• Khánh Lan,  Văn Thơ

    VUA HÀI CHARLIE CHAPLIN (SẶC LÔ)

    Charlie Chaplin (1889-1977)
    (Photo Credit:Google search,  Internet)

    Năm 1910, cậu bé người Anh Charlie Chaplin (11) xuất hiện, khởi đầu cho một loạt phim hài có tầm vóc ảnh hưởng rộng lớn, được nhiều người biết đến. Chaplin là một diễn viên hài, nhà sản xuất, nhà văn, đạo diễn, nhà soạn nhạc. Ông còn là một họa sĩ truyện tranh vĩ đại nhất màn ảnh Mỹ cũng như trên thế giới và là một trong những nhân vật quan trọng trong lịch sử phim chuyển động. Năm 1972, ông đã nhận được Giải thưởng đặc biệt của Viện Hàn lâm vì “tác động khôn lường mà ông đã có trong việc biến ảnh chuyển động trở thành loại hình nghệ thuật của thế kỷ này.”

    Nhưng trên thực tế, Chaplin có một tuổi thơ đầy bão tố, sự nghèo đói, cái mạc cảm bị cha mẹ bỏ rơi khi còn quá nhỏ đã ám ảnh tâm trí ông trong nhiều năm dài, ngay cả đến khi ông trưởng thành và trở nên nổi tiếng, thành công trong sự nghiệp điện ảnh. Nỗi ám ảnh này đã tạo nên nhiểu ảnh hưởng tâm lý trong sự suy nghĩ, niềm cảm xúc cũng như sự phản chiếu một cách rõ rệt trong cuộc sống cũng như sự nghiệp điện ảnh và nghệ thuật sáng tác phim truyện của ông. Để chúng ta có thể hiểu rõ hơn trong việc nhận thức những yếu tố tâm lý ảnh hưởng trong tính cách làm việc của Chaplin, có lẽ chúng ta cũng cần biết nguyên nhân của nó.

    Cha của Chaplin qua đời năm ông mới có 38 vì bịnh sơ gan do chứng nghiện rượu gây ra. Mẹ ông, một người đàn bà có cuộc sống rất phóng khoáng, không nghề nghiệp. Bà sống với ba đứa con không cùng cha và sau cùng, bà đã chôn vùi cuộc đời trong nhà thương điên vì bịnh tâm thần trong suốt 17 năm. Mất cả cha lẫn mẹ, Charlie Chaplin phải tự nuôi sống mình bằng cách theo học nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu, ông ra mắt khán giả khi mới có năm tuổi. Năm lên 7 Chaplin sống trong trại tế bần và năm 1897 khi lên 8 ông được gởi vào trường dành cho trẻ mồ coi, vô gia cư. Ông trở thành một nghệ sĩ giải trí chuyên nghiệp của đoàn hát Eight Lancashire Lads trong tiết mục múa guốc.

    Năm lên 9, Chaplin trở thành đứa trẻ bụi đời sống ngày đây mai đó, lây lất trên hè phố của miền Nam London. Năm 1908, ông tham gia đoàn kịch câm Fred Karno và nhanh chóng trở thành ngôi sao nổi tiếng với vai “The Drunk” trong bản phác thảo hòa tấu A Night In A English Music Hall. Chính vì vậy mà sau này khi phải đối diện với khó khăn trong cuộc sống, Chaplin cho đó là chuyện thường tình vì với ông, những bước đường gian khổ ấy ông đã từng đi qua. Ông nói:

    Tôi hầu như chẳng biết thế nào là khủng hoảng

    vì tôi đã luôn sống trong khủng hoảng”.

    Năm 1917, một hiện tượng lạ lùng xảy ra trong phim trường Hollywood, một loạt phim “Câm” ra đời mà đạo diễn kiên diễn viên không ai khác: Đó là Charlie Chaplin. Chaplin một trong những nghệ sĩ kịch câm và diễn viên xuất sắc nhất trong mọi thời đại có cùng một thể loại phim này. Với biệt hiệu “vua hề”, ông đã thừa hưởng cái máu hài hước ấy từ đâu, không ai biết, mà hình như nó đã tiềm tàng và bắt nguồn trong con người của Chaplin từ thuở bẩm sinh. Nhưng có ai ngờ rằng chính cái biệt tài “hề” thiên phú ấy đã đưa ông lên đỉnh cao của danh vọng sau này.

    Với cái bản năng trời cho ấy nên dù là còn nhỏ tuổi cho đến khi thành tài, Chaplin luôn tìm cách thu hút và gây sự chú ý của khán giả qua phong cách dị dạng, điệu bộ hóm hỉnh, khiến người xem thích thú và ưa chuộng. Nhà khoa học Alber Einstein khi gặp Chaplin, ông nói:

    Tôi ngưỡng mộ nghệ thuật của anh vì nó có tính phổ quát.

    Anh chẳng cần nói lời nào mà cả thế giới đều hiểu anh“.

    Chaplin khiêm nhường và hài hước, ông đáp:

    Đúng là vậy, nhưng mà cái danh tiếng của ngài còn vĩ đại hơn, cả thế giới ai cũng ngưỡng mộ ngài, trong khi đó chẳng ai hiểu thuyết tương đối (General theory of Relativity) ngài nói là cái gì“.

    Nếu dùng phân tâm học để giải thích tại sao Chaplin phải vận động hết tâm trí để tạo nên sự chú ý cho mọi người? Thưa đó là bản năng sinh tồn của con người. Cứ điểm qua tiểu sử cũng như những tác phẩm do Charlie Chaplin sáng tác, chúng ta tự hỏi: Tại sao nhà đạo diễn này lại có những hành động khắt khe đối với nữ giới nhưng lại quá vị tha đối với những đứa trẻ khốn cùng?

    Điều này đã được giải thích bởi nhà phân tâm học nổi tiếng Sigmund Freud, ông tin rằng hành vi và cá tính, cách cư sử xã giao của con người tạo thành bởi sự tương tác liên tục và độc nhất giữa những nguồn sức mạnh tâm lý qua 3 cấp độ nhận thức khác nhau: Tiền ý thức, ý thức và vô thức. Ông tin rằng mỗi cấp độ này đều đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng lên hành vi của từng cá nhân. Phân tích về con người của Chaplin theo từng cấp độ ta nhận thấy

    • Vùng tiền ý thức của chaplin là tất cả những suy nghĩ, cảm xúc tiềm ẩn trong ký ức của Chaplin trong thời thơ ấu, (cha mất sớm, mẹ bị bệnh tâm thần và sống trong nhà thương điên, Chaplin trở thành đứa trẻ không nhà cửa, sống lay lất trên hè phố khi ông mới lên 7). Mặc cảm bị cha mẹ bỏ rơi xuất hiện khi ông trưởng thành và những cảm xúc chưa được giải tỏa vốn tiềm ẩn trong vùng tiềm ý thức, nay có thể được đưa đến vùng ý thức.
    • Vùng ý thức là khi những suy nghĩ, cảm giác và mong muốn mà ta nhận thức được một cách rõ ràng khi ký ức được triệu hồi từ vùng ý thức.
    • Và vùng vô thức là nơi các cảm xúc, suy nghĩ, ham muốn và ký ức nằm bên ngoài vùng kiểm soát của ý thức. Những cảm giác đau đớn, lo âu hay xung đột không xuất hiện trong vùng vô thức; tuy nhiên theo Freud, tâm trí vô thức ảnh hưởng lên hành vi của ta. Tóm lại vô thức bao gồm những cảm xúc bị đè nén, những ký ức, thói quen, suy nghĩ, khao khát và phản ứng đau đớn, xấu hổ, tội lỗi đối với chúng ta trong ý thức sẽ được lưu trữ trong vùng vô thức.

    Freud giải thích: Sự liên hệ giữa ba cấp độ của tâm trí ví như một tảng bang hà. Phần nổi lên trên mặt nước thể hiện cho vùng ý thức. Phần phía trên ngay ở dưới mặt nước mà mắt thường vẫn nhìn thấy là tiền ý thức. Và phần băng lớn nằm ẩn sâu dưới nước mà mắt không thấy được chính là vô thức. (Xin nhìn hình dưới). Lời giải thích trên giúp chúng ta hiểu rõ về cách thức vận hành của ý thức và vô thức. Ví dụ: Khi ta nói “lỡ lời” hay “gọi nhầm tên” là do sự bộc phát những suy nghĩ và cảm xúc ẩn giấu trong vô thức của mình.

    Nguồn: https://www.verywellmind.com/the-conscious-and-unconscious-mind-2795946

    Bàn về sự nghiệp điện ảnh của Charlie Chaplin, ông viết rất nhiều kịch bản mà ông vừa là đạo diễn, vừa là vai chính. Một số bộ phim đáng nhớ nhất trong lịch sử điện ảnh, bao gồm The Kid (1921), The Gold Rush (1925), City Lights (1931), Modern Times (1936), The Great Dictator (1940), Monsieur Verdoux (1947) và Limelight (1952). Tuy nhiên, trong số ấy, ông được nhớ đến nhiều nhất với nhân vật trong phim câm “The Tramp” (Kẻ lang thang), Chaplin xuất hiện trong một chiếc áo khoác quá nhỏ, quần rộng thùng thình, đôi giày cũ kỹ quá khổ, chiếc mũ bowler bạc màu, cây gậy có độ đàn hồi và một bộ ria mép kiểu Hitler. Trong phim The Tramp, kẻ lang thang (Chaplin) có dáng đi kỳ lạ, ông bị xã coi thường, xa lánh nhưng lại là nhân vật mà khán giả yêu thích nhất vì sự táo bạo, tính cách bộc trực, dũng cảm và sự kiên cường của kẻ lang thang.

    Trong phần đầu, chúng ta đã phân tích về những ảnh hưởng tâm lý trên đời sống cá nhân của Chaplin, vậy để tiếp tục, chúng ta sẽ mổ sẻ về các hiện tượng tâm lý thể hiện qua phim ảnh của Chaplin. The Tramp là cuốn phim đầu tiên của Chaplin, ra đời khi ông ở tuổi 25. Mặc dù còn trẻ trong lãnh vực phim ảnh, nhưng ông đã được khán giả Mỹ vô cùng yêu mến. The Tramp được Chaplin viết kịch bản và đạo diễn vào năm 1915 miêu tả một nhân vật trẻ con, vụng về nhưng tốt bụng, nổi tiếng là một Kẻ lang thang với tư cách cư xử cao thượng đầy nhân tính.

    The Tramp còn được gọi là “Kẻ lang thang” hay “Kẻ lang thang nhỏ” do Charlie Chaplin thủ vai chính, một nhân vật đáng nhớ nhất trên màn ảnh, đã đưa Chaplin đến một thành công rực rỡ trong lãnh vực điện ảnh thế giới của thời đại phim câm. Kẻ lang thang bất chấp với hoàn cảnh, địa vị trong xã hội của hắn, hắn là một kẻ vô gia cư, nghèo khó với lòng tự trọng cao, hắn sẵn sàng nhận những công việc thấp hèn và đồng lương rẻ mạt. Nhưng bù lại, hắn rất khôn ngoan trong việc sử dụng sự khôn khéo, lanh lợi của mình để có được những gì hắn cần phải có cho sự sống tồn và trốn thoát khỏi bàn tay của những nhân vật có thẩm quyền.

    Nhân vật trong phim The Tramp là một Kẻ lang thang vui nhộn, là nạn nhân của hoàn cảnh nghèo khổ, cô quạnh và đơn độc. Trong phim, kẻ lang thang nhặt một lá cờ đỏ rơi từ một chiếc xe tải lớn, hắn vẫy lá cờ về phía chiếc xe tải với mục đích là trả lại lá cờ cho chủ của nó… Sau này, do thời cơ đưa đẩy, Kẻ lang thang vô tình trở thành thủ lĩnh của một nhóm công nhân, hắn tổ chức biểu tình và kết thúc phải ngồi tù. Trong tù, hắn một lần nữa, vô tình hít phải chất bạch phiến (cocaine) nên quên đường trở về phòng giam của mình. Hắn đi lạc vào khu vực có một số kẻ tù vượt ngục đang tìm cách trốn thoát khỏi nhà tù. Thế là Kẻ lang thang ra tay nghĩa hiệp, hắn dấn thân chiến đấu với những kẻ đào thẩu và cứu mạng sống cho người quản giáo. Kẻ lang thang được người quản lý tha tù nhưng hắn xung phong ở lại vì hắn cho rằng:

    Thà ở trong tù còn tốt hơn là sông ở thế giới bên ngoài”.

    Cũng vẫn trong truyện phim, Kẻ lang thang Charlie cứu con gái của một người nông dân khỏi tay một số kẻ trộm và ngăn chặn âm mưu cướp trang trại của cha con người nông dân. Kẻ lang thang đem lòng yêu cô gái, nhưng khi được tình yêu thì hắn lại bỏ ra đi. Bộ phim The Tramp với nội dung xây dựng và mô tả một nhân vật tuyệt vời bởi tư cách đạo đức, tốt bụng, thương người của Kẻ lang thang.

    Có người tự hỏi tại sao vở hài kịch lại kết thúc quá buồn như thế? Có phải chăng cuốn phim The Tramp là một cuốn phim phản ảnh thật rõ rệt cuộc đời của cậu bé Charlie Chaplin thuở nhỏ, bị mẹ bỏ rơi, sống lang thang trên hè phố, bữa đói ngày no. Phải chăng Kẻ lang thang ruồng bỏ người yêu vì hắn nghi ngờ tình cảm của cô gái và sợ rằng sẽ có một ngày cô ấy sẽ dũ áo ra đi như mẹ hắn đã ruồng bỏ hắn khi xưa.

    Charlie Chaplin trong phim Kẻ lang thang
    (The Tramp)
    (Photo Credit: Internet)

    Sau phim The Tramp, những bộ phim kế tiếp như Trẻ em (1921), Người phụ nữ ở Paris (1923), Cơn sốt vàng (1925), Xiếc (1928), v.v… của Charlie Chaplin luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của báo chí và khán giả. Chính vì thế, chỉ một thập kỷ sau, Chaplin trở thành người giầu có, nổi tiếng và có thế lực mạnh ở Hollywood. Cho đến nay, Chaplin có biệt hiệu là “Một kỳ quan của điện ảnh”. Trong lúc phim của ông đạt lên đỉnh cao của nghệ thuật thì chẳng một ai hiểu được rằng đằng sau tiếng cười ấy là những giọt nước mắt thầm kín ẩn dấu về những bi kịch của cuộc đời và tuổi thơ mà ông đã đi qua.

    Những bộ phim hài câm mà vua hài Charlie Chaplin diễn xuất thì ít ai biết rằng đó là sự phản ảnh của tuổi thơ cơ cực của ông, chính những sóng gió cuộc đời đã khiến ông tự tìm ra được hình tượng lạ lùng, cười ra nước mắt để giải bày niềm tâm sự, nỗi lòng bi thảm qua cách diễn suất trong các tác phẩm của mình. Charlie Chaplin mãi mãi được công chúng yêu điện ảnh nhớ đến trong bộ dáng người đàn ông nghèo khổ với những bước đi giật giật, lắc lư. Hình ảnh đáng thương với mũ bạc màu, cây gậy cong queo và đôi giầy rách là nguồn cảm hứng phát xuất từ thời thơ ấu nghèo đói của Chaplin trên những con phố tồi tàn ở London.

    Thật vậy, Charlie Chaplin đã từng dùng câu nói vô cùng thấm thía để nói lên nỗi đau khổ của định mệnh đã dành cho cuộc đời mình:

    Chiếc gương là người bạn thân nhất của tôi, bởi vì khi tôi khóc thì nó không bao giờ cười”

    Charlie Chaplin
    Tôi thích đi dưới mưa để không ai thấy tôi khóc

    Những dẫn chứng về sự ảnh hưởng của tâm lý học trong văn chương và phim ảnh của Chaplin lại càng rõ rệt hơn bởi trong đời sống thực tế, Charlie Chaplin là một người rất cay nghiệt và không khoan dung với người phối ngẫu. Càng lớn tuổi, Champlin càng trở nên khó chịu và khó ưa, ông cho là không ai giỏi bằng ông. Trong con đường tình ái, ông cho rằng ông chẳng yêu ai mà chỉ có người ta say mê ông mà thôi. Trong 4 cuộc hôn nhân, Champlin đều bị coi là một người chồng độc ác, tàn nhẫn và bạo hành. Phải chăng nỗi ám ảnh của tuổi thơ khi bị mẹ bỏ rơi đã khiến ông bị mất niềm tin vào phụ nữ. Tuy nhiên, Champlin lại đối sử rất tử tế với những trẻ em lân la quanh phim trường và nhất là làm việc rất suông sẻ với những trẻ em cùng đóng phim với ông. Điều này chứng tỏ rằng ông muốn đền bù tất cả thiệt thòi cho những đứa trẻ bất hạnh như ông.

    Người ta tự hỏi: Tại sao phía sau một Charlie Champlin đáng yêu, dễ mến trên màn bạc lại là một người đàn ông thô bạo? Tại sao ông luôn tạo cho ông một nhân vật tốt bụng trong các vai diễn trên màn bạc? Phải chăng đó là cách thức duy nhất để ông có thể đánh lừa tâm trí mình và xoa dịu những vết thương của thời thơ dại? Phải chăng nếu không sống giả tạo trong vai diễn thì ông trở nên lạc lối và đi vào trầm cảm? Phải chăng sân khấu là nơi để ông lừa dối chính bản thân mình và vai diễn là không gian cho ông nương tựa, để quên đi những khoảng khắc đau khổ, cái khắc khoải cô đơn và cái quá khứ nghiệt ngã của cuộc đời mình.

    The Kid” cũng là cuốn phim thể hiện rõ về cuộc sống bất hạnh của cậu bé Charlie Chaplin, bộ phim kể về một đứa trẻ bị người mẹ bỏ rơi từ lúc lọt lòng được một người đàn ông nghèo khổ sống bằng nghề vá cửa kính đem về nuôi, tuy nghèo khó nhưng ông lão lại vô cùng yêu thương đứa con nuôi. Đứa bé sống bình yên bên người đàn ông nghèo khổ, cho đến một ngày, khi nhân viên trại tế bần phát hiện ra cậu là đứa trẻ mồ côi và muốn đem cậu bé vào trại tế bần để chăm sóc. Hai bố con nghèo khó ấy phải chạy chốn khỏi căn nhà của mình và ngủ qua đêm trong một nhà trọ chật chội. Một hôm, người chủ nhà trọ tình cờ đọc được một mẩu tin trên báo do người mẹ của cậu bé đang tìm đứa con mà bà đã bỏ rơi năm xụa. Người chủ nhà trọ đã báo cho người mẹ tìm con ấy biết và cuối hai mẹ con đoàn tụ. Cảnh chia tay giữa hai cha con người đàn ông nghèo khó là đoạn phim vô cùng xúc động đã khiến khán giả cười vang xen lẫn trong tiếng khóc…

    Nội dung trong cuốn phim “The Kid” đã bộc lộ một niềm mơ ước của hầu hết những đứa trẻ mồ côi, mơ ước một ngày đoàn tụ cùng với mẹ cha. Phải chăng đây cũng là niềm mơ ước của chính Charlie Chaplin, ao ước một ngày gặp lại mẹ. Phải Charlie Chaplin mơ ước một mái gia đình…

    Tóm lại, trong tất cả các phim hài của Charlie Chaplin đều có những ngụ ý rất thâm thúy, có thể nói đây là một thể loại phim hài hước có mục đích, mang tính cách giáo dục và răn dậy đạo làm người, không nên phân biệt giai cấp trong xã hội, dù giầu hay nghèo đều phải được kính trọng như nhau. Chất bi kịch xen lẫn hài kịch khiến người xem phải suy ngẫm và xúc động vì nội dung phong phú của cốt truyện. Xem phim hài của Charlie Chaplin khiến người xem phải thán phục trí tuệ và sự hài hước tuyệt vời của ông. 

    Tưởng không thể không nhắc đến phim hài “The Great Dictator” của ông, Chaplin đã đóng vai Adolf Hitler, Chaplin kết thúc phim bằng một bài phát biểu nổi tiếng và trở thành câu kinh điển cho tình yêu và sự khoan dung.

    Chúng ta muốn sống vì hạnh phúc của người khác, chứ không phải sự đau khổ.

    Chúng ta không muốn sự thù ghét và khinh miệt người khác.

    Sự hiểu biết khiến chúng ta trở nên cay độc.

    Sự khôn ngoan làm chúng ta cứng rắn và tàn nhẫn.

    Chúng ta suy tính quá nhiều và cảm nhận quá ít.”

    Khánh Lan, California, May 2022

  • Khánh Lan,  Văn Thơ

    NGÀY CỦA MẸ (Mother’s Day)

    Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình

    (Photo credit: giaoduc.edu.vn)

     

    Tài liệu Wikipedia ghi nhận Ngày của Mẹ bắt nguồn từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhưng cũng có tài liệu cho rằng Ngày của Mẹ có thể được bắt nguồn từ Vương quốc Anh và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật qua nhiều năm trước khi lễ hội này xuất hiện ở Hoa Kỳ.

    Theo lịch sử thì Ngày của Mẹ là ngày lễ hội mùa xuân hàng năm mà người Hy Lạp cổ đại dành riêng cho các nữ thần mẫu, họ cũng dùng dịp này để tôn vinh Rhea, vợ của Cronus và là mẹ của nhiều vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Người La Mã cổ đại còn gọi lễ hội này là Hilaria để tôn vinh Cybele, một nữ thần Mẹ. Các nghi lễ tôn vinh Cybele đã bắt đầu khoảng 250 năm trước Chúa giáng sinh. Lễ kỷ niệm được thực hiện bằng cách cúng dường trong đền thờ Cybele kéo vào khoảng tháng Ba, những ngày đầu rất quan trọng, thường kéo dài trong ba ngày gồm các cuộc diễu hành, trò chơi và hóa trang. Chính Lễ kỷ niệm này đã khiến những người theo Cybele bị trục xuất khỏi Rome.

    Những người theo đạo Thiên Chúa Giáo thời sơ khai đã tổ chức Ngày của Mẹ vào Chủ nhật, thứ tư của Mùa Chay để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Chúa Kitô. Sau đó, ngày lễ hội này được mở rộng để chúc mừng tất cả các bà mẹ và ngày này trở thành Ngày của Mẹ. Ngày của Mẹ bắt đầu từ những năm 1600 ở Anh. Tại đây, Ngày của Mẹ được tổ chức hàng năm vào ngày Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay (khoảng thời gian 40 ngày trước Lễ Phục sinh) để tôn vinh những người mẹ sau nghi lễ cầu nguyện trong nhà thờ để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Những đứa con thường mang theo những món quà và hoa để tỏ lòng thành kính với mẹ của chúng.

    Theo truyền thống, những đứa trẻ mang theo những món quà, những loại bánh trái đặc biệt hoặc bánh ngọt đầy trái cây được gọi là simnel để tặng Mẹ của chúng. Người Nam Tư và người dân ở các quốc gia khác cũng tổ chức Ngày của Mẹ tương tự như vậy. Tuy nhiên phong tục kỷ niệm Ngày Chủ nhật của Mẹ đã gần như hoàn toàn biến mất vào thế kỷ 19 cho đến mãi sau Thế chiến thứ hai Ngày của Mẹ mới được tổ chức lại.

    Ngày của Mẹ là thời gian để tôn vinh tình mẫu tử và thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với tất cả những người mẹ, những người vợ, người chị và bà nội & ngoại đã hy sinh cả cuộc đời cho các con, các cháu. Lịch sử đã phải công nhận rằng, từ trước đến nay người phụ nữ luôn giữ những vai trò thiết yếu trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Điển hình là bà Marie Curie, người phụ nữ đầu tiên từng đoạt giải Nobel cho đến cựu Thẩm phán Tòa án Tối cao Ruth Bader Ginsburg, là những người mẹ đã làm thay đổi thế giới.

    Năm 1858, Ann Reeves Jarvis, một người nội trợ vùng Appalachian, đã thành lập “Ngày làm việc” của các bà mẹ trong nội chiến nhằm nỗ lực cải thiện điều kiện vệ sinh cho binh lính và trẻ em. Bà cũng đã giúp thành lập một câu lạc bộ để dạy phụ nữ cách chăm sóc trẻ em. Khi nội chiến bùng nổ ở Hoa Kỳ, Ann Reeves Jarvis đã yêu cầu các thành viên khác của các câu lạc bộ tổ chức và cam kết rằng chiến tranh sẽ không làm ảnh hưởng đến công việc của họ. Họ thề sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và hỗ trợ những người bị bệnh hoặc bị thương dù bất kể họ đang chiến đấu ở phe nào. Sau đó, Ann Reeves Jarvis thành lập “Ngày Tình bạn của Mẹ” để thúc đẩy sự hòa giải giữa những người lính của Liên minh và Liên minh.

    Năm 1872, Julia Ward Howe, một nhà hoạt động, nhà văn và nhà thơ, bà đã viết bản Tuyên ngôn Ngày của Mẹ để kêu gọi các bà mẹ tham gia trong việc thúc đẩy hòa bình thế giới. Julia Ward Howe là người tiên phong và gợi ý cho việc tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ. Là một người yêu tổ quốc, bà đã sáng tác và trở nên nổi tiếng với bài hát nội chiến “Battle Hymn of the Republic“. Julia Ward Howe đề nghị rằng ngày 2 tháng 6 hàng năm nên được tổ chức và đó là Ngày của Mẹ cũng như là ngày dành cho hòa bình. Bà đã viết lời kêu gọi đến tất cả các phụ nữ và nồng nhiệt khuyến khích họ nổi dậy chống lại chiến tranh trong Tuyên ngôn Ngày của Mẹ. Bàn tuyên ngôn này trở nên nổi tiếng và được viết ở Boston, năm 1870.

    Julia Ward Howe cũng đã khởi xướng Ngày Hòa bình của các Bà mẹ vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Sáu ở Boston. Bà ủng hộ lý do tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ và chính thức tuyên bố cho phép mọi người nghỉ lễ vào ngày này. Ý tưởng của Julia Ward Howe đã lan rộng nhưng sau cùng nó đã bị thay thế bởi ngày lễ Ngày của Mẹ, hiện được tổ chức vào tháng Năm. Năm 1873, Julia Ward Howe vận động để thành lập Ngày của mẹ nhằm đạt được hòa bình thế giới và giải quyết xung đột giữa con người với nhau.

    Với nguồn cảm hứng từ những công việc của Ann Reeves Jarvis,  Anna Jarvis M. là con gái của Ann Reeves Jarvis tiếp tục tranh đấu cho lễ hội Ngày của Mẹ. Năm 1905, sau khi bà Ann Reeves Jarvis  qua đời, Anna Jarvis M. muốn tạo ra một ngày tưởng niệm và tôn vinh những người mẹ đã qua đời cũng như ghi nhận những hy sinh mà các bà mẹ đã dành cho con cái của họ, Sau cùng, Ngày lễ của Mẹ được công nhận và ngày lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên được tổ chức tại Grafton, phía Tây Virginia tại một nhà thờ địa phương vào ngày 10 tháng 5 năm 1908. Nhờ sự hỗ trợ tài chính của John Wanamaker, một chủ doanh nghiệp ở Philadelphia, Ngày của Mẹ này đã thành công rực rỡ với hàng nghìn người đã đến tham dự. Ngày nay, tại nhà thờ có Đền thờ Ngày của Mẹ Quốc tế.

    Để Ngày của Mẹ trở thành ngày lễ quốc gia, Anna Jarvis M. đã viết thư cho các chính trị gia và báo chí trên toàn quốc, yêu cầu họ chấp nhận ngày này để kỷ niệm và ghi ơn công lao của các bà Mẹ. Kết quả, truyền thống báo chí bắt đầu lan rộng ra 45 tiểu bang và một số tiểu bang khác, chính thức tuyên bố đây là ngày lễ Ngày của Mẹ vào năm 1912. Năm 1914, cựu Tổng thống Woodrow Wilson đã tuyên bố tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên trên toàn quốc. Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Năm của mỗi năm.

    Ở Vương quốc Anh và một số khu vực ở Châu Âu, ban đầu là đây là một ngày lễ tôn giáo được tổ chức vào Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay. Ngày này nhằm mục đích cho các cá nhân tìm đường trở lại “nhà thờ mẹ” của họ. Những người đi nhà thờ cũng sẽ coi đây là cơ hội để đoàn tụ với gia đình sau khi đi công tác xa. Các nhà sử học có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Ngày Chủ nhật của Mẹ, bao gồm truyền thống phát triển từ việc trẻ em nhặt hoa khi chúng đi bộ đến nhà thờ.

    Tại Vương quốc Anh, người dân dành thời gian để tôn vinh những người mẹ, chẳng hạn như mẹ đẻ, bà ngoại, mẹ kế và mẹ chồng. Trong ngày ấy, mọi người sẽ ăn mừng bằng một chiếc bánh Simnel, đó là một chiếc bánh trái cây nhân hạnh nhân và 11 quả bóng để tượng trưng cho 11 môn đồ.

    Ở Ethiopia, Ngày của Mẹ được tổ chức hơi khác một chút. Khi mùa mưa kết thúc, các gia đình sẽ tụ tập để tham gia lễ hội Antrosht. Trong khoảng thời gian ba ngày, sẽ có khiêu vũ, ca hát và rất nhiều đồ ăn. Theo phong tục, con gái cung cấp rau và pho mát, trong khi con trai mang thịt.

    Thái Lan, Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày 12 tháng 8 để kỷ niệm ngày sinh của Hoàng hậu Sirikit. Các hoạt động trong ngày lễ bao gồm diễu hành và tặng hoa nhài cho các bà mẹ.

    Nga, Khi nước Nga còn được gọi là Liên bang Xô Viết, các bà mẹ được tôn vinh vào ngày Quốc tế Phụ nữ ngày 08 tháng 03. Năm 1998, Ngày của Mẹ chính thức được thành lập là Chủ nhật cuối cùng của tháng 11. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ăn mừng vào tháng Ba.

    Nepal, Ngày của Mẹ được gọi là Mata Tirtha Aunsi, có nghĩa là “Hành hương về trăng non của Mẹ”. Vào ngày này, các cá nhân sẽ trân trọng thời gian ở bên mẹ và tưởng nhớ tất cả những người đã qua đời.

    Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức ở một số quốc gia gồm Mỹ, Anh, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Úc, Mexico, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản và Bỉ. Mọi người coi ngày này như một cơ hội để tri ân và cảm ơn những người mẹ của họ cho sự yêu thương và hy sinh của họ với con cái. Trong Ngày của Mẹ, các đường dây điện thoại đạt đến mức quá tải cũng như truyền thống tặng hoa, thiệp và những món quà gửi đến cho Mẹ hoặc mời Mẹ của họ đi chơi, đi ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn tối…

    Khánh Lan siêu tầm và nghiên cứu from Wikipedia

    California, May 2022

     

  • Lê Nguyễn Nga,  Văn Thơ

    QUYẾT  PHẤT  CỜ

        
     
     
    Lịch đến tháng tư vẫn nhớ đời 
    Ba mươi, ngày mất Việt Nam tôi
    Căm hờn Cộng Sản quân gian ác   
    Mất nước thay đời sống nổi trôi.    
     
    Quê hương chim đắm trong gian dối 
    Cuộc chiến đão lừa được thế thôi  
    Lòng dân than oán bao gian khó 
    Nước Việt đau thương  suốt cả đời.
     
    Vận nước xoay chiều lại đến thôi 
    Đau lòng quân Cộng cướp quê rồi 
    Sa cơ uất chí đêm ngày nhớ        
    Nuốt hận non sông quyết phất cờ.
     
    Lê Nguyễn  Nga
      tháng  4, 2022
  • Ngọc Cường,  Văn Thơ

    NHÌN LẠI 72 NĂM

    NHÀ VĂN NGỌC CƯỜNG

    LTG: Bài viết dưới đây là một đoản văn hư cấu, nhân vật “tôi” có thể không nhất thiết là tác giả. Điều này không quan trọng, vì ngày nay, ranh giới giữa thật và ảo rất mơ hồ, có khi một thế giới “ảo” trong đó có đồng tiền ảo” và địa chỉ “ảo” đang lưu hành.

    Tôi vừa được 72 tuổi, ở cái tuổi người xưa cho là “thất thập cổ lai hy”, nhưng ngày nay, tất nhiên không còn hiếm hoi, và đối với mấy bậc niên trưởng tám, chín mươi, họ vẫn coi những ông già ở tuổi 70 như là một đứa em còn trẻ, và tôi cũng đồng ý như vậy, vì tự coi mình, ít ra trên phương diện tinh thần, cứ ngỡ còn là một thanh niên: vẫn ham ăn, ham chơi và ham sống. Nhưng có lẽ có khác là bây giờ không còn sợ chết như khi còn ít tuổi hơn, lúc bốn năm mươi, lúc đang trong cơn “khủng hoảng của tuổi trung niên”, rất sợ chết, sợ mất đi những bình thường, nhưng tha thiết: bạn bè, công việc và vợ con. Về cái khoản sợ chết, thật ra, khi còn trẻ hơn, ở tuổi thanh niên, cũng ít ai lo lắng, vì còn đang khỏe mạnh, và lo toan đến những vấn đề “lớn”, như làm thay đổi xã hội … hay tâm hồn đang giao động, bị hành hạ vì yêu thương, nhớ nhung cô bạn học hay cô láng giềng đầu ngõ?

    Vướng vào thể xác của một ông già 70, như bộ máy của một chiếc xe trên 100 ngàn miles, đương nhiên có nhiều trục trặc hay lủng củng, bát đầu có hiện tượng “ba cao và một thấp”, như thiên hạ thường nói tới: cao máu, cao mỡ, và cao đường, và thấp khớp! Một ông bạn ở trên San Jose, khi nghe tôi có 3 cao, đã bật cười “ở tuổi của cậu, nếu không có cái cao nào, mới là có vấn đề!”

                Gần đây, sau khi về hưu, tôi tập tành viết lách, và sau đó đã trở thành một nhà văn (theo định nghĩa khi một người viết có tác phẩm xuất bản). Nhưng, có một sự liên hệ, mà tôi cho là “kẹt” cho các văn sĩ, là thường được, hay bị (tùy theo quan niệm của độc giả và chính tác giả nữa) cho là đương nhiên phải là một nhà trí thức, hiểu biết rộng và thông thái!

    Tôi xin bác bỏ luận điệu này, và theo thiển ý: một nhà văn, tóm gọn chỉ là một người kể một câu chuyện, cốt mua vui cho thiên hạ, không hơn không kém, y hệt những “người đẹp” làm cái nghề lâu đời nhất trái đất, vì cả hai đều cốt sao “Mua vui cũng được một vài trống canh” (Nguyễn Du). Văn hào Tố Như còn nói như thế, xá chi một nhà văn vô danh như tôi, có gì mà phải hãnh diện hay khoe khoang chứ? Có lẽ vì đã từ lâu đời, khi chữ nghĩa còn khó học và hạn chế, khi mà chỉ có vài giới trí thức, học rộng, mới dám viết lách cho thiên hạ đọc, và từ đó, danh hiệu nhà văn vẫn thường lầm lẫn với trí thức và trở thành giới ưu tú trong xã hội. Ngày nay, quý độc giả ghé qua tòa soạn báo Người-Việt, ngay chỗ hành lang, sẽ thấy trên tường, đầy rẫy sách bày bán, người viết có thể nhiều hơn người đọc, có gì để hãnh diện? Theo tôi, một nhà văn, quan trọng nhất là phải tôn trọng độc giả, vì nếu khi họ vừa “kể truyện” mà còn có thêm ý định cổ động hay lên án, đả phá điều gì, như vậy, bài viết không còn thuần túy là văn chương nữa, sẽ chỉ là tuyên truyền và là một vết nhơ, như những bài thơ của Tố Hữu khóc ông Xít-Ta-Lin…

    Ở tuổi già, khi tương lai thu ngắn dần lại, người ta thích quay về với quá khứ xa xôi, cố bám lấy kỷ niệm cũ, như tôi đang làm ngày hôm nay:  

                Ngẫm nghĩ về quãng đời bình thường và tầm thường của mình, duy khởi đầu có một điều bất hạnh: tôi đã mất mẹ khi mới được 4 tháng. Bà cụ tôi qua đời vì bệnh lao sau khi sanh tới đứa con thứ 11. Biến cố này đã ám ảnh tôi rất lâu, nhưng hôm nay, bỗng như trong câu chuyện tái ông mất ngựa, thấy trong cái rủi đó, có thể lại đưa đến cái may khác: như nếu không là một đứa mồ côi mẹ, không chừng tôi đã không gặp và yêu một cô gái trở thành người bạn đời sau này, và đó là sự thiệt thòi vì không chung sống với cái “phần nửa tốt hơn “, my better half, của tôi.

                Khi còn trẻ, hay mơ mộng và có chút lý tưởng, tôi nghĩ mình sẽ làm được rất nhiều chuyện “lớn lao”. Chẳng hạn như hoàn thành một cuộc cách mạng, làm thay đổi cả một xã hội, rồi biến thế giới thành một đại gia đình vui tươi, sung sướng, mà trong đó không còn ai khổ đau, giống như những người mác-xít đã thường rêu rao, hay xa hơn nữa trong lịch sử tiến bộ của lòai người thì có Đức Phật giác ngộ chỉ ra cho chúng ta con đường để đạt đến.

    Nhưng chắc ai cũng đồng ý với câu “địa ngục được lót bằng những ý định tốt”, và đúng như người cộng sản đã tuyên truyền (tuyên truyền thôi, chứ khi họ hành động thì sai bét rồi mà vẫn ngoan cố không hề biết điều chỉnh). Và chính lịch sử cũng đã chứng minh: những gì không thích hợp với con người, không thuận thảo với lòng dân thì sẽ không tồn tại lâu được. Tiếc thay, mỉa mai thay, chỉ sau khi đã giết hàng chục triệu nạn nhân vô tội rồi phải đợi cho chính con người trên trái đất chủ động khiến cho khối Cộng sản thế giới mới sụp đổ, bằng sự kiện đã xẩy ra ở Liên-Xô và Đông Âu vào cuối thập niên 1980.

    Thời thơ ấu, tôi được ông cụ gửi cho đi học một trường Tây gần nhà, nằm trên đường Hồng Thập Tự (lúc đó có tên là Rue Chasseloup Laubat) và ngày nay nghe nói đã đổi tên nữa: đó là một trường tiểu học mang tên vị thánh Saint Martin de Pallières dành cho con em gia đình binh lính đóng ở thành Ông-Dzèm (đọc theo tiếng Tây là 11èm Régiment, tức Trung Đoàn 11) của quân đội thuộc địa của Pháp. Ngôi trường này rất nhỏ, nằm sâu trong trại gia binh của Trung Đoàn (đối diện với thành Cộng Hòa sau này). Cho đến giờ này, tôi vẫn chưa hiểu tại sao một cái tên dài như vậy mà nó lại đã ăn xâu vào trí nhớ thằng bé 5 tuổi là tôi từ hồi ấy.

    Vào ngày tựu trường đầu tiên, không phải bố mà lại là ông anh đưa tôi đến trường, anh ấy sau là một luật sư, hiện đang ở trên San Jose. Sở dĩ tôi nhớ đến chi tiết này, là vì có thằng nhỏ bạn cùng lớp, nó đã tưởng anh ấy là cha tôi. Tôi vẫn còn nhớ là mỗi lần đau ốm (tôi bị suyễn kinh niên khi còn nhỏ), cần xin phép thì ba tôi là người cầm cái bút máy viết trên một tờ giấy một hàng chữ Pháp gửi cho bà Đầm dạy tội học. Dường như nhờ đó, tôi bắt đầu mang máng hiểu được sức mạnh của chữ nghĩa. Ông cụ viết những chữ mà hôm nay tôi còn nhớ bắt đầu là:  Je soussigné…” (tôi ký tên dưới đây …). Nét chữ ông viết rất đẹp, nhưng nếu chỉ nhìn thấy chữ viết ấy thì không thể biết được rằng ông là một người cha vốn lạnh lùng và nghiêm khắc. Hầu như suốt đời tôi chưa hề được ngồi nói chuyện cùng ông; hai cha con như hai đồ vật trưng bày trong nhà, luôn luôn và vĩnh viễn xa cách nhau!

    Tôi học ở đấy 1 hay 2 năm, thì được chuyển qua trường Lamartine, cạnh hồ tắm thanh niên, trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, xế ngang trước mặt Sở Thú. Sau cả 70 năm, không biết ngôi trường này có còn hiện diện ở Sài-Gòn nữa hay không? Hay như mọi thứ trên đời đều vô thường…Có điều lạ lùng là mấy năm học tiểu học trường Tây làm tôi khổ sở, vì không thể nào hiểu nổi văn phạm Pháp văn, nó rắc rối và khó hiểu quá, nhất là đối với một đứa trẻ bình thường như tôi.  Và có thể do đó mà tôi đâm ra thù ghét ông tây – bà đầm, cùng tất cả những gì của Pháp. Đối với riêng tôi, họ chỉ là bọn Thực Dân bóc lột…Thế nhưng, sau hằng trên nửa thế kỷ, và nhất là gần đây (khi qua Mỹ định cư) đã vào tuổi trung niên, tôi tự dưng lại yêu thích du lịch Paris, được nghe và nói bặp bẹ dăm ba câu tiếng Tây đã học từ lúc nhỏ…; nhất là thích thú khi thăm viếng mấy ngôi làng nhỏ bé miền quê nước Pháp: cảnh trí hiền hòa, êm đềm và cổ kính. Nó có một vẻ xa xưa như trong truỵên cổ tích, và lãng mạn như trong tranh của Renoir! Tại sao? Tôi cũng chẳng hiểu nổi được sự thay đổi phức tạp trong tâm lý của chính mình…

    Trong những năm khổ sở ở trường Lamartine, khó khăn khi phải học bằng tiếng Tây, tối đến về nhà, tôi quay qua tự học lấy chữ quốc ngữ rồi tập đánh vần và viết được tiếng Việt. Được học tiếng mẹ đẻ, tôi như con chim sổ lồng, hớn hở cất cánh tung bay, mà không còn xa lạ như mấy verbe et vocabulaire francaise. Những cuốn Sách Hồng của Tự Lực Văn Đoàn viết dành cho thiếu nhi là lọai sách đầu tiên tôi tập đọc. Từ đó, chữ nghĩa đã mở ra một thế giới kỳ diệu cho đứa bé …Nhưng tất nhiên vì do tự học, văn phạm và viết lách tôi có phần giới hạn…Cho đến bây giờ, tôi là một nhà văn viết sai văn phạm nhiều nhất trong văn đàn hải ngoại! Hai nhà văn (giúp hiệu đính mấy tác phẩm của tôi) là PQB và BBH là hai nhân chứng cho sự kiện này.

    Cuộc đời diễn ra ít khi hữu lý và công bằng mà thường nhiều mâu thuẫn. Những kẻ côi cút, có một tuổi thơ thiếu thốn tình thương như tôi, khi khôn lớn lại yếu đuối và rất cần được săn sóc chiều chuộng. Đâu giống như bàn chân chúng ta đi đất lâu chai lại, trở nên cứng cáp để chống chỏi với đường đời gian nan. Con tim thì khác hẳn, một khi đã bị xúc phạm rồi thì nó sẽ trở nên yếu đuối cả đời. Tôi thành thật nghĩ, nếu bà cụ còn sống nuôi tôi đến khôn lớn, thì chắc tôi không thể là một nhà văn được. Chỉ có những kẻ cô đơn, mới dễ nhạy cảm và sợ tha nhân, mới phải lo lắng tìm hiểu tâm lý người khác. Dễ bị ảnh hưởng của người xung quanh, nhà văn tò mò chú ý nghe ngóng câu chuyện của thiên hạ để viết lại thành những mẩu văn chương.  Nhà văn William Somerset Maugham có ý nghĩ tương tự, khi ông nói là nếu không mất mẹ sớm thì có lẽ ông đã trở thành một vị Don, giáo sư trường Oxford (hoặc Cambridge), như người anh ruột của ông.

    Tuổi trẻ của tôi không có gì đặc biệt đáng để viết ra đây, ngoài sự kiện là như mấy thằng con trai mới lớn, có nhiều kích thích tố đang lưu hành trong máu nên cũng chú ý đến các cô gái, mà thường bị thu hút bởi sắc đẹp của họ mà lại không có mối tình nào cả. Dễ xúc động thì cũng chóng quên và hời hợt với mọi thứ, chỉ muốn chạy trốn vào mơ mộng, sống với tưởng tượng vì nó đẹp hơn sự thật…

    Những năm Trung Học, mỗi niên khóa thay đổi một trường, tôi đã gặp khó khăn với thầy giáo (hay bêu rếu, chế diễu học sinh) và tôi cũng không hợp với sự gò bó của nền giáo dục nhà trường. Không ai có thể chọn được cha mẹ, nhưng ít ra tôi nghĩ tôi có thể chọn được trường mình học. (Đây cũng là hậu quả của sự kiện tôi là út trong một gia đình đông con chăng!?)… Nhưng thế mà thật là kỳ diệu, tôi đã thi đậu hai cái bằng Tú Tài vào lúc 17 tuổi.

    Năm 1968 có cuộc tấn công Tết Mậu Thân, đợt I rồi đến đợt II, địch quân đặt tên là Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa (TCK-TKN), nhưng họ đã không chiếm được lâu bất cứ thành phố nào. Một trong những nguyên nhân là thật sự chẳng có ai khởi nghĩa cả, họ rõ ràng thất bại về quân sự và chính trị trong nước. Nhưng nhờ vào tuyên truyền và sự ngoan cố trợ giúp của hệ thống Cộng Sản Quốc Tế, cũng như phong trào phản chiến nổi lên trong quần chúng Mỹ và chủ trương thay đổi chiến lược của chính phủ Hoa Kỳ mà họ đã biến sự kiện thất bại quân sự của họ thành ra một thành công trên diễn đàn quốc tế! Chính trị vốn đã không còn vẻ lý tưởng như khi còn trẻ tôi thường nghĩ, mà hôm nay, tuổi đã trên 70, tôi biết cốt lõi của chính trị là quyền hành và thế lực, và quyền hành luôn luôn hủ hóa con người…

    Ngày nay, kỹ thuật tuyên truyền của nhóm người “mang danh Cộng Sản”còn tinh vi khôn khéo hơn với trò chơi “chụp mũ” và “chia rẽ” cộng đồng, như ta đã thấy đang xảy ra trên các diễn đàn hải ngoại, nhất là ở thủ đô Bolsa…

    Khi chiến sự tạm lắng dịu, tôi cùng anh bạn thân leo lên chiếc xe gắn máy Suzuki cũ kỹ, phóng lên Đà-Lạt, hy vọng từ đó xuống Phan Rang thăm bà chị. Nhưng có lẽ thực tâm chúng tôi quyết định đi cốt để chạy trốn, thăm gia đình chỉ là cái cớ, chạy trốn cái không khí ngột ngạt của Sài-Gòn, của chiến tranh, hay một xã hội đầy đau khổ, bất công và phi lý. Không ngờ đang chạy phon phon qua Định Quán, tới Phương Lâm bỗng kẹt lại vì Quốc Lộ 20 bị đắp mô, nhiều đoạn bị hư hại. Chiếc Suzuki mòn nhông nên khi chạy qua bùn lầy cao tới mắc cá chân thì sợi xích cứ tuột ra! Và, như những cuộc phiêu lưu phải có gian nan và thiếu thốn mới kỳ thú, chuyến đi đã mang đến cho chúng tôi nhiều kỷ niệm khó quên.  Hơn nữa, chúng tôi chẳng có gì trên đời để mất, để sợ cả…

    Sau ba ngày đường, ngủ bờ ngủ bụi, tới được Phan Rang nắng ấm, gặp bà chị và ông anh rể, cả hai đều ngạc nhiên, trố mắt không tin. Có lẽ chúng tôi là hai người đầu tiên dùng đường bộ từ Sài-Gòn đã tới Phan Rang sau trận Mậu Thân! Sau ba tuần lễ rong chơi ở Phan Rang với bờ biển Ninh Chữ hiền hòa ấm áp, bà chị đã không cho hai đứa tiếp tục dùng xe gắn máy về Sài-Gòn, nên cho tiền chúng tôi đi xe đò. Nhưng như hầu hết các thanh niên cứng đầu, hay “ngu si hưởng thái bình”, chúng tôi vẫn cứ thế mà xách xe phóng về đến Sài-Gòn.

    Tuân thủ lệnh tổng động viên, tôi bị gọi đi lính và thụ huấn Quang Trung rồi Thủ Đức. Có một cựu chiến binh đã phát ngôn: một khi vào lính, dù chỉ một ngày, một tháng đi nữa, cả đời vẫn là lính, y hệt như một khi biết đi xe đạp thì sẽ không bao giờ quên, tôi nhớ mãi đồng đội và kỷ niệm ở quân trường. Trải qua chiến tranh và 7 năm quân ngũ, tôi đã từ biệt vài người bạn thân thiết và ông anh ruột. Họ đã nằm xuống để tôi có thể sống ung dung ở thành phố. Tôi không thể nào quên Cơ và Tường: Cơ là biệt kích nhảy xuống Trường Sơn mất xác. Còn Tường vì muốn tìm chút bóng mát đã đến một cây cao giữa cánh đồng lúa ở Bồng Sơn rồi vướng phải lựu đạn gài dưới gốc cây, anh chết bỏ laị mối tình câm với cô Út hàng xóm của tôi. Cũng như tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái chết của ông anh, một người lính Thiết Giáp, độc thân nên tình nguyện lên chiếc GMC đi chuyến công tác thay thế cho một chiến hữu có vợ con, nhưng khi chạy qua mìn của Việt-Cộng, trên con đường làng thuộc tỉnh Cà-Mau, kích hỏa nổ tung khiến xác anh không toàn vẹn. Anh đẹp trai như Tây lai, có vài cô đeo, nhưng chưa có mối tình nào. Anh chết mới 26 tuổi, nếu còn sống, năm nay anh cũng đã 78 tuổi.

    Chiến tranh nào cũng tàn nhẫn và phi lý, nhưng chiến tranh vẫn cứ thế mà tiếp diễn trên trái đất khi con người còn tức giận và dã man…Và sự đau khổ không ngừng khi hòa bình trở lại, vì hòa bình của một kẻ đầu hàng, và khi đất nước bị bắt buộc phải ‘thống nhất’, tôi bị sống trong tù đầy và đói khổ.

    Khổng Tử, người được mang danh là vị thầy của muôn đời, “vạn thế sư biểu”, đã cho rằng khi người đã 50 tuổi tất “tri thiên mệnh”, hiểu được chuyện trời đất. Có lẽ vị thầy này có rất ít học trò ngoan, trong đó không có tôi, vì chẳng hiểu nổi chuyện của chính mình, nói gì chuyện trời biển? Chuyện trời đất đã không biết, thì còn nói gì đến chuyện Thượng Đế.

    Là một Phật tử không thông hiểu Đạo, nhưng tôi tin trong cái “không” có thể đưa đến “”, và trong “” vẫn có cái “không”, tương tự làn sóng trên biển cả, sóng không là biển nhưng cũng có thể coi như là biển.

    Vật lý lượng tử (quantum physic) đã chứng minh là thời gian không có điểm khởi đầu hay lúc kết thúc. Như vậy thì không có chỗ cho Đấng Tạo Hóa (Stephen Hawking trong cuốn The Grand Design)? Cũng là một Phật tử, tôi nhận ra sự nguy hiểm của cái ngã, nhưng tôi không hiểu Đức Phật dậy ra sao về cái ngã, vì tôi đâu có hiểu được Đạo. Dường như, Đạo chỉ có thể cảm nhận qua tu luyện mà thôi? Ông bạn “đắc đạo” hay “giác ngộ” của tôi trên San Jose đã cố gắng giải thích, thuyết pháp cho tôi nhiều lần, nhưng không tài nào tôi hiểu nổi cái ngã là gì. Tôi cho là (theo sự hiểu biết của kẻ u tối) ngã có thể ví như là cái lòng kiêu ngạo, vị kỷ của cá nhân. Phải chăng mọi đau khổ, như chiến tranh chẳng hạn, xẩy ra do cái lòng kiêu ngạo, tự coi kẻ khác thua kém mình.  Như người Đức khinh và thù dân Do Thái, nên Đại Chiến thứ Hai đã nổ ra? Cũng như bọn người da trắng cho mình cao cả hơn da màu, họ bóc lột người Á Châu và Phi Châu, gây ra chiến tranh chiếm thuộc địa. Và gần đây, có kẻ cho Thượng Đế của họ (Allah) hơn Thượng Đế (God) của tôn giáo khác nên đã mưu toan giết người như giết kẻ thù truyền kiếp.

    Tôi ít theo dõi tin tức hàng ngày, vì toàn tin về tranh chấp giữa Đảng Dân Chủ với Cộng Hòa, nhưng để ý thấy rằng trong Quốc Hội Hoa Kỳ, mấy bà dân biểu càng ngày càng đông mà quý bà làm việc hài hòa hơn mấy đấng mày râu, những kẻ chỉ thích xâu xé nhau. Phải chăng ta nên ra Luật cấm đàn ông làm chính trị, để chỉ toàn các bà thôi. Tôi nghĩ được vậy, Thế Giới sẽ thái bình và thịnh vượng hơn! Bên Anh Quốc có Nữ Hoàng, ở Đức có bà nữ Thủ Tướng thì đã sao? Làm cuộc cách mạng ngược đời!

    Là một văn sĩ, tôi cũng xin viết vài dòng về công việc viết lách, lý do đưa đến nghề cầm bút, cũng như quan niệm về nghề văn của mình. Chẳng qua bắt đầu cũng từ gia đình mà ra cả: Tôi có 3 ông chú là văn sĩ nổi tiếng, rồi đến ông anh cả cũng là nhà văn dù kém danh hơn. Dưới con mắt non nớt của tôi, đời sống của mấy ông chú rất ư là lãng mạn hấp dẫn, không kém phần ly kỳ. Kể từ nhỏ, đọc được tác phẩm của các bậc tiền bối, tôi bị ảnh hưởng không ít, và … cũng tập tành viết văn. Nhưng, như đã thưa với quý độc giả ở phần trên, tôi không rành văn phạm, lại nghèo từ ngữ và thiếu tài năng!

    Không thể sống như cái bóng của một người khác, và như người xưa (ông Socrate bên trời Tây) đã nói “hãy tự biết mình”! Sự thật quả là phũ phàng khi tôi tự biết mình không thể trở thành một nhà văn. Điều này đã khiến tôi đau buồn không ít, và ngay từ khi còn là một thanh niên, tôi đã quyết định từ bỏ ý định làm văn sĩ.

    Một hôm, lúc16,17 tuổi, tôi bỗng nghĩ ra ở trên đời này không phải chỉ có một thứ nghệ sĩ là các nhà văn, nhà thơ có tài, họ vốn bẩm sinh đã có sẵn khả năng sáng tác, nhưng cạnh đấy, cũng còn có người sở hữu một tâm hồn nghệ sĩ và sống rất bay bướm, dù không viết lách gì cả. Nhóm người này không có tác phẩm sáng tạo, nhưng chính cuộc đời của họ là một tác phẩm tuyệt vời. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến anh bạn Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù NT Út trên SJ, một chiến sĩ bay bướm, đạo Công Giáo nhưng lại thông hiểu Đạo Phật không thua mấy ông sư, anh vốn là một nghệ sĩ chưa chịu viết lách. Ước gì anh viết lại những gì anh đã kể cho tôi nghe…

    Viết văn là phải có gì cống hiến độc giả, mua vui cho họ. Nếu không có năng khiếu thì ít ra tôi cũng đã có trên 70 năm kinh nghiệm sống, đã vào tù ra khám, đã đau khổ khóc đứa con nhỏ chết trên tay mẹ nó, trong khi tôi còn đang trong tù ngoài Bắc. Tôi không có tài nhưng được sự giúp đỡ (sửa bài) của hai nhà văn chuyên nghiệp (nêu trên) nên mới cho ra đời đến nay được ba đứa con tinh thần.

    Đã thất thập cổ lai hy, tất nhiên cũng nên nghĩ đến chuyện hậu sự, tôi cũng đã ngỏ với vợ con rằng: mong sau khi chết, tôi được cống hiến cái xác xấu xí của mình cho trường Y-Khoa Wright State, một ngôi trường gần nhà mà tôi trước đây có học qua 4 năm, và từ khi ra trường đến giờ chưa bao giờ có dịp trở lại, mặc dầu vẫn chạy xe qua gần như mỗi ngày! Khi sống, tôi không có gì đóng góp cho xã hội, ngoài việc đóng thuế đầy đủ hàng năm, vậy khi chết, ít ra cái thân xác này có lẽ cũng giúp cho mấy sinh viên y-khoa biết thực tế cụ thể về cơ thể học. Nhưng tôi cũng thông cảm với bất cứ quyết định nào của bà xã và các con, vì đám ma cốt được tổ chức là cho họ, những người sống, chứ không phải cho cái xác ướp đã bất động nằm đó! Nên tôi dặn thêm là “như em đã từng lo cho anh khi sống bao năm qua rồi thì khi anh qua đời, thôi tùy em liệu định….”

    Thường có nhiều người hay hỏi tôi: “Bài học của đời anh truyền lại cho con cháu là gì?”. Tôi xin trả lời: “Lúc sống đã không làm chủ được hành động của mình, cũng không có tự do ý chí, đời tôi là do định mệnh đưa đẩy như một hệ lụy mà không một ai thoát ra khỏi được, vậy có gì để truyền lại!

    Phải chăng tôi chỉ đóng vai nhà văn Ngọc Cường như một nhân vật trong vở kịch đời mình… Nhưng không biết ai là tác giả nhỉ?

    Ngọc-Cường, Ohio 2022

  • Lê Nguyễn Nga,  Văn Thơ

    Nhìn Cuộc Chiến UKRAINE, Nhớ Lại Việt Nam

    Xin được nói bài viết này là ý kiến riêng của người viết .
    Tôi xin viết những dòng chữ này để khóc cho sự hy sinh đau thương của cả một dân tộc Việt Nam

    ***

    Mọi người Việt Nam trên toàn cầu đang nhìn về cuộc chiến của Ukraine để nhớ lại cuộc chiến Việt Nam vào Tháng Tư Buồn.
    Xin được nhắc nhớ lai Uktaine đã bị sát nhập cùng 14 quốc gia khác bởi tham vong của Cộng Sản Nga lập thành Liên Bang Sô Viết từ thập niên 1922.
    Sau những năm đau khổ dưới chế độ CS, dân tộc Ukraine đã hiểu rõ thế  nào là Ý Đồ thống trị tàn ác của Cộng Sản .
     – Nhớ lại  tình trạng của người dân miền nam Việt Nam bị cộng sản đầu độc, lường  gạt .
    Đất nước  Việt Nam, sau Hiệp Định Geneve  20-7-1954,  đã bị chia cắt tại vĩ tuyến 17, chia  ra hai quốc gia.
    Miền Bắc thuộc CS Bắc Việt và miền Nam  thuộc nước Việt Nam Cộng Hoà.
    Đúng luật  là  CS Bắc Việt không được phép tràn qua vĩ tuyến 17.
      Nhưng, với ác tâm chiếm đoạt Miền Nam CS đã gian xảo, lập nên cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền  Nam.
    CS nói rằng đó là dân trong miền nam Việt Nam làm cách mạng chống Mỹ cứu nước.
    Ukraine với nhiều thành phố đẹp được xây dựng, sau khi được tách ra khỏi khôi Liên Bang Sô Viết từ năm 1991.
    Sau 31 năm độc lập, đất nước Ukraine đã được xây dựng rất đẹp.   Với nhiều thành phố khang trang và nhà thờ kiến trúc tuyệt đẹp.
    Đất nước và con người văn minh đó đã xây dựng được những nhà máy hạt nhân lớn nhất Âu Châu.
    Ý  chí can trường của dân UKraine bất khuất. Toàn thể quân đội và nhân dân đã một lòng quyết tâm chống lại quân xâm lăng Nga.
    Sau  hơn 1 tháng  giao tranh, nhiều thành phố nổi tiếng đã bị Nga đánh bom tan nát như là Kharkiv, Mariupol, Bucha và Kyiv.
    Toàn thể  kiến trúc to lớn của thành phố đã bị phá huỷ bởi những trận mưa bom của Nga, hư hại tan nát .
    –  Sự GIỐNG NHAU và KHÁC NHAU  giữa Ukraine  và Việt Nam:
    A.  Hai đất  nước Giống  Nhau về địa thế chinh trị quan trọng.
        Ukraine  là đất thân hữu của NATO, để ngăn chặn CS Nga tiến về phía Tây Âu.
        Việt nam  là thành trì chống Cộng Sản tại Đồng Nam Á từ trước thập niên 1960.
    B.  Hai cuộc chiến được giúp đỡ  khác nhau, vào hai thời điểm  khác nhau.
        1. NATO giúp rất nhiêu vũ khí cho Ukraine chống lại việc xâm lấn của CS Nga .
           Việt Nam được Mỹ giúp chống Cộng Sản từ năm 1960.
        Nhưng, VNCH bị Mỹ cắt viện trợ năm 1973, VN  không còn đủ súng đạn, không thể tiếp tục chiến đấu với CS Bắc Việt. Trong Khi đó  CS Bắc Việt vẫn được tiếp tế vũ trang, nhiên liệu và thực phẩm từ Trung Cộng .
         2. Quân đội và dân Ukraine hiểu rõ ác tâm của CS vi đã sống dưới chế độ CS.
            Tất cả quân và dân Ukraine quyết tâm hy sinh chống lại CS Nga để dành độc lập .
            Dân Nam Việt Nam bị CS Bác Việt lường gạt dựng lên cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nổi lên đánh phá quân dân  VNCH các nơi miền Nam.
     C.S Bắc Việt gian manh, thành lập quân đội cộng  sản nằm vùng lâu dài đánh phá, quyết chiếm toàn miền nam.
        Từ năm 1960 đến 1975.  Việt Nam đã sống trong chiến tranh tàn khốc .
    Hinh ảnh Việt Cộng tàn sảt đồng bào Huế thật dã man và quá thương tâm trong TẾT Mậu Thân 1968.
    Oai hùng thay sự chiến đấu anh hùng của của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng tại nhiều chiến trường như là  An Lộc và  sau 1971 đã chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị .
    Trong trận chiến tranh dai dẳng hơn 15 năm, nhiều người dân và quân đội VNCH và  Mỹ đã thiệt mạng rất nhiều mà vẫn chưa có kết quả.
    Trong lúc đó Hiệp định Paris, vào năm 1973,  Mỹ quyết định chấm dứt viện trợ cho chiến trường Việt Nam chống lại CS xâm lược.
    VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu với những vũ khí còn lại .
    Vi tình trạng thiếu vũ khí, và vi quản đội Bác Việt kết hợp với MTGPMN tấn công vào ngày  30-4-1975. Chánh quyển  cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà phải Đâu Hàng Vô Điều Kiên.
    Nhìn chung trong cuộc chiến Ukraine,
     – Chúng ta KHÔNG NGHE, và HY VỌNG là Ukraine KHÔNG có Cộng Sản Nằm Vùng .
    Tất cả quân và dân Ukraina đồng tâm chiến đấu chống lại CS Nga xâm lăng .
    Tổng thống Ukraine, anh hùng  Zelensky đã kêu gọi sự giúp đỡ vũ trang và nhân lực từ NATO.
     NATO đáp lời rõ răng , viện trợ vũ khí và kế đến là  giúp  quân đội tinh nguyện ngoài  nước, đến chiến đấu chống lại cuộc xâm lăng của CS Nga.
      Ukraine được giúp đỡ mọi mặt về vũ  khí  để chống lại CS vì
     –  NATO thấy  rằng CS  Nga sẽ tiến sang  các nước như Ba Lan, Đức, Pháp và toàn cả Tây Âu nếu Ukraine  bị CS Nga chiếm.
     –  NATO tin tưởng vào sự chiến đấu của quân đội và nhân dân Ukraine. Họ can đảm liều chết chiến đấu can trường, chống lại sự xâm lăng của CS Nga.
     Nhìn lại lịch sử miền Nam Việt Nam từ năm 1960-1975 , Quân Việt Cộng  gian xảo, quỷ quyệt, đã lừa dối lập ra cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam .
     CS quyết tâm đánh phá lâu dài và sau gần 15 năm, Mỹ đã mệt mỏi chán nản vi cuộc chiến quá lâu dài.
    Thêm vào đó, quốc hội Hoa Kỳ buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
     Mỹ  phải rút quân khỏi Việt Nam.
    Trong những năm chiến tranh tại miền Nam,  nhiều người dân có học cao nhưng vì lầm lac nên đã theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
    Nhiểu sinh viên và văn nghệ sĩ gây lên phong trào Phản Chiến, đã theo CS.
    Những người này làm nản tinh thần chiến đấu của Mỹ giúp VNCH.
    Những người theo Cộng  Sản trong MTGPMN  này đều đã bị loại ra khỏi chính quyền CS mới được thành lập sau khí CS lấy được Miền Nam, 30-4-1975.
    Một bài học đau đớn cho những người đã phản bội lại nhân dân miền nam.
     Đau đớn thay gần 17 năm chiến đấu với CS Bắc Việt , nhiều triệu quân và dân Việt Nam đã phải hy sinh vô nghĩa bởi sự lừa gạt của CS.
    Sự chọn lựa và quyết định rút quân của Mỹ, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà chứng minh rằng Mỹ giúp VNCH là vì Mỹ muốn giữ quân bình cho khối Tự Do đôi với CS trên chính trường quốc tế, giữ vững phần đất của Thế Giới Tư Do thập niên 1960.
     Sự chọn lựa và quyết định của Mỹ bỏ rơi VNCH chứng minh là Mỹ không có lòng cứu nước Việt Nam Cộng Hoà tiếp tục chống Cộng Sản.
     Nước Mỹ quên đi lòng nhân đạo đối với quân đội và người dân Việt Nam.
     Một nước nhỏ Đồng Mình, bị bỏ rơi phải chịu đựng sự trả thù của Cộng Sản .
     Nhiều ngàn quân nhân, dân  chính của VNCH đã phải bị chết oan trong trại Cải Tạo gian ác của CS. Hàng ngàn gia đình dân bị CS cướp nhà và bị đuổi đi vùng Kinh Tế Mới .
     Gần 80  triệu dân VN dang sống nghèo đói trong xã hội nhiều nhương sa đọa và bị chánh  quyển CS  áp bức, lường gạt.
    Tính đến ngày 30 tháng  4 -2022, đất nước Việt  Nam đã trải qua 47 năm dưới chế độ CS.
    Nhiều vùng đất trong Việt Nam đã bị Tàu thuê mướn lâu dài 99 năm.
    CS VN đã ký giấy như hình thức bán đất do lòng tham, muốn ngồi yên thân trên chức vị và vẫn được hưởng tiền tham nhũng to lớn, của người trong chính quyền CS.
    Hiện tại đất nước Việt Nam không còn là của người Việt Nam làm chủ nửa.
    Thế giới và người dân Việt Nam giờ đây nhin thấy rõ gương can đảm của Ukraine chống lại CS Nga.
    Cầu mong là Ukraine sẽ chiến thắng CS và dành được độc lập .
    Moi người trên thế giới đã hiểu rằng Tự Do có được là thuộc vào sự quyết tâm tranh đấu của chính người dân đang sống trong nước, kế đó là sự giúp đỡ của người ngoài nước để chống lại Cộng Sản xâm lược.
    Chiến tranh Ukraine vẫn còn tiếp diễn khốc liệt.
    Xin cầu nguyện cho đất  nước và dân tộc Ukraine và  dân tộc Việt Nam.
    Lê Nguyễn Nga
    Thang 4 , 2022
  • Lê Nguyễn Nga,  Văn Thơ

    TUYỆT  VỜI YÊU THƯƠNG 

    Viết tặng   NVNT – TTG

    Nắng mưa hoa thắm tình người 

    Văn chương họp bạn tình thương chan hòa 

    Thơ nhạc bạn hữu sum vầy 

    Nhân Văn Nghệ Thuật đậm đà tiếng vang.

    Nhạc vàng  hợp tấu khúc ca

    Tiếng Thời Gian hát nhịp nhàng, tươi xinh 

    Ra Mắt Sách, vẹn  nghĩa tình

    Kính người tiền bối, bóng hình tri ân 

    Văn thơ nhạc trổi xa gần  

    Chung vui họp bạn, ngập tràn ấm êm 

    Bên nhau thương mãi bạn hiền 

    Vui tình bằng hữu thương yêu tuyệt vời.

    Em vẫn thấy đầy tình người 

    Anh đang đón chào từng lời 

    Người  thương ơi về bên nhau 

    Vòng tay sưởi ấm cuộc đời.

    Lê Nguyễn  Nga,  Tháng 4, 2022

  • Khánh Lan,  Sinh Hoạt,  Văn Thơ

    TÁC PHẨM PHẬN ĐÀN BÀ DƯỚI LĂNG KÍNH CỦA KHÁNH LAN

    NV Nguyễn Quang

    Mời quý vị vào xem bài diễn văn Khánh Lan đã dùng trong ngày RMS của NV Nguyễn Quang, 04/10/2022 tại Trung Tâm Văn Hóa (Thư Viện Việt Nam)

    Khánh Lan xin mở đầu lời giới thiệu tác phẩm PHẬN ĐÀN BÀ của nhà văn Nguyễn Quang với câu nói của Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, Eleanor Roosevelt (1884-1962). Bà là phu nhân của cựu Tổng thống thứ 32, Franklin D. Roosevelt. Bà cũng là người ủng hộ phong trào tranh đấu cho nhân quyền gồm nữ quyền, bà nhận định về sức chịu đựng dẻo dai và bền bỉ của người phụ nữ như sau, bà nói:

    Người phụ nữ giống như túi trà; bạn không bao giờ biết được sự chịu đựng và sức mạnh của nó đến mức nào, cho đến khi nó tồn tại trong nước nóng”

    Nhà văn người Anh, Mary Wollstonecraft (1759-1797) cũng là người tiên phong và tranh đấu cho nữ quyền xuất phát từ Âu Châu, bà viết:

    Chúa đã tạo ra người phụ nữ với bản chất mềm mại, yếu đuối, nhưng bạn không thể tưởng tượng được sức chịu đựng dẻo dai của họ, để vượt qua những khó khăn và gian khổ như thế nào”

    Trong kho tàng ca dao Việt Nam có rất nhiều bài ca dao phản ánh một cách chân thực về đời sống của con người, nó còn là tấm gương soi thấu tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của từng cá nhân. Mỗi một bài ca dao có một nội dung riêng khiến người đọc cảm thấy xúc động, đặc biệt là nói về vai trò của người phụ nữ sống trong xã hội xưa và nay. Những người đàn bà chịu nhiều thiệt thòi, không có tiếng nói trong xã hội và không được coi trọng. Chế độ phong kiến hà khắc ngày xưa với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, đã từng dồn ép người phụ nữ vào con đường không lối thoát, họ phải sống trong sự áp đặt, bị vùi dập, bị coi thường, nhưng họ lại không thể phản kháng và tự vệ cho chính cuộc đời mình, bởi họ không có quyền quyết định. Chính vì không có nhiều lựa chọn, người phụ nữ thường gửi gấm tâm tư, thân phận và sự bất hạnh vào trong những câu ca dao như:

    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

    Hoặc:

    “Thân em như giếng giữa đàng

    Người thanh rửa mặt người phàm rửa chân”

    Nhà thơ Lương Duyên Thắng viết:

    “Thân em như hạt mưa sa

    Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

    Thân em như hạt mưa rào

    Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa”

    Người phụ nữ trong xã hội ngày xưa phải chịu sự bất hạnh bởi cái gọi là khuôn phép trong gia đình, quy tắc trong xã hội và cái luật tam tòng tứ đức. (Tam tòng chính là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) (Tứ đức: côngdungngônhạnh) đã trói buộc cuộc đời người phụ nữ vào một cái gông vô hình.

    Ngày nay, sự đồng cảm và sự công bằng trong xã hội, người phụ nữ có nhiều lựa chọn hơn cho cuộc đời của mình, như: bước chân đi hay ở lại để tiếp tục hy sinh và chịu đựng. Tất cả những yếu tố ra đi hay ở lại, đã được Nhà Văn Nguyễn Quang kết hợp hài hòa với nhau, để tạo nên sự thành công cho tác phẩm PHẬN ĐÀN BÀ, một tác phẩm mới nhất trong bộ sách gồm 9 tác phẩm của ông.

    Bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, giàu giá trị biểu cảm trong tác phẩm PHẬN ĐÀ BÀ đã cho thấy vẻ đẹp và thân phận của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp như lòng vị tha, sự hy sinh, thay chồng gánh vác vai trò trong gia đình và ngoài xã hội, nhưng xã hội ngày nay cho phép người phụ nữ được quyền quyết định cho cuộc đời mình, lựa chọn hạnh phúc cho bản thân.

    Gần đây nhất, sau biến cố năm 1975, những người vợ của những quân nhân cán chính VNCH và các tù nhân lương tâm tranh dấu cho nhân quyền VN đã chịu nhiều gian khổ để đi thăm nuôi cha, chồng, con trong tù cải tạo. Khánh Lan xin ghi nhận sự hy sinh cao cả ấy.

    NV Nguy;ễn Quang và Khánh Lan

    Tác phẩm PHẬN ĐÀN BÀ giúp chúng ta thấu hiểu sâu sắc hơn về sự hy sinh và chịu đựng của Phận Đàn Bà đồng thời trân trọng cuộc sống bình đẳng hiện nay.

    Không phải chỉ có tác giả Nguyễn Quang thấu suốt được nỗi đau và thông cảm cho thân phận của người phụ nữ, mà điều này cũng đã được nhắc đến trong văn học như: Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đồng cảm với thân phận bảy nổi ba chìm của nữ giới. Đại văn hào Nguyễn Du thì thương xót cho phận đàn bà, ông thốt lên câu: “Đau đớn thay phận đàn bà” và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng.”

    Trong tác phẩm PHẬN ĐÀN BÀ, nhà văn Nguyễn Quang đã khéo léo trong việc sử dụng những hình ảnh, ngôn từ, hoàn cảnh để so sánh, để ví von. Lời văn ẩn dụ những sinh hoạt quen thuộc hàng ngày trong một gia đình tưởng như hoàn mỹ, để truyền tải sâu sắc ý tưởng của mình, để người đọc thấm thía được nỗi niềm tâm sự của người phụ nữ trong một xã hội văn minh.

    Hơn thế nữa, chỉ cần nghe đến cái tựa của quyển sách đã gợi lên một sự thắc mắc và làm kích thích bộ óc tò mò của người đọc. Một mặt khác, ba chữ PHẬN ĐÀN BÀ đã khiến người đọc liên tưởng đến hai chữ “chấp nhận” một sự việc đã rồi, mà người nhận được không hề mong đợi, trong đó có đầy đủ các vị ngọt, bùi, cay, đắng, chát, chua, ẩn dấu bên trong ba chữ PHẬN ĐÀN BÀ. 

    Thật vậy, thoạt nhìn qua cái bìa sách, chắc hẳn quý vị đã muốn tìm hiểu về nội dung của nó, hình như nó chứa chất bên trong hình ảnh của một chân trời u sầu, một biển tình đầy bão tố, buồn đau và một nỗi niềm tâm sự. Tuy nhiên, sự trình bày trang nhã của bìa sách với màu sắc hài hòa và hình ảnh rõ nét làm tăng giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Lòng sách mới đáng kể, những trang giấy màu dịu mát với hình ảnh, trang trí giản dị và nội dung đích thực. Có lẽ quý vị cũng như Khánh Lan tự hỏi: Tại sao nhà văn Nguyễn Quang lại chọn cái tựa: PHẬN ĐÀN BÀ cho quyển sách? Ông đã viết gì trong tác phẩm? Phải chăng trong hơn 200 trang giấy ấy nói về số phận của những người đàn bà mà Thượng Đế đã tạo dựng ra để trao cho họ một thiên chức cao quý: Đó là những người con hiếu thảo, người vợ thủy chung, người mẹ hiền thục và là những người đàn bà suốt cuộc đời chỉ biết hy sinh cho gia đình? Phải chăng người đàn bà là người được sinh ra chỉ để đón nhận những thiệt thòi, cay đắng, gian khổ mà định mệnh đã an bài cho họ? 

    Trong tác phẩm PHẬN ĐÀN BÀ, nhà văn Nguyễn Quang viết: “Hai chữ định mệnh thường được dùng để khỏi phải tìm hiểu những gì xảy ra như đã được an bài mà con người không sao giải thích được, cho nên phải chấp nhận, đó là định mệnh! Tất cả những gì xảy ra, có lớp lang trong cuộc đời của mỗi cá nhân của chúng ta, là những chuyện vui buồn, bất hạnh đều có thể xảy ra, không thiên vị bất cứ một ai, vì nó là định mệnh! Trong định mệnh có cả duyên số, không đơn thuần như người ta thường nghĩ“.  Cũng theo nhà Văn Việt Hải thì theo khoa tử vi “số mệnh cũng như hôn nhân” đều là định mệnh. Bởi vì khi 2 người có “duyên số“, hay “hợp số“, thì mới có thể lấy nhau được. Hợp số chính là cùng có số tương đồng nhau về cung phu thê, tương đồng về vận hạn, có cùng năm kết hôn và cùng những biến cố giống nhau trong hôn nhân.

    Theo Khánh Lan, đây là một tác phẩm có giá trị văn học, một tác phẩm nghệ thuật vị nhân sinh, bởi chẳng những nó nêu cao tâm hồn cao thượng của người phụ nữ, mà nó còn cho chúng ta am hiểu thêm về phong tục tập quán của văn hóa Âu Châu và Á Châu, trong tập tục cưới hỏi xưa và nay, cũng như sự khác biệt giữa những nghi lễ cổ truyền và hiện đại, sự thay đổi của nghi thức cưới xin theo thời gian, v.v…

    Đọc tác phẩm PHẬN ĐÀN BÀ cho chúng ta ba ý niệm khác nhau, cả ba phần đều đề cặp đến cuộc đời, danh phận cũng như sự kiên nhẫn, nhịn nhục và chịu đựng của người đàn bà. 

    1. Phần một thuộc thể loại tình cảm xã hội về một gia đình được coi là lý tưởng nhưng lại trải qua nhiều uẩn khúc như sự giằng co giữa lương tâm nghề nghiệp, bổn phận với vợ con và trách nhiệm với người tình. 
    2. Trong phần thứ hai thì lại đặt nặng về phần văn hóa xoay quanh những tranh luận về phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương, từng quốc gia. Phần này rất có ích cho những ai muốn học hỏi, nghiên cứu để mở mang kiến thức. 
    3. Phần thứ ba là những câu chuyện “Hoa Cỏ Bên Đường” như nhà văn kiên nhà báo Kiều Mỹ Duyên đặt tên cho tác phẩm thứ hai của bà. Đó là những mẩu chuyện mà tác giả đã thu nhận được từ bạn hữu, từ những mẩu chuyện “đàn ông đàn bà”, những chuyện do “mắt thấy tai nghe“, được ông ghi lại trên trang giấy. 
    Khánh Lan

    Khánh Lan xin được kết thúc bài diễn văn của mình hôm nay với kết luận: Phải chăng tình nghĩa vợ chồng, sự thủy chung, tinh thần trách nhiệm là những yếu tố quan trọng trong tình yêu và hôn nhân, để khởi đầu cho sự phát triển bền vững của một mái ấm gia đình. Nghĩa vợ chồng gắn bó, lòng nhân ái, nhân hậu giúp con người vượt qua những mâu thuẫn, bi kịch trong cuộc sống. Hạnh phúc gia đình phụ thuộc vào mối quan hệ tình cảm giữa đôi vợ chồng, sự tự do cá nhân và sự kính nể tương đồng. Đây là một tác phẩm văn học có giá trị, Khánh Lan xin trân trọng giới thiệu tác phẩm thứ chín, PHẬN ĐÀN BÀ của nhà văn Nguyễn Quang. 

    Khánh Lan, California, Febuary 2021

  • Văn Thơ,  Việt Hải

    ÔN CỐ TRI TÂN,DƯỚI GÓC NHÌN CỦA NV VIỆT HẢI

    Bốn chữ “Ôn Cố Tri Tân” là tựa sách mới của nhà văn Nguyễn Quang, sau bao năm sống ở 3 nước Pháp, Anh và Mỹ và hơn 70 năm xa xứ. Năm 19 tuổi ông rời quê hương Sóc Trăng trù phú xuất dương sang Paris du học. Ngành học hay chuyên môn của ông về toán học, kinh tế, chính trị, chút tài chánh; nhưng có lẽ nỗi nhớ quê hương vẫn nau náu trong tâm khảm của ông. Những tác phẩm như Ốc Mượn Hồn, Một Giấc Mơ, Ông Giáo Làng, Nhập Gia Tuỳ Tùng, Ôn Cố Tri Tân, Phận Đàn Bà… đều phảng phất nét nhớ nhung thuần Việt tính trong nỗi chơi vơi với khung cảnh hay tư duy âu mỹ, những kỷ niệm giữa tư tưởng văn hoá Việt bôn ba, rong ruổi theo cuộc sống ly hương. Tôi đọc “Ông Giáo Làng” để cảm nhận kỷ niệm quê nhà trước những năm 1940 với nhớ thương hương mạ lùa non, với những mộc mạc của lủy tre bụi trúc, kỷ niệm đồng quê ta khi đi bắt cua, nôm cá, tát đìa… hay đọc “Ốc Mượn Hồn” để mường tượng ra Luân đôn, Paris của giới triết gia cấp tiến, phóng khoáng ở âu châu hậu TC II (postmodernisme, existentialisme). Nam nữ vui buông thả. Nguyễn Quang và “Ốc Mượn Hồn“, những huyện thời sinh viên tại Paris hay Cambridge.

    Với tác phẩm “Ôn Cố Tri Tân” qua câu chuyện người thầy kể chuyện đời, lấy văn ngôn làm ngôn ngữ viết.dựa trên kinh nghiệm sống, dựa vào kiến thức của người đi trước, truyện của ông cũng không như lối văn bạch thoại, tôi nhớ truyện Demian, một câu chuyện tuổi trẻ của Emil Sinclair, mà Hermann Hesse viết. Hoặc giả như quyển “Thầy Lazaro Phiền” (nhà văn Nguyễn Trọng Quản viết vào năm 1887), hay “Hát đông thư dị” (1886, của Nguyễn Thượng Hiền), hoặc “Vân nang tiểu sử” (1886, của Phạm Đình Dục) …

    Ôn Cố Tri Tân” của Nguyễn Quang ôn lại lịch sử nước Việt, từ thời Hồng Bàng với các vị vua Hùng Vương, rồi qua các triều đại Lý Lê Trần Nguyễn… 1000 Bắc thuộc, gần 100 năm Pháp thuộc, chiến tranh Quốc Cộng, thời CSVN cai trị nước nhà, và chúng ta ly hương. Những bài học “Ôn Cố Tri Tân” có rất nhiều và quá nhiều.

    Sáng nay anh Vương Trùng Dương cho bài viết nhận định “Ôn Cố Tri Tân“, đọc xong hihi… moa đã quá, thôi thì vung bút đáp trả đàn anh, như lời của hai nhà văn Ấn quốc Taj Mahal thân thương ngôn về quan điểm “Ôn Cố Tri Tân“:

    “Hiện tại đang thay đổi quá khứ. Hãy nhìn lại những gì bạn đã bỏ quên trong dĩ vãng”, (trích dẫn lời của nhà văn Kiran Desai.)

    “Hãy học hỏi từ bài học quá khứ những điều gì ta chưa rõ,

    để sẽ có ngày thành đạt vinh quang chiến thắng

    (trích dẫn lời của nhà văn Amit Kalantri.)

    Đọc kết luận của Vương Trùng Dương buông bút như sau:

    “Đời nay, tình bạn nhiều người không hiểu nhau bằng tâm hồn mà hiểu nhau qua chén rượu, qua những lời nịnh dọc. Họ khen chê nhau cũng chỉ vì quyền lợi của họ đối với cá nhân ấy, hoặc để đề cao lấy địa vị của mình mà thôi, đâu có nghĩa gì gọi là hiểu mình hiểu người”.

    Cụ Nguyễn Văn Ngọc (1890 – 1942) tự Ôn Như là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Hán, tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ. Quyển Cổ Học Tinh Hoa (cùng Trần Lê Nhân) ấn hành năm 1928 đến nay gần một thế kỷ vẫn được ấn hành và lưu truyền. Hai vị biên soạn đã dày công nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu những tinh hoa của nền cổ học phương Đông. Với 250 mẩu chuyện liên quan trong cuộc sông, con người, cách xử sự sao cho phù hợp với từng nơi từng lúc. Có thể nói đó là cuốn sách “dạy làm người” để biết nhìn nhận “cái xưa” để xử thế “cái nay” mà qua từng mẩu chuyện với lời bàn rất hữu ích.

    NV VIỆT HÀI

    Ôn Cố Tri Tân

    Thành ngữ “ôn cố tri tân” có nguồn gốc từ Luận Ngữ của Khổng Tử. Đó là một câu trong Thiên Vi Chính: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ“, nghĩa là ôn cái cũ mà biết cái mới thì có thể làm thầy được rồi. Tạm dịch qua tiếng Anh: “One should be able to derive new understanding while revising what he has learned“.

    Từ thành nghĩa nầy, các bậc tiền nhân của ta đã dựa vào đó để lưu lại hậu thế trong cuộc sống học hỏi “ôn cố” hầu hiểu biết “tri” trong hiện tại. Nhà văn, dịch giả Mộng Bình Sơn (1923–2011) đã viết nhiều tác phẩm, trong đó có quyển Ôn Cố Tri Tân gồm 3 tập, ấn hành năm 1967, Sống Mới xuất bản tại Sài Gòn.

    Trong Lời Mở Đầu, tác giả viết: “Vì vậy mà lời người xưa, việc làm người xưa, ý nghĩa người xưa, cuộc sống người xưa rất có liên quan đến hiện tại, đến thế hệ mai sau. “Ôn cố tri tân” chính là làm cái việc xét thời xưa luận thời nay. Việc ấy không phải là không bổ ích… Nó là một tấm gương phản chiếu trước sự hiện tại đem lại chúng ta rất nhiều thích thú.

    Trong bộ sách nầy, tác giả Mộng Bình Sơn dựa vào những mẩu chuyện trong thời Đông Châu Liệt Quốc để dẫn chứng những hình ảnh tiêu biểu với các nhân vật tốt/xấu và quan trọng với phần nhận xét để nhận cố suy kim. Điển hình như trong Những Kẻ Thấy Xa với nhận xét: Thời nay, thiếu gì người chỉ biết có cái địa vị trước mắt mà không thấy cái nguy hại về sau. Mỗi khi vớ được một địa vị gì tưởng đó là cái ngôi vĩnh viễn, họ có biết đâu cái địa vị ấy nền xây trên cát bụi thì nó sẽ xụp đổ không lâu.Gặp thời nào xuôi theo thời nấy. Gió chiều nào cờ phất theo chiều ấy, đó chỉ là những kẻ nịnh bợ, xu thời, kiếm ăn, đâu phải là những nhà chính trị, những kẻ yêu nước thương dân. Người ta nói những tâm hồn lớn thường gặp nhau, đó là những tâm hồn khoáng đạt, siêu thoát ngoài vòng danh lợi, tư tưởng họ không để danh lợi ràng buộc vậy.

    Dẫn chứng hai quyển sách của người xưa của nước ta về “Ôn Cố Tri Tân” vẫn còn giá trị trong cuộc sống. Sau nầy nửa thế kỷ ở hải ngoại, tác giả Nguyễn Quang nay ở tuổi chín mươi vẫn mang hoài bão của bậc cao tuổi qua tác phẩm…Khi bạn bút ta lên tiếng, ta không thể im tiếng. Đó là mối chân tình văn học “Bánh Ít trao đi, Bánh Quy trao lại”.

    Sau nửa thế kỷ ở hải ngoại, tác giả Nguyễn Quang nay ở tuổi chín mươi vẫn mang hoài bão của bậc cao tuổi qua tác phẩm…

    Việt Hải Los Angeles.

  • Văn Thơ,  Vương Trùng Dương

    Ukraine & Đất Nước Hoa Hướng Dương

    Khai Bút Đầu Năm Nhâm Dần 2022 vào Giao Thừa Tân Sửu – NhâmDần của tôi có đề cập đến hoa hướng dương:

    “Tôi thích hoa hướng dương nên quyển Ngẫm Chuyện Nhân Sinh ấn hành năm 2004 để Hướng Dương xuất bản.

    Hoa hướng dương (sunflower) luôn hướng về ánh sáng mặt trời cũng như tâm hồn con người hướng thiện, trái tim trong sáng sẽ được đón nhận thiện cảm của tha nhân…

    Pam Stewart quan niệm: “Nếu là hoa, tôi sẽ là hoa hướng dương, để luôn hướng về phía mặt trời, quay lưng lại với bóng tối. Đứng ngay thẳng và kiêu hãnh ngay cả với đài hoa nặng hạt”. Hoa hướng dương trong dân gian còn gọi là hoa mặt trời. Hoa như trái tim hướng về Chân, Thiện, Mỹ…”. Trong ca khúc Tự Nguyện của Trương Quốc Khánh sáng tác năm 1970 ở Sài Gòn đã chôm câu nầy “Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương”.

    Ukraine được mệnh danh là đất nước hoa hướng dương. Hoa hướng dương là loài hoa thuộc họ cúc (asteraceae), có tên khoa học là Helianthus Annuus. Còn có tên là hướng nhật quỳ hoa, văn cúc, tây phan liên, nghênh dương hoa, vọng nhật liên, thái dương hoa, triều dương hoa…

    Hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời nên thường là biểu tượng của lòng trung thành, chung thủy sâu sắc, sự kiên định đó cũng tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền, sự ấm áp, và cả sự kiêu kỳ, vẻ đẹp trong sáng.

    Năm 1996, khi Ukraine trở thành quốc gia phi vũ khí hạt nhân, hoa hướng dương đã được trồng tại một căn cứ hỏa tiễn của đất nước để kỷ niệm 5 năm (25/6/1991) thoát khỏi ách thống trị của Cộng Sản Liên Xô.

    Từ đó, hoa hướng dương được trồng khắp nơi trên mảnh đất Ukraine, trở thành loài hoa trong công nghiệp (sẽ đề cập trong bài viết sau nầy) sản xuất & xuất khẩu.

    Little Saigon, March 05, 2022

    Vương Trùng Dương

  • Khánh Lan,  Văn Thơ,  Viet-Hải

    Robot học và đời sống

    Robot học (tiếng Anh: Robotics) là một ngành kỹ thuật bao gồm thiết kế, chế tạo, vận hành, và ứng dụng robot, cũng như các hệ thống máy tính để điều khiển, phản hồi tín hiệu cảm biến, và chuyển tải thông tin của chúng. Những kỹ nghệ này liên quan đến máy móc tự động dùng để thay thế con người trong những môi trường độc hại hoặc trong các quá trình sản xuất, hoặc bắt chước con người về hình thức, hành vi, hoặc/và nhận thức. Nhiều robot ngày nay được lấy cảm hứng từ các loài vật, còn gọi là robot phỏng sinh học (biomimetic robot).

    Người máy da Vinci giải phẩu ung thư (theo The Guardian)

    Ai đặt ra chữ robot (rô bô)?

    Nhà viết kịch kiêm nhà báo và tiểu thuyết gia người Czech, ông Karelapek đã đặt ra chữ “robot” trong vở kịch “Rossum’s Universal Robots” xuất bản vào năm 1920. Trong vở kịch robot giống như một con người chỉ khác là không có linh hồn và được tạo ra để làm những việc mà con người không muốn làm. Trong hồi cuối thì robot nổi loạn và giết hết mọi người, nhưng trước khi hạ màn thì tác giả cho hai robot yêu nhau, tức là có linh hồn.

    Các thành phần của robot:

    Robot là một bộ máy có ý thức được môi trường chung quanh và có những hoạt động thích ứng với những sự việc đang xảy ra chung quanh nó. Thí dụ như robot bụi tự động Roomba khi chạm vào tường hay một chướng ngại vật thì tự tìm cách quay lại hay đi vòng qua. Ba đặc điểm của một robot là nhận thức, bộ óc và hành động.

    • Nhận thức: Muốn làm gì thì đầu tiên phải nhận thức được môi trường chung quanh mình. Tùy theo áp dụng robot có thể có máy ảnh để nhìn, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để biết vị trí, bộ cảm biến (sensor) nhiệt độ để biết nhiệt độ và nhiều bộ cảm biến khác.
    •  Bộ óc (CPU): Sau khi có dữ liệu của môi trường chung quanh thì robot phải quyết định sẽ làm gì. Với con người thì đó là công việc của bộ óc. Bộ óc của robot là một hay nhiều máy tính. Máy tính này thường là có khả năng lập trình hay nhận thảo chương (programmable) và cũng có những mệnh lệnh gài sẵn để cho robot biết trong tình trạng nào thì phải làm gì.
    • Hành động: Robot phải có những bộ phận để thi hành những mệnh lệnh từ bộ óc. Thí dụ như phải có chân hay bánh xe để đi và máy phát âm để nói.

    Lịch sử ngành robot học (robotics):

    Trong năm 1927 “người máy” Maschinenmensch gynoid robot dạng người (còn gọi là “Parody”, “Futura”, “Robotrix”, hay “người thủ vai Maria”) là sự mô tả đầu tiên và có lẽ là đáng nhớ nhất của một robot từng xuất hiện trên phim ảnh, được diễn xuất bởi nữ diễn viên Đức Brigitte Helm trong một bộ phim của Fritz Lang Metropolis.

    • Năm 1942, nhà văn chuyên viết về đề tài khoa học viễn tưởng Isaac Asimov đưa ra 3 nguyên tắc của robot.
    • Năm 1948, Norbert Wiener đưa ra các nguyên lý của điều khiển robot học, làm nền tảng cho robot thực tế.
    • 1956 Robot thương mại (Người máy thương mại) đầu tiên, do công ty Unimation được thành lập bởi George Devol và Joseph Engelberger, dựa trên các phát minh của Devol Unimate George Devol.
    • 1961 Robot lắp kỹ nghệ (industrial robot) Unimate đầu tiên George Devol.
    • 1973 Robot kỹ nghệ đầu tiên với 6 bậc bậc do Nhóm Robot Famulus KUKA đầu tiên.
    • 1974 Robot kỹ thuật được điều khiển bởi vi máy tính ban đầu, IRB 6 do công ty ASEA sản xuất, được giao cho một công ty cơ khí nhỏ ở miền nam Thụy Điển. Thiết kế của robot này đã được cấp bằng chế độ sáng chế từ năm 1972, do IRB 6 ABB Robot Group.
    • Năm 1975 Cánh tay hoạt động đa năng lập trình được, sản phẩm của Unimation PUMA Victor Scheinman.

     Robot thay thế con người trong tương lai ở các nhiệm vụ y tế

    Không khó để nhận ra, mối liên kết giữa robot và con người đang ngày một được thắt chặt. Bởi nhu cầu robot thay thế con người trong tương lai ngày một tăng trong khi sự phát triển của công nghệ đã góp phần tăng số lượng những công việc robot có thể thay thế con người. Bước đầu, robot cộng tác tham gia sản xuất để cải thiện sức khỏe, kế đến đảm nhiệm những tác vụ đơn giản và cuối cùng thay thế con người ở các công đoạn nguy hiểm. Đây cũng chính là quá trình thế hệ robot thông minh UR thay đổi phương thức con người làm việc trong tương lai.

    Lịch sử của sự xuất hiện và phát triển

    Tác giả của chính ý tưởng về các thiết bị điều khiển từ xa, không có gì đáng ngạc nhiên, Nikola Tesla. Năm 1899, ông đã trình diễn một tàu được điều khiển do ông thiết kế. Ý tưởng của ông được tiếp tục vào năm 1910 bởi một người Mỹ trẻ tuổi, Charles Kettering, người dự định phát triển một chiếc máy bay sẽ làm việc với một chiếc đồng hồ. Thật không may, có thể nói rằng ông đã thất bại.

              Người ta tin rằng UAV (unmanned Aerial Vehicle) đầu tiên được phát triển ở Anh cho mục đích quân sự vào năm 1933. Đối với điều này, một biplane được khôi phục đã được sử dụng, tuy nhiên, trong ba thiết bị, chỉ có một thiết bị hoàn thành chuyến bay thành công. Trong tương lai, máy dần được cải tiến, có nhiều cách mới để kiểm soát và giám sát các hoạt động của họ. Nghiên cứu và phát triển tiếp tục tích cực trong và sau Thế chiến II. Kết quả thành công ít nhiều có thể được gọi là sự xuất hiện của “V-1” và “V-2” nổi tiếng. Ở Liên Xô, đã được tiến hành phát triển tương tự.

    Ngoài các mục tiêu quân sự thuần túy, UAV còn được sử dụng để huấn luyện các binh sĩ tương lai. Nhưng cuộc chạy đua vũ trang không đứng yên và các cường quốc hàng đầu tiếp tục phát triển vũ khí có thể ngăn chặn kẻ thù. Tại một số thời điểm, Liên Xô thậm chí đã trở thành người dẫn đầu về sản xuất UAV. Nhưng sau đó, Hoa Kỳ đã tiến lên phía trước, bởi vì trong cuộc chiến với Việt Nam, sự mất mát của máy bay là quá lớn – máy bay không người lái đã đến giải cứu.

    Trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, thành quả triệt hạ kẻ thù của UVA đã được mục đích. Theo tin Bộ Quốc Phòng Mỹ điều hai máy bay không người lái MQ-9 Reaper để thực hiện đòn không kích bằng (hỏa tiển) nhằm tiêu diệt tướng Qassem Soleimani. “Thiếu tướng Qassem Soleimani thiệt mạng cùng nhiều thành viên lực lượng dân quân Iraq sau khi máy bay không người lái (UAV) MQ-9 Reaper phóng hỏa tiễn vào đoàn xe chở họ rời sân bay quốc tế Baghdad“, New York Times dẫn nguồn tin giấu tên tiết lộ tin như vậy.

    General Atomics MQ-9 Reaper (Military Aerospace Electronics)

    Trên tờ Times của Anh cũng cho biết quân đội Mỹ đã phát triển  hai loại UAV MQ-9 Reaper từ căn cứ không quân al-Udeid ở Qatar, nhưng chỉ sử dụng một máy bay cho đòn không kích chính xác này. Chúng được điều khiển từ căn cứ Creech ở tiểu bang Nevada, Mỹ và phóng hai tên lửa vào đoàn xe của tướng Iran cùng lực lượng hộ tống.

     NATO và Mỹ khám phá xe tăng robot cảm tử của Nga

    Quân đội Nga đã thử nghiệm loại robot cảm tử có thể tiến sát tiêu diệt mục tiêu, robot mang theo thuốc nổ, TNT và thực hiện công tác giao phó, công sự địch. Cuộc chạy đua người máy sát thủ tuy âm thầm nhưng mang tính chất toàn cầu. Nay có đến 50 quốc gia chế tạo, mua bán và sử dụng robot. Mỹ, Nga và Trung Cộng đang cạnh tranh ráo riết trong việc nghiên cứu và phát triển loại vũ khí nguy hiểm này.

    Theo một chuyên gia tình báo hàng đầu của Anh, quân đội Mỹ sẽ có robot trên chiến trường nhiều hơn binh sĩ vào năm 2025 – điều cho thấy, robot chiến đấu đang nhanh chóng trở thành hiện thực trong chiến tranh hiện đại. Trong nhiều năm, giới quân sự các nước đã đưa ra nhiều lý do biện minh sự cần thiết của các robot trên chiến trường. Robot có lợi thế quan trọng là có thể hoạt động trong điều kiện môi trường đặc biệt như thực thi các nhiệm vụ sâu dưới nước và tại các vùng bị nhiễm hóa xạ độc chất, hay rà phá bom mìn… nó giúp giảm thiểu thương vong cho con người. Các nước đang nghiên cứu các robot cho chiến trường ở các môi trường như trên không, trên bộ, hoặc dưới nước, trên biển hoặc trong vũ trụ. Trong thực tế, chúng chính là các máy bay không người lái UAV tiến công (Unmanned Combat Aerial Vehicle, UCAV); các loại robot công binh, chiến đấu, hậu cần và trinh sát, kể cả các xe tăng, xe bọc thép không người lái; các tàu ngầm và trực thăng… không người lái…

              “Sát thủ cảm tử” (suicide assassin) robot thật gọn nhẹ, có thể được điều khiển từ xa. Đây là kiểu drone rất gọn nhẹ, được phóng đi từ một chiếc ống tương tự như một khẩu súng cối, với thời gian chuẩn bị chỉ cần vài phút. Vì chỉ nặng khoảng 2,5 kg, vũ khí tự hành này có thể được chuyển vận dễ dàng trong ba lô của một người lính. Được trang bị hệ thống hướng dẫn GPS và camera riêng, như robot mang tên Switchblade có thể được lập trình để tự động đánh trúng mục tiêu cách xa hàng cây số, và di chuyển xung quanh mục tiêu cho đến khi đúng thời điểm để tấn công. Switchblade còn có tính năng quan trọng khác là bay rất nhanh, với vận tốc khoảng 100 cây số/giờ, tức là nhanh hơn rất nhiều so với máy bay không người lái Bayraktar TB2 của Thổ Nhĩ Kỳ mà Ukraine đang sử dụng để gây sát thương đáng kể cho quân đội Nga.

    Switchblade (theo European Defence Review)

    Trước Ukraine, chỉ có quân đội Mỹ và Anh sở hữu Switchblade. Chỉ có Anh trong bảng danh mục này, lần đầu tiên xuất hiện 100 đơn vị của loại vũ khí gọi một cách bí hiểm là “hệ thống máy bay không người lái (UAV) chiến thuật”. Trả lời báo Mỹ Politico, dân biểu Mike McCaul, thành viên cao cấp thuộc đảng Cộng Hòa trong Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Mỹ tiết lộ rằng đó là loại máy bay tự hành nhẹ mang tên Switchblade (nghĩa là “dao bấm”), một loại vũ khí hiện đại mà Hoa Kỳ cho đến nay chỉ mới đồng ý bán cho quân đội Anh mà thôi. Một viên chức chính quyền Biden sau đó đã xác nhận tin từ dân biểu McCaul.

    Theo Politico, việc cung cấp loại máy bay không người lái “chiến thuật” hiện đại này cho Ukraine thể hiện một bước mới của Mỹ trong nỗ lực giúp Kiev chống lại cuộc tấn công xâm lược của quân Nga, vì cho đến nay, các phương tiện Mỹ giao cho Ukraine hầu hết là vũ khí chống tăng và phòng không loại “cổ điển”.

    Kết Luận:

    Với khả năng, lợi ích và sự an toàn mà robot cộng tác hiệu quả cho con người, nó mang lại những lợi ích thật sự, có thể nói là robot và con người nay đã trở thành những người bạn đồng hành tốt đẹp và đem lại hiệu quả đáng kinh ngạc trong nhiều công việc cần thiết. Với kỹ thuật mới này nay ngày càng càng được phát triển, sự cộng tác giữa robot và con người còn có thể đạt được nhiều bước tiến mới hơn nữa trong tương lai.

    Tóm lại, việc ứng dụng các giải pháp thông minh giúp robot có khả năng tự xả thân và tự giải quyết vấn đề, tạo nên tiền đề cho phạm vi ứng dụng mà robot không chỉ giới hạn trong các hệ thống vận hành dây chuyền trong kỹ nghệ chế tạo hàng loạt (mass production), mà ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực của đời sống như trong kỹ nghệ, trong xí nghiệp, nông nghiệp, đóng tàu, xây cất, y học, an ninh quốc phòng và đặc biệt là trong đời sống dân dụng (private sector households).

    Việt Hải và Khánh Lan.

    California, March 30, 2022

    Nguồn:

    – Guardian, Reuters, CNN, Time

    – Jane’s Defence Weekly, Wikipedia

    – European Defence Review

    – Military Aerospace Electronics

  • Khánh Lan,  Văn Thơ

    TÌM HIỂU VỀ UKRAINA

    Khánh Lan siêu tầm và nghiên cứu dựa theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Ảnh Internet

    Theo dòng lịch sử, đất nước Ukrina đã trải qua nhiều biến cố do thảm họa chiến tranh và tham vọng của con người. Cuộc cách mạng và chiến tranh thế giới thứ I đã tàn phá Ukraina, 1.5 triệu người chết đưa Xô Viết Ukraina  đối mặt với nạn đói năm 1921 và cuộc chiến tranh thế giới thứ II đã để lại với tổng số thiệt hại cho dân số Ukraina được ước tính khoảng 5 tới 8 triệu người. Trong bài viết này, chúng ta chỉ bàn về lãnh vực địa lý, thể chế, nghệ thuật, âm nhạc, thể thao và du lịch của Ukraina.

    Ukraina là một quốc gia giáp với Liên bang Nga về phía đông, giáp với Belarus về phía bắc, giáp với Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía tây, giáp với Romania & Moldova về phía tây nam, giáp với Biển Đen và Biển Azov về phía nam. Với diện tích 603,700 km2 và bờ biển rộng 2782 km2, Ukraina là nước lớn thứ 44 trên thế giới sau Cộng hòa Trung Phi và trước Madagascar. Ukraina tuyên bố độc lập ngày 16 tháng 7 năm 1990, có Chủ quyền và tuyên bố lập ra các nguyên tắc tự quyết của nhà nước Ukraina, nền dân chủ, độc lập chính trị, kinh tế và ưu tiên luật pháp Ukraina trong lãnh thổ Ukraina so với luật pháp Liên xô. Ngày 24 tháng 8 năm 1991 nghị viện Ukraina thông qua Luật Độc lập trong đó nghị viện tuyên bố Ukraina là một nhà nước dân chủ độc lập. Một cuộc trưng cầu dân ý và bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra ngày 1 tháng 12 năm 1991, hơn 90% người dân Ukraina thể hiện sự ủng hộ Luật Độc lập và họ bầu chủ tịch nghị viện, Leonid Kravchuk trở thành Tổng thống đầu tiên của đất nước. Tại cuộc gặp gỡ ở Brest, Belarus ngày 8 tháng 12, tiếp sau là cuộc gặp tại Alma Ata ngày 21 các lãnh đạo Belarus, Nga, và Ukraina chính thức giải tán Liên bang Xô viết và lập ra Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS).  

    Chính phủ và Chính trị tại Ukraina là một nước cộng hòa bán tổng thống với các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp riêng biệt. Tổng thống được bầu bởi các cử tri, nhiệm kỳ năm năm. Lập pháp Ukraina gồm nghị viện lưỡng viện 450 ghế, chịu trách nhiệm về việc thành lập nhánh hành pháp và Nội các, do Thủ tướng lãnh đạo. Luật, đạo luật của nghị viện và nội các, nghị định tổng thống và đạo luật của nghị viện Crimea có thể bị Toà án Hiến pháp huỷ bỏ, nếu chúng vi phạm vào Hiến pháp Ukraina. Tòa án Tối cao là cơ quan chính trong hệ thống tòa án của tư pháp. Các hội đồng địa phương và các thị trưởng thành phố được dân chúng bầu ra và thực hiện quyền kiểm soát với ngân sách địa phương. Các lãnh đạo vùng và các cơ quan hành chính quận được tổng thống chỉ định.

    Tháng 5 năm 1992, Ukraina ký Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược (START) đồng ý trao mọi vũ khí hạt nhân cho Nga và gia nhập Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân như một quốc gia phi hạt nhân. Ukraina phê chuẩn hiệp ước năm 1994, và tới năm 1996 nước này không còn sở hữu vũ khí hạt nhân. Quân đội Ukraina hiện tại lớn thứ hai ở Châu Âu, sau Nga. Sau khi độc lập, Ukraina tuyên bố là một nhà nước trung lập và có sự đối tác quân sự hạn chế với Nga, các quốc gia thành viên Hội đồng, các quốc gia độc lập Khắc và một đối tác của NATO từ năm 1994. Trong những năm 2000, chính phủ nước này nghiêng về phía NATO, một sự hợp tác sâu hơn với liên minh đã được thiết lập theo Kế hoạch Hành động NATO-Ukraina được ký kết năm 2002. Ukrania đã đồng ý trong vấn đề gia nhập NATO phải được giải quyết bằng một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc ở một thời điểm nào đó trong tương lai.

    Kinh tế Ukraina trong thời Xô viết là công nghiệp và nông nghiệp, sự sụp đổ của hệ thống Xô viết, Ukraina chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, gây rất khó khăn cho hầu hết dân cư và đa số người dân rơi vào tình trạng nghèo khổ. Năm 1991, chính phủ tự do hóa hầu hết giá cả để giải quyết sự thiếu hụt hàng hóa và giúp cho các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Đầu thập niên 1990 do chính sách kiểm soát tiền tệ lỏng lẻo đã đẩy Ukraina vào tình trạng lạm phát trầm trọng. Năm 1993, Ukraina giữ kỷ lục thế giới về mức lạm phát trong một năm. Năm 1996 đồng tiền mới hryvnia ra đời ổn định lại giá cả.

    Ukraina chế tạo và xuất cảng loại máy bay Antonov và xe tải KrAZ tới nhiều quốc gia, đa số xuất là sang Liên minh Châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập. Từ khi độc lập, Ukraina đã duy trì cơ quan Vũ trụ Quốc gia Ukraina (NSAU) và tham gia tích cực vào việc thám hiểm khoa học vũ trụ và các phi vụ tìm kiếm miền đất hứa. Trong giai đoạn 1991 tới 2007, Ukraina đã phóng sáu vệ tinh và 101 phương tiện phóng do họ tự chế tạo, và tiếp tục thiết kế tàu vũ trụ. Ukraina được công nhận là nước hàng đầu thế giới trong việc chế tạo tên lửa và kỹ thuật liên quan tới tên lửa. Ukraina nhập khẩu hầu hết các nguồn năng lượng, đặc biệt là dầu mỏ, khí tự nhiên và phụ thuộc ở mức độ lớn vào Nga trong năng lượng.

    Về văn hóa, các phong tục Ukraina bị ảnh hưởng nhiều bởi Thiên chúa giáo. Các vai trò giáo dục trẻ em khá tốt so với tại phương Tây. Văn hóa Ukraina bị ảnh hưởng bởi các nước láng giềng phía đông và phía tây, phản ánh trong các lãnh vực như kiến trúc, âm nhạc và nghệ thuật. Năm 1932, Stalin đã đưa ra chính sách nhà nước chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tại Liên xô khi ông ban hành nghị định “Về việc Xây dựng các Tổ chức Văn học và Nghệ thuật”. Chính sách này đã kìm chế khả năng sáng tác của các giới cầm bút và nghệ sĩ rất nhiều. Tuy nhiêng, trong thập niên 1980 chính sách glasnost (mở cửa) được đưa ra và các nghệ sĩ cùng nhà văn Liên xô đã được tự do thể hiện mình như họ muốn.

    Ngôn ngữ của Ukraina là tiếng Ukraina và phổ biến rộng rãi ở phía tây và trong các thành phố như Lviv và ở trung Ukraina, tiếng Ukraina và tiếng Nga được sử dụng như nhau trong các thành phố. Tiếng Ukraina là ngôn ngữ chính tại các cộng đồng nông thôn. Tiếng Nga cũng được sử dụng rộng rãi tại phía đông và phía nam Ukraina và phổ biến nhiều hơn ở Kiev và được dùng chủ yếu trong các thành phố nhưng tiếng Ukraina lại được dùng ở các vùng nông thôn.

    Sau khi giành độc lập, chính phủ Ukraina bắt đầu chính sách Ukraina hóa để tăng cường việc sử dụng tiếng Ukraina, không khuyến khích tiếng Nga, cấm hay hạn chế trên truyền thông và phim ảnh. Theo Hiến pháp của Cộng hoà Tự trị Crimea, tiếng Ukraina là ngôn ngữ nhà nước duy nhất của nước cộng hòa mặc dù hiến pháp nước cộng hòa công nhận tiếng Nga là một ngôn ngữ được đa số người dân Ukraina sử đụng trong lĩnh vực đời sống công cộng.

    Thể thao, Ukraina được hưởng lợi nhiều từ chính sách nhấn mạnh trên giáo dục thể chất thời Liên xô. Những chính sách này khiến Ukraina có hàng trăm sân vận động, bể bơi, phòng tập thể dục và nhiều cơ sở thể thao khác. Môn thể thao được ưa chuộng nhất là bóng đá. Giải chuyên nghiệp hàng đầu là Vyscha Liha, cũng được gọi là Ukrainian Premier League. Hai đội có nhiều thành tích nhất tại Vyscha Liha là hai đối thủ FC Dynamo KyivFC Shakhtar Donetsk.

    Nhiều cầu thủ Ukraina cũng đã chơi cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, đáng chú ý nhất là Ihor BelanovOleh Blokhin, người giành giải Quả bóng vàng châu Âu danh giá cho cầu thủ hay nhất năm. Giải thưởng này chỉ được trao cho một người Ukraina sau khi Liên Xô tan rã, đó là Andriy Shevchenko, cựu thủ quân của đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina. Đội tuyển Ukraina lần đầu tiên có mặt tại 2006 FIFA World Cup, và lọt vào tới vòng tứ kết trước khi thua nhà vô địch sau đó, đội tuyển Ý. Người Ukraina cũng ưa thích quyền anh. Vitali KlitschkoVladimir Klitschko đang giữ nhiều chức vô địch quyền anh hạng nặng thế giới. Ukraina lần đầu tiên đồng đăng cai Euro 2012 (cùng với Ba Lan) và cũng là lần đầu tiên được tổ chức tại hai quốc gia thuộc Đông Âu.

    Mùa đông năm 1994, Ukraina tham dự Olympic tại Olympic với năm huy chương vàng cho bốn lần tham gia. Tại Olympic Mùa hè Ukraina đoạt 96 huy chương cho bốn lần tham gia.. Ukraina hiện xếp thứ 35 về số lượng huy chương vàng giành được tại tất cả các kỳ Olympic.

    Tôn giáo, tôn giáo chính tại Ukraina là Chính thống giáo Đông phương, hiện thuộc về ba Giáo hội: Giáo hội Chính thống Ukraina-Tòa Thượng phụ Kiev, Giáo hội Chính thống Ukraina (Tòa Thượng phụ Moskva) cơ quan nhà thờ tự quản thuộc Tòa Thượng phụ Moskva, và Giáo hội Chính thống Độc lập Ukraina. Giáo hội Chính thống giáo Ukraina hợp nhất được Tòa Thượng phụ Constantinopolis công nhận vào tháng 1 năm 2019. Đứng thứ hai về số lượng tín đồ là Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina thuộc Nghi lễ Đông phương, thực hành truyền thống phụng vụ và tinh thần như Chính thống giáo Đông phương, nhưng hiệp thông với Toà thánh Vatican của Giáo hội Công giáo Rôma và công nhận vị trí lãnh đạo của Giáo hoàng như người lãnh đạo Hội Thánh. Ngoài ra, có 863 cộng đồng Công giáo Rôma theo Nghi lễ Latin, và 474 giáo sĩ phục vụ khoảng một triệu tín đồ Công giáo Latin tại Ukraina. Nhóm này chiếm khoảng 2.19% dân số và chủ yếu gồm sắc tộc Ba LanHungary, sống tại các vùng phía tây đất nước.

    Giáo dục  cấp hai bắt buộc tại các trường nhà nước, Ukraina có số tốt nghiệp cấp hai đứng thứ tư châu Âu. Theo hiến pháp Ukraina, giáo dục miễn phí cho mọi công dân. Giáo dục cao hơn miễn phí tại các cơ sở giáo dục nhà nước và vùng được cung cấp trên một cơ sở cạnh tranh. Cũng có một số nhỏ trường học và các cơ sở giáo dục cấp cao của tư nhân. Từ năm 2005, một chương trình học mười một năm đã được thay thế bằng chương trình mười hai năm: giáo dục cấp một là bốn năm (bắt đầu từ khi sáu tuổi), cấp hai là năm năm; giáo dục cấp ba là ba năm. Ở lớp 12, học sinh phải qua một kỳ thi ra trường do Chính phủ tổ chức trước khi được nhận vào trường đại học bốn năm. Hệ thống giáo dục cao học Ukraina gồm các cơ sở giáo dục cao học, khoa họcphương pháp luận thuộc liên bang, địa phương và các cơ sở tự. Tổ chức giáo dục cao học tại Ukraina được xây dựng theo cơ cấu giáo dục cao học của các nước phát triển trên thế giới, như được định nghĩa bởi UNESCOUN.

    Hệ thống giao thông Ukraina phần lớn không được nâng cấp từ thời Xô viết nên cũ kỹ và rất xấu. Vận tải đường sắt tại Ukraina đóng vai trò quan trọng kết nối mọi vùng đô thị, cơ sở hải cảngtrung tâm công nghiệp quan trọng với các quốc gia láng giềng. Nơi có nhiều đường sắt nhất là vùng Donbas của Ukraina. Năm 1994, Ukraina được coi là một trong các quốc gia sử dụng đường sắt cao nhất thế giới. Tổng chiều dài đường sắt tại Ukraina là 22,473 km, trong số đó 9,250 km đã được điện khí hoá.

    Du lịch. Phong cảnh Ukraina gồm các đồng bằng phì nhiêu (thảo nguyên) và cao nguyên bị cắt ngang bởi các con sông như Dnieper (Dnipro), Seversky Donets, Dniester và Southern Buh khi chúng chảy về phía nam vào Biển Đen và Biển Azov. Những ngọn núi trên bán đảo Crimea ở cực nam dọc theo bờ biển Ukraina và những công viên tự nhiên quốc gia như công viên “Podilski Tovtry”, Công viên cảnh quan khu vực Nadsiansky, Công viên tự nhiên quốc gia Synevir, Công viên tự nhiên quốc gia Zacharovany Krai, v.v… Đây là nững khu bảo tồn thiên nhiên gồm nhiều loài thực vật hiếm quý cùng với những thác nước, hồ nước, rừng và hệ động thực vật vô cùng đa dạng. Theo sự xếp hạng của Tổ chức Du lịch Thế giới, Ukraina đứng thứ 8 thế giới về số lượng khách du lịch Bảy kỳ quan của Ukraina là 7 công trình lịch sử và văn hóa được chọn (tháng 7-2007) là di sản thế giới bao gồm thành phố cổ Chersonesus và những khu rừng nguyên sinh ở Carpathians. Một di sản khác là vòng cung Struve tam giác kéo dài từ Hammerfest ở Na Uy tới biển Đen ở Ukraine. Theo UNESCO, “Nó giúp thiết lập kích thước và hình dạng chính xác của hành tinh, đánh dấu bước quan trọng trong sự phát triển của khoa học trái đất và lập bản đồ địa hình“.

    Tu viện Holy Dormition Kyiv-Pechersk Lavra, ảnh Internet

    Ngoài ra, quốc gia này còn sở hữu vô số nhà thờ Chính thống giáo lộng lẫy như Tu viện Holy Dormition Kyiv-Pechersk Lavra (Tu viện động Kiev) là một tu viện Chính thống giáo Ukraine, được thành lập vào năm 1051 bởi một tu sĩ Thánh Anthony Pechersky. Đó là một địa điểm linh thiêng, nơi hơn 120 vị thánh đã yên nghỉ trong một nghìn năm! Các hang động của Kiev-Pechersk Lavra nằm ở độ sâu từ 5 đến 15 mét, xây dựng theo phong cách Baroque của Ukraina, nằm trên ngọn đồi đẹp gần Sông Dnepr. Từ Tháp Chuông bạn có nhìn toàn thể tu viện với mái vòm dát vàng và đôi bờ tuyệt đẹp của dòng sông.

    Nhà thờ Thánh Sophia có từ thế kỷ 11 ở Kiev, Ukraine theo lối kiến trúc của Kyivan Rus và là di sản đầu tiên ở Ukraine được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới cùng với quần thể Tu viện Hang động Kyiv, được thiết kế để cạnh tranh với Hagia Sophia ở Constantinople. Nhà thờ Saint-Sophia của Kyiv tượng trưng cho “Constantinople mới”, thủ đô của công quốc Kyiv theo Cơ đốc giáo. Constantinople mới được thành lập vào thế kỷ 11 trong một khu vực được truyền bá phúc âm hóa sau lễ rửa tội của St Vladimir vào năm 988. Tâm linh và ảnh hưởng trí tuệ của Kyiv-Pechersk Lavra đã góp phần vào việc truyền bá tư tưởng Chính thống giáo và đức tin Chính thống giáo trong thế giới Nga từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19.

    Nhà thờ Saint Sophia, ảnh Internet, ảnh Internet

    Ngoài ra, Ukraina còn rất nhiều thắng cảng đẹp như Deribasovskaya Street, Lviv City Hall, Lychakiv Cemetery, Rynok Square, Rodina Math (Motherland), Lviv National Opera, Secrets of Undrground Odessa Museum, Andreyevskiy Spusk, v.v… Chỉ tiếc rằng một số di tích lịch sử và phong cảnh đã bị tàn phá bởi cuộc tấn công của Nga vào Ukraina trong tháng ba vừa qua.

    Nhà hát Odessa National Academic Opera and Ballet được thiết kế bởi hai kiến ​​trúc sư người Vienna Ferdinand Fellner và Herman Helmer, khai trương ngày 1 tháng 10 năm 1887. Nhà hát Odessa có dàn âm thanh độc đáo trong hội trường dành cho 1.507 chỗ ngồi. Trong giai đoạn từ 1996-2007 nhà hát được trùng tu và tái khai trương ngày 22 tháng 9 năm 2007.

    Nhà hát Odessa National Academic Opera and Ballet, ảnh Internet

    Opera của Odessa là nơi mà nhà soạn nhạc vĩ đại người Nga PI Tchaikovsky từng chỉ huy cũng như Sergey Rakhmaninov, Pablo Sarasate, Fedor Shalyapin, Anna Pavlova và Isedora Duncan từng biểu diễn. Các vở kịch opera hoặc vũ điệu ballet như “Giselle”, “Sleeping Beauty ”,“ The Nutcracker ”,“ La Traviata ”,“ Don Quixote ”,“ Humpbacked Horse ”và“ Carmen Suite ” cũng được diễn ra tại đây.

    Ảnh Internet

    Múa Ukraina là các điệu múa dân gian truyền thống của người Ukraina với tư cách là một nhóm dân tộc. Nghệ thuật của điệu này đã thấm nhuần vào văn hóa qua hình thức múa truyền thống thuần túy của người Ukraine và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay. Múa dân gian là điệu múa được thực hiện trong những ngày vui như đám cưới hoặc lễ hội, với các động tác, nhịp điệu, trang phục đặc trưng, ​​v.v. Múa Ukraina là một điệu múa sân khấu dân gian, được dàn dựng bởi một biên đạo múa trong một tập thể chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư để biểu diễn trên sân khấu, có thể là tiếng Ukraina. Các thể loại múa chính của múa dân gian Ukraine là múa tròn, là một trong những loại nghệ thuật múa dân gian lâu đời nhất. Việc biểu diễn gắn liền với các nghi thức bao gồm metelitsa, hopak, kozachok, hutsulka, kolomyika, square khiêu vũ và polka.

    Vũ điệu truyền thống dân gian của người Ukraina, ảnh Internet

    Dàn nhạc Ukraina trinh tấu Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa, hẳn chúng ta vẫn chưa quên khoảng hơn 10 năm trước khi một dàn nhạc người Ukraine đã trình tấu bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa do Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa, (người đã có nhiều gắn bó với các nhạc sĩ Ukraine), đã đứng ra chỉ huy dàn nhạc và đưa đến sự thành công vượt bực

    Ảnh Internet

    Old town Old Kyiv hoặc Old Kiev là một khu phố lịch sử của Kyiv, nằm ở phần cực đông của Shevchenko Raion. Old Kyiv trong lịch sử đại diện cho thành phố Yaroslav the Wise trước khi nó có lẽ đã bị phá hủy bởi cuộc xâm lược của người Mông Cổ của Batu Khan vào năm 1240. Bắt nguồn từ Đồi Kyiv Cổ, thành phố Yaroslav bao gồm các tu viện nổi tiếng là đẹp như tu viện Sophia, tu viện Saint George và Saint Irina, Tu viện Saint Michael’s Golden Dome và Kopyrev End.

    Gần đây, cuộc tấn công của Nga vào Ukraina cuối tháng 2, 2022 đã phá hủy rất nhiều những công trình văn hóa nghệ thuật của Ukraina. Đó là một điều đáng tiếc và đáng buồn. Càng nghiên cứu về lịch sử của người Ukraina, Khánh Lan cảm thấy rất gần với đất nước và dân tộc Ukraina. Phải chăng nỗi thương cảm cho dân tộc Ukraina bởi họ cũng đã chịu nhiều thảm họa do chiến tranh gây ra như đất nước và dân tộc Việt Nam. Khánh Lan xin dùng câu danh ngôn của Ralph Waldo Emerson để kết thúc bài viết này.

    Những chiến thắng thật sự và bền lâu là chiến thắng của hòa bình, không phải của chiến tranh.

    Khánh Lan

    California, March 2022

  • Khánh Lan,  Văn Thơ,  Việt Hải

    TÁC PHẨM CỦA KHÁNH LAN: Ngõ Vào Văn Học và Triết Học

    Nhà văn Khánh Lan, người thứ 2 từ bên phải, lễ tốt nghiệp Cao học tâm lý xã hội
     (socio-psychology), California State University, Fullerton, CA, 2002.

    Phân tâm học được định nghĩa là một ngành gồm các học thuyết và kỹ thuật trị liệu tâm lý có nguồn gốc từ những công trình nghiên cứu theo học thuyết của Sigmund Freud. Vì vậy Phân tâm học cũng là một học thuyết nghiên cứu về thế giới nội tâm của con người, nhằm tìm ra lời giải thích cho những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan xuyên qua hành vi của con người, trên căn bản đó, ta có thể tìm ra những giải pháp để điều chỉnh những hành vi của con người mà biểu hiện của hành vi đó là những hoạt động gây ảnh hưởng đến những giá trị của hành vi đạo đức trong xã hội. Phân tâm học ra đời từ giai đoạn cuối của thế kỷ XX cho đến nay đã được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho cuộc sống xã hội. Cho nên cần phải tiếp tục nghiên cứu để phát triển học thuyết này để ứng dụng nó trong cuộc sống giúp giải quyết những vấn đề của cuộc sống. Tác phẩm này của ngòi bút Khánh Lan ghi tựa “Phân Tâm học và Đời sống“. Như đã nói học thuyết này nghiên cứu về thế giới nội tâm của con người, cho nên tác giả trình bày những tác động của nó liên đới trong các phạm vi như y hoc, tư pháp, cũng như lãnh vực văn học, nghệ thuật và điện ảnh.

               Mô thức phân tích tâm lý của tác giả Khánh Lan rất chuyên môn, tinh tế qua các phạm vi trên đa phần do kiến thức văn hoá và kinh nghiệm nghề nghiệp của tác giả. Vấn đề nêu ra trong tác phẩm ở đây là bối cảnh phân tích trước một sự kiện ví dụ như y học, hoặc văn học hay nghệ thuật, qua bối cảnh phân tích tâm lý bệnh nhân hay tâm lý nhân vật phải chỉnh chu, hợp lý lẽ, ngay cả khi ví dụ hiện tượng dồi dào của văn học nghệ thuật phân tích dành cho nghiên cứu các văn nghệ sĩ đến một lúc nào đó có thể sẽ đem lại sự thay đổi cho kết quả đúng đắn.

               Tác giả sáng tác văn phẩm biên khảo giữa hai phạm vi rộng, như tác phẩm của Khánh Lan kể chuyện về Văn học sở thích yêu văn và Triết học sở trường nghề cũ. Câu hỏi được nêu ra là văn học và triết học có liên quan mật thiết hoặc có sự liên hệ hỗ tương? Nếu chúng ta giải thích theo nền tảng văn hóa học thuật thì triết học thường được tách ra khỏi văn học khi ta so sánh. Tôi nghĩ rằng giới triết gia coi văn học như một dạng nghệ thuật văn chương chứ không như chiều sâu lý luận của bên tríết học. Theo tôi, giới văn học và triết học có sự kình chống, kỳ thị nhau, điển hình như trường hợp của Nietzsche, ông luôn luôn bị hoài nghi bởi các triết gia cổ điển, họ cho rằng Nietzsche không phải là một triết gia “hợp thời” hay ngồi “chung chiếu” bởi Nietzsche đã không sử dụng phương pháp lý luận theo khuynh hướng phổ thông truyền thống của triết học. Các triết gia cổ điển phê phán lối hành văn của Nietzsche là hệ phái trọng ngôn ngữ của văn chương, không phải của bên triết học. 

    Ngược lại, giới văn chương cũng không chấp nhận những tác phẩm của Nietzsche mang giá trị về văn chương bởi ông thiên nặng về lý luận triết lý. Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu văn học càng về sau, văn triết thường hòa hợp nhau, ví dụ như tiểu thuyết Middlemarch của George Eliot, Moby-Dick. của Herman Melville, Death in Venice của Thomas Mann, The Black Prince của Iris Murdoch, Infinite Jest của David Foster Wallace, Les Jeux Sont Faits của Jean-Paul Sartre, Le Deuxième Sexe của Simone de Beauvoir… những văn bản văn học hay tác phẩm văn chương vốn là phương tiện quảng bá quan trọng. Xét văn bản về bối cảnh lịch sử, xã hội, nguồn gốc xuất thân của tác giả, v.v… Văn học cho phép nhiều phương thức diễn đạt độc đáo, những thứ như người kể chuyện thiên vị, ví dụ chẳng hạn như tác phẩm Lolita của văn hào Nga Vladimir Nabokov, người dùng ngòi viết hiện thực. tâm lý học, tức xen lẫn với nét triết tính, tươmg tự như những danh tác của anh em Karamazov, tiểu thuyết nổi danh Anna Karenina, v.v… Sự trưởng thành trong phản ứng với xung đột như trong tác phẩm của Hermann Hesse như Demian thì có người cho đây là sách triết tính, kẻ xếp nó là dạng tiểu thuyết văn học.

    Tôi suy nghĩ về người bạn văn này chọn đi giữa 2 lằn đạn như Nietzsche, Khánh Lan viết xong 4 quyển văn học. Nay cô đã hoàn tất tác phẩm thứ 5 là “Phân tâm học và đời sống“. Phạm vi psychoanalysis vốn là một phần trong đề mục bậc cao học bên ngành Socio-Psychology của cô. Khánh Lan cho biết sau khi xong tác phẩm thứ 5 này về champ freudien, Khánh Lan có thể nghiên cứu về những lãnh vực khác như Tam giáo đồng nguyên mà cô rất mong muốn tìm hiểu và học hỏi, hay sẽ hoàn tất sách kế về Siêu hình học và Triết hiện sinh. Đây là những chủ đề triết học rất hay khi thi sĩ Cung Trầm Tưởng khích lệ cô viết, nét tinh hoa giữa hai lãnh vực triết phổ thông liên quan đến tư duy văn học nghệ thuật trong nếp sống xã hội nhân sinh.

    Chúc mừng Khánh Lan.

    Việt Hải.
    California, March 2021
  • Khánh Lan,  Văn Thơ,  Việt Hải

    Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch: Ứng dụng trong đời sống.

    Ba yếu tố trong đời sống tâm linh hay thực tiễn dù ích lợi cho việc kinh doanh thì it nhiều liên quan dến chúng ta. Hãy xét về Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch: Những ứng dụng của mỗi lý thuyết ra sao trong đời sống. Trước hết hãy xét về lý thuyết Phong Thủy.

    1.  Phong Thủy là gì?

    Phong Thủy định nghĩa theo cách thức phổ thông là một bộ môn khoa học hay văn hóa thuộc bên Đông phương. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng Phong Thủy bắt nguồn từ người Việt cổ đã tạo ra. Còn người Hoa bảo rằng của họ. Nhưng bài viết này sẽ không lạm bàn về sự chính xác nguồn gốc Phong Thủy xuất phát từ đâu mà có. Sự ứng dụng của Phong Thủy trong đời sống thì thuật ngữ Phong Thủy đã ngày càng phổ biến trong đời sống và Phong Thủy (chữ Hán:風水) là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống họa phúc của con người. Theo đó, Phong có nghĩa là “gió”, là hiện tượng không khí chuyển động và Thủy có nghĩa là “nước”, là dòng nước, tượng trưng cho địa thế.

    Do vậy “Phong Thủy” là sự kết hợp của nhiều yếu tố bao gồm vị trí nhà ở, thôn xóm, phường xã, quận huyện, thành phố và quốc gia hoặc mồ mã, hướng gió, dòng nước, hướng nắng (vị trí địa lý), nền văn hóa, địa hình, tư duy cùng với sự phát triển của giao thông, con người và thị hiếu…rất nhiều yếu tố để cấu thành Phong Thủy. Tùy nhu cầu xử dụng mà bạn có thể kết hợp nhiều yếu tố cần thiết để tạo ra địa thế Phong Thủy tốt nhất có thể có được.

    Về vai trò của PhongThủy thì nó được xem như là yếu tố đóng vai trò quan trọng tới sự phồn vinh, hưng thịnh, hạnh phúc, tiền tài trong đời sống, mà cả trong chuyện tình cảm và làm ăn thương mại nữa. Thế nên Phong Thủy đóng vai trò quan trọng nhưng nó chỉ có tác dụng hỗ trợ để cải biến chứ không thể nào làm thay đổi hẳn hoàn toàn vận mạng của con người. Nó là một trong những yếu tố quan trọng quyết định mà thôi. Nếu Phong Thủy tốt sẽ giúp chúng ta gia tăng sự thành công và may mắn khi vào vận hạn tốt và giảm thiểu được tai hoạ khi vào vận hạn xấu. Hãy ghi nhận là điều thành công của mỗi người là do sự kết hợp của 3 yếu tố chủ chốt: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Trong đó, bản thân mỗi người có thể thay đổi được do 2 sự kiện là: địa lợi và nhân hòa.  Địa lợi chính là căn bản của Phong Thủy và nhân hòa chính là bản thân chúng ta. Như vậy thì sự may mắn tạo ra chung cuộc thành công cho bản thân mà không chỉ là “định mệnh” do trời cao sắp đặt sẵn.

    Ứng dụng của Phong Thủy vào đất đai hay nhà đất, ví dụ như Phong Thủy nhà ở được chia thành nhiều phần gồm Phong Thủy phòng ngủ, phong thủy phòng khách, phong thủy phòng thờ, phong thủy phòng bếp, v.v…. Phong Thủy được ứng dụng rất nhiều trong lãnh vực xây cất, nhất là trong việc xây dựng nhà cửa. Việc xem chọn hướng, ngày khởi công, vị trí cửa, vị trí nhà bếp, nhà vệ sinh, số bậc cầu thang… sao cho hợp với vận mạng gia chủ là việc hệ trọng và cần thiết. Một ngôi nhà hợp Phong Thuỷ với tuổi tác sẽ giúp gia chủ và những thành viên trong gia đình được sống hạnh phúc và khỏe mạnh cũng như có nhiều công danh và tài lộc đến với gia chủ.

    Phong Thủy sắp xếp nội thất trong nhà, hay Phong Thủy văn phòng cũng quan trọng không kém. Nó cho gia chủ gia đình hay chủ nhân cơ sở thàng công, hưng thịnh, hay hạnh phúc, yên bình.

    1. Ngũ Hành và Phong Thuỷ
    • Ngũ hành là gì?

    Là sự vận động không ngừng của thiên nhiên vũ trụ ảnh hưởng con người đến những nhận thức sơ khai trong việc diễn giải quá trình phát sinh của vũ trụ và đã cấu tạo ra lý thuyết âm dương ngũ hành. Dựa theo sự vận hành của vũ trụ thế gian, nguyên lý Ngũ Hành đã đưa ra một giải pháp có hệ thống, mang tính dự báo về cách thức khí vận động thông qua những thay đổi mang tính chu trình của âm và dương. Như Vậy Ngũ Hành được hiểu như sau:

    Theo nghĩa đen: “Ngũ Hành” là 5 hành tố gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đây là những nguyên tố chính tồn tại trong vạn vật. Còn xét theo triết học của các sách Trung Hoa cổ đại, ngũ hành là lý thuyết triết vật thể lâu năm của nhân loại, nó đã tồn tại độc lập với ý thức của con người. Vì vậy cho nên lý thuyết Ngũ Hành theo thuyết duy vật cổ đại có 5 vật chất tạo nên thế giới, có sự tương sinh, tương khắc với nhau bao gồm:

    Nước (hành Thủy), Đất (hành Thổ), Lửa (hành Hỏa), Cây cối (hành Mộc), Kim loại (hành Kim).

    • Âm dương NHành Tương sinh và Tương khc.

    Ngũ hành sinh khắc là thuyết Ngũ Hành bao gồm 2 phương diện: hỗ tương nhau là tương sinh và chống lại nhau là tương khắc. Trên căn bản sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hóa, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hóa, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hóa phức tạp của sự vật. 

    1. Ngũ Hành tương sinh như Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ. Luật tuần hoàn tiếp tục tiếp diễn nối tiếp, 5 nhân tố trên luôn thúc đẩy nhau phát triển không ngừng, nên khi xét về tương quan về tương sinh, cái sinh ra nó và cái được sinh ra là mối liên hệ mẫu từ. Ví dụ như kim sinh thủy ắt kim là mẹ của thủy, thủy sinh mộc tức mộc là con của thủy.
    2. Ngũ Hành tương khắc là mối liên hệ nay chúng lại mang ý nghĩa biểu hiện chống chọi, áp chế nhau. Về luật tương khắc: mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thủy lại khắc hoả, hoả lại khắc kim và kim khắc mộc. Cứ như trên 5 thành tố này lại tiếp diễn áp chế nhau. Theo nhận xét thì tương khắc có vai trò duy trì sự cân bằng những cái gì thái quá cũng không tốt, nếu tương khắc thái quá xung khắc nhau.

    Phong Thủy được áp dụng nhằm mang lại sự thuận lợi cho các dòng dưỡng khí. Thế nhưng trong cuộc sống hiện đại bây giờ, ứng dụng của Phong Thủy sẽ khác hơn ngày xưa một chút. Bởi nhà cửa, cảnh quan và kiến trúc đều đã có sẵn, chúng ta chỉ cần cải tạo, thay đổi môi trường sống, cũng như môi trường làm việc mà thôi.

    Khi hai nơi quan trọng nhất là nhà ở và nơi làm việc đã được sắp xếp hài hòa thì gia chủ sẽ hạnh phúc, khỏe mạnh, thịnh vượng, thuận lợi hơn. Phong Thủy khắc họa rõ nét điều này thông qua khái niệm khí: Tất cả mọi vật thể xung quanh ta đều có sức ảnh hưởng đến sự luân chuyển và mức độ khí trong không gian. Phong Thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Không phải là yếu tố đơn lẻ mà là tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Cát ắt là Phong Thủy hợp, hung ắt là Phong Thủy không hợp.Thuật Phong Thủy không những giúp cho ta cách bài trí, chọn màu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống.

    Tổng quát như trên đây là những chia sẻ về Phong Thủy là gì, cũng như các khái niệm liên quan đến phong thủy và ứng dụng của Phong Thủy trong đời sống. Nên Phong Thủy tốt và cần thiết vì có sự hài hòa âm dương, ngũ hành. Ngoài ra, thuyết âm dương, Ngũ Hành còn được ứng dụng trong Đông y. Đông y quan niệm rằng, khi con người được sự cân bằng âm dương, Ngũ Hành điều hòa sẽ giúp cho sức khỏe dồi dào, tâm sinh lý ổn định. Phong Thủy tương đồng với khoa học hiện đại Tây phương và chúng ta hãy nhìn nhận nó dưới góc độ khoa học. Ví dụ: Trong phạm vi Phong Thủy thường đặt thủy trước công trình (Minh Đường tụ thuỷ) thì với kiến trúc hiện đại việc đặt hồ nước xen lẫn công trình cũng là điều được khuyến khích, bởi ngoài việc tạo điểm nhấn sinh động, giúp tăng không gian, tăng độ bề thế cho công trình nước còn cung cấp thêm các ion âm có lợi cho sức khoẻ, đồng thời những khu vực nào có hồ nước sẽ giúp điều tiết được khí hậu.

    Mọi vật trên trái đất đều bắt nguồn khí âm dương ngay cả trong con người và vũ trụ. Và sự tác động đến vũ trụ sẽ ảnh hưởng đến con người. Nên khi nắm rõ được quy luật vận hành, rồi làm các động tác để tác động đến nguồn khí âm dương của vũ trụ kích thích lên con người thì sẽ mang lại những điều cát lợi. Nên ý nghĩa của Phong Thủy trong đời sống rất là đa dạng phong phú. Có thể cải tiến hay phát triển đô thị, xây cất phố xá.

    1.  Phong Thuỷ và Kinh Dịch:

    Xét về lý thuyết Kinh Dịch, nguồn gốc của Phong Thủy.

    • Kinh Dịch là gì? Cùng sự kiện ứng dụng của Kinh Dịch trong Phong Thủy. Khi nhắc đến Kinh Dịch có rất nhiều định nghĩa, có người bỏ ra cả đời nghiên cứu vẫn chưa xác định khái niệm cụ thể hay ý nghĩa thâm sâu của nó. Nói về nguồn gốc theo truyền thuyết kinh dịch bắt đầu ra đời từ vua Phục Hy (ông là một trong ba Tam Hoàng thời thượng cổ Trung Hoa). Khi xa xưa ấy sông Hoàng Hà có một con long mã hiện hình, trên lưng nó in hình những đám xoáy mây đen trắng và có số lượng từ một đến chín. Quan sát những đám xoáy đó, vua Phục Hy chợt hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ và đem lẽ đó vạch ra thành nét vẻ cho Kinh Dịch.

    Ý nghĩa của Kinh Dịch tựa giống như một thuyết giúp diễn giải và khai mở mật mã vũ trụ, liên quan đến Ngũ Hành, Phong Thủy, đến đời sống hạnh phúc và nhân sinh. Bên cạnh đó, ý nghĩa của nó không ngoài các điều chính yếu có tương quan liên hệ sự thể là dù mọi sự vật trên thế giới có phức tạp, huyền bí thế nào đi nữa, một khi trí tuệ nhân loại đạt đến được, thì có thể chuyển đổi chúng thành vấn đề mà mọi người dễ cho lý do giải thích và có thể giải quyết được. Đó là yếu tố Biên dịch trong thuyết Kinh Dịch.

    Còn yếu tố Biến dịch là chỉ ra rằng mọi sự vật trên thế giới mỗi phút mỗi giờ đều đang biến hóa, phát triển, không có vật gì là bất biến. Nếu rời xa sự biến hóa này, vũ trụ vạn vật khó mà hình thành được. Và yếu tố Bất dịch là cho thấy rằng dưới tiền đề vạn vật trong vũ trụ đều biến đổi, vẫn còn có thứ duy nhất bất biến tồn tại, mà không thay đổi theo không gian và thời gian. Do đó chính là quy luật. Ngoài ra, mọi người có thể hiểu đơn giản là vì biến dịch cho nên có sự sống; Vì bất dịch cho nên có trật tự cuộc sống; Vì giản dịch cho nên con người có thể quy tụ mọi biến động sai biệt thành quy luật để hình thành tổ chức đời sống xã hội.

                Các thành phần chính trong Kinh Dịch gồm Lưỡng Nghi: chính là Âm Dương, đây là khởi nguồn tạo nên Kinh dịch. Trong đó, Dương được tượng trưng bằng vạch một nét liền (tức là vạch lẻ, kí hiệu ‘─’). Âm thì được tượng trưng bằng một nét đứt (tức là vạch chẵn, ký hiệu ‘- -’). Nó còn có Tứ tượng là Tượng là dùng hai Nghi chồng lên nhau và đảo chỗ, vì thế được Tứ Tượng. Tứ tượng bao gồm thái dương, thiếu dương, thái âm và thiếu âm. Và có Bát quái (hay còn gọi là quẻ đơn) là 8 hình thái khác nhau, được hình thành từ việc chồng thêm một vạch lên mỗi Tứ tượng, tạo ra 8 cái ba vạch lần lượt là Càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn. Cùng Quẻ kép (còn gọi là Trùng quái) là đem những quẻ đơn chồng lên nhau, tạo ra 64 hình thái khác nhau, đó là 64 quẻ.

    • Vai trò của Kinh Dịch

    Giúp luận đoán nhân sinh, Kinh Dịch dựa vào nghiên cứu quy luật giữa thiên địa nhân giúp ta luận đoán hiện tại, dự đoán tương lai con người, đồng thời giúp ta tìm ra phương pháp kết hợp hài hòa giữa con người cùng thiên nhiên. Ngoài ra, với hệ thống tri thức vĩ đại, Kinh Dịch hỗ trợ rất lớn trong việc giải thích các lãnh vực như văn hóa đạo giáo, nho giáo, đông y, văn tự, số thuật, quân sự, triết học…

    1.  Giúp luận đoán thời vận hung cát, dựa vào quy luật của trời đất, dịch lý và 64 quẻ kép giúp ta dự đoán thời vận hung hay cát, từ đó dựa vào kết quả để hành sự.

    2.  Giúp cho những ứng dụng của Kinh Dịch trong phong thủy số, bởi vì phong thủy số là những con số được kết hợp với những thuật toán (thần số học, kinh dịch, du niên, ngũ hành, âm dương) sao cho luận lý mạch lạc, logic hẳn nhiên, hài hòa theo quy luật của trời đất , từ đó tạo nên một ý nghĩa hợp lý lẽ.

    Vì Kinh Dịch là phạm trù rộng lớn và thông dụng như vậy, nên con người dùng nó dưới các dạng thức hoạt động và sự sống của vũ trụ, thời gian và không gian để nghiên cứu và tính toán sự giãn nở của hệ ngân hà trong vũ tru bao la. Để có thể mô phỏng thì nó phải có lý thuyết tính toán, vì thế trong Kinh Dịch có một phần coi như “toán học”, hay chính xác hơn đó là “toán học vũ trụ” (cosmic mathematics), một phương thức tính toán hoàn hảo có thể tính hết mọi thứ từ quá khứ đến tương lai. Về phương diện nhỏ thì có thể tính được số mệnh một người, lớn thì có thể thấy được vận mệnh của một quốc gia từ vài chục cho đến hàng ngàn năm sau. Biểu hiện đơn giản nhất của nó chỉ có 64 quẻ, nhưng lại bao hàm từ sinh mạng của con người, vạn vật cho đến cả thiên thể vũ trụ. Xét cho cùng Kinh Dịch chính là bộ môn văn hoá nhân văn, và Kinh Dịch là tinh hoa của nhân loại.

    Nói chung, những ứng dụng trong đời sống của 3 lý thuyết Phong Thuỷ, Ngũ Hành Kinh Dịch là những môn học hay những tinh hoa của nhân loại, những khía cạnh dẫn dắt, giúp ích xã hội con người, dù nhân sinh hay dân sinh hầu mở mang đô thị, kiến thiết quốc gia, cho đến nếp sống cá nhân con người như nhà cửa, kinh doanh, tình yêu, và ý muốn riêng tư. Những lý thuyết Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch là những phạm trù văn hóa vốn cần thiết cho cuộc sống con người. Thực vậy.

    Việt Hải & Khánh Lan

    California, March 2022.

  • Văn Thơ,  Việt Hải

    Nhà văn giải Nobel Abdulrazak Gurnah

    Photo source: https://apicciano.commons.gc.cuny.edu/

    Theo tin Reuters giải Nobel văn chương 2021 đã được trao cho tiểu thuyết gia người Tanzania là Abdulrazak Gurnah, một tên tuổi mà hình như nằm ngoài sự dự đoán của nhiều người. Tiểu thuyết gia sinh ra ở Tanzania được trao giải Nobel Văn học, đã có một sự nghiệp 35 năm, được giới phê bình đánh giá cao bắt nguồn từ chủ nghĩa thực dân và nhập cư sau khi đến Anh tị nạn.

    Ông sinh ra trên hòn đảo Zanzibar của Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển phía đông châu Phi, vào năm 1948, và bắt đầu viết văn sau khi di chuyển đến Anh lưu vong, nơi ông hiện đang sống ở thành phố Canterbury, Vương quốc Anh. Canterbury nằm ở phía đông vùng Kent, cách London khoảng 55 dặm (89 km) về phía đông-đông nam.

    Giải Nobel văn học năm 2021 đã được trao cho nhà văn gốc Phi châu Gurnah, vì sự hội nhập dù khó hòa giải và nhân ái của ông đối với những hệ luỵ của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa trên thế giới. Khi quần đảo Zanzibar được Anh quốc trao trả độc lập vào năm 1963 và sáp nhập với lục địa để trở thành nước Tanzania. Vị lãnh tụ Abeid Karume, tổng thống Tanzania thời đó tiến hành một cuộc đàn áp khốc liệt và ra tay khủng bố những công dân Tanzania gốc Ả Rập. Nhà văn Gurnah thuộc nhóm chủng tộc này bị buộc phải bỏ học, trốn đi đến định cư ở Anh xin tị nạn vào cuối thập niên 1960, lúc đó ông mới 18 tuổi. Ông theo học tại trường Christ Church College ở Canterbury, về sau chuyển sang học ở University of Kent, tại đây ông lấy bằng tiến sĩ với luận án “Tiêu chuẩn về việc phê bình tiểu thuyết Tây Phi” (Criteria in the Criticism of West African Fiction) vào năm 1982. Từ 1980 đến 1983, ông giảng dạy ở trường Đại Học Kano tại xứ Nigeria. Sau đó, ông trở về làm giáo sư tại Đại Học Kent, thuộc Canterbury, ông dạy Anh Văn và Văn Chương Hậu-Thuộc-Địa (Postcolonial Literature) cho đến khi về hưu.

    Abdulrazak Gurnah đã xuất bản 10 tiểu thuyết cũng như một số truyện ngắn. Ông Anders Olsson, chủ tịch ủy ban Nobel cho rằng tiểu thuyết của Gurnah đi từ tác phẩm đầu tay “Hồi Ức Ngày Ra Đi” (Memory of Departure) kể về một cuộc nổi dậy thất bại, cho đến cuộc nổi dậy gần đây nhất của ông trong tác phẩm mới nhất, Những Mảnh Đời Lưu Lạc (Afterlives). Truyện kể về những tiểu tiết rập khuôn mẫu và mở rộng cái nhìn của chúng ta đến một Đông Phi đa dạng về nét văn hóa xa lạ đến nhiều nơi khác trên thế giới.

    Nội dung của những tác phẩm khác của Abdulrazak Gurnah như Pilgrims Way (1988) và Dottie (1990), ghi lại trải nghiệm của người nhập cư ở Anh từ những khía cạnh khác nhau, Gurnah thường cho dựng những câu chuyện được cấu tạo cẩn thận với một cái nhìn sâu sắc ví dụ điển hình là cuốn tiểu thuyết thứ ba, Dottie (1990), chân dung của một phụ nữ da đen có nguồn gốc nhập cư, lớn lên trong điều kiện khắc nghiệt ở nước Anh năm 1950, bị phân biệt chủng tộc và vì sự im lặng của mẹ cô mà thiếu mối liên hệ với lịch sử gia đình của chính cô. Đồng thời cô cảm thấy không có nguồn gốc ở Anh, đất nước cô sinh ra và lớn lên. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết cố gắng tạo ra không gian và bản sắc của riêng mình qua sách vở và truyện viết, những thứ cho cô cơ hội để xây dựng lại bản thân. Không ít thì cái tên và những lần đổi tên đóng vai trò trung gian trong một cuốn tiểu thuyết biểu hiện lòng trắc ẩn sâu sắc và bản lãnh tâm lý của Gurnah, hoàn toàn lại không có tình cảm gì cả.

    Năm 1994, quyển tiểu thuyết thứ tư của Abdulrazak Gurnah được xuất bản với tựa đề Paradise lấy bối cảnh ở Đông Phi thuộc địa trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Quyển này cũng nhận được đề cử cho giải Booker năm đó. Cuốn tiểu thuyết Paradise là bước đột phá của ông với tư cách là một nhà văn, phát triển từ một chuyến đi nghiên cứu đến Đông Phi vào khoảng năm 1990. Cuốn tiểu thuyết có liên quan rõ ràng đến Joseph Conrad trong cuộc hành trình của anh hùng trẻ ngây thơ Yusuf như non dạ. Nhưng đó cũng là một câu chuyện về tuổi non nớt mới lớn và một câu chuyện tình buồn trong đó các thế giới và hệ thống tín ngưỡng khác nhau bị va chạm. Truyện kể lại câu chuyện về Joseph trong Kinh Qur’an, dựa trên bối cảnh mô tả chi tiết và bạo lực về quá trình thuộc địa của Đông Phi vào cuối thế kỷ 19. Trong phần đảo ngược lại ở phần kết thúc lạc quan của câu chuyện Kinh Qur’an, nơi Joseph được tưởng thưởng vì sức mạnh đức tin của mình. Rồi Yusuf cảm thấy buộc phải từ bỏ Amina, người phụ nữ anh yêu anh, để gia nhập quân đội Đức mà anh khinh thường trước đây. Đặc điểm của Yusuf Gurnah là làm thất vọng sự mong đợi của người đọc về một kết thúc có hậu ở phần chót của truyện phù hợp với thể loại văn.

    Trong cách ứng xử của Gurnah qua những trải nghiệm đời người tị nạn, trọng tâm là bản sắc và hình ảnh bản thân, đặc biệt rõ ràng là trong tác phẩm Admiring Silence (1996) kể câu chuyện về một thanh niên rời Zanzibar di cư đến Anh, nơi anh kết hôn và trở thành một giáo viên. Một chuyến trở lại quê hương 20 năm sau ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ của anh đối với cả bản thân và cuộc hôn nhân của mình. và By the Sea (2001) là câu chuyện được kể lại bởi Saleh Omar, một người lớn tuổi xin tị nạn sống ở một thị trấn ven biển nước Anh. Trong quyển By the Sea mô tả một màn kịch thất vọng và tự lừa dối khác xảy ra ngay sau đó. Saleh, người kể chuyện của phần đầu tiên, vốn là một người Hồi giáo già từ Zanzibar xin tị nạn ở Anh với một chiếu khán giả mạo dưới danh nghĩa của một kẻ thù không đội trời chung. Khi anh ta gặp con trai của kẻ thù, Latif, người kể chuyện của phần thứ hai của cuốn sách, đó chỉ là vì tình cờ Latif được giao nhiệm vụ giúp Saleh thích nghi với quê hương mới của anh ta. Trong những cuộc cãi vã căng thẳng giữa họ với nhau, quá khứ bị đè nén của Saleh ở Zanzibar hiện lên trong anh, khi mà Saleh bất chấp tất cả cố gắng nhớ lại thì ngược lại Latif lại làm mọi cách để quên đi. Chính điều đó tạo ra một sự căng thẳng đặc biệt trong cuốn tiểu thuyết. Do vậy mà việc lựa chọn hai người kể chuyện giải tỏa ẩn khúc câu chuyện và cốt truyện của tiểu thuyết, cũng như vai trò và sự tự giác linh hoạt của người kể chuyện (tức tác giả). Các nhân vật linh động của Gurnah thấy mình bị chơi vơi gián đoạn giữa các nền văn hóa và lục địa, giữa một cuộc sống đang tồn tại và một cuộc sống đang trỗi dậy; nó là một trạng thái bất toàn mà không thể giải quyết được.

    Trong cả hai cuốn tiểu thuyết này thì góc nhìn thứ nhất là sự im lặng được bày tỏ như một cách thức chính của người tị nạn để bảo vệ danh tính của mình để tránh khỏi sự kỳ thị chủng tộc và định kiến, nhưng cũng là một phương tiện để tránh va chạm giữa quá khứ và hiện tại, tạo ra sự thất vọng và sự tự lừa dối lòng rất tai hại. Trong phần đầu tiên của hai cuốn tiểu thuyết này, người kể chuyện có thành kiến ​​chọn cách che giấu chuyện quá khứ của mình khỏi bị gia đình người Anh giúp mình dị nghị và tạo ra một câu chuyện cuộc đời phù hợp hơn với thế giới thường nhật của họ. Nhưng đó là một sự im lặng đồng nghĩa vì anh ta cũng đang che giấu cuộc sống lưu vong của mình xa gia đình ở Zanzibar, không ai biết rằng anh ta có một gia đình mới ở Anh và một cô con gái mười bảy tuổi.

    Sự kiện kế đến qua một phiên bản mới của sự gián đoạn này trong cuốn tiểu thuyết thứ bảy của Gurnah, Desertion. Cuốn sách kể lại chủ đề lưu vong và mở rộng cốt truyện sang các mối tương quan như giữa những người yêu nhau, giữa các gia đình, giữa các quốc gia. Cuối cùng tác giả cho hay câu chuyện không phải về mình: Đó là về cách một câu chuyện chứa nhiều mẫu chuyện mà chúng không thuộc về chúng ta mà là là một phần của dòng đời ngẫu nhiên trong thời đại của chúng ta, và về cách kể lại những câu chuyện thu hút chúng ta và luôn lôi cuốn chúng ta. Theo nhà phê bình văn học Bruce King cho rằng, trong văn chương của Abdulrazak Gurnah, người châu Phi luôn là một phần của thế giới. Một thế giới rộng lớn hơn và đang thay đổi. Các nhân vật của ông phải từ bỏ gốc gác, lăn lộn ở nước ngoài, chịu nhiều miệt thị và chống chọi trong cô đơn.

    Cuốn Desertion được chia làm 3 phần, trong đó tác giả viết chân dung chi tiết về con người, địa điểm và cuộc sống ở Zanzibar vào cuối thế kỷ 19 cho phần đầu tiên, vào những năm 1950 cho phần hai và nửa sau thế kỷ 20 vừa qua trong phần cuối. Tác giả đã tạo truyện rất hay khi đưa ra một bức tranh đầy đủ về những người khác nhau sống ở Zanzibar vào cuối thế kỷ 19. Hassanali một thương nhân địa phương bình thường với nhiều chủng tộc hỗn hợp, Rehana một phụ nữ địa phương, Frederick quản lý thuộc địa Anh và Pearce nhà thám hiểm người Anh. Tuy nhiên, những bức chân dung này có thể là do tác giả cho rập khuôn có chủ đích và những nhân vật đó không có điều gì thú vị hoặc có điều gì đó đặc biệt về họ. Trong Desertion, tác giả ấp ủ một niềm đam mê bi thảm được sử dụng để làm sáng tỏ sự khác biệt lớn về văn hóa ở Đông Phi thuộc địa. Cốt truyện mô tả cách người Anh Martin Pearce, bị té ngã bất tỉnh trên đường phố, được một thương gia địa phương giúp đỡ và đưa qua mê cung của thành phố (city’s labyrinth) vào một thế giới nơi văn hóa và tôn giáo xa lạ. Nhưng Pearce nói được tiếng Ả Rập, một trong những điều kiện tiên quyết để tiếp xúc gần gũi hơn với gia đình và để anh yêu người con gái Rehana của họ. Gurnah biết rõ rằng thời đại mà anh ta đang miêu tả không phải như đã nói trong cuốn tiểu thuyết, “thời đại của Pocahontas khi một cuộc tình lãng mạn với một công chúa man rợ có thể được mô tả như một cuộc phiêu lưu” (the age of Pocahontas when a romantic fling with a savage princess could be described as an adventure). Đây là câu truyện tình yêu và sự phản bội ở bối cảnh Châu Phi Thuộc địa.

    Tác phẩm Con Đường Hành Hương (Pilgrims Way) từ năm 1988, Gurnah khám phá thực tế nhiều mặt của cuộc sống lưu vong. Nhân vật chính tên là Daud, phải đối mặt với không khí phân biệt chủng tộc ở quê hương mới của anh, nước Anh. Sau khi cố gắng che giấu quá khứ của mình, tình yêu với một người phụ nữ đã lôi kéo Daud kể câu chuyện của mình. Sau đó, anh ta có thể kể lại những gì đã xảy ra trong quá trình bi thảm trưởng thành của mình và những ký ức đau buồn về cuộc chính biến hỗn loạn ở Tanzania đã buộc anh ta phải bỏ xứ trốn đi. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với chuyến thăm của Daud đến nhà thờ Canterbury, nơi anh suy ngẫm về sự tương đồng giữa những người hành hương Cơ đốc giáo đã đến thăm nơi này trong quá khứ và cuộc hành trình đến nước Anh của chính anh ấy. Trước đây anh ta đã thách thức chống lại tất cả những gì mà quyền lực thuộc địa cũ đã gây ra, nhưng rồi tự nhiên dường như anh đã đạt được cuộc sống tốt. Cuốn tiểu thuyết định hình thành một phiên bản thế tục của một cuộc hành hương cổ điển, sử dụng các tiền thân lịch sử và văn học làm vai đối thoại trong các vấn đề về danh tính, ký ức và tương quan họ hàng…

    Photo source: https://www.latestly.com/

    Trong tác phẩm The Last Gift (Món Quà Cuối Cùng, từ năm 2011, có chủ đề liên quan đến Con Đường Hành Hương và kết thúc bằng một thứ gì đó có cùng vị đắng khi người tị nạn đau yếu Abbas qua đời và để lại món quà tựa đề cuốn sách, bao gồm một đoạn băng ghi lại một lịch sử tàn khốc mà gia đình còn sống không biết đến. Còn trong Gravel Heart (2017), Gurnah tiếp tục phát triển chủ đề của mình về cuộc đối đầu của một người trẻ với những điều xấu xa, mà không thể hiểu nổi xung quanh cậu ta. Câu chuyện kể lại ở góc nhìn thứ nhất đầy thú vị và khắc khổ này mô tả số phận của chàng trai trẻ Salim cho đến khi kết thúc tiết lộ đáng sợ về một bí mật gia đình được giữ kín về cậu ấy, nhưng vấn dế có tính quyết định đối với toàn bộ cuộc sống của Salim như người sống lưu vong. Câu đầu tiên của cuốn sách là một tuyên bố thẳng thừng: “Cha tôi không muốn tôi.” Tiêu đề có liên quan đến bộ phim truyền hình Measure for Measure của Shakespeare và lời nói của Công tước trong cảnh thứ ba của màn thứ tư: “Sống chết mặc bay! Hỡi trái tim sỏi đá “. Chính sự bất lực kép này đã trở thành số phận của Salim. Một câu truyện cảm động, thương tâm rất hay.

    Như đã đề cập, cuốn tiểu thuyết mới nhất của Gurnah, Những Mảnh Đời Lưu Lạc (Afterlives) nơi tuyệt mỹ từ năm 2020, kể về nơi kết thúc của Paradise. Và như trong tác phẩm đó, bối cảnh là đầu thế kỷ 20, thời điểm trước khi người Đức kết thúc quá trình đô hộ Đông Phi vào năm 1919. Hamza, một thanh niên gợi nhớ đến Yusuf in Paradise, bị buộc phải tham chiến với quân Đức và phải lệ thuộc vào một viên sĩ quan bóc lột tình dục anh ta. Anh ta bị thương trong một cuộc đụng độ nội bộ giữa các binh sĩ Đức và được đưa vào bệnh viện dã chiến để chăm sóc. Nhưng khi trở về nơi sinh của mình trên bờ biển, anh không tìm thấy gia đình và bạn bè. Quy luật của những cơn gió thất thường trong lịch sử và như trong Desertion, chúng ta theo dõi cốt truyện qua nhiều thế hệ, cho đến khi kế hoạch tái lập Đông Phi của Đức Quốc xã chưa được thực hiện. Gurnah đã một lần nữa sử dụng cách đổi tên khi câu chuyện chuyển hướng và cho con trai của Hamza, Ilias trở thành Elias dưới sự cai trị của Đức. Sự kiện gây sốc bất ngờ cho người đọc. Cốt truyện nhà văn Abdulrazak Gurnah cho thấy trên thực tế tạo chúng ta suy nghĩ tương trùng, trùng lặp liên tục trong cuốn sách, vì khi cá nhân không thể tự vệ nếu ý thức tư tưởng bị thống trị, ở đây có nghĩa là sự phân biệt chủng tộc, đòi hỏi sự phục tùng và hy sinh của cá nhân.

    Loạt tiểu thuyết của Abdulrazak Gurnah là những suy ngẫm về sức mạnh đáng lo ngại trước những thách thức mà biểu lộ đối với các giả định về bối cảnh chủng tộc trong viễn cảnh thuộc địa, người dân bị trị bị thực dân Anh hóa, bị đồng hóa, phải hội nhập, chịu đựng những va chạm của văn hóa để giành được một lá cờ đất nước và một bài quốc ca. Khi được được độc lập, thế lực cầm quyền mới trỗi tên như lãnh tụ Abeid Karume, tổng thống Tanzania cai trị đất nước khắc nghiệt, hung bạo, khiến tác giả lưu vong sống ly hương. Theo trang mạng văn học Anh, British Council Literature, các nhân vật của truyện của Gurnah bị kẹt giữa các nền văn hóa và lục địa, và luôn sống trong trạng thái mất an toàn mà họ không bao giờ ra khỏi được nỗi thống khổ bị trị. Họ phải liên tục đổi mới bản thân để phù hợp với môi trường mới của họ. Họ không ngừng tìm cách hội nhập giữa cuộc sống mới và cũ trong quá khứ. Bản thân Gurnah, giống như các nhân vật của mình, đã phải rời xa quê hương Zanzibar và thoát sang nước Anh khi mới 17 tuổi, và danh tính là một vấn đề luôn thay đổi. Các nhân vật chính của ông, ông cho truyện như tìm cách để xáo trộn, khai giả mạo danh tính cố định khi nhân vật sang nơi định cư mới.

    Nhà phê bình văn học Paul Gilroy đã nhận xét: “Một khi bản sắc quốc gia và dân tộc được biểu hiện là thuần khiết, việc tiếp xúc với sự khác biệt sẽ đe dọa những bản sắc này, làm mờ loãng và ảnh hưởng đến sự thuần khiết quý báu của chúng, khiến chúng có khả năng bị ô nhiễm. Một điểm giao nhau như hỗn hợp và chuyển động cần được đề phòng.” Các nhân vật chính trong tiểu thuyết của Gurnah tỏ rõ nét ô nhiễm của sự nổi tiếng. Tính cách của những người khác xuyên qua sự khác biệt của họ. Thật vậy, Abdulrazak Gurnah có ý thức phá vỡ quy ước, thay đổi quan điểm thuộc địa để làm nổi bật quan điểm của các cộng đồng bản địa. Ví dụ qua cuốn tiểu thuyết Desertion (2005) của ông về việc ngoại tình đã trở thành một sự mâu thuẫn thẳng thừng với cái mà ông gọi là “mối tình lãng mạn”. Một ý tưởng độc đáo của Abdulrazak Gurnah cần nhắc lại.

    Đọc những câu chuyện về những người thuộc các chủng tộc, nền văn hóa và tôn giáo khác nhau đến với nhau do tình cảm mà họ dành cho nhau. Những mối tình bị ngăn cấm này chuẩn bị một bối cảnh trong đó các vấn đề quan trọng về lịch sử, văn hóa và chính trị trong thời gian được tác giả bày biện, giải quyết qua cốt truyện. Khi đọc Desertion, chúng tôi thích thú lối văn xuôi trôi chảy và bản chất tinh tế của tác giả, và mong đợi những tác động sâu rộng của tình yêu và sự dè chừng trong cuộc sống đối với những con người đơn thuần bị trị, đặt trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân.

    Nhà phê bình văn hóa Paul Gilroy đã nêu ra ý tưởng: “Khi bản sắc quốc gia và dân tộc được đại diện và thể hiện là thuần khiết, thì việc tiếp xúc với sự khác biệt sẽ đe dọa những bản sắc này, pha loãng và làm ảnh hưởng đến sự tinh khiết quý báu của chúng, khiến chúng có khả năng bị ô nhiễm. Phải đề phòng sự giao thoa như hỗn hợp và chuyển đổi“. Các nhân vật chính trong tiểu thuyết của Gurnah thể hiện sự ô nhiễm danh tính của người khác qua những khác biệt của họ.

    Nhìn chung, là một người nhập cư đến một đất nước xa lạ, Gurnah thố lộ rằng: “Đối với một số độc giả tiềm năng của tôi, có một cách nhìn nhận về tôi mà tôi phải nghĩ đến. Tôi nhận thức được rằng tôi sẽ đại diện cho bản thân mình trước những độc giả có lẽ coi bản thân là chuẩn mực, không có văn hóa hay sắc tộc, không có sự khác biệt theo tôi“. Abdulrazak Gurnah có ý thức phá vỡ quy ước, thay đổi quan điểm thuộc địa để làm nổi bật quan điểm của các cộng đồng bản địa.

    Photo source: https://www.theguardian.com/books

    Với chúng ta lịch sử nước Việt Nam bị Pháp đô hộ hà khắc, bóc lột dã man, xong lại chịu nạn chủ nghĩa Cộng Sản chuyên chế tàn bạo. Chúng ta phải ly hương sống lưu vong. Đọc Abdulrazak Gurnah những cảm thông, những san sẻ và những ý nghĩ tương đồng cùng ông rất dễ. Nhà văn Christine Rose Elle, trong tác phẩm “The Happy Empath“, bà viết:

    “Chia sẻ sự đồng cảm là một trong những khía cạnh tuyệt vời nhất của trải nghiệm con người”. (Sharing empathy is one of the most wonderful aspects of the human experience. Christine Rose Elle, The Happy Empath).

    Thật như thế, giữa chúng ta và Abdulrazak Gurnah có nhiều mẫu số chung bởi sự đồng cảm.

    Việt Hải & Song Lan (*), tháng 11, năm 2021.

    (*): Khánh Lan và Thuỵ Lan.

  • Dương Hồng Anh,  Văn Thơ

    ĐẦU XUÂN ĐỌC THƠ CỦA NỮ SĨ DƯƠNG HỒNG ANH TRÊN NHẬT BÁO VIỄN ĐÔNG, BÀI VIẾT CỦA KÝ GIẢ THANH PHONG

    Mời vào xem:
    http://m.viendongdaily.com/dau-xuan-doc-tho-mau-thoi-gian-cua-nu-si-duong-hong-anh-XfIbSXBl.html
    “Tuổi đời nay đã chín mươi
    Vẫn vui với cảnh với người chung quanh
    Vẫn làm thơ ngắm trời xanh
    Vẫn đi dưới nắng một mình ngâm nga”
    
    Tám câu thơ lục bát trên là một đoạn trong bài thơ “Hai quê hương một trời Tâm Sự” của nữ sĩ Dương Hồng Anh, nói lên tâm trạng lạc quan yêu đời và dòng thơ vẫn luôn chảy trong người của bà, một nữ sĩ nay đã 91 tuổi đời nhưng sức sống dẻo dai và một tinh thần minh mẫn ít người có được. Nữ sĩ Dương Hồng Anh không xa lạ gì với những người yêu thơ vì bà đã làm thơ và xuất bản tập thơ “Hương Mùa Chinh Chiến” chung với các nhà thơ Minh Tân, Tuyết Lan, Minh Đức từ năm 1952 tại Hà Nội.
    
    Sau các tập thơ Hương Mùa Chinh Chiến, Từ Phương Trời Xa, Chiều Bến Đợi, Tiếng Thầm, Đôi Bờ Thương Nhớ, Mầu Trăng Thuở Ấy, Sợi Nhớ Sợi Thương, Tình Thu, Vương Vấn Hồn Quê, Nguồn Cội và tập thơ thứ 11 là Mầu Thời Gian. Mầu Thời Gian gói trọn 102 bài thơ mới sáng tác.
    
    Ngoài ra, có 5 bài thơ của nữ sĩ được các nhạc sĩ Võ Tá Hân, Chương Lương, Lâm Dung, Trương Huy Tùng, và Trần Chương Lương phổ nhạc kèm theo những bài giới thiệu về tác giả của các văn thi hữu như Bùi Bích Hà, Huy Trâm, Trần Việt Hải, Hoàng Minh Chân, Nhật Thịnh, Trần Ngọc Quỳnh, Chinh Nguyên, Trịnh Mân, Tô Dũng, Trần Minh Trí...
    
    Nữ sĩ Dương Hồng Anh, theo thế thứ họ Dương, bà tên là Dương Nguyệt Anh, ái nữ của cụ Dương Tự Tám. Bà sinh năm 1931 tại Hà Nội là cháu nội trực hệ của cụ Dương Khuê, một danh sĩ nổi tiếng của đất Hà Thành từ thế kỷ 19. Theo nhà văn Việt Hải cho biết, Cụ Dương Khuê xuất thân trong một gia đình Nho gia vọng tộc, làm quan thời nhà Nguyễn và rất mực thanh liêm. Năm 1897 không chấp nhận chính sách cai trị của Chính Phủ Bảo Hộ, cụ xin từ quan lúc mới 58 tuổi, được ban tặng hàm Thượng Thư Bộ Binh. Cụ mất năm 1902. Nghe tin bạn thân ra đi, Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ “Khóc Bạn”. Bài thơ đã được ghi vào Văn Học Sử. Khi đọc hai câu đầu của bài thơ:
    
    “Bác Dương thôi đã thôi rồi
    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta....” 
    
    Ai cũng biết bác Dương là cụ Dương Khuê mà Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã khóc thương... Dòng họ Dương của cụ Dương Khuê đều là những bậc nho nhã, có lòng yêu nước thiết tha và đặc biệt rất giỏi văn chương, thi phú. Trong số các cháu nội của cụ Dương Khuê có những người nổi tiếng như nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Giáo sư Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, nhà thơ Dương Tuyết Lan, Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, nhạc sĩ Dương Thụ, thi, nhạc sĩ Dương Hồng Kỳ, bác sĩ tim mạch Dương Hồng Tạo và nữ sĩ Dương Hồng Anh. Với một danh gia vọng tộc đáng quý như vậy nên thơ của thi sĩ Dương Hồng Anh luôn phảng phất nỗi hoài niệm về cố hương, niềm thương nhớ, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ cố nhân:
    
    “Nắng tàn hiu hắt tóc pha sương
    Đất khách xa mờ bóng cố hương
    Mẹ ơi! Mẹ hiện thân hiền đức
    Mẹ ở nơi nào, Mẹ ở đâu? (đoạn cuối bài Ngày Giỗ Mẹ)
    
    Sau khi lên chùa lễ Phật hôm 30 Tết, nữ sĩ Dương Hồng Anh nghĩ đến cố nhân qua 4 câu thơ:
    
    “Xuân mới về đây, xuân hỡi xuân
    Hồn thơ dào dạt đã bao lần
    Bao lần khai bút mừng xuân mới
    Chén rượu đào nay vắng Cố Nhân” (bốn câu cuối trong bài Rượu Đào Vắng Cố Nhân). 
    
    Không chỉ nhớ thương mẹ, cha; thương nhớ cố nhân, ước mơ của nữ sĩ được trở lại quê hương đang phải xa ngàn dặm:
    
    Tôi vẫn làm thơ dưới nắng mai
    Ước mơ đi hết quãng đường dài
    Mơ về cố lý xa ngàn dặm
    Bát ngát khung trời nắng lụa bay..”
    (Ước Mơ) hay mòn mỏi trông ngóng ngày trở về cố hương:
    
    “Tôi bước chân đi giữa sóng đời
    Mênh mang tâm sự trải buồn vui
    Quê người đất khách thơ hoài niệm
    Mong ngóng ngày về, năm tháng trôi....”(Nhớ Trăng Xưa)
    
    
    
    
    Nữ sĩ Dương Hồng Anh (mặc áo dài màu hồng) đang ủng hộ buổi ra mắt sách của nhà văn Khánh Lan hôm 19 tháng 9, 2021. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

    Không chỉ trải lòng mình trong những vần thơ yêu quê hương, thương cha, nhớ mẹ, mong ngóng ngày trở về thăm lại cố quốc, mà nữ sĩ Hồng Anh còn bày tỏ tâm tình Tạ Ơn với những người bạn hiền, với thân hữu, bạn đọc và những bạn thơ của mình qua bài thơ “Chiều Thơ Nhạc” với 4 câu thất ngôn cuối :

    “Cám ơn bè bạn đã cho tôi
    Những đóa hồng nhung thật tuyệt vời
    Những nụ cười như viên ngọc quý
    Cài hoa lên chữ “Tạ Ơn Đời”.

    Với 102 bài thơ trong Mầu Thời Gian, chúng tôi rất tâm đắc với lời nhận xét của nhà văn Chinh Nguyên vể nữ sĩ Dương Hồng Anh: “Phải một thi sĩ già dặn, tâm hồn bao la khoáng đạt mới có thể cảm xúc như vậy. Những cảm xúc ấy rung động một tấm lòng đầy ắp yêu thương, đượm thế thái nhân tình, giàu hoài niệm quê hương, chốn xưa cảnh cũ…”

    Tác giả đã khéo chọn bài thơ “Những Gì Còn Lại” để cô động tâm tư, ước vọng của mình và để đánh dấu chấm hết cho tập thơ Mầu Thời Gian:

    Những gì còn lại trong tôi
    Bình minh vẫy gọi, mây trời lang thang
    Đêm khuya một ngọn đèn vàng
    Bút thơ làm bạn tri âm mấy mùa
    Những gì còn lại trong mơ
    Tôi ngồi đọc sách làm thơ cho đời
    Nhạc chiều theo gió chơi vơi
    Chiều lên khói biếc lá rơi chập chờn
    Lá rơi hong nắng hoàng hôn
    Con đò năm tháng thả hồn lãng du
    Bể dâu trắng biển sương mù
    Năm canh dệt mộng sông hồ…gửi ai…?

    Cám ơn nữ sĩ Dương Hồng Anh đã gửi tặng chúng tôi tập thơ Mầu Thời Gian. Cầu mong sang năm mới Nhâm Dần 2022, nữ sĩ vẫn được Ơn Trên cho thể xác khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn để tiếp tục làm thơ cho đời và dệt mộng sông hồ gửi cố nhân.

    Ký Giả Thanh Phong, nhật báo Viễn Đông

    
    	
  • Kiều Mỹ Duyên,  Văn Thơ

    SINH HOẠT CUỐI TUẦN, BÁO VIỄN ĐÔNG

    http://m.viendongdaily.com/sinh-hoat-cuoi-tuan-MqlM8KEU.html
    Bài KIỀU MỸ DUYÊN, HỌP BÁO. CHỦ ĐỀ: DÂN TỘC TỰ QUYẾT, MỤC SƯ NGUYỄN CÔNG CHÍNH.
    
    Mục sư Nguyễn Công Chính đang thuyết trình

    Sinh hoạt cuối tuần trong cộng đồng Việt Nam phong phú lắm và đầy ý nghĩa. Người tham dự dù lớn tuổi, trẻ tuổi, phụ nữ hay nam giới, người nào đến chỗ đông người đều ăn mặc rất đẹp. Niềm vui của họ là hội ngộ, là gặp gỡ người thân và đồng hương.

    Thứ sáu ngày 17/9/2021, chúng tôi tham dự cuộc họp ở thư viện Việt Nam đường Westminster, thành phố Garden Grove, do mục sư Nguyễn Công Chính tổ chức. Đề tài rất hấp dẫn: Dân Tộc Tự Quyết. Nghe đề tài này, quý độc giả cũng biết là những người yêu nước cũng biết tâm huyết của người tổ chức là quyết tâm tranh đấu để cho nước Việt Nam người dân làm chủ, người dân quyết định vận mạng của mình, của đất nước mình mà không lệ thuộc vào ngoại bang.

    Mục sư Nguyễn Công Chính suốt đời tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do tôn giáo ở Việt Nam. Ông đã từng bị bắt, bị hành hạ, bị ở tù. Ông tranh đấu cho sự bất công với đồng bào Thượng ở cao nguyên Trung Phần. Bà mục sư cũng thế, khi phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến Pleiku phỏng vấn bà mục sư, sau đó Cộng Sản vào nhà hỏi cung, chất vấn bà. Bà im lặng không trả lời thì bị đánh, bị đá vào người, gãy cả xương. Con trai ôm mẹ cũng bị đánh đập một cách tàn nhẫn. Sau đó, nhờ sự can thiệp một cách mãnh liệt của đồng bào ở hải ngoại, nhất là giáo hội Tin Lành, ông được đưa từ nhà tù ra phi trường, gia đình ông đã được đưa ra phi trường trước. Từ ngày được định cư ở Mỹ, gia đình ông tiếp tục tranh đấu cho Nhân Quyền ở Việt Nam. Theo mục sư cho biết thì ông đã vận động được đồng hương 17 quốc gia ở Âu Châu, Mỹ, Úc, và Á Châu, mục đích tranh đấu cho Dân Tộc Tự Quyết. 

    Buổi họp báo Dân Tộc Tự Quyết ở thư viện Việt Nam có nhiều quan khách nổi tiếng trong cộng đồng tham dự như ông Nguyễn Tấn Lạc, bà Như Hảo, giám đốc đài Mẹ Việt Nam, ký giả Thanh Phong của nhật báo Viễn Đông, ông Võ Đức Văn người điều khiển chương trình họp báo. Mục sư Chính trình bày mục đích của buổi họp báo hôm nay. Ông trình bày ngắn gọn, ông nghĩ rằng sẽ có biến cố xảy ra trong nước trong những ngày sắp tới. Ông kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước một lòng tranh đấu cho quê hương có được quyền tự quyết cho đất nước của mình, không để ngoại bang xâm lấn.

    Lòng yêu nước của mục sư Nguyễn Công Chính được nhiều người tán thành và ủng hộ, trong đó có ông Võ Đức Văn, nói lên nỗi lòng của mình. Ông Võ Đức Văn đã từng tranh đấu ở Thái Lan. Ông Nguyễn Tấn Lạc cũng là một nhà hoạt động chính trị ở hải ngoại nhiều năm và hoạt động không ngưng nghỉ.

    Mục sư Nguyễn Công Chính lắng nghe tiếng nói của đồng hương để tổ chức đại hội lần tới vào tháng 3/2022. Đề tài Dân Tộc Tự Quyết sẽ được tổ chức khắp nơi trên thế giới.

    Ông Phát Lưu, một nhân sĩ trong cộng đồng Việt Nam ở miền Nam California kêu gọi sự đoàn kết của tất cả mọi người ngồi lại với nhau để cùng tranh đấu cho quê hương có quyền dân tộc tự quyết. Ông rất chú trọng về văn hóa ở hải ngoại. Ông khuyến khích người trẻ phải học tiếng Việt, phải nói tiếng Việt thông thạo. Ông khen một người trẻ đứng bên cạnh ông là Nguyễn Minh Triết nói tiếng Việt thông thạo. Con của ông không nói tiếng Việt thông thạo như người trẻ này. Con của ông là luật sư, lẽ dĩ nhiên giỏi tiếng Anh hơn tiếng Việt. Một ngày nào đó các cháu thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư sẽ giỏi tiếng Việt, sinh ra và lớn lên ở đây nhưng các cháu tự hào mình là người Việt Nam.

    Trong cuộc họp này trong giới truyền thông tham dự cũng đông, có sự hiện diện của nhạc sĩ Nam Hưng, Đoàn Thế Cường, Phan Bùi Đạt, Kỳ Quỳnh, Trần Trung Dũng, Vũ Hoàng Lân, v.v.  

    SINH NHẬT CỦA NHẠC SĨ NAM HƯNG

    Thứ Bảy, ngày 18/9/2021

    Kiều Mỹ Duyên chúc mừng sinh nhật nhạc sĩ Nam Hưng

    Nhạc sĩ Nam Hưng tốt nghiệp quốc gia âm nhạc ở Việt Nam, định cư ở Hoa Kỳ, hiện nay đang dạy nhạc. Những nhạc sĩ phổ thơ của Hòa Thượng Thích Quảng Thanh là nhạc sĩ Hoàng Văn Quế, nhạc sĩ Võ Tá Hân, nhạc sĩ Thùy Linh, và nhạc sĩ Nam Hưng. Ngày xưa thơ, nhạc về dạo Phật không nhiều, sang định cư ở Hoa Kỳ, nhiều nhạc sĩ phổ thơ thành nhạc ngày càng nhiều hơn. Đó là niềm vui, vì nhạc đi vào lòng người nghe, dễ truyền cảm hơn.

    Nhạc sĩ Nam Hưng giúp nhiều chùa ở miền Nam trong những ngày lễ Vu Lan, Phật Đản, đêm giao thừa, v.v..

    Đây là sinh nhật thứ 5 của nhạc sĩ Nam Hưng được tổ chức ở Fountain Valley, tại nhà hàng chay. Trong không khí ấm cúng, không quá 15 người gồm gia đình và bằng hữu. Ca sĩ Cao Thu Hương hát bài Tình Mẹ tuyệt vời. Nhìn vào ánh mắt, nghe cô diễn tả về tình mẹ con, mọi người xúc động lắng nghe. Cô kể lúc cô tập bài hát này thì mẹ cô mất. Cô khóc và khóc hoài, không tập luyện được, ngày nào cũng khóc. Cao Thu Hương đi trình diễn khắp nơi lấy nước mắt của khán thính giả qua bài hát Tình Mẹ. Cô diễn xuất rất linh động, tiếng hát từ trái tim của người con thương mẹ. Ai cũng có mẹ, ai cũng thương mẹ của mình cho nên bài Tình Mẹ đến với gia đình Nam Hưng, đến với bằng hữu đúng lúc, trong không khí thân mật, mọi người lắng nghe không một tiếng động.

    Kỹ sư Miên Trường với đôi mắt ươn ướt, xúc động nói:

    – Trước ngày tôi đi vượt biên, mẹ tôi cho tôi 1 chiếc nhẫn và chúc thượng lộ bình an. Đến bây giờ tôi vẫn còn ân hận sao tôi lại đi, tôi bỏ lại mẹ tôi, tôi rất thương mẹ tôi.

    Bằng hữu hiện diện rất thông cảm với thân mẫu của Miên Trường. Người mẹ nào cũng muốn con của mình có tương lai. Nếu bây giờ người trẻ Miên Trường không thoát khỏi chế độ Cộng Sản, vẫn còn ở Việt Nam thì làm sao có kỹ sư Miên Trường thành tài trong xã hội như bây giờ? Con thương mẹ thì ân hận nhưng mẹ thương con thì hãnh diện về con của mình thành tài nơi xứ người. Con luôn nghĩ về cha mẹ, về quê hương, tổ quốc của mình và lúc nào cũng nhớ mình là người Việt Nam.

    Khi ca sĩ Cao Thu Hương hát, kỹ sư Miên Trường nói về mẹ của mình, mọi người im lặng vì bài hát và những lời phát biểu chân thành đi vào trái tim của người nghe.

    Lời phát biểu của nhạc sĩ Nam Hưng giản dị, là lời cảm ơn nồng nhiệt đến gia đình và bằng hữu. Khi nào Nam Hưng có những sáng tác mới về đạo sẽ mời bằng hữu nghe. Con trai của Nam Hưng, Arnie rất hãnh diện về bố của mình. Mỗi lần Nam Hưng để hai bàn tay vào phiếm đàn thì cháu lắng nghe không nói một lời, chăm chú nhìn bố của cháu. Khi tôi hỏi cảm nhận của cháu về người bố nhạc sĩ tài năng, Arnie cười cười và nói:

    – Con thương bố con lắm, cô à!

    Nhạc sĩ Nam Hưng sẽ có những sáng tác mới về đạo không phân biệt tôn giáo và sẽ mời đồng hương thưởng thức trong chương trình nhạc của nhạc sĩ Nam Hưng. Nhạc sĩ Nam Hưng phổ nhạc nhiều nhất là thơ của cố Hòa Thượng Thích Quảng Thanh tức là thi sĩ Thanh Trí Cao. Bài Phật Giáo sứ mạng Hòa Bình được rất nhiều người yêu chuộng. Nhạc sĩ Nam Hưng cũng đã phổ nhạc từ thơ của ni sư Thanh Tịnh Liên Thích Nữ Chân Thiền, thiền viện Sùng Nghiêm, phổ nhạc 4 bài, 1 bài của thầy Viên Lý, 1 bài mới sáng tác của thầy Liễu Nguyên, chùa Quan Âm ở Anaheim, và DVD Hoa Ưu Đài Nở của ni sư Giới Hương, chùa Hương Sen ở Perris.

    Trong số quan khách có 1 người Mỹ, ông thích ăn thức ăn Việt Nam, thích nghe nhạc Việt Nam. Khi ca sĩ Quan Kiều cất tiếng hát, ông khách người Mỹ này lắng nghe, chia sẻ và nguyện cầu. Đến sinh nhật của nhạc sĩ Nam Hưng, nhà hàng sắp đóng cửa, mọi người ra về còn lưu luyến, đứng ở chỗ đậu xe còn nói chuyện tiếp, hình như tình cảm của người và người không bao giờ hết.

    NHÀ VĂN KHÁNH LAN RA MẮT SÁCH

    Kiều Mỹ Duyên đến chúc mừng nhà văn Khánh Lan trong buổi ra mắt sách

    Nhà văn Khánh Lan trẻ và đẹp là con dâu của Nhà thơ Úy Việt Cường Lưu Tấn Lâm, ra mắt 4 quyển sách ở thành phố Westminster, đó là: Vài Nét về 10 Tác Giả Âu Mỹ Cận Đại, Dĩ Vãng Khôn Nguôi, Tuyển Tập Truyện Ngắn: Tình Yêu, Cuộc Đời và Định Mệnh và Thám Tử Lê Minh.

    Nhà văn trẻ này sáng tác một cách hăng say. Ông bà mình thường nói hậu sinh khả úy, nghĩa là người trẻ sẽ vượt qua người đi trước, con hơn cha nhà có phước.

    Một buổi ra mắt sách vô cùng long trọng với sự hiện diện của nhiều người nổi tiếng trong cộng đồng như thi sĩ Dương Hồng Anh, nhà văn Nguyễn Duy Quang, nhà văn Phạm Gia Đài, ký giả Thanh Phong, giáo sư Dương Ngọc Sum, giáo sư Nguyên Di, Quỳnh Giao.

    Những bóng hồng tha thướt trong những chiếc áo dài rực rỡ đón khách từ ngoài cửa vào trong phòng họp, đa số là phụ nữ, có sự hiện diện của 3 thế hệ. 

    Nhà văn Khánh Lan là ngôi sao sáng hôm nay trong chiếc áo dài màu hồng lóng lánh kim tuyến, tất bật ký tên vào sách để tặng khách. Những bậc trưởng thượng như giáo sư Dương Ngọc Sum, nhà văn Trần Phong Vũ, thi sĩ Dương Hồng Anh, ký giả Thanh Phong, sách tặng đã ký sẵn. Người nào cũng thích chụp hình chung với tác giả.

    Ca Sĩ Mạnh Bổng, phu quân của tác giả rất đẹp trai nhưng ít người biết vì không ở bên cạnh vợ. Nhiều người có vợ đẹp, đến giữa đám đông thường đứng hoặc ngồi bên cạnh vợ, nhưng Mạnh Bổng lại khác, chạy tới chạy lui lo hậu trường cho vợ.

    Ban nhạc và ca sĩ đến rất sớm. Trên sân khấu hết người này đến người khác trình diễn. Âm nhạc rất quyến rũ con người, nơi nào có âm nhạc, có thơ văn thì có người đến đông. Các bài hát tuyệt vời qua các giọng hát truyền cảm của Minh Ngân, Lâm Dung, Ngọc Quỳnh, Ái Liên, Thụy Lan, Tammy Minh Tâm, Trâm Anh, Mạnh Bổng, Bùi Quỳnh Giao, Đạt Tiêu, Đào Minh Tâm và Nhóm Vũ Tiếng Thời Gian. Ra mắt sách mà không nói về sách, mà hát thì nhiều hơn, có lẽ để đồng hương tự đọc, tự thưởng thức cái hay của sách?

    Nữ sĩ Dương Hồng Anh đã gửi tặng hai bài thơ chúc mừng ngày ra sách của Khánh Lan. Nhạc sĩ Hạ Đỏ Bích Phượng hòa âm bài “Ngày vui hộn ngộ.” Ca nhạc sĩ Lâm Dung hòa âm và hát trình diễn nhạc phẩm “Xa quê hương của Khánh Lan. 

    Khán giả  là thân hữu của Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian

    Trong số quan khách tham dự ngày ra mắt sách có thân phụ của tác giả, cựu Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông rất hãnh diện về con gái của mình, nhưng ông rất khiêm tốn chỉ cười khi có người khen con gái của ông.

    Tác giả không nói nhiều, chỉ nói mình viết việc thật, không hư cấu, viết với trái tim cảm xúc của mình. Những diễn giả nói về sách của Khánh Lan: Giáo Sư Trần Huy Bích, Giáo Sư Quyên Di và nhà văn Trần Phong Vũ. Những người đọc sách để phát biểu là những người nhiều công phu nhất. Giáo Sư Trần Huy Bích, Giáo Sư Dương Ngọc Sum, nhà văn Việt Hải, nhà văn Nguyễn Quang, nhà văn Ngọc Cường, nhà văn Vương Trùng Dương, và nhà văn Dương Viết Điền đã viết lời tựa cho sách.

    Nhà báo Thanh Phong, Phạm Khanh- đài truyền hình Little Saigon, Minh Trương- Saigon TV đến phỏng và viết phóng sự, các nhiếp ảnh gia Nguyễn Thiều Minh, Lê Hùng và Phú Lê Văn chụp hình lưu niệm.

    Ông bà Susan và John Tạ bảo trợ buổi ra mắt sách và các mạnh thường quân anh Ngô Thiện Đức, cô Vi Anh (chủ nhiệm nguyệt san Việt Media), Giáo Sư Quyên Di, nữ sĩ Dương Hồng Anh, nhà văn Kiều Mỹ Duyên, nhà thơ Yên Sơn, nhà văn Dương Viết Điền, Hoàng Giang, Thu Dung, Vee Hương và Thành Nguyễn.

    Mọi người xúc động khi thấy nhà văn Việt Hải lên sân khấu với cây gậy trong tay, hay giáo sư Dương Ngọc Sum, bà Nga Nguyễn (phu nhân của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyên) hoặc nữ sĩ Dương Hồng Anh bước từng bước thật chậm, nhưng nụ cười vẫn tươi.

    Đến những buổi ra mắt sách như thế này mới thấy tình người rất đậm đà. Thế hệ trước nâng đỡ thế hệ sau trong vấn đề viết sách. Ngày xưa Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đã nâng đỡ nhà văn Nguyễn Thị Vinh thì bây giờ Việt Hải khuyến khích thế hệ thứ hai viết sách, tiếp nối những nhà văn đi trước. Công lao của những người nâng đỡ thế hệ trẻ nhiều lắm và nhiều lắm.

    Cuối tuần, chúng tôi chạy hết chỗ này đến chỗ khác, cho nên không ở một chỗ tham dự từ đầu đến cuối. Rất tiếc, rất tiếc, nếu có cơ hội ở tới giờ chót, sau khi quan khách về hết, ở lại sẽ nghe tác giả tâm tình nhiều hơn, hiểu nhau nhiều hơn.

    Nói tóm lại, buổi ra mắt sách của Khánh Lan rất thành công. Truyền thông đến rất đông, tin tức được phổ biến khắp nơi trên thế giới, bà con ở xa cũng có thể đọc được trên báo, trên mạng, trên YouTube.

    Hy vọng những người trẻ tiếp tục viết, trong đó có Khánh Lan, sẽ xuất bản đều đều để cho độc giả khắp nơi thưởng thức những tác phẩm mới, viết về người thật, việc thật bằng cảm xúc thật.

    Kiều Mỹ Duyên

  • Dương Viết Điền,  Văn Thơ

    KÝ SỰ CỦA NV DƯƠNG VIẾT ĐIỀN

    Ký Sự Du Lịch Pháp Quốc

    “…Mà thật thế, đứng ở tầng thứ hai của tháp Eiffel nhìn xuống, chúng tôi thấy toàn cảnh của thành phố Paris đẹp tuyệt trần! Xa xa, Điện Versailles, Bảo tàng viện Louvre, Điện Champs Elysees như nổi bật một góc trời. Đẹp nhất và nên thơ nhất là dòng sông Seine chảy qua thành phố Paris đang uốn khúc giữa nắng chiều. Bởi mùa thu đang về trên nước Pháp, vì trời thu đang ngự trị giữa thành phố Paris nên lá vàng từ trên một số cây dọc hai bên bờ sông Seine đang bay nhè nhẹ rồi từ từ rơi xuống dòng sông. Nhìn dòng sông Seine đang uốn khúc giữa nắng chiều thu, nhìn lá vàng bay là đà rồi rơi trên dòng nước biếc, lòng tôi bỗng xúc động đến ngậm ngùi, rồi bâng khuâng nhớ đến những thi nhân của nước Pháp cứ mỗi độ thu về đã từng dệt nên những vần thơ thật lãng mạn, đa tình, thật nghẹn ngào, nuối tiếc! Một Guillaume Apollinaire với L’Adieu thật nức nở sầu thương, một Alphonse de Lamartine với Le Lac thật hoang vắng đơn côi, một Paul Verlaine với Chansons D’automne thật ê chề đau đớn, đầy ắp những kỷ niệm nghẹn ngào! Bất giác tôi ngâm bài thơ Chansons D’automne của Paul Verlaine khi thấy nắng chiều đang trải dài trên dòng sông Seine tuyệt đẹp:

    Les sanglots longs

    Des violons

    De l’automne

    Blessent mon coeur

    D’une langueur monotone

    Tout suffocant

    Et blême, quand

    Sonne l’heures

    Je me souviens

    Des jours anciens

    Et je pleure

    Et je m’en vais

    Au vent mauvais

    Qui m’emporte

     Deçà delà

    Pareil à la

    Feuille morte

    “Tiếng đàn ai đó lê thê 

    Vĩ  cầm réo rắt ê chề lòng đau

    Bơ vơ chuông đổ đồng hồ

    Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa

    Bao kỷ niệm, theo gió đưa

    Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa

    Bao năm lữ thứ xa nhà

    Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi…” (Lãng Du dịch)

    Bỗng tiếng bà xã tôi thúc giục bên cạnh làm tôi trở về với thực tại:

    – Anh, chuẩn bị mà xuống kẻo ông trưởng đoàn du lịch và anh em du khách chờ.

    Đáng lẽ chúng tôi định mua vé để lên tầng cao nhất của tháp Eiffel nhìn tiếp, nhưng vì thời gian của ông trưởng đoàn cho quá eo hẹp nên vợ chồng tôi đành phải từ giả tháp Eiffel. Nếu là thanh niên, tôi sẽ cầm tay bà xã tôi đi bộ từ từ theo những bậc thang từ tầng thứ hai của tháp Eiffel mà đi xuống, để vừa đi vừa nhìn chầm chậm quang cảnh thành phố Paris và dòng sông Seine cho thỏa thích một lần cuối; nhưng vì tuổi tác của chúng tôi cũng đã xế chiều, vã lại, tôi bị bệnh đau lưng đã mấy năm rồi nên đành phải tốc chiến tốc thắng đi theo thang máy để xuống cho kịp với đoàn du lịch đang đợi chờ dưới chân tháp Eiffel. Lúc đứng trên thang máy đang di chuyển xuống chân tháp, tất cả du khách đều reo hò lên như ngày hội vì chúng tôi cảm thấy quá thích thú khi thấy thành phố Paris và dòng sông Seine mỗi lúc một lớn dần, lớn dần, để rồi mấy phút sau xuất hiện trước mắt mọi người vì thang máy đã chạm mặt đất. Như giấc mơ của Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên, chúng tôi cũng vừa lạc vào một thế giới huyền ảo trên bầu trời của thành phố Paris thủ đô nước Pháp, khi đứng trên tháp Eiffel nhìn xuống dòng sông Seine đang uốn khúc giữa dòng đời.

    Để níu kéo thêm thời gian đong đầy kỷ niệm bên dòng sông Seine, tôi cầm tay bà xã tôi vừa đi vừa hát bản nhạc “Hoa thạch thảo” do Phạm Duy phổ nhạc theo ý bài thơ L’Adieu của Apollinaire ngày nào:

    Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo.

    Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi

    Mùa thu đã chết em nhớ cho, mùa thu đã chết em nhớ cho  

    ………………………………………………………….

    Bất giác, tôi ngâm mấy vần thơ trong bài L’Adieu của Apollinaire để giả từ mùa thu trên dòng sông Seine giữa thủ đô Paris:

    J’ai cueilli ce brin de bruyère

    L’automne est morte souviens-t’en

    Nous ne nous verrons plus sur terre

    Odeur du temps brin de bruyère

    Et souviens-toi que je t’attends.

    Tôi vừa đi vừa ngâm thơ nên khi đến gần xe buýt lúc nào cũng không biết. May nhờ bà xã tôi đi bên cạnh bảo lên xe buýt gấp tôi mới tỉnh táo và bước lên xe ngay.”

    Trích đoạn từ tác phẩm “Ký Sự Du Lịch Âu Châu Và Hạ Uy Di” của Dương viết Điền xuất bản năm 2009).

    Dương viết Điền
                 Thơ

    Vĩnh Biệt!

    Thôi thế thì thôi mình xa nhau

    Thương chi thêm khổ chuốc thêm sầu

    Nhạc tình réo rắt buồn vời vợi

    Vạn kiếp nghìn năm lỡ nhịp cầu!

    Thôi thế thì thôi mình xa nhau

    Khổ lụy từ đây đẫm lệ sầu

    Quằn quại bên dòng đời hiu quạnh

    Tiếc thương giờ đã lỡ chuyến tàu.

    Thôi thế thì thôi mình xa nhau

    Nắng sớm chiều mưa những nghẹn ngào

    Có nhớ nhau thì hôn trong gió

    Cho tình ngang trái bớt sầu đau.

    Thôi thế thì thôi mình xa nhau

    Vĩnh biệt từ đây nắng qua cầu

    Đớn đau đau đớn tình hai đứa

    Nức nở nghìn năm giọt lệ sầu.

    Tháng 07,1997.

    Hạ Ái Khanh

    (Trích từ thi phẩm Nghẹn Ngào xuất bản năm 2000)

    Farewell!

    Well! My sweetheart, we two parted!

    Love was miserable and broken-hearted

    Love music was shrilled sadly

    For one thousand years, it has been half-way already!

    Well! My sweetheart, we two parted!

    From now on, we have been so afflicted

    We have writhed by the side of deserted life

    Love and regret have got for nothing, right?

    Well! My sweetheart, we two parted!

    Morning sun and evening rain have made us heart-rending

    We would kiss in the wind if missing

    To make the sorrow of our illegimate love abated!

    Well! My sweetheart, we two parted!

    Farewll! From now on, the sun has passed by the bridge

    Our love has been suffering

    For one thousand years, we have shed tears in sorrowing!

    July 1997,

     By Duong viet Dien

    (Trích từ thi phẩm Speechless xuất bản năm 2000)

  • Thụy Lan,  Văn Thơ

    Tuỳ bút: Quá khứ và kỷ niêṃ của Thụy Lan

       TUỔ̉I THƠ TRONG BOM ĐẠN

    Tôi được sinh ra từ một gia đinh khá nghiêm khắc. Ông Ngoại tôi làm việc trong chính quyền của Tây, thời Pháp thuộc, không may mất sớm để lại vợ với tám người con, bốn nam bốn nữ. Bà ngoại tôi một mình tảo tần nuôi con ăn học thành tài: hai người con trai là Bác Sĩ, còn hai người kia thì phục vụ trong quân đội _ ngành không quân và cảnh sát. Con gái thì theo ngành giáo viên và y tá. Riêng mẹ tôi sau khi tôt nghiệp trung học trường Jeanne d’Arc thì kết hôn với cha tôi. Cả cuộc đời mẹ được bảo bọc bởi cha tôi, nên mẹ được mệnh danh là bà tướng nội trợ.

    Cha tôi sinh ra từ một gia đình rất nghèo, có người cha làm thợ rèn, mẹ thì làm rượu nếp, sinh sống tại Lào. Tuy khổ cực nhưng Ông Nội tôi luôn tìm cách cho ba tôi ăn học, mặc dù bà Nội không muốn rời xa con, nhưng ông Nội vẫn dứt khoát gởi ba tôi lên tỉnh xa để đi học khi mới tròn 10 tuổi. Thế là cuộc đời bé bỏng của cha tôi bắt đầu rời xa cha mẹ. Vì lòng hiếu thảo, cha tôi rất chăm học, mong sẽ giúp cho cha mẹ sau này. Nhưng không may Ông nội bị mất sớm vì bịnh lao phổi. Bà Nội phải đưa Cha tôi về làm ăn sinh sống tại Việt Nam. Nơi đây Cha tôi được ăn học thành tài, đậu thủ khoa chương trình trung học Pháp (Brevet Elementaire) vào năm 1949. Đến cuối năm 1950, cha tôi thi đậu bằng Thư Ký chánh ngạch và được bổ nhiệm vào làm thư ký tại bưu điện Nha Trang. Thời kỳ đó, cha tôi vẫn nuôi dưỡng ý chí theo học thêm lớp hàm thụ L’École Universelle par correspondance de Paris dưới sự đỡ đầu của Cha bề trên dòng Franciscain suốt gần 3 năm để dự thi và đổ Tú tài 1 chương trình Pháp tại Sàigon. Đến đầu tháng 5/1953, cha tôi nhận lịnh động viên khóa 3 Thủ Đức, phải ra Huế học về ngành kế toán để làm lương cho quân đội. Học xong, cha tôi được bổ nhiệm về Tiểu Đoàn 605 Khinh quân mới thành lập. Ngày mà mẹ tôi mới mang thai cặp sinh đôi đầu lòng, tin vui chưa trọn thì cha tôi được lịnh theo đơn vị hành quân, đổ bộ xuống Sông Cầu theo quân đội Pháp. Chiến trận lan tràn, Chiến Đoàn Lưu Động 100 của Pháp bị đánh tan tành tại đèo Mang Giang. Thoát chết trở về, cha tôi làm đơn xin học khóa 5 Thủ Đức và được chấp thuận để trình diện vào ngày 28/6/1954. Tháng sau thì được tin vui mẹ tôi vừa cho ra đời đôi nam song sinh giống nhau như hai giọt nước ngay dịp đình chiến 23/7/1954 phân ly giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam . Sau đó cha tôi được trở về Huế thăm gia đình với chức vụ Thiếu Úy trên cầu vai, và lần đầu tiên được nhìn thấy hai đứa con song sinh đầu lòng vừa tròn 6 tháng tuổi (ngày 30/1/1955). Nghỉ phép được 15 ngày, lại lên đường đi học lớp bổ túc ngành pháo binh.

    Sau đó được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 22 PḄ (Pháo Binh) đóng tại Nam Giao, Huế. Ngày 26/10/1955, đứa con thứ ba ra đời lại vắng mặt cha, vì cha tôi đang thụ huấn khóa Dẫn Đạo Chỉ huy tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sau khi Tiểu Đoàn 22PB được đổi thành Tiểu Đoàn (TĐ) 26PB và di chuyển ra Quảng Trị cuối năm 1955 Sau 4 năm yên bình không chiến tranh, Tiểu Đoàn trở lại đóng đô tại Phú Bài gần Huế. Đến cuối năm 1959, lại thuyên chuyển qua TĐ 37PB tân lập ở Pleiku, rồi qua TĐ 27PB ở Dĩ An, Ban Mê Thuộc. Vào tháng 3/1961, Cha tôi lên đường đi du học về ngành pháo binh tại Mỹ gần 6 tháng. Sau đó du học lần thứ hai về Pháo Binh cấp cao từ 9/1965 đến tháng 6/1966. Trở về lại Việt Nam, cha tôi được bổ nhiệm chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 11PB tai Quãng Trị ngày 1/9/1966 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Ngô Quang Trưởng.

    Vào đêm 30 biến cố Tết Mậu Thân 1968, đang cùng gia đình ăn Tết, tình thế cấp bách cha tôi vội vàng trở lại căn cứ Quảng Trị để phòng thủ vì nghe tin Cộng sản đang tấn công thành phố Huế. Trong thời gian gia đình tôi bỏ nhà chạy tản cư đến nơi an toàn hơn thì ngôi nhà đã bị pháo kích của CS tiêu hủy hoàn toàn. Gia đình đành phải ra trú tạm tại căn cứ đóng quân của cha tôi ở Quẩng Trị và trở lại Huế vài tháng sau đó khi tình hình chiến sự đã yên ổn.

    Thang 9/1969, cha tôi được thăng chức Tham Mưu Trưởng Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Đoàn 1 để nhận bàn giao căn cứ Đông Hà của Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ triệt thoái về nước. Tháng 1/1971, lại phải đi yểm trợ cho cuộc hành quân tại chiến trận Hạ Lào. Khi trở về từ Hạ Lào, Cha tôi lại tiếp tục lớp học Tham mưu cao cấp tại Đà Lạt thêm 6 tháng. Mãn khóa học, trờ về nhận chức Chỉ Huy Trưởng PB Sư Đoàn 2 Bộ Binh ở căn cứ Chu Lai, nơi doanh trại cuối cùng đóng sát bờ biển Quảng Ngãi.

    Mùa hè đỏ lửa 1972, chiến tranh lại bùng nổ, lần nữa gia đình tôi lại phải di tản từ Huế qua đèo Hải Vân để vào căn cứ Chu Lai nơi cha tôi trấn đóng sau khi nghe tin CS đã chiếm thành phố Quảng Trị. Đây là chặng đường để chuẩn bị cho một trận chiến khốc liệt giữa Bắc Nam khi mà quân đội Cộng Sản muốn cưỡng chiếm trọn miền nam Việt Nam của chúng ta. Đúng vậy, chưa tròn 3 năm sau đó, ngày 23/3/1975, theo lịnh cha tôi, gia đình phải khẩn cấp di tản ra Đà Nẵng bằng chiếc trực thăng của Sư Đoàn để tìm đường bay vào Saigon. Cuối cùng gia đình may mắn đến Saigon an toàn ngày 27/3/1975, hơn một tháng trước ngày mất Sài Gòn, hay mất nước VNCH.

    Nhưng Cha tôi không thể bỏ Sư Đoàn, bỏ nhiệm vụ để cùng gia đình bỏ trốn ra đi, và đành phải chia tay nhau tại phi trường Đà Nẵng để trở về lại căn cứ Chu Lai thu xếp mọi chuyện như phá hủy giấy tờ quan trọng, thủ tiêu súng đạn, chỉ huy thu xếp chỗ trên các chiến hạm để cho tất cả quân nhân của Sư Đoàn 2 và gia đình họ vĩnh viễn rời khỏi căn cứ Chu Lai sau đó. Cha tôi đã cùng đoàn ngườì di tản trên chiếc tàu hạm cập bến tai cảng Đà Nẵng để đi vào Nam ngày 3/4/1975, và cuối cùng tàu đã đến cảng Phan Rang an toàn trước ngày Phan Rang thất thủ 16/4/1975. Cha tôi đã thoát chết sau 8 ngày phải lẫn trốn, và băng rừng vượt suối, để cuối cùng gặp lại gia đình tại Saigon ngày 24/4/1975. Đến ngày 30/4/1975, Chính Phủ do ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CS.

    Đó là những đoạn đường mà cuộc đời binh nghiệp đã đưa cha tôi qua không biết bao nhiêu gian truân, để cuối cùng thân xác bị lưu đày vào lao tù CS trong suốt 13 năm trời kể từ ngày mất nước.

    Với chức vụ cuối cùng là Đại tá pháo binh, họ đã đưa cha tôi cùng những sĩ quan cao cấp vào một trại tù gọi  là “tù cải tạo” tại một vùng núi đá vôi Hòa Binh, thuộc tỉnh Thái Bình_Lạng Sơn, cách biên giới Trung Cộng 25 km, nơi mà cha tôi kể lại là chẳng khác gì một vùng sa mạc hoang vu, không cây cối, nhà cửa, và nó là một trại tù xa nhất của miền bắc. Đó là nơi mà tôi đã một lần từ Sài Gòn đáp chuyến tàu lửa ra Huế để cùng bà Ngoại đi thăm nuôi cha tôi, vì lúc ấy mẹ tôi đang bị bịnh, và cha tôi thì đang rất đói khổ.

    Sau khi đáp xuống từ một chiếc xe đò để đến vùng núi gần nơi cha tôi đang bị giam giữ, Ngoại và tôi mới hay là không có xe đò nào để đi thẳng vào trại cả, và qua một người đàn ông địa phương đang đi xe đạp ở vùng đó cho biết. Ngoại và tôi phải cuốc bộ trên mười mấy cây số mớí đến nơi. Với một bao bố đựng đồ ăn thăm nuôi nặng hơn 50 kilo trên tay mà Ngoại đã chuẩn bị cho cha tôi, nặng không thể vác nổi trên đường đi. Người đàn ông đó cảm thấy tội nghiêp, quay lại và cho để nhờ bao đồ ăn đó lên yên xe đạp và cùng đi bộ, dẫn dăt́ chúng tôi đến trại tù để thăm nuôi. Nhưng chưa hết, đến nơi Ngoại và tôi còn phảỉ̉ leo lên dốc núi theo những con đường mòn, với bao đồ ăn khi lên dốc Ngoại phải đẩy tôi thì kéo. Khi Ngoại hết sức, tôi phải vác lên vai mình đi từng đoạn một cho đến khi tới trại thăm nuôi. Trên đường đi, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy có mấy người đàn ông đang hứng nước để vò gạo qua những khe nước nhỏ đang chảy róc rách bên đường. Làm tôi nghĩ, vậy là cha mình cũng uống nước này như họ.

     Một hình ảnh nữa thật khó phai trong tôi… trong lúc đứng trông chờ giờ thăm cha trên một ngọn đồì cao, nhìn xuống tận dướí đồi, tôi đã chứng kiến trước mắt hình ảnh những đoàn người sĩ quan “tù cải tạo” sắp hàng một dài, đang bước đi mệt mỏi với chiếc nón lá trên đầu và cuốc xẻng trên tay khi họ đang trở về trại nghỉ ngơi sau một ngày lao động. Hầu hết họ gầy ốm tiều tụy, quần áo rách rưới, nhìn thật đau lòng. Ai có thân nhân thăm nuôi thì được mặc áo quần đàng hoàng để ra tiếp xúc với thân nhân. Thật không có giây phút hồi hộp nào khi được gặp lại cha mình sau nhiều năm xa cách. Nhưng tới giờ thăm nuôi, trong lúc Bà Ngoai và Cha tôi đang trò chuyện hỏi thăm nhau, tôi cứ nhỉn cha tôi gầy ốm, hom hem mà tôi không nói nên lời vì nghẹn và cứ phải ngước mặt lên trời để cho nước mắt mình chảy ngược vào trong. Lý do, nếu người cai tù thấy tôi khóc họ sẽ đánh đập cha tôi sau đó hoặc không cho thăm nuôi nữa, và tôi phải thực hiện những gì cha tôi đã dặn trước khi ngồi vào bàn trò chuyện. Chiều hôm ấy ra về, trên đường đi bộ dài hơn 17 cây số, đi trong đêm vắng với bà ngoại cùng đoàn người thăm nuôi, nước mắt tôi được tự do rơi tuôn tả và cứ rơi mãi vì thương cho số phận của cha tôi, không biết cha mình sẽ có ngày về hay không? Hay sẽ chết như người Chú của tôi đã chết trong tù vì bịnh. Bóng đêm đã làm nỗi buồn trong tôi thật nặng nề. Chiến tranh đã lấy đi cuộc sống hạnh phúc gắn bó giữa vợ chồng và cha con. Suốt cuộc đời cha tôi, còn nhỏ bé đã sống xa cha mẹ để ăn học, lớn lên lại sống xa vợ xa con vì binh nghiệp và vì quê hương. Một con người thật đáng thương đáng kính, và đáng được tôn thờ. Một người anh hùng, tài đức vẹn toàn, và đầy lòng yêu nước. Ông lấy lẽ sống là phục vụ quê hương.

    Đó là lý do tại sao tôi lớn lên trong bom đạn? Được sinh ra tại thành phố La Vang, Quẩng Trị, nơi địa dầu chiến tuyến, và là nơi Cha tôi đang trấn giữ một căn cứ cốt lõi với chức vụ Thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 pháo binh vào thời đó. Thật không bao giờ tôi quên được tiếng đạn pháo bắn đi hằng đêm từ đồn căn cứ của cha tôi mỗi khi được theo mẹ ra Quảng Trị thăm cha. Có những lần tôi phải ngủ dưới những căn hầm kiên cố, những công sự chiến đấu vững chắc.do cha tôi thiết kế, kiến trúc mô hình khi xây. Vì còn bé nên tôi chỉ giưt mình khi nghe tiếng súng nổ vang rền, chứ chẳng biết gì cả. Sau này lớn lên, được cha tôi kể lại là tại căn cứ này đã có lần bi VC tấn công đánh sáp lá cà bất ngờ vào một đêm tối. Qua máy truyền thanh và ống loa, cha tôi đã chi huy và ra lệnh cho cả tiểu đoàn sẵn sàng chiến đấu, ai ở đâu phải nằm yên tại chỗ, hễ thấy ai chạy thì có quyển bắn ngay, nhờ đó Ba tôi đã đẩy lui quân CS, cứu cả tiểu đoàn thoát nạn một cách thành công.

    Tết Mậu Thân là một ký ức thật khó quên trong đời tôi. Tôi đã chứng kiến từng đoàn lính Việt Cộng đang đi trước ngôi nhà của mình vào ngày mồng một tết hôm đó, họ đội nón cối, ở trần chỉ mang quần cụt đen, và đi dép cao su đen, trên vai mang băng đạn chéo ngang lưng, tay cầm súng AK. Tôi chỉ biết họ là VC. Không ngờ sau ngày đó, nghe tiếng đạn bay vèo vèo khắp nơi, mẹ tôi vội đưa chúng tôi vào trốn trong một cái hầm do cha tôi đã chuẩn bị, xung quanh được chất đầy bao cát, nơi mà tôi đã dấu cái bóp nhỏ xinh xinh, hình con thỏ màu xanh lá cây với một số tiền ba mẹ tôi đã lì xì cho ngày Tết. Sau đó VC đã pháo kích dữ dội và nghe họ đang đi lùng bắt tất cả đàn ông và những người lính về phép ăn Tết trong vùng. Mẹ tôi sợ quá liền gom đồ ăn vào hai cái giỏ và gánh chạy với bầy con 8 đứa kể cả đứa con còn sơ sinh trên tay của mẹ. Trên đường chạy, đạn bay tứ tung, vừa chạy vừa phải cúi đầu xuống né. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy lí́nh cộng hòa và lính VC chết lăn lóc, kẻ ngồi người nằm dọc hai bên lề đường. Thật là một cảnh tượng thật kinh hoàng trong đời khi tôi còn nhỏ. Gia đình tôi chạy đến nhà Bà ngoại tôi để trú ẩn vì gần căn cứ của Bộ Tư Lịnh Sư đoàn I tại khu Măng Cá trên đường Đinh Bộ Lĩnh, Huế. Cha tôi thì đang chiến đấu trấn giữ Quảng Trị, không biết ra sao. Căn nhà thân yêu của tôi thì bị VC pháo kích tàn rụi chỉ còn cái nền nhà. Từ khi rời căn cứ Quảng Trị tạm trú vài tháng nơi cha tôi đóng, gia đình trở về lại Huế ở tạm trong một căn lều dựng ngoài vườn trong khi Ba tôi đang cho xây lại ngôi nhà mới.

    Sau 4 năm sống yên vui bên sách đèn của bậc trung học, chiến tranh lại xảy đến. Mùa hè đỏ lửa 1972, gia đình tôi phải di tản vào Căn cứ Chu Lai nơi cha tôi đóng quân tại tỉnh Quảng Tín. Thấy cha tôi đi bay hành quân ngày đêm, tôi thật thương cha. Là một vị chí huy trưởng trong ngành pháo, từng được huấn luyện tai Hoa Kỳ, tính toán chính xác đã hỗ trợ các đơn vị bộ binh bạn đẩy lùi nhiều cuộc tẩn công dữ dội của VC như trận chiến đẫm máu Sa Huỳnh, thuộc quận Đức Phổ, nằm phía Nam thành phố Quảng Ngãi, giáp ranh tỉnh Bình Định, chiến thắng đã đem lại thành tích vẻ vang cho quân đội Việt Nam.

    Tôi còn nhớ vào tuần cuối cùng của tháng 3/1975, cha tôi thấy tình hình không ổn, khẩn cấp đưa cả gia đình từ Chu Lai bay ra Đà Nẵng trong ngôi nhà của cha tôi mới cho cất xong. Tôi đâu ngờ đó là ngày mà tôi vĩnh viễn xa mái nhà thân yêu, bạn bè, và thầy cô của xứ Huế cổ kính mãi mãi.

    Trong khi cha tôi đang bận rộn sắp xếp lại quân đội vì các tướng lãnh đã bỏ chạy. Mẹ tôi tìm cách đưa chúng tôi vào phi trường Đà Nẵng khi nghe VC đã chiếm thành phố Huế. Khi đến phi trường, vào được sân bay, tôi thấy hàng ngàn ngườì dày đặc khắp nơi trên phi đạo. Lần đầu tiên trong đời, tôi được chứng kiến cảnh con người chạy đua với máy bay. Vì vậy phi công không thể nào hạ cánh được, và phải bay qua phi đạo phía bên kia đồi của phi trường.

    Trong lúc gia đình tôi đang tìm cách leo lên chiếc máy bay L19 đang sắp sửa cất cánh, nhưng vì số người chen lấn nhiều quá, mẹ tôi vội đưa đứa con út mới được ba tháng tuổi nhờ người ta ẵm dùm để leo lên, nhưng đã quá trễ vì sự hỗn loạn chen lấn càng lúc càng tệ, nên máy bay phải cất cánh thẳng lên, thấy vậy mẹ tôi vội kêu gào “làm ơn quăng con tôi xuống dùm”, và họ đã quăng em út tôi xuống trên những bàn tay của chúng tôi đang dang ra để chụp. Thật là một cảnh tượng thật kinh hoàng. Sau đó nhờ một người anh họ của tôi đang làm việc trong phi trường Đà Nẵng, hướng dẫn qua một chiếc máy bay khác cũng đang chuẩn bị cất cánh, gia đình tôi ṿội leo lên máy bay đó thì thấy có một người lính đang chĩa súng muốn bắn vào đầu một vị sĩ quan, hoảng sợ quá tôi vội nhảy xuống. Thế là cả gia đình tôi cùng nh̉ảy xuống theo. Đang cảm thấy vô vọng, thì cha tôi xuất hiện, nhờ qua sự liên lạc vơí người anh họ đó. Sau khi nghe tin còn một phi vụ cuối cùng chỉ rước gia đình không quân đi thôi. Người anh họ và cha tôi vội đến cầu cứu Ông Đại Tá Vàng, người đang điều hành cả phi trường hôm đó, xin giúp cho gia đình được bay theo vào Saigon. Ông Vàng đã đồng ý và cung cấp một chiếc xe zeep có lính bảo vệ đưa cả gia đình tôi qua bên kia ngọn đồi để lên chiếc C130 vừa mới hạ cánh, nơi mà chưa ai qua được vì có lính gác ngăn chận. Gia đình tôi thật may mắn được leo lên chiếc máy bay này đầu tiên ṃột cách thoải mái. Mẹ tôi thì thúc dục Ba tôi leo lên theo với gia đình, nhưng không hiểu sao Ba tôi không chịu đi theo. Sau này tôi mới biết ra vì cha tôi còn trách nhiệm với cả một sư đoàn lính, cha ở lại để tiêu hủy tài liệu mật, những giấy tờ quan trọng, súng ống, vả chi huy tàu thủy đưa lính và gia đình họ trốn thoát vào Phan Rang. Thật là một người cha đầy tình ngưởi và trách nhiệm, cha tôi thật xứng đáng là một vị chỉ huy kiên cường.

    Chiếc máy bay C130 đã đưa gia đình tôi và gia đình không quân vào phi trường Tân Sơn Nhất tại Saigon đêm đó an toàn mặc dù bị đạn bắn vào máy bay tứ tung từ bên dưới do sự hỗn loạn trong khi cất cánh ra khỏi  phi đaọ. Qua một đêm nằm chờ người thân đến đón về Saigon tại phi trường Tân Sơn Nhất, thì được tin còn một chuyến bay sau cùng nữa từ Đà Nẵng vừa đáp xuống phi trường này. Những người trong chuyến bay cho biết là hàng ngàn người còn lại trong phi trường Đà Nẵng đêm ấy đã chết vì bị VC pháo kích tơi bời. Vừa nghe tin xong tôi bật khóc thành tiếng vì quá thương xót cho họ cùng với nổi hoảng sợ vẫn còn ám ảnh trong tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn rơi nước mắt mỗi khi nghĩ đến những ngày khó quên.

    Phần cha tôi, sau khi được nghe kể lại sau này thì suýt bị chết trong lúc leo lên chiếc chiến hạm mà Cha tôi đã cho lịnh cập bến tại cảng Đà Nẵng để đón những người lính và gia đình họ tản cư vào Nam. Nhưng vì cảnh tượng quá hỗn loạn và kinh hoàng khi dân chúng chen lấn đạp đè lên nhau, rồi có người ném lựu đạn vào đám đông để dọn đường leo lên tàu, miệng khoang tàu liền được đóng lại nhanh để rời bến, trong lúc ấy thì cha tôi đang cố bám víu miệng tàu ở bên hông để leo lên thì bị một người nào đó đạp chìm xuống nước để lấy thế leo lên. Cha tôi liền ngước lên thấy người đó chính là lính thân cận của mỉnh, vội la cứu, và họ đã vớt cha tôi lên trong giây phút giữa sự sống và chết của cuộc đời. Cuối cùng cha tôi theo tàu đến cảng Phan Rang an toàn. Do sợ bi VC nhận dạng, cha tôi phải vất bỏ bộ quân phục, chỉ còn chiếc áo thun lót và quần đùi trên người băng rừng lội suối suốt 10 ngày đêm để tìm đến một căn cứ quân đội Cộng Hòa để trình diện nhờ giúp đỡ. Nhờ đó cha tôi liên lạc được với một người lính thân cận và họ cho biết gia đình tôi đang sống trên đường Công Lý (sau 75 là Nam kỳ khởi nghĩa) tại Quận 1, Saigon. Gặp lại cha tôi với chiếc áo thun trắng, quần đùi ngắn dơ bẩn, mặt mày bơ phờ như một phép nhiệm màu vì mẹ tôi nằm mơ thấy cha tôi đã chết nên mẹ  như người không hồn và đã ngã bịnh.

    Hình ảnh của cha tôi trong quân phục bộ binh là môt hình ảnh mà tôi tôn thờ, ngưỡng mộ, và yêu quí nhất đời mình. Vì vậy, tôi luôn tôn kính và yêu thương những người lính đã hy sinh vì hạnh phúc và sự sống còn của quê hương và dân tộc, cũng như những ai đang phục vụ trong quân đội. Tất cả là từ hình ảnh tuyệt vời của cha tôi, người đã cho tôi thấy những nổi đau, sự chịu đựng, và lòng hy sinh quên mình vì dân tộc.  Tôi nhớ câu nói của tướng Patton là “Người lính thuộc quân đội. Không có quân đội nào tốt đẹp hơn những người binh sĩ đó. Người lính cũng là một công dân. Trên thực tế, nghĩa vụ và đặc quyền công dân cao cả nhất là cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương  đất nước của họ”, (The soldier is the army. No army is better than its soldiers. The soldier is also a citizen. In fact, the highest obligation and privilege of citizenship is that of bearing arms for one’s country. by Gen. George S. Patton Jr.)

    Và sau cùng, cũng để kết thúc bài tuỳ bút này, tôi xin mượn lời của vị Tổng Thống  thứ 16 của Hoa Kỳ để  vinh danh những người chiến binh xả thân cho quê hương xứ sở chúng ta. “Hãy tôn vinh người  chiến sĩ cũng như thủy thủ ở khắp mọi nơi, những người lính dũng cảm gánh vác giang sơn đất nước. Ngoài ra, hãy tôn vinh lo cho người công dân lo lắng cho người chiến sĩ dồng đội của mình trên các trận mạc mà ông ta đã hết sức phục vụ cho một mục đích như vậy” (“Honor to the soldier and sailor everywhere, who bravely bears his country’s cause. Honor, also, to the citizen who cares for his brother in the field and serves, as he best can, the same cause.”— Abraham Lincoln).

    Doris Thụỵ Lan.

    Song thân của tác giả Thụy Lan

    Đại tá Lê Thương, Sư Đoàn I BB, cùng phu nhân.

    ( Ảnh #1 trích:http://www.generalhieu.com/dt_lethuong.htm)

    —————————————————–

    Ảnh #2 chụp năm 1967 tại La Vang, Quảng Trị Thiếu tá Lê Thương SĐIBB

    cùmg Trung tướng Lew Walt Hoa Kỳ (*).

    (*): chỉ huy trưởng Lực lượng Đổ bộ Thủy quân lục chiến III và Sư đoàn 3  Thủy quân Lục chiến đóng tại miền Nam Việt Nam.

    (Commander of III Marine Amphibious Force and 3rd Marine Division in the South Vietnam)

  • Khánh Lan,  Văn Thơ

    Nhà thơ Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    NHÀ THƠ VIỆT CƯỜNG LƯU TẤN LÂM

    Thi nhân Lưu Tấn Lâm lấy bút hiệu là Việt Cường, sinh năm 1930, ông được 90 tuổi, gốc người Nam Định. Năm 1954 di cư vào Nam, an cự tại phố Hòa Hưng, Sài Gòn. Sang Hoa Kỳ ông định cư tại miền Nam California.

    Ông sáng tác nhiều thơ, các loại thơ như thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú và thơ tự do. Trong tuyển tập này, Ban Biên Tập chọn đăng 8 bài thơ của thi nhân, gồm hai bài thơ xuân, một bài về Chùa Hương, một bài về Huế, một bài về Nhớ Con, một bài về Việt Nam Quê Hương Tôi, một bài về nhớ người phối ngẫu, và một bài về một mai khi ra đi.

    Vài hàng về tác giả Việt Cường-Lưu Tấn Lâm:
    Ông sinh năm 1930 tại làng Hương Cát, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Ông là em trai út trong gia đình có bốn chị em, với ba người chị lớn. Mẹ mất sớm từ khi ông mới chín tháng tuổi, vợ ông mất năm bà mới 49 tuổi và ông 51 tuổi, nên trong thơ của ông có phản ảnh phần nào sự mất mát đó…
    Ông di cư vào miền Nam với gia đình năm 1954 sống ở Sài Gòn và sang định cư tại Mỹ năm 1992; ông hiện đang sống ở Anaheim, California.

    Ngày Xuân Khai Bút

    Xuân về khai bút để mua vui
    Cũng chẳng ham khen, chẳng ngại cười
    Phú quý tặng riêng phường trắng mắt
    Uy quyền chớ để bọn thâm môi
    Ngựa cày không nhuyễn, trâu chê dở
    Trâu chạy chưa hay, ngựa bảo tồi
    Trái ngược chuyện đời xuân có biết?
    Xuân tô nhân thế bớt màu vôi

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    Thơ Xuân

    Xuân ở trong tôi của đất trời
    Xuân về ngàn vạn đóa hoa tươi
    Xuân trên đầu bút, trên trang giấy
    Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ rồi

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    Đi Chùa Hương

    Mỗi lần về lại thủ đô
    Nhớ dòng sông Hát, nhớ chùa Hương Sơn
    Điệp trùng nước nước, non non
    Nhớ mơ bến đục, nhớ thôn chùa Trò
    Xa xa dăm bẩy cánh cò
    Trên sông qua lại con đò năm xưa
    Sống vui cứ tưởng trong mơ
    Hương Sơn quê mẹ bây giờ là đây
    Thoắt trông đã tới chùa ngoài
    Thiên Trù tên gọi, hỡi ai đợi chờ
    Xôn xao ta kéo lên bờ
    Nghỉ chân ta lại đi vào chùa Trong
    Nước mây hòa lẫn ráng hồng
    Non xanh nước biết cánh đồng trải xa
    Qua hang động lúc chiều tà
    Thần tiên mấy thủa cho ta ngắm nhìn
    Chẳng đi thì nhớ, thì thương
    Ra đi mến cảnh chùa Hương quên về
    Một là vui thú sơn khê
    Hai là đã trót lời thề với ai…?

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm

    Hà Nội xuân Bính Tý tháng Hai, 1996

    Huế Nhớ

    Đẹp thay chiếc nón bài thơ,
    Huế ơi soi bóng bên bờ sông Hương,
    Tháp cao Thiên Mụ ngân chuông,
    Đông Ba khói tỏa mờ sương bao chiều?
    Trường Tiền càng ngắm càng yêu,
    Một mình thầm lặng nhớ điều chi đây?
    Trăng lên nghiêng ngả hàng cây
    Ngự Bình cùng với vơi đầy thế nhân!
    Phương xa lữ khách dừng chân
    Bâng khuâng Huế mộng, nát lòng nhớ thương
    Bao Vinh, Thành Nội, Thọ Xương
    Khi xa mới thấy vấn vương Huế nhiều
    Đêm về Huế thật là yêu
    Giọng hò Vĩ Dạ mỹ miều không gian

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    Bài này đã được nữ nghệ sĩ Bích Thuận ngâm tại hội quán Tao Phùng
    buổi tối ngày 3 tháng 12 năm 1994.

    Việt Nam Quê Hương Tôi

    Quê tôi gạo trắng nước trong
    Quê tôi một khúc nhạc lòng thiên thu
    Từ khi tạo dựng cơ đồ
    Rừng vàng biển bạc đợi chờ cháu con
    Đất yêu đất nở hoa thơm
    Anh hùng hào kiệt nhiều hơn cây rừng
    Bốn ngàn năm, bao đoạn trường
    Một dân nhược tiểu, anh hùng năm châu
    Từ ngàn xưa đến ngàn sau
    Việt Nam mãi mãi đứng đầu nhân văn
    Tình đồng loại, chí quật cường
    Hai bà Trưng đã mở đường khai thông
    Tiếp theo Mai, Đinh, Lý, Trần
    Họ Lê, họ Nguyễn góp phần vinh quang
    Hưng Đạo trận Bạch Đằng giang
    Nhận chìm thuyền giặc, đầu hàng nước Nam
    Tự hào hai tiếng Việt Nam
    Máu đào xương trắng viết trang sử hùng

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    Nhớ Người Khuất Bóng

    Người vợ tôi yêu khuất bóng rồi,
    Nay còn chỉ biết tiếc thương thôi!
    Đêm đêm đứng lặng nhìn chân ảnh
    Thương cảnh, thương mình, thương con côi…
    Đất nước ngày nay nối lại rồi
    Còn tôi với mợ lại chia đôi
    Ưu tư mợ gởi miền tiên cảnh
    Để lại đàn con phần cút côi
    Càng thương càng nhớ lúc gian lao!
    Biển bắc, rừng nam, nám má đào,
    Những tưởng nương nhau ngày đầu bạc,
    Ai hay đứt gánh giữa đèo cao!
    Còn một mình tôi giữa chợ trưa
    Hàng còn nhiều lắm khách đong đưa
    Đường chiều thương nỗi mình đơn lẻ!
    Lại ớn đêm về gió lạnh… mưa!

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    ngày 7 tháng 3 năm 1983.

    Chết

    Xuôi tay nhắm mắt thế là thôi
    Danh trả non sông, lợi trả đời
    Thân thể chẳng còn vương tục lụy
    Tâm hồn chắc hẳn thoát trần ai
    Không gian vơi dịu không yêu ghét
    Chẳng nợ nần chi, chẳng khóc cười
    May, rủi, hơn, thua không dại hết
    Thiền quang phó mặc tháng ngày trôi

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    Tháng Năm, 1988.

    Nhớ Con

    Gửi trong câu hát tiếng đàn
    Nỗi tâm tư với muôn vàn nhớ mong
    Chiều chiều tựa cửa ngóng trông
    Chim trời cá nước trăng lồng bóng sân
    Trăng ơi trăng sáng vô ngần
    Nhớ con nhớ cả dấu chân hôm nào
    Bạn cố tri ơi! hỡi con ơi!
    Ra đi chẳng được một lời hỏi han
    Ngồi đây nước mắt chứa chan
    Thương mình thì một, thương con thì mười

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    Mùng sáu tết 1983
    Con trai đi di tản tháng tư 1975.

    Tấm Ảnh

    Vẫn là tấm ảnh năm nào
    Quê hương hai chữ nói sao nên lời
    Gần thì gang tấc đó thôi
    Quan san cách trở phương trời xa xăm
    Mẹ hiền nay đã biệt tăm
    Ánh tà dương mãi chiếu nhằm trước sân
    Chậu hoa đó phong trần mấy độ
    Cụm phong lan dãi gió dầm mưa
    Ra đi để lại vần thơ
    Bao nhiêu năm trước bây giờ còn đây.

    Ước Gì Còn Mẹ

    Cuối đông trời lạnh se se
    Có đôi chim nhỏ nằm nghe chim về
    Ước gì cánh én chao đưa
    Để heo may báo giao thừa tới nơi
    Ước gì chiếc lá đừng rơi
    Lá rơi tôi nhớ tới người ngày xưa
    Ước gì nghe tiếng gà trưa
    Nằm đong đưa võng mẹ vừa hát con
    Mẹ như trăng sáng mùa thu
    Tay dìu con vướt sương mù ra khơi
    Mỗi lần vấp ngã trên đời
    Ước gì còn mẹ ôm tôi vào lòng
    Chim kêu ríu rít hoàng hôn
    Chim bay về tổ, tôi buồn cô đơn

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    1988