói chuyện đến gần sáng.”

    Nguyễn Thùy tiếp:

    “ Hai đứa chỉ nói về số bạn bè tan tác sau 1975.” Rồi vừa cười vừa hỏi: “Nhớ lại chiều qua nơi phòng khánh tiết, một số đông các ông các bà, cả những cô trẻ vây quanh Vũ Hối xin ‘thư họa’. Nhiều bà, nhiều cô xin như thế, Hối có ‘thư sướng’ không?”

    Vũ Hối cười trả lời: “Mệt thấy mồ. Sướng con mẹ gì. Dĩ nhiên, được mến mộ thì cũng vui lắm. Mà sao Thùy hỏi lạ vậy?”

    Nguyễn Thùy trả lời:

    “Tôi bảo có ‘thư sướng’ không chứ có bảo ông ‘sướng’ đâu?” Ông có biết ‘thư sướng’ là từ Hán Việt. Theo tự điển Nguyễn Văn Khôn là ‘khoan khoái, thoải mái, dễ chịu’ chứ có phải ‘sướng’ theo nghĩa thông thường đâu”. Rồi Nguyễn Thùy hỏi tiếp:

    “Có người nói ‘thư họa là vẽ chữ’. Có như vậy không?”

    Vũ Hối: “Thì phần nào cũng có thể nói thế. Còn Thùy nghĩ sao?”

    Nguyễn Thùy trả lời:

    “Rất phục Hối vì Hối là người đầu tiên đã đem chữ viết VN vào hội họa. Thêm nữa, theo mình ‘Thư họa là đem thơ vào họa’. Hối đã thư họa nhiều câu danh ngôn, nhiều câu thơ trong một số tác phẩm nổi tiếng và số thơ của nhiều người. Nhưng mình nhắc Hối chỉ thư họa những câu thơ nào sáng giá, hay đẹp, chứ đừng vì cảm tình thư họa những câu thơ không hay đẹp gì khiến nhiều người có thể nghĩ ‘Hối đã khiến ngón thư họa của Hối trở nên tầm thường.’”

    Nguyễn Thùy quay sang tôi hỏi:

    “Anh quan niệm thế nào là hội họa?”

    Tôi vội xua tay trả lời:

    “Anh phải hỏi anh Vũ Hối chứ sao lại hỏi tôi?”

    Nguyễn Thùy tiếp:

    “Thấy anh thích tranh lắm sao không có ý kiến?”

    Vì muốn chấm dứt câu chuyện để còn thời gian chuẩn bị cho cuộc du ngoạn, tôi nói:

    “Theo tôi, hội họa là những cảm xúc mạnh, pha chút tưởng tượng của họa sĩ đã kết hợp màu sắc, ánh sáng, bóng tối thể hiện qua những đường nét đậm nhạt để thành tác phẩm. Nhưng bức vẽ không phải là sự sao chép cho giống với hình mẫu, mà phải sáng tạo để tác phẩm có nét riêng, nghĩa là phải độc đáo cả nội dung lẫn hình thức.”

    Vũ Hối:

    “Một quan niệm rất hội họa.”

    Hai người cứ mải mê nói chuyện, nên tôi thúc dục các anh dùng điểm tâm nhanh để các bạn đến đón đi chơi. Nhưng Nguyễn Thùy vẫn gân cổ lên nói:

    “Mình chẳng biết gì về hội họa, nhưng lại ưa nói quan điểm của mình về hội họa. Theo mình, hội họa là thứ nghệ thuật tĩnh. Nó sôi nổi trong trầm mặc, nó động trong bất động, nó càng đón nhận khinh bạc càng trở nên cao trọng, lâu dài. Mình đã viết như thế trong truyện “Mây Rồng”, có tặng Hối, Hối thấy sao?”

    Vũ Hối đáp:

    “Có đọc. Truyện hay nhưng quan điểm hội họa nơi quyển đó cao kỳ quá, khó ai thực hiện được. Mình chưa đủ khả năng để kết hợp cả hai lối ‘công họa và tâm họa’ như Thùy nói. Mà chắc cũng khó có người làm nổi. Mình già rồi, sức yếu nữa nên khó lòng nghiên cứu, học hỏi thêm để có thể có được nhiều tác phẩm sáng giá hơn.”

    Nguyễn Thùy:

    “Nếu có thêm càng tốt. Nhưng với bao tác phẩm đã nổi tiếng, chừng ấy, mình thấy Hối đã đem lại cho Việt Nam một tiếng vang khá lớn cho nền hội họa VN rồi. Mình mừng và vui hơn nữa là Hối là nguời Quảng Nam, đồng hương với mình, xứ Quảng được thêm một ‘nhân tài’ về hội họa thì cũng hãnh diện lắm chứ.”

    Tôi đành phải cắt ngang câu chuyện của các anh, và hẹn tối về sẽ để các anh tha hồ nói. Dùng điểm tâm vừa xong thì các bạn cũng vừa đến. Chúng tôi gồm có nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, nhà văn Nguyễn Thùy, họa sĩ Vũ Hối và tôi cùng đi Giverny thăm viện bảo tàng của danh họa Claude Monet, cha đẻ trường phái ấn tượng. Con đường từ Cergy đến làng Giverny chạy xuyên qua vùng Vexin français, bình nguyên phía Tây Bắc Paris, vùng đất phì nhiêu phủ màu xanh của đồng cỏ, ruộng lúa mì, cụm rừng… Sông ngòi chảy uốn khúc, xoáy mòn lớp đất vôi tạo nên một địa hình mấp mô gồm đầm lầy, thung lũng và đồi gò nối tiếp nhau. Kỳ vĩ hơn tất cả chính là dòng sông Seine, cửa ngõ thông thương từ Paris ra biển cả. Dòng sông chảy ngoằn ngoèo soi bóng hàng cây dương liễu, sườn dốc cheo leo, những tòa dinh thự lâu đài… Từ xa xưa, nơi đây đã in dấu chân từng đoàn quân La Mã. Những phế tích do tàn phá của chiến tranh suốt nhiều thế kỷ chứng tỏ từ lâu dân cư đã sống gắn bó với mảnh đất và dòng sông. Do cảnh sắc độc đáo cùng với môi trường sinh vật phong phú, một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập tại vùng này vào năm 1995 (Parc naturel régional du Vexin français). Thỉnh thoảng dọc bên vệ đường hay giữa cánh đồng ta còn gặp những cây thập giá bằng đá vôi chạm trổ, bốn nhánh hình tam giác, người xưa dùng làm cột mốc ranh giới giữa các xứ đạo, các đất đai sở hữu. Ngày nay di sản nông thôn này trở thành biểu tượng cho vùng Vexin français. Làng Giverny nằm dọc theo sườn phía Nam dãy đồi, bên cạnh hợp lưu nơi sông Epte đổ vào sông Seine.

    Trong lúc anh Nguyễn Thanh mải mê lái xe tìm đường, anh Nguyễn Bảo Hưng vui vẻ cất tiếng: “Anh Vũ Hối từ Mỹ sang, lại là họa sĩ, hôm nay được bọn mình dẫn đi thăm Giverny là trúng tủ rồi đấy.” Tuy không phải là họa sĩ, nhưng thích tìm hiểu về hội họa, đặc biệt là trường phái ấn tượng, anh Nguyễn Bảo Hưng giải thích: “Anh phải biết, với người Mỹ, Giverny được coi là cái nôi của hội họa ấn tượng và là chốn hành hương của hầu hết các đoàn du khách Mỹ viếng thăm Pháp. Thực ra Claude Monet không phải là người sáng lập ra trường phái ấn tượng. Sở dĩ tên tuổi ông được gắn liền với hội họa ấn tượng, ấy là nhờ nhà phê bình Loui Leroy, trong một bài báo, đã dùng từ impressionniste để nói lên cảm nhận của mình trước bức họa Rạng Đông (Soleil Levant, 1972), được Claude Monet đem ra trình làng tại cuộc triển lãm do ông cùng một nhóm họa sĩ đứng ra tổ chức riêng vào năm 1974 tại Paris. Thế là từ Impressionnisme được ghi vào sổ bộ đời hội họa từ đấy, để nói về trường phái Ấn Tượng. Còn nói rằng Giverny là cái nôi của hội họa ấn tượng cũng không hẳn đúng. Bởi vì tất cả những bức tranh mang đường nét ấn tượng hầu hết đều được các họa sĩ theo trường phái này như Manet, Sisley, Pissarro, Renoir v. v… thực hiện trong các thập niên 1860, 1870 và tại nhiều địa điểm không gian khác nhau. Chỉ từ sau 1883 Monet mới tới trú ngụ tại Giverny thuộc hạt Eure, không cách thành phố Rouen bao xa. Nhưng vì ngôi nhà xinh xắn với khu vườn phô bày đủ mọi sắc hoa, và đặc biệt cái đầm hoa súng (l’étang des nénuphars) với cây cầu kiểu nhật (le pont japonais) duyên dáng được dùng làm đề tài cho nhiều bức tranh ngoạn mục, đã khiến địa danh này trở thành đối tượng viếng thăm của khách yêu chuộng hội họa trên toàn thế giới.”

    Câu chuyện tới đây thì cũng là lúc anh Nguyễn Thanh bắt đầu lái xe đi vào thành phố Auvers Sur Oise. Lần theo dấu vết xưa qua những phiến đá tường đã phủ màu thời gian, chiều xuống ánh nắng dần phai nhìn con phố cổ bên dòng sông Oise trầm mặc hơn. Nguyễn Thanh bỗng dừng xe trên con đường chính, ngay trước quán trọ Ravoux, trạm dừng chân chót của Van Gogh. Chúng tôi ngẩn ngơ trước ngôi nhà trọ, nay đã được chỉnh trang lại bộ mặt trông sáng sủa hơn. Nhưng trong lòng không khỏi bồi hồi nghĩ tới tới hai tháng cuối đời của nhà danh họa này trên căn gác xép chạm mái. Còn đang trầm ngâm suy tưởng bỗng nghe tiếng Nguyễn Thanh kêu gọi qua công viên bên cạnh nơi có bức tượng đồng Van Gogh do Zadkine sáng tác. Sau khi chụp một tấm chung lưu niệm, đứng cạnh tượng, Vũ Hối thở dài than:

    “Trông Van Gogh khốn khổ quá, như kẻ đi lang thang, bụi đời!”

    Nguyễn Thanh mở ống kính ngắm chụp, sau khi bấm máy liền góp ý: “Van Gogh đã từng thố lộ: ‘Khi tôi càng xấu xí, già, ác độc và nghèo, tôi càng tìm cách chuộc lại những thất bại ấy bằng cách làm cho màu của tôi rực rỡ, cân đối, tỏa sáng.’”

    Từ khu nhà ga cũ đến ngôi giáo đường cổ, tất cả chúng tôi theo đường lên dốc khá quanh co, tìm đến ngôi nhà thờ nơi bìa làng. Van Gogh đã dừng chân nơi đây và họa bức tranh mặt ngoài hậu cung nhà thờ, diễn tả một kiến trúc không theo phép phối cảnh, nhưng bằng những đường cong quẹo. Anh Vũ Hối đi tới đi lui trên dốc đá góc nhà thhờ, ngắm từng chi tiết như tìm cách đứng đúng chỗ Van Gogh đặt giá vẽ, rồi mới nâng máy lên thu hết hình ảnh vào ống kính. Từ ngôi nhà thờ theo con đường làng ra khỏi vòm cây phong là cánh đồng mênh mông hiu quạnh, nơi an nghỉ của danh họa Van Gogh và ngôi mộ bên cạnh là người em trai Théodore. Trong hoang vắng, đứng trước hai ngôi mộ quá đơn sơ của họa sĩ nghèo, mộ chỉ lấp mà không xây, bia được cuốn bằng thừng! Đất Trời cũng cảm động, xót xa cho người họa sĩ tài hoa, nên kết những loài hoa cỏ đầy màu sắc rực rỡ thành tấm thảm phủ lên ngôi mộ. Anh Vũ Hối và Nguyễn Thùy lần đầu đến thăm nên xúc động mạnh rướm lệ. Vũ Hối từ từ thu mình ngồi cạnh mộ Van Gogh, anh im lặng nhưng chắc hẳn lòng đang thổn thức? Trên khuôn mặt buồn bã ấy có chút gì thương tiếc và ngưỡng mộ một danh tài hội họa thế giới bạc mệnh nằm trên cánh đồng hoang vu! Sau khi thăm mộ Van Gogh và người em trai Théodore, chúng tôi đi thẳng ra cánh đồng trước mặt đến nơi đã ghi dấu kỷ niệm họa phẩm Đồng Lúa Mì và Đàn Quạ. Đứng trước thiên nhiên, mường tượng lại bức tranh, chắc hẳn trong mỗi người chúng tôi đều có cảm nhận riêng về hình ảnh đầy bí ẩn: “Đàn quạ đen bay sà trên đồng lúa chín vàng dưới bầu trời màu xanh sẫm như báo hiệu cơn dông sắp đổ xuống?”

    Chúng tôi định đi tiếp vào thăm làng, nhưng con đường đến đây chia làm ba ngã, biết chọn ngã nào? Anh Vũ Hối bảo:

    “Van Gogh vẽ đường cho chúng ta, nhưng không chỉ dẫn rõ ràng. Vậy thì đi đâu cũng được.”

    Nguyễn Thanh bảo đường quẹo tay trái trở về nhà thờ. Anh Bảo Hưng khuyên nên đi thẳng. Tất cả chúng tôi theo hướng đó.

    Tối hôm đó về nhà, chúng tôi thức khuya nói chuyện. Nguyễn Thùy bảo Vũ Hối:

    “Hai họa sĩ đều nổi tiếng nhưng một ‘vừa nổi tiếng vừa nổi miếng’ (ý nói có tiền, giàu) còn một thì ‘vừa nổi tiếng vừa nổi điên’, còn Vũ Hối thì nổi gì?”

    Vũ Hối trả lời: “Chẳng nổi gì cả, đời quá nhiều bầm giập chỉ ‘nổi chìm’ thôi!”

    Họa sĩ Vũ Hối là một nghệ sĩ tài hoa nhưng nhiều thăng trầm. Sự nổi tiếng về hội họa đã làm lu mờ phần nào mặt văn thơ, cho dù nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho đời những vần thơ hay, nhưng công chúng tìm đến anh qua hội họa. Tôi hỏi Vũ Hối, “Giữa thơ và hội họa, nếu phải chọn một, anh chọn cái nào?”

    Vũ Hối: “Mình xin chọn cả hai. Nếu tách ra là chết (!), vì Thư Trung Hữu Họa.”

    Trước năm 1975 và đến bây giờ, họa sĩ Vũ Hối luôn luôn chân thành với tình bạn. Ở trong hoàn cảnh nào, dù lúc thăng hay trầm, con người đó vẫn thế, vẫn không xa cách với bạn. Bản tính hiền hòa đôn hậu và trung nghĩa đã được các bằng hữu rất qúy trọng. Họa sĩ Vũ Hối chọn một lối sống hòa nhã, an lạc. Ông mê say văn học nghệ thuật, xem nhẹ vật chất, mà chỉ trọng tình người. Ngoài những tác phẩm sơn dầu vẽ chân dung các yếu nhân, Vũ Hối còn vẽ những bức tranh sơn dầu khác ở các thể loại phong cảnh, ấn tượng. Những tác phẩm đó đều thể hiện tấm lòng tha thiết của ông đối với quê hương, đất nước. Những tác phẩm: Cảnh Làng Quê, Con Trâu, Cầu Tre, Lũy Tre, Phố Cổ, Ven Sông, Quê Hương với dòng sông Thu Bồn, Tình Mẫu Tử, v.v… dù xa xăm nhưng vẫn ẩn trong tâm khảm. Tác phẩm Chim Bồ Câu đã nói lên sự khát khao tự do, sự yên bình, ước mơ của nhân loại.

    Con đường văn nghệ của Vũ Hối mang hương thơm tình tự dân tộc nơi xứ người. Đã có biết bao người tiếp nối ông đi trên con đường thư họa. Điều làm cho ông hãnh diện và sung sướng là người con trai của ông là họa sĩ Vũ Quốc, một họa sĩ tài hoa chuyên về sơn dầu đã từng thành công trong những cuộc triển lãm. Rồi đây, họa sĩ Vũ Quốc theo con đường văn nghệ của cha, thi họa sĩ Vũ Hối và của bác ruột là cố giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ký, gieo những bông hoa đẹp cho đời.

    Văn Học Nghệ Thuật quả có một sức cuốn hút lạ lùng. Hễ ai đã vướng vào nó thì cả đời khó dứt. Muốn bỏ nó để đỡ gánh tâm sức, nhưng nó lại chẳng phụ mình, đành phải theo đến cùng! Con đường nghệ thuật bất tận, mênh mông ý tưởng, đa chiều và muôn lối. Nhưng người làm nghệ thuật vẫn thích đi chung lối sát nhau, đôi khi vướng nhau vấp ngã! Chỉ có những kẻ đam mê nghệ thuật một cách say đắm mới đi trọn con đường đến cùng, dù là gian nan, trắc trở, thiếu thốn… Đó là nghệ sĩ.”

    Đỗ Bình, Paris 16.01.2017

    ****Nguồn: sangtao.org

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT,  LỊCH SỬ,  NGHIÊN CỨU,  Tin tức,  Việt Hải

    Đọc Việt Eden –   Địa Đàng Hạ Giới

    Trần Việt Hải

    Cầm trên tay sách mới còn thơm mùi giấy, giấy dầy, in đẹp, 330 trang, bìa trước họa sĩ vẽ ký giả Du Miiên cầm bút “chạy show” săn tin tên phố Bolsa, bìa sau là hình và tiểu sử của 2 tác giả, đôi uyên ương đồng nghiêp lâu năm trong làng báo giới hải ngoại. Tôi lẩm bẩm về tựa đề “Việt Eden”, tức “Địa Đàng Hạ Giới”. “Hạ Giới” nghĩa là “thế giới ta bà chúng sinh”, đôi khi theo cụ Tố Như – Thanh Hiên ngôn thơ “Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, sách mới tác giả đề cập về sự hình thành Sài Gòn Nhỏ theo cái nhìn tích cực, khía cạnh “stink wind, bloody rain” là phạm vi tiêu cực. Tôi đồng ý.

    Suy nghĩ về 2 chữ “địa đàng”, theo tôn giáo ý nghĩa như “Địa Đàng theo Thiên Chúa”.

    Theo Thiên Chúa trong vườn địa đàng, người phụ nữ được Adam yêu thương, cưng chiều hết mực. Người phụ nữ ấy hẳn là hạnh phúc nhất khi bên cạnh có một người chồng tử tế. Ông luôn dành cho người vợ những lời yêu thương ngọt ngào. Ngày ngày Thiên Chúa thấy hai người tay trong tay dạo quanh vườn địa đàng. Họ kể cho nhau những kế hoạch tốt đẹp. Họ mơ ước về căn nhà đẹp và những đứa trẻ xinh. Bầu không khí bên ngoài, khung cảnh thơ mộng của vườn địa đàng cũng muốn tô điểm thêm nét đẹp mối tình giữa hai người. Đó là một đôi uyên ương được Thiên Chúa se duyên nên nghĩa vợ chồng. Đấy lá ý nghĩa tôn giáo, ươc mơ tâm linh.

    Còn xét về 2 chữ “địa đàng”, theo văn học ý nghĩa như “Địa Đàng ở Phương Đông”

    Một luận điểm văn học khác theo tác phẩm nổi tiếng của nhà văn kiêm bác sĩ người Anh là Stephen Oppenheimer và sách Eden in the East (Địa Đàng ở Phương Đông). Sách Địa Đàng của Oppenheimer cho ta tìm hiểu cội nguồn văn minh và văn hóa dân tộc hiện đang là một đề tài thời sự nóng trên thế giới, bởi vì trong xã hội hiện đại và thế kỷ 21, văn hóa sẽ là một yếu tố nhận dạng của một dân tộc. Ở nước Việt, sách vở và các công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa dù đã có đấy, nhưng nói chung vẫn còn khiêm tốn. Trong bối cảnh đó, bạn đọc nên xem qua cuốn sách này vốn quan trọng về lịch sử văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là một công trình nghiên cứu văn minh và văn hóa thời tiền sử, và liên quan mật thiết đến Việt Nam. Oppenheimer chọn đề tài bao la về địa lý Đông Nam Á là một vùng nước đọng quan trọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh đặc thù Đông Nam Á.

    Như vậy “Địa Đàng” theo Thiên Chúa hay theo Oppenheimer vẫn khác với Địa Đàng Hạ Giới của Ngọc Hà – Du Miên, vì bên tâm linh là Địa Đàng thiêng  liêng, hay bên sách văn học Anh là vùng địa dư phương Đông bao la. Sách Việt ta giới hạn ở Quận Cam Nam Cali mà thôi.

    Theo nhà văn Vương Trùng Dương:

    Với tựa đề “Việt Eden, Địa Đàng Hạ Giới”, nội dung trong quyển sách nầy là tài liệu quý báu về Little Saigon, trở thành “thủ đô tị nạn” từ ngày được hình thành đến “cái nôi” của cộng đồng người Việt tị nạn trong mọi sinh hoạt. Tác phẩm dày 330 trang, hình màu gồm 3 Chương: Chương I (trang 13 đến trang 81), khái quát về Bolsa Ngày Ấy đến Chợ Xuân Chiến Sĩ Cộng Hòa. Chương II (trang 83 đến trang 170) sự phát triển của Little Saigon từ năm 1980 đến năm 1999. Chương III: (trang 171 đến trang 224) tiếp nối sự phát triển của Little Saigon từ năm 1999 đến nay. Phần Phụ Lục (trang 225 đến trang 330).

    Trong số những người biết rõ nhất về nguồn gốc và sự ra đời của Little Saigon phải nói đến nhà báo Du Miên, ông Khanh Nguyễn, ông Phùng Minh Tiến, anh Ba Thành Mỹ, anh chị Thạnh – Hoàng Yến (chủ nhân nhà sách Tú Quỳnh) và nhiều người khác nữa. Theo những người hiểu lai lịch khu phố Việt này đều công nhận người có công khai sinh ra tên “Little Saigon” chính là nhà báo Du Miên.

    Tôi nhớ vào năm 1979 khu thương mại Mini Mall trên đường Bolsa chỉ có vài ba cửa tiệm. Ðối diện Tú Quỳnh là nhà hàng Thiên Cung sau đổi là Thành Mỹ cho tới nay. Sau đó lần lượt các cửa tiệm khác ra đời như: tiệm bán băng nhạc của nhạc sĩ Trường Hải, nhà in của Du Miên, văn phòng bán bảo hiểm của Luật sư Nguyễn Xuân Phước, dịch vụ gửi hàng của ông Thuận, bán vé máy bay của ông Vượng, bán hàng nội thất của ông Ðề và chợ Ái Hoa của ông Bói. Quán cà phê Lục Huyền Cầm của cặp nghệ sĩ Lê Uyên Phương sau này cũng có mặt, khiến nơi này trở nên một chốn kinh doanh đa dạng. Xem hình sách Việt Eden, các trang 20-21, 54-55, 59, và 104-105.

    Đặt tên Little Saigon

    Năm 1980, ký giả Du Miên và một số thân hữu trong đó có ông Khanh Nguyễn, (Chủ tịch Little Saigon Foundation), khởi xướng cuộc vận động thành lập khu phố Việt Nam tại Quận Cam. Sau khi bỏ thì giờ đi đến tất cả các cơ sở thương mại, tôn giáo trong vùng, ký giả Du Miên vẽ tấm bản đồ ghi rõ địa chỉ từng cơ sở thương mại do người Việt làm chủ và đặt tên là “Phố Saigon” trên đất Mỹ, để nhớ về một thủ đô Saigon của Việt Nam Cộng Hòa đã không còn nữa. Tấm bản đồ này đã được đăng nhiều lần trên tuần báo Saigon suốt năm 1980. Theo một buổi phỏng vấn ký giả Du Miên, ký giả nhật báo Register Rosa Kwong đã dịch “Phố Sàigòn” thành “Little bit of Sàigòn” và đăng lại tấm bản đồ của ký giả Du Miên. Bắt đầu từ đó, danh xưng Little Sàigòn đã được báo chí Hoa Kỳ dùng để gọi khu thương mại Việt Nam trên đại lộ Bolsa. Từ năm 1985 đến 1988, qua nhiều vận động của cộng đồng, danh xưng Little Sàigòn được chính thức công nhận bởi thành phố Westminster và tiểu bang California (ngày 17 tháng 6 năm 1988). Xem hình sách Việt Eden, các trang 72-73, 88-89. Hình bản đồ “Phố Sàigòn” nguyên thủy trên tuần báo Sàigòn. Bản đồ “Phố Sàigòn” được đăng lại trên nhật báo Register số ngày 1 tháng 2 năm 1981. Danh xưng “Little Sàigòn” lần đầu tiên xuất hiện trong bài viết của nữ ký giả Rosa Kwong. Đính kèm bài viết này là phóng ảnh của bản đồ Little Sàigòn lúc khởi thủy và báo Register nhân dịp Tết nguyên đán 1981 nói trên. Để tìm hiểu thêm về danh xưng này, Rosa Kwong đã trực tiếp phỏng vấn ký giả Du Miên, khi ấy vốn là chủ nhiệm, chủ bút tuần báo Thời Báo, xuất bản tại Little Sàigòn. Rosa hỏi xin ông cho biết sơ lược về giai đoạn hình thành tấm bản đồ Little Sàigòn này.

    Ký giả Du Miên trả lời vào năm 1980, sau khi hỏi ý tất cả mọi chủ tiệm (khoảng vài ba chục tiệm), ai nấy cũng muốn hình thành một cái gì đó để nương tựa, bênh vực nhau, tôi bàn với các anh chị trong tòa soạn báo Sàigòn gồm các anh Vũ Tài Lục, Tống Hoằng, Lê Khắc Thuận, Trần Đức Tuấn  và cô Dạ Yến, mở chiến dịch vận động hình thành khu phố Việt Nam. Tôi khởi sự vẽ bản đồ khu phố và gọi đó là “Phố Sàigòn”. Bản đồ này đăng nhiều lần trên tuần báo Sàigòn vào cuối năm 1980.

    Danh Xưng Little Saigon được chính thức công nhận

    Ngày 9-2-1988, qua sự vận động ráo riết của Ủy Ban Phát Triển Little Saigon, dân Biểu Longshore, và nghị viên Frank Fry, Hội Đồng Thành Phố Westminster đã biểu quyết với đa số tuyệt đối thông qua Quyết Nghị số 58, công nhận khu phố của người Việt trên đại lộ Bolsa là “Little Saigon,” và thành phố cũng thành lập ủy ban với tên là “Little Saigon Community Development Advisory Committee” để giúp đẩy mạnh việc phát triển khu này thành một khu thương mại và du lịch sầm uất.

    Xem hình sách Việt Eden, các trang 143 và 145.            

    Đọc Việt Eden trang 154-161 cùng bài viết về “Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại & Đại Hội Truyền Thông”, bài Vương Trùng Dương:

    Danh xưng Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại (HKGVNHN) do Du Miên và các đồng nghiệp hình thành từ năm 1994 trong tinh thần tương thân tương trợ với nhau trong công việc. Nhiệm Kỳ 2002-2004, Chủ Tịch: Đỗ Sơn, Tổng thư Ký: Du Miên & 12 thành viên. Văn phòng tại Câu Lạc Bộ Báo Chí, 15351 Euclid St # 1H, Garden Grove, (trong khu business đường Euclid, giữa Westminster & Bolsa). Đây là bước ngoặc của nhiệm kỳ này vì tổ chức được Đại Hội Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại (ĐHTTVNHN) đã từ lâu HKGVNHN mong ước.

    Nói  đến tác giả biên khảo Du Miên Lê Thanh Hoa phải nói đến công trình nghiên cứu để hình thành tác phẩm “Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông”. Sách kể rõ sự việc kiến trúc sư Việt Nam là người vẽ kiểu và chỉ huy hơn 100 ngàn nhân công xây dựng thành Bắc Kinh nổi tiếng khắp năm châu với Tử Cấm Thành, Thiên An Môn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Sách quý Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông được đánh giá là cuốn sách đã ấn hành đúng thời điểm vì nội dung của cuốn sách đưa ra nhiều chứng liệu để củng cố niềm tin và tự hào dân tộc. Du Miên Lê Thanh Hoa phải sưu khảo để chứng minh “niềm tự hào dân tộc” và “hãnh diện là người Việt Nam” qua tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông…Nhà văn Du Miên và cũng là nhà nghiên cứu cổ sử Lê Thanh Hoa đã làm một chuyện vô cùng hữu ích về sử liệu cho ngàn sau. Trong tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông, hai chữ “suối nguồn” như cội nguồn sự kiện. Suối nguồn là tác giả muốn nói rằng văn minh phương Ðông bắt nguồn từ Việt và cái nguồn ấy mạnh mẽ tuôn trào và tuôn trào mãi. Đây là tác phẩm trưng dẫn bằng chứng, sử liệu Việt, Tàu và Âu Mỹ liên quan đến việc đức Khổng Tử dùng văn hóa Việt dạy cho người Tàu, tổ của nhà Chu (trị vì Tàu 800 năm) cho 2 hoàng tử lớn qua đất Việt để du học. Đặc biệt tài liệu liên quan đến kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu và xây thành Bắc Kinh từ thời nhà Minh cũng như tài liệu Mỹ xác nhận dân Việt là tổ trồng lúa đầu tiên trên thế giới.

    Thư Viện/Bảo Tàng Viện Việt Nam do tác giả văn học Du Miên, một nhà văn hóa yêu sách vở và bằng hữu của ông thành lập và điều hành. (Xem Việt Eden trang 172-175)

    Xem Việt Eden trang 183-184 … như sau:

    Tượng Đài Chiến sĩ Việt Mỹ ở TP Westminter là hình ảnh biểu tượng, tượng trưng  quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.

    Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ, được dựng tại số 14180 đường All American Way, Westminster, CA 92684, trong công viên Sid Goldstein Freedom Park, rộng 1.4 acre (gần 61,000 sqft), được bao quanh bởi một đài phun nước bằng đá cẩm thạch đen và những lá cờ Hoa Kỳ và cờ VNCH. Dưới lá cờ Hoa Kỳ là lá cờ đen tượng trưng cho những quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Chiếc lư hương lớn có lửa cháy suốt ngày đêm, như một ngọn đuốc, được đặt chính giữa công viên của tượng đài, trên một hồ nước nhỏ. Ngọn lửa này không bao giờ tắt, vì được thiết kế công tắc mồi tự động, nên dù giông bão, mưa to gió lớn, mồi lửa tự động cũng sẽ thắp sáng trở lại. Công tác đúc tượng khởi sự năm 1998 cho đến năm 2002 thì hoàn tất với bức tượng đồng hai chiến sĩ, một Việt Nam một Hoa Kỳ vai kề vai cao khỏang ba mét, đứng trên bệ đài làm bằng đá cẩm thạch cao một mét rưỡi. Tượng đài được chính thức đặt tên là Việt nam War Memorial in Westminster.

    Xem Việt Eden trang 209-211 như sau:

    Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam như Tượng đài Nạn Nhân CS cũng chỉ là hình ảnh biểu tượng, trượng trưng cho hăm mấy sắc dân nạn nhân của chủ nghĩa CS trên thế giới. Những nơi này trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhưng không phải là chứng tích lịch sử như Bia Đá Đen ở Washington DC có khắc ghi ghi họ tên của quân nhân Mỹ tử trận ở VN, như những bia mồ mà người Việt hải ngoại đã trùng tu trên các hải đảo của Nam Dương và Mã Lai…. Nhà Thơ Thái Tú Hạp, người sáng lập Đài Tưởng Niệm thay mặt Ủy Ban Thực Hiện Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam, trong bài diễn văn khai mạc, sau khi ngỏ lời chia sẻ khi nhấn mạnh đến dự án mang tính cách Tâm Linh và Lịch Sử nầy mà ước mơ của ông và nhiều người khác từ hơn 10 năm, nay mới đạt ước mơ đó. Sau hơn 30 năm nhìn lại, để Tưởng Niệm và Tri Ân đến những Thuyền Nhân, Bộ Nhân vì không có sự hy sinh cao quý đó chắc chắn những Thuyền Nhân như chúng ta sẽ không hiện diện ngày hôm nay, và để lưu truyền những chứng tích cụ thể cho các thế hệ mai sau hiểu biết nguyên nhân người Việt đến định cư tại xứ sở Hiệp Chủng Quốc này..Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân hôm nay đánh dấu sự thành công và nơi này cũng là vị trí lý tưởng đặt Đài tưởng Niệm tại khuôn viên Westminster Memorial Park, gần khu Tiểu Saigon, nơi có đông đảo người Việt định cư, buôn bán tạo nên sự phồn vinh cho Thành Phố Westminster. Tin thêm, Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân VN (Viêtnamese Boat People Meomrial) mà tượng đồng đúc ở ngoài nước Mỹ đã đưa về Little Saigon (Quận Cam). Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân ngoài  việc có  thể  trở thành một danh lam thắng cảnh mới cho Little Saigon, chắc chắn sẽ là một chứng tích lịch sử như Bia Đá Đen ở Washington, như bia mộ của những người vượt biên đã chết trên đường tìm tự do, trên các hải đảo. Bia mộ ở đảo CS Hà nội có thể áp lực hai nước Nam Dương và Mã Lai phá dẹp bỏ, nhưng ở Little Saigon của Mỹ thì không vì có người Mỹ gốc Việt của một cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất thế giới bảo vệ.

    Lời cuối, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian cùng thân hữu xin chúc mừng nhị vị tác giả Ngọc Hà và Du Miên. Chúc mừng buổi ra mắt sách thành công viên mãn.

    Xin mượn lời trong bài viết của ký giả Thanh Phong điểm sách “Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới” để chấm dứt nơi đây.

    Trần Việt Hải, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian

    “Người viết đã đọc từ trang đầu đến trang cuối và cảm nhận cả một công trình, vừa moi óc vừa tìm tòi nhiều tư liệu, hình ảnh để hoàn thành sách Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới mà từ trước đến nay chưa ai viết đầy đủ hơn về Little Saigon. Đây sẽ là một trang sử oai hùng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại; một cuốn sách đáng để cho cư dân Little Saigon hãnh diện và làm món quà tặng cho bạn bè, người thân ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt qua câu trả lời của ký giả Du Miên, Chủ Bút tuần báo Saigon cũng là người vẽ bản đồ khu phố Saigon đăng trên báo Saigon, ông trả lời nữ ký giả Rosa Kwong, gốc Hồng Kông khi cô hỏi: Tại sao ông gọi là Phố Mới, Phố Saigon? Chủ bút Du Miên trả lời, “Ở quê nhà Việt Nam, Cộng Sản đổi tên thủ đô Saigon của chúng tôi rồi. Chúng tôi lập khu phố nhỏ, phố mới gọi là Phố Saigon. Saigon thủ đô của nước tôi lớn và hoa lệ, là “Hòn Ngọc Viễn Đông”… Còn ở Westminster đây, bất quá chúng tôi gom nhau lại thành một khu phố nhỏ, một góc chút xíu của Saigon hoa lệ ngày xưa”. Cô ký giả gốc Hồng Kông lặng yên một lúc khi thấy Chủ Bút báo Saigon rơm rớm nước mắt khi nhắc đến Saigon. Cô gật đầu chào mọi người, lặng lẽ bước đi. Vài ngày sau, trong bài tường thuật ngày 1 tháng 2 năm 1981, cô gọi khu phố bé tí, phố Saigon của tuần báo Saigon nói trên là “Little bit of Saigon”. Sau này người ta lần lượt bỏ bớt hai chữ “bit of còn lại Little Saigon. Và danh xưng Little Saigon có từ đó, từ ngày 1 tháng 2 năm 1981.”

  • NGHIÊN CỨU,  Việt Hải

    Thiền Tông Võ Đạo và Văn Hoá Việt Tộc

    Thiền Tông Võ Đạo (GS. Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền):

    Về Võ Lâm Việt Nam Chính Tông và Võ sư Đoàn Tâm Ảnh, pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư:

    – Năm 1900 – 2008: Võ sư Đoàn Tâm Ảnh, pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư, phương danh Nguyễn Văn Sáu (Sáu Nhỏ) hiện nay 2008 ông dã qua đời tại Việt Nam. Ông sanh tại Bạc Liêu, nam Việt Nam. Năm 1911, ôn theo thầy Mộc Đức Thiền Sư học đạo Thiền Tông và võ lâm cổ truyền, tại chùa Phi Lai Tự (miền Bắc Trung Hoa). Năm 1930, trở về Việt Nam, ông sáng lập môn phái võ lâm Việt Nam Chính Tông. Lần lượt, mở các võ đường tại các tỉnh miền Nam Việt Nam như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Cần Thơ, Bến Tre, Long Xuyên, Vĩnh Long, Rạch Giá… Rồi, bí mật thành lập đảng Sao Trắng, kết nạp các nghĩa sĩ để chống Pháp, và đã một thời oanh liệt, đảng Sao Trắng của ông đã làm điên đảo, bối rối cho các tay cường hào ác bá cùng chính quyền Pháp ở miền lục tỉnh (Hậu Giang, miền Nam). Về sau ông lên Sài Gòn mở các lớp dạy võ lâm. Trong suốt cuộc đời truyền dạy võ lâm, ông đã đào tạo rất đông đảo huấn luyện viên và võ sư rải rác từ Sài Gòn đến các tình miền nam, Việt Nam. Trong số các cao đồ đắc ý nhất của ông, và đã làm rạng rỡ cho môn phái võ lâm đáng kể đến như: Giáo sư Hàng Thanh (Phan Chấn Thanh), giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền), giáo sư Hùng Phong (Huỳnh Ninh Sơn), giáo sư Nam Phong (Nguyễn Thiên Tài), giáo sư Lạc Hà (Nguyễn Văn Bé), giáo sư Từ Võ Hạnh, giáo sư Lư Công Khanh, võ sư Long và võ sư Châu (ở Cần Thơ) …

    – Đến năm 1970, ông chánh thức chấm định giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền) là người được ủy nhiệm thừa kế chức vụ Chưởng Môn võ phái, để thay thế ông trong việc phát triển môn phái Võ Lâm Việt Nam Chính Tông. Sau đó, để tìm nguồn an lạc tại chốn thiền môn, ông đã trụ trì tại chùa Pháp Hoa (Sài Gòn).

    – Từ năm 1970 đến 4/1975, giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền) đã thành lập Trung Tâm Huấn Luyện Võ Lâm Việt Nam Chính Tông tại địa điểm: Chi Thanh Niên Quận Sáu, Chợ Lớn (140 Lê Quang Hiền, Chợ Lớn). Trong thời gian tại Việt Nam, giáo sư Vũ Đức đã đào tạo được một số đông đảo võ sinh. Những Đai Đen Huấn Luyện Viên đáng kể như: Hồng Long, Châu Việt Hùng, Trần Văn Quang, Lê Văn Phước, Lê Kiến Sanh, Trần Văn Hoàng, Nguyễn Văn Bình, Trương Sắc Hào…

    – Sau 4/1975, môn phái Võ Lâm Việt Nam Chính Tông đã được chánh thức sửa tên gọi là Võ Lâm Đạo Việt Nam, với sự chuẩn nhận của sáng tổ Thiện Tâm Đoàn Tâm Ảnh và Chưởng Môn giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền).

    – Để thống nhất đường lối hoạt động của các võ đường chi nhánh Võ Lân Đạo ở trong nước Việt Nam và hải ngoại, võ phái còn được sự chỉ đạo trung ương của Tổng Hội Thế giới Võ Lâm Đạo Việt Nam (VoLamDao Vietnam Kungfu World Federation), chủ tịch hội đồng do Chưởng Môn Giáo Sư Vũ Đức phụ trách, trụ sở đặt tại miền nam California, Hoa Kỳ (hộp thư liên lạc: PO Box 6204, Rosemead, CALIF. 91770 – 1634, USA). Tổng Hội Thế Giới Võ Lâm Đạo Việt Nam đã được giáo sư Vũ Đức chánh thức thành lập, với giấy phép của chính quyền tiểu bang California, USA, cấp ngày 07/07/1982.

    Xem tiếp link sau:

    Lịch sử Võ học Việt Nam, Giáo Sư Vũ Đức :http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsuvohocvn.htm

    Bồ Đề Đạt Ma chu du càn khôn thiên hạ.

    Sách Thiền Tông Võ Đạo đưa dẫn người đọc đi từ cội nguồn Phật giáo Thiền Tông Thiếu Lâm Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma qua đến Võ Lâm Việt Nam Chính Tông và Võ sư Đoàn Tâm Ảnh, pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư. Theo truyền thuyết của Phật giáo Thiền Tông Thiếu Lâm Trung Hoa, sau khi từ biệt Lương Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) trên một ngọn cỏ lau (cước đạp lô diệp quá giang) đi đến chùa Thiếu Lâm và trụ trì ở đó. Ngày nay ở Thiếu Lâm tự vẫn còn bức tượng “cước đạp lô diệp quá giang” miêu tả tích này. Tại ngôi chùa này, ông đã thực hành thiền định trong chín năm liền quay mặt vào vách núi (cửu niên diện bích).Thiếu Lâm Võ Phái được khai sáng bởi Đạt Ma Sư Tổ đến từ Tây Trúc được xem là đại diện cho “Võ Lâm Chính phái”.

    Đại Tôn Sư Thiếu Lâm Đoàn Tâm Ảnh.

    Thiền sư – Đại Tôn Sư Đoàn Tâm Ảnh (Tô Văn 1900-2008)

    Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh (tên thật là Tô Văn), biệt danh Sáu nhỏ sinh năm 1900 tại Chợ Lớn Sài Gòn.Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh là con trai út trong 1 gia đình đông con gồm 6 chị em, cha của ông là cụ Tô Nghiêm, người gốc Trung Quốc, mẹ là bà La Thị Muối, người Nghệ An, Việt Nam.Do thể chất nhỏ bé và thường hay bị bệnh tật nên cha mẹ đã gửi ông cho Mộc Đức Thiền Sư, một người Hoa lưu lạc ở Việt Nam, thâu nhận làm đệ tử với mong muốn ông được rèn luyện võ nghệ, tăng cường sức khỏe. Thấy Tô Văn nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn, tháo vát lại có năng khiếu về võ thuật, Mộc Đức Thiền Sư hết lòng quý mến truyền dạy võ nghệ cho cậu. Năm 1913, được sự đồng ý của gia đình, 2 chú cháu khăn gói sang Trung Quốc. Từ đây, cậu bé Tô Văn được các hòa thượng trong chùa Phi Lai Tự thâu nhận. Họ dạy cho ông cách Thiền định và võ học của Bắc phái như: Côn Luân, Cửu Ngũ Tam Vương, Xà Quyền.Ngoài ra ông được thầy Trường Giang Mạnh Vũ truyền dạy cho Thiếu lâm Nam phái.

    Sau 11 năm ông quay trở lại quê hương, đổi tên hiệu thành Thiện Tâm Thiền Sư Đoàn Tâm Ảnh. Từ bộ căn bản “Thất Thập Nhị Huyền Công” (72 thế căn bản tuyệt diệu nhất của Thiếu Lâm Tự), “Thập Bát La Hán Thế” bao gồm 18 chiêu thức chiến đấu (18 thế này đã được đúc thành 18 pho tượng ở Chùa Thiếu Lâm; “La Hán Thần Công” (18 chiêu thức tuyệt kỹ) đều được Tô Văn đón nhận, say mê luyện tập. Khi đã lĩnh hội được hầu hết những tinh hoa của Thiếu lâm, kết hợp với 1 số người, Tô Văn vận dụng “Thất thập nhị Huyền Công”, 18 thế quyền La Hán kết hợp với quyền của bên Bắc phái sáng chế ra 18 bài quyền, (Bài thấp nhất có 21 thức chính, bài dài nhất có 73 thức chính). Trong 18 bài quyền này ông lấy “Thất Thập Nhị Huyền Công” làm căn bản, lấy “Thập Bát Chưởng Công”, “Lục Bộ Thần Công” để ghép đan xen vào thành 18 bài quyền theo thức tự từ thấp lên cao, riêng bộ La Hán Thần Công ông để vào chương trình Thượng Đẳng và đặt tên cho môn võ này là môn “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền”. Ngày 03/11/2008 (tức ngày 06/10 năm Mậu Tý), lão Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh tạ thế, hưởng dương 109 tuổi. Ông mất đi để lại cho các thế hệ sau một kho tàng tài liệu về võ thuật; từ các bí kíp võ thuật của Bắc phái như “Côn Lôn”, “Cửu Ngũ Tam Vương”, “Xà Quyền“… cho đến tài liệu về võ học của phái “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền” và cả những kinh nghiệm mà ông đã đúc rút ra trong suốt cuộc đời phiêu bạt giang hồ của mình.

    Văn Hoá Việt Tộc (GS. Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền):

    Văn hóa theo cái nhìn của GS. Nguyễn Thanh Liêm thì tổng quát có thể hiểu văn hóa là lối sống (life style) của một nhóm người ở trong một khu vực địa lý nào đó hay rộng hơn là của cả một dân tộc trong một quốc gia. Có xã hội loài người là có văn hóa vì có những sinh hoạt có ý thức của con người. Ngôn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng, các hoạt động kinh tế, các kỹ thuật, các sinh hoạt nghệ thuật, cách xử sự ở đời, cách ăn mặc, các thứ lễ nghi…tất cả mọi hoạt động của con người trên cõi đời này đều thuộc về văn hóa. Khi mở mắt chào đời ta đã được đặt trong một cộng đồng, một xã hội, một nền văn hóa rồi. Còn Văn hóa cổ truyền Việt Nam là khi nói đến văn hóa Việt Nam chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa của người dân Việt từ thuở xa xưa nào đến giờ và từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, với một số những đặc tính nào đó gắn liền với con người và xã hội văn hóa Việt, làm cho nó khác biệt với những nền văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới. Nó bao gồm tiếng Việt, tư tưởng Việt, tôn giáo tín ngưỡng Việt, lễ nghi Việt, quần áo thức ăn Việt, vv.. Vì mang những đặc tính rất đặc biệt của dân tộc Việt Nam từ nhiều năm qua nên văn hóa dân tộc thường được đồng hóa với văn hóa cổ truyền hay truyền thống văn hóa Việt. Đó là nền văn hóa mà hầu hết người Việt Nam chúng ta đều nghĩ rằng nó là của chung của chúng ta do tổ tiên ta dựng nên từ hơn bốn ngàn năm qua. Văn hóa biến đổi.

    Những người thiết tha với văn hóa Việt Nam, muốn làm cái gì tốt đẹp cho văn hóa nước nhà thường có thể nghĩ đến một mặt bảo tồn nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và mặt khác phát huy hay tân tiến hóa nền văn hóa đó để xây dựng nên một nền văn hóa mới. Và khi nói đến bảo tồn hay phát huy hay tân tiến hóa là phải nói đến sự biến đổi của văn hóa. Không có một nền văn hóa nào đứng yên một chỗ, không có một nền văn hóa nào có thể giữ nguyên trạng thái của nó từ buổi ban đầu cho đến bây giờ dù người ta có cố bảo tồn duy trì nó mãi. Kết quả của những công trình nghiên cứu về văn hóa của các nhà văn hoá nhân loại học (cultural anthropology) cho thấy không có một nền văn hóa nào hoàn toàn giữ được nguyên vẹn những đặc tính của nó qua thời gian. Bất cứ nền văn hóa nào, dù ở trong những xã hội đóng kín không có những tiếp xúc với bên ngoài đi nữa, vẫn ít nhiều thay đổi theo thời gian. Nhịp điệu biến đổi có thể từ rất nhanh, đến nhanh, hay chậm và rất chậm, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp. Phần nhiều các nền văn hóa đều thay đổi rất chậm nếu không có những va chạm/xung đột lớn lao như sự va chạm/xung đột giữa văn hóa Á Đông và văn minh Âu Tây hồi thế kỷ XIX-XX. Nhưng dầu chậm nó vẫn phải thay đổi mặc dầu trong đà biến đổi tự nhiên của văn hóa bao giờ cũng có khuynh hướng chóng chọi lại không nhiều thì ít.

    Suy nghĩ riêng của VHLA:

    Nguồn gốc Tộc Việt và 4000 năm văn hiến: Chung quy khi ta nhận định một cách khách quan những sử liệu cổ, nhất là hai cuốn sách Lĩnh Nam Chính Quái và Đại Việt Sử Kỷ Toàn Thư,  4000 năm văn hiến của đất nước thật khó thuyết phục, nếu không muốn nói là hoang đường.  Hơn trăm năm qua, người dân Việt Nam,  già trẻ luôn luôn tự hào về đất nước với 4000 năm văn hiến, khi chính những vị quan viết sử, cũng như vua Tự Đức đều ghi nhận “căn cứ vào cái không và làm ra có”.  Thật vậy, 4000 năm văn hiến chỉ thuộc về phần huyền sử của đất nước,  dựa trên những sự kiện chưa được xác nhận, kiểm chứng bởi các sử gia, những nhà khảo cổ của đất nước và của những nhà nghiên cứu lịch sử trên thế giới. Nếu căn cứ vào sách Việt Sử Lược, triều đại Hùng Vương bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 trước TL cho đến ngày nay, chúng ta chỉ có hơn 2500 năm văn hiến. Còn nếu loại bỏ 1000 năm bị đô hộ, thì số năm văn hiến nước ta chưa tới 1500 năm. Nhưng ta cứ nói 4000 năm thì giá trị lịch sử bị mất đi. Đây là điều trái ngược với nguyên tắc viết sử của một dân tộc.

    Thiền Tông Võ Đạo.

    Cả 2 tác phẩm  Thiền Tông Võ Đạo và Văn Hoá Việt Tộc của GS. Vũ Đức Âu Vĩnh Hiền là những tài liệu sưu khảo quý giá. Tôi nhớ khi xem quyển Tài liệu lưu trữ về Charlie Chaplin, dầy bằng sách Thiền Tông Võ Đạo, 2 tác phẩm chuyên môn một nói về lịch sử một con người điện ảnh tiền phong Tây phương, một về một võ phái  lâu đời như Đạt Ma Sư Tổ với Phật giáo Thiền Tông Thiếu Lâm Trung Hoa.

    Xem thêm: Cuốn sách “Charlie Chaplin’Archives” (Tài liệu lưu trữ về Charlie Chaplin) là tác phẩm với sự góp sức của rất nhiều tác giả, trong đó có nhà sử học nổi tiếng nước Anh là Paul Duncan. Đây là cuốn sách nặng hơn 6kg, dày hơn 560 trang, Theo nhật báo Libération (18/12/2015), cuốn sách không tiết lộ những chi tiết mới, song trình bày công phu hơn và phong phú hơn về cuộc đời còn nhiều bí ẩn của danh hài Charlie Chaplin; bắt đầu từ tuổi thơ bần hàn lên tới tột đỉnh vinh quang và đến tác phẩm cuối cùng A Countess from Hong Kong (Nữ bá tước từ Hồng Kông, 1967) trước khi ông lui về ở ẩn tại Thụy Sĩ. Cuốn sách khai thác triệt để kho lưu trữ gồm tài liệu làm việc của Charlie Chaplin, những bài báo và posters quảng cáo thời kỳ đó cùng với hồi tưởng của những người từng cộng tác với diễn viên hài này.

    Và sách kia là cuốn Shōgun của nhà văn James Clavell, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ series có tên The Asian Saga và theo Amazon, nó có tổng cộng 1.008 trang. Đây là một tiểu thuyết lịch sử về sự trỗi dậy của Toranaga thành Mạc phủ ở Nhật Bản vào thế kỷ 17, qua con mắt của vị thuyền trưởng người Anh, John Blackthorne. Shōgun bắt đầu khi Blackthorne bị đắm tàu ​​và bị bắt giữ bởi những samurai địa phương, cùng với thủy thủ đoàn của anh ta trên tàu Erasmus. Thuyền trưởng và người của anh ta sau đó bị đưa ra xét xử như những tên cướp biển, họ thua cuộc. Cuộc sống của họ chỉ được cứu bởi mong muốn của những người dân địa phương Nhật Bản này là giữ họ như một cách để tìm hiểu thêm về người châu Âu. Để giữ cho phi hành đoàn của mình sống sót, Blackthorne phải sống yên bình trong một gia đình, trong khi những người đàn ông còn lại vẫn bị giam cầm./

    Tóm lại, với  quyển trường thiên ngàn trang Văn Hoá Việt Tộc tôi so sánh với cuốn Shōgun của nhà văn James Clavell, và Shogun kể về câu chuyện độc đáo về con người, văn hóa và phong tục Nhật Bản. Một bộ truyện dài và dày nhưng cuốn hút người đọc từ đầu đến cuối. Truyện lấy bối cảnh vào năm 1600, một dấu mốc then chốt trong thời Chiến quốc tại Nhật bản khi mà các thế lực kình chống nhau đang vào lúc căng thẳng nhất, cuộc chiến phân tranh thiên hạ Shekigahara nổi tiếng sắp sửa nổ ra giữa hai phe Toranaga (trên thực tế là Tokugawa) và phe Ishido (trên thực tế Isida bảo vệ người thừa kế của nhà Toyotomi). Các nhân vật và sự kiện đều dựa trên sự thực lịch sử Nhật Bản. Trong khi Văn Hoá Việt Tộc của tác giả Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền cho ta cái nhìn tỉ mỉ và toàn diện nền văn hóa gốc của dân tộc Việt Nam.

    Việt Hải, Los Angeles, 28/01/2023.