• Trần Huy Bích,  Văn Thơ

    GÓP PHẦN TÌM HIỂU

    BÀI THƠ ĐIẾU PHAN THANH GIẢN BẰNG CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

    Hai bài thơ Nguyễn Đình Chiểu làm để điếu Phan Thanh Giản có thể được sáng tác ngay sau khi Phan Thanh Giản quyên sinh (năm 1867) hay – ở trường hợp bài chữ Hán – sau khi ông bị truy đoạt hết chức tước và đục tên khỏi bia Tiến sĩ. Từ đó đến nay đã trên 150 năm. Qua nhiều thế hệ, hai bài thơ ấy vẫn được coi là những tác phẩm bộc lộ niềm cảm thông trước hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của Phan Thanh Giản và bày tỏ lòng thương tiếc đối với ông. Ít năm gần đây, một vài tác giả ở trong nước biện luận rằng Nguyễn Đình Chiểu đã không thực sự thương tiếc Phan Thanh Giản, mà chỉ làm ra vẻ thương tiếc để mai mỉa và lên án ông. Những hàng phía sau là một cố gắng đọc lại bài thơ điếu bằng chữ Hán một cách cẩn trọng, để tìm hiểu chủ ý đích thực của Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác bài thơ ấy.

    Khi Phan Thanh Giản quyên sinh năm 1867, Nguyễn Đình Chiểu bị mù đã được 18 năm (từ 1849). Các tác phẩm bằng quốc âm của vị thầy mất thị giác đã được các môn sinh của ông chép ra bằng chữ Nôm rồi về sau chuyển đổi sang chữ quốc ngữ. Các tác phẩm bằng chữ Hán hẳn cũng được ghi ra chữ Hán, nhưng sau một số lần sao đi chép lại, những chữ đồng âm nhưng khác nghĩa và những chữ có âm gần giống nhau đã rơi vào tình trạng “tam sao thất bổn,” khiến chúng ta thấy xuất hiện một số bản chữ Hán với cách viết và ý nghĩa khác nhau. Trước khi ông Lê Thọ Xuân liên lạc được với người con của Nguyễn Đình Chiểu là ông Nguyễn Đình Chiêm và cung cấp một bản thuộc loại “có thẩm quyền” cho bài thơ chữ Hán năm 1933 (bài “Danh nhơn Nam Kỳ,” Đồng Nai số 23 & 24, 15 Janvier – 2 Février 1933), chúng ta đã thấy có bản chữ Hán do ông Nguyễn Liên Phong đưa ra năm 1909 trong Nam Kỳ Phong Tục Nhơn Vật Diễn Ca (cuốn thứ 2, trang 71), và bản chữ Hán do ông Thái Hữu Võ đưa ra năm 1927 trong Phan Thanh Giảng Truyện (Sài Gòn : Xưa Nay, trang 46-47). Nhưng ông Lê Thọ Xuân chỉ cho biết là hai bài thơ do ông Thái Hữu Võ cung cấp có nhiều chỗ sai, và nêu ra những chỗ sai ấy bằng chữ quốc ngữ, chứ không cung cấp một bản viết đầy đủ và chính xác cho bài thơ chữ Hán. Những năm sau, bà Mai Huỳnh Hoa, cháu ngoại của bà Sương Nguyệt Anh (con gái của Nguyễn Đình Chiểu) và chồng bà là học giả Phan Văn Hùm, trong cuốn Nỗi Lòng Đồ Chiểu (bản in lần thứ hai, Sài Gòn : Tân Việt, 1957), cũng chỉ làm như thế, không cung cấp một bài thơ đầy đủ và chính xác ở dạng chữ Hán.

    (Muốn biết hai bản chữ Hán với khá nhiều sai lầm của các ông Nguyễn Liên Phong và Thái Hữu Võ, xin vui lòng đọc trong cuốn Mối Thâm Tình Của Nguyễn Đình Chiểu Dành Cho “Quan Phan” Phan Thanh Giản của Winston Phan Đào Nguyên ([San Jose, Calif.] : Nhân Ảnh, 2022, các trang 55 và 61-62).

    Tác giả đã đưa cuốn sách lên mạng tại địa chỉ sau đây:

    https://app.box.com/s/p7e3mgfty0l1asrqkewxuck6bwqw7rny

    Theo ông Lê Thọ Xuân, với bài thơ chữ Hán của Nguyễn Đình Chiểu, bản do ông Thái Hữu Võ đưa ra trong Phan Thanh Giảng Truyện sai 8 chữ, thêm sự kiện hai chữ “thần” với những nghĩa khác nhau (“thần linh”神 và “vị quan, người bày tôi”臣) bị đặt sai chỗ, khiến ý nghĩa khác đi rất nhiều. Coi lại bản chữ Hán của ông Nguyễn Liên Phong, đối chiếu với bài viết của ông Lê Thọ Xuân, chúng tôi thấy có 7 chữ sai. Hai chữ “thần” cũng bị chép không đúng chỗ như thế.

    Khi phân tích bài thơ chữ Hán của Nguyễn Đình Chiểu, một vài tác giả ở trong nước trong ít năm gần đây đã dựa vào những bản bị chép sai ấy, đưa tới một số ngộ nhận rất đáng tiếc.

    Mãi tới 15 năm trước đây, nhân được đọc một tài liệu Hán Nôm chép tay của gia đình Nguyễn Đình ở Bến Tre do bà Âu Dương Thị Yến cất giữ, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh mới cung cấp cho chúng ta một bài thơ chữ Hán thuộc loại có thẩm quyền trong Việt Nam Bách Gia Thi (Sài Gòn : NXB Văn Hóa, 2005). Đối chiếu bài này vói bài thơ chữ Hán chỉ có âm Hán Việt do học giả Phan Văn Hùm cung cấp sau khi tham khảo với ông Nguyễn Đình Chiêm, chúng tôi thấy hai bản gần như giống hệt nhau. Chỉ có hai chỗ khác trong câu 2, nhưng ý nghĩa không thay đổi nhiều:

    Bản của ông Phan Văn Hùm: Vi quân nan bảo nhất phương dân

    Bản của ông Cao Tự Thanh:   Vi công thùy bảo nhất phương dân.


    Trước những tranh luận sôi nổi về ý nghĩa của bài thơ mới được đưa ra gần đây, chúng tôi xin đóng góp chút nhận thức thô thiển. Trước khi làm việc này, chúng tôi có hoàn cảnh trao đổi thêm với hai vị có căn bản Hán học vững chắc ở ngoài nước, là Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính và cô Nguyễn Ngọc Dung.

    Câu 1:

                歷仕三朝獨潔身

            Lịch sĩ tam triều độc khiết thân

    Câu này ý nghĩa khá đơn giản: Làm quan trải ba triều vua (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), riêng mình giữ được tấm thân trong sạch.

    Câu 2:

                微君難保一方民

                Vi quân nan bảo nhất phương dân

    Nếu không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một phương. Câu này muốn nói tới dân chúng miền Nam. Phan Thanh Giản từng được cử làm Khâm sai, Kinh lược sứ Nam kỳ, rồi về sau, Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây.

    Chúng tôi đưa ra câu trên theo bản in trong Nỗi Lòng Đồ Chiểu của Phan Văn Hùm. Trong Việt Nam Bách Gia Thi của Cao Tự Thanh, câu ấy là:

                微公谁保一方民   

                Vi công thùy bảo nhất phương dân.

    Nếu không có ông, ai sẽ bảo vệ dân chúng một phương. Tuy ý nghĩa không khác nhau bao nhiêu, chữ “công” (ông, tướng công) trong bản của Cao Tự Thanh có vẻ thích hợp hơn. Phan Thanh Giản (sinh năm 1896) hơn Nguyễn Đình Chiểu (sinh năm 1922) 26 tuổi. Phan Thanh Giản là vị “Tiến sĩ khai khoa” cho miền Nam, một Hiệp biện Đại học sĩ, Khâm sai, Kinh lược đại thần, trong khi Nguyễn Đình Chiểu mới đậu Tú tài và chưa làm quan. Thêm vào đó, Nguyễn Đình Chiểu rất tôn trọng Phan Thanh Giản, vẫn thường nhắc đến ông qua các từ “Phan học sĩ, quan Phan.”

    Câu 3:

    龍湖寧負書生老

    Long Hồ ninh phụ thư sinh lão

    Long Hồ là tên cũ của tỉnh Vĩnh Long. Chữ “ninh” ở đây có nghĩa là “thà rằng, đành,” như trong câu “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (đành chết chứ không chịu nhục). Một số vị dịch thơ trước đây cho rằng chữ “phụ” trong câu này có nghĩa là “phụ lòng.” Chẳng hạn như trong bản dịch của nhà thơ tiền bối Thượng Tân Thị (1888-1966):

    Long Hồ phụ lão thư sinh,
    Ở nơi các Phụng không đành làm quan

    Hay trong bộ Nguyễn Đình Chiểu Toàn Tập do các ông Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lân, Nguyễn Thạch Giang biên soạn năm 1997 (Hà Nội : Văn Học, tập 2, trang 51-52):

                Long Hồ thà phụ thư sanh lão

                Phụng các suông quy học sĩ thần.

    Theo các tự điển, chữ “phụ”負 ấy cũng có nghĩa là “vác, mang, gánh,” dùng theo nghĩa bóng là “gánh vác.” Chúng tôi tin rằng đó là ý của Nguyễn Đình Chiểu trong câu này. “Ninh phụ” có nghĩa: “đành phải ra gánh vác.”      

    Theo Đại Nam Thực Lục, sau khi ở Pháp về, Phan Thanh Giản được cử làm Lại bộ Thượng thư nhưng sau vua Tự Đức đổi ông làm Hộ bộ Thượng thư vì cho rằng ở Lại bộ không nhiều việc quan trọng. Ở Hộ bộ, phải lo ngân sách, tài chánh, kể cả khoản bồi thường chiến phí hàng năm phải nộp cho người Pháp, công việc nặng, cần người giỏi và tận tâm hơn. Sau đó, năm 1865, nhà vua cử ông làm Khâm sai, Kinh lược sứ, để lo giữ ba tỉnh miền Tây Nam phần. Cũng theo Đại Nam Thực Lục, Phan Thanh Giản đã xin về hưu (ông tới 70 tuổi theo cách tính của người Việt thời trước). Thực Lục chép, “Phan Thanh Giản vì tuổi già đã xin về hưu”. Vua Tự Đức tiếp riêng ông trong Nội các để trò chuyện. Phan Thanh Giản cho biết, “Thần … cảnh bóng dâu gần xế chiều, tự biết tinh thần, sức vóc không còn được như trước. Hồi tưởng lại người ta đến 70 tuổi như cỏ bồ cây liễu đã trải mùa thu, dẫu có lòng quyến luyến thiết tha nhưng sức ngựa đã hết, rất lo ứng phó không chu để lầm lỡ công việc, nên không dám không lấy tình thực trình bày.” Vua Tự Đức ủy lạo và nói, “Khanh nên cố gắng để khích lệ những người hậu tiến,” rồi lại nói, “Ngươi nên mạnh bạo mưu toan cho trót, quyết không nên thôi,” và không cho ông lui về. (Đại Nam Thực Lục. Hà Nội : NXB Giáo Dục, 2007. Tập 7, trang 944). Vì những lẽ ấy, theo chỗ chúng tôi hiểu, câu này có thể được viết với dấu ngắt câu:

    Long Hồ ninh phụ, thư sinh lão.

    Chủ từ của động từ “phụ” (mang, gánh vác) không phải là đất Long Hồ mà là người thư sinh già:

    Người học trò già đành phải gánh vác việc [giữ đất] Long Hồ (tên cũ của tỉnh Vĩnh Long).

    Có thể Nguyễn Đình Chiểu cũng muốn nói:

                Long Hồ đành gánh vác, người thư sinh đã già.

    Câu 4:

    鳳閣空歸學士神

    Phượng Các không quy học sĩ thần

    Hồn người học sĩ (chỉ Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản) không đành, không lòng nào  trở về Phượng Các (chỗ các quan làm việc). Không giữ nổi Vĩnh Long, ông đã bị truy đoạt hết chức tước, tên bị đục khỏi bia Tiến sĩ, linh hồn ông còn danh nghĩa nào để bay về Phượng Các là chỗ làm việc của các đại thần? Hai tiếng “không quy” không mang ý nghĩa “không về” (Nếu “không về,” người xưa viết là “bất quy”). Ở đây là “về,” nhưng không thực sự về, về một cách không trọn vẹn, “về cũng như không.” Những cách dịch “về suông” hay “khôn về” (khó lòng về) đều có vẻ thích hợp.

    Hai câu 5-6:

    秉節曾勞生富弼

    盡忠何恨死張巡

    Bỉnh tiết tằng lao, sinh Phú Bật

    Tận trung hà hận, tử Trương Tuần

    Cầm cây cờ tiết của người đi sứ (cũng có thể hiểu là giữ tiết tháo), từng chịu gian lao, sống như ông Phú Bật (đời Tống).

    Hết lòng trung, còn hận gì nữa, chết như ông Trương Tuần (đời Đường).

    Trong một bài Đường luật bát cú, đây là hai câu “luận,” có nhiệm vụ bàn về nhân vật được nhắc đến trong bài thơ (Phan Thanh Giản).  

    Câu trên nhắc đến việc Phan Thanh Giản từng vất vả sang Pháp (cùng Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản), cố chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Câu dưới nhắc đến việc Phan Thanh Giản quyên sinh sau khi không giữ nổi Vĩnh Long.

    Việc thi hành nhiệm vụ của hai ông Phú Bật và Trương Tuần thực ra không hoàn hảo. Tuy Phú Bật thuyết phục được người Khiết Đan rút quân, nhưng triều Tống phải tăng thêm số bạc và lụa nộp cho họ hàng năm. Tuy Trương Tuần giữ thành Tuy Dương được thêm một thời gian, nhưng những việc phải giết người thiếp yêu, rồi một số người già và trẻ con làm lương thực cho binh sĩ, chung quy thành vẫn mất và Trương Tuần vẫn chết, khiến thành tích  không tốt đẹp một cách trọn vẹn. Nhưng nhiều phần Nguyễn Đình Chiểu không chú trọng đến những chi tiết ấy. Ông chỉ có ý nói: Phan Thanh Giản có thể so sánh với Phú Bật từng vất vả khi đi sứ, và với Trương Tuần chết theo thành.

    Hai câu 7-8:

    有天六省存亡事

    安得從容就義臣

    Hữu thiên, lục tỉnh tồn vong sự

    An đắc thung dung tựu nghĩa thần.

    Nghĩa đen của câu 7: Có Trời trong việc còn mất của 6 tỉnh. Câu này cũng có thể hiểu là: Chuyện còn mất của 6 tỉnh đã có Trời biết, để đưa tới câu 8: Mong có được người bề tôi biết thung dung tựu nghĩa (thung dung chết vì nghĩa).

    “An đắc” có nghĩa “mong sao có được” như trong một bài ca của Hán Cao tổ Lưu Bang,

    “An đắc mãnh sĩ hề, thủ tứ phương” (Mong sao có được những kẻ sĩ dũng mãnh để giữ bốn phương). Những chữ “thung dung tựu nghĩa”được lấy từ một cặp câu đối tương truyền là để điếu Lý Trần Quán, làm quan ở cuối đời Lê, sau khi ông tự tử (yêu cầu được chôn sống) vì Nguyễn Trang, người mà ông nhờ hộ vệ chúa Trịnh Khải đã nộp chúa cho quân Tây Sơn:

                Khảng khái cần vương dị

                Thung dung tựu nghĩa nan

    (Khảng khái giúp vua là chuyện dễ, thung dung chết vì nghĩa mới khó).

    Bốn chữ “thung dung tựu nghĩa” nói đến việc Phan Thanh Giản ung dung chọn cái chết sau khi không giữ nổi Vĩnh Long.

    Xin được chép lại toàn thể bài thơ với lời giảng ra văn xuôi và một bản dịch thơ phía sau. Người viết xin chân thành cảm tạ chị Mỹ Ngọc, một cựu đồng môn, đã tiếp tay trong bản dịch thơ này:

                                                                            歷仕三朝獨潔身

                                            微君難保一方民   

                          龍湖寧負書生老

                                            鳳閣空歸學士神

                                            秉節曾勞生富弼

                                            盡忠何恨死張巡

                                            有天六省存亡事

                                            安得從容就義臣

                                    Lịch sĩ tam triều độc khiết thân

                                                    Vi quân nan bảo nhất phương dân

                                                    Long Hồ ninh phụ thư sinh lão

                                                    Phượng Các không quy học sĩ thần.

                                                    Bỉnh tiết tằng lao, sinh Phú Bật

                                                    Tận trung hà hận, tử Trương Tuần

                                                    Hữu thiên, lục tỉnh tồn vong sự

                                                    An đắc thung dung tựu nghĩa thần.

                Làm quan trải ba triều vua, riêng mình giữ được tấm thân trong sạch.

                Không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một miền.

                Người học trò già đành ra gánh vác [việc giữ] Long Hồ

                Hồn người học sĩ khó trở về Phượng Các.

                Giữ tiết, từng gian lao, sống như Phú Bật đời Tống

                Dốc hết lòng trung, còn hận gì nữa, chết như Trương Tuần đời Đường.

                Chuyện còn mất của sáu tỉnh có trời ở trong.

    Cốt sao có được người bày tôi thung dung chết vì nghĩa.

    Dịch thơ (Nguyễn Mỹ Ngọc và Trần Từ Mai):

                            Thanh khiết ba triều vẹn tấm thân,

    Một phương nguy khó gắng che dân.

    Long Hồ đành chĩu vai nguyên lão,

    Phượng Các khôn mong vía học thần.

    Sống đã gian lao theo Phú Bật,

    Chết đâu tiếc hận với Trương Tuần.

    Mất còn sáu tỉnh, trời cao biết,

    Sao được thung dung trọn nghĩa nhân.

    PHỤ LỤC: BA BẢN DỊCH THƠ KHÁC

    Bản dịch của Thượng Tân Thị

    Mình trong sạch trải thờ ba chúa,
    Không ông ai che chở dân lành.
    Long Hồ phụ lão thư sinh,
    Ở nơi các Phụng không đành làm quan.
    Cầm tiết nhọc sống chàng Phú Bật,
    Chết ngay sao giận uất Trương Tuần.
    Mất còn sáu tỉnh trời phân,

    Thung dung tựu nghĩa làm thần khó thay.

    Bản dịch trong Nguyễn Đình Chiểu Toàn Tập

    của CV Thỉnh, NS Lân, NT Giang (1997)

    Thờ trải ba triều trọn sạch thân,

    Không ông ai đỡ một phương dân.

    Long Hồ thà phụ thơ sanh lão,

    Phụng Các suông quy học sĩ thần.

    Giữ tiết nhọc nhằn còn Phú Bật,

    Hết trung nào giận mất Trương Tuần.

    Mất còn sáu tỉnh trời kia biết,

    Sao đặng thung dung tựu nghĩa thần?

    Bản dịch của Cao Tự Thanh (2005)

                Ba triều rõ mặt bậc tôi lành,

                Che chở cho dân buổi lửa binh.

                Phượng các khôn về hồn học sĩ,

                Long Hồ thà chịu tiếng thư sinh.

                Sống từng nhọc bấy thân đi sứ,

                Chết lại hờn chi phận giữ thành.

                Sáu tỉnh mất còn, trời đã định,

                Nhưng tìm đâu được kẻ trung trinh.

                    (Việt Nam Bách Gia Thi)

    Nhận xét:

    1. Có lẽ đã dựa theo bản chép sai của ông Nguyễn Liên Phong hay ông Thái Hữu Võ, nhà thơ tiền bối Thượng Tân Thị đã hiểu chữ “thần” trong câu 4 là viên quan, và chữ “thần” trong câu 8 là ông thần.
    2. Nhà thơ Thượng Tân Thị và nhóm ông Ca Văn Thỉnh đã hiểu chữ “phụ” trong câu 3 là “phụ bạc,” và cho rằng chủ từ của động từ “phụ” là tỉnh Long Hồ.

    Trần Huy Bích, California, July 2022

  • Tin tức,  Trần Huy Bích

    Giới thiệu sách “Đôi Nét Về 10 Tác Giả Âu Mỹ Cận Đại” và Tuyển tập truyện trinh thám “Thám Tử Lê Minh”

    “Đôi Nét Về 10 Tác Giả Âu Mỹ Cận Đại”

    Tuyển tập truyện trinh thám “Thám Tử Lê Minh”

    của nhà văn Khánh Lan

    (Bài nói chuyện của Gs. Trần Huy Bích tại NT Studio, Westminster, CA,

    GS Trần Huy Bích

    Ngày 19 tháng 9-2021)

    Kính thưa …

    Tôi rất vui được trao nhiệm vụ giới thiệu cuốn “Đôi Nét Về 10 Tác Giả Âu Mỹ Cận Đại”

    và tuyển tập truyện trinh thám “Thám Tử Lê Minh”của nhà văn Khánh Lan.

    Cuốn trước gồm 11 bài viết riêng biệt. Trong bài đầu tiên, chị Khánh Lan viết chung với nhà văn Việt Hải, thuật lại cuộc bút chiến từ năm 1935 đến năm 1939 ở Việt Nam giữa Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, người chủ trương nghệ thuật phải được dùng để phục vụ xã hội (nghệ thuật vị nhân sinh), và Hoài Thanh Nguyễn Đức Nguyên, người đưa ra quan niệm nghệ thuật cần có giá trị về phương diện nghệ thuật, vì thế nên được tự do, không nên bị gò bó trong nguyên tắc, giáo điều (nghệ thuật vị nghệ thuật). Chị Khánh Lan đóng góp bằng cách cung cấp thêm một vài ý kiến của một số văn hào thế giới.

    Trong mười bài sau, chị viết về mười nhà văn danh tiếng của quốc tế cùng những tác phẩm chính của họ:

    –Erich Maria Remarque (Đức) với cuốn Zeit zu leben und Zeit zu sterben (bản dịch sang tiếng Anh: A Time to Love and a Time to Die; bản dịch sang tiếng Việt: Một thời để yêu và một thời để chết).

    Victor Hugo (Pháp) với cuốn Les Misérables (bản dịch sang tiếng Việt: Những kẻ khốn cùng).

    –Herman Hesse (nhà văn Đức với quốc tịch Thụy Sĩ). Với ông, chị giới thiệu hai cuốn: Demian (bản dịch sang tiếng Việt: Tuổi trẻ băn khoăn) và Siddhartha (bản dịch sang tiếng Việt: Câu chuyện dòng sông).

    –Alexandre Dumas, Jr. (Pháp) với cuốn La Dame aux camélias (bản dịch sang tiếng Việt: Trà hoa nữ).

    –André Gide (Pháp) với cuốn La Porte étroite (bản dịch sang tiếng Việt: Khung cửa hẹp).

    –Mark Twain (Hoa Kỳ) với cuốn The Adventures of Tom Sawyer (Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer).

    –Marcel Proust (Pháp) với cuốn À la recherche du temps perdu (Đi tìm thời gian đã mất).

    Ernest Hemingway (Hoa Kỳ) với cuốn The Old Man and the Sea (Ngư ông và biển cả).

    Erich Segal (Hoa Kỳ) với cuốn Love Story (Chuyện tình yêu).

    –Boris Pasternak (Nga) với cuốn Doctor Zhivago (Bác sĩ Zhivago).

    Tóm lại, Khánh Lan đã viết về 10 văn hào quốc tế (4 Pháp, 3 Mỹ, 1 Nga, 2 Đức, một vị sau đó lấy quốc tịch Thụy Sĩ), và tóm lược 11 tác phẩm của họ. Trong các văn hào chị giới thiệu, 4 vị đã được giải Nobel về Văn chương: André Gide, Herman Hesse, Ernest Hemingway, và Boris Pasternak. Giải này được phát từ năm 1901, không đi ngược thời gian để cân nhắc trường hợp các đại văn hào Victor Hugo và Alexandre Dumas, sáng tác từ thế kỷ trước.

    Trong một bài nhận xét của nhà văn Việt Hải cũng được in trong cuốn sách, anh Việt Hải ghi nhận rằng chị Khánh Lan đã tóm lược và đưa ra những suy nghĩ về ba cuốn tiểu thuyết xã hội lấy chủ đề là thân phận con người, ba cuốn với những suy tư triết học, hai tiểu thuyết về thời đại và chiến tranh, và hai tiểu thuyết thuộc khuynh hướng tình yêu lãng mạn.

    Trong tác phẩm thứ hai, tuyển tập truyện trinh thám mang tên “Thám Tử Lê Minh,” Khánh Lan giới thiệu với chúng ta một nữ thám tử xinh đẹp với nhiều điểm đặc sắc: “dong dỏng cao, mặt trái xoan xinh xắn, mắt phượng to tròn dưới hàng lông mi dài cong vút, mũi dọc dừa, nụ cười tươi giữa hai lúm đồng tiền làm tăng phần duyên dáng.” Một phần vì tên giống con trai nên khi lên Trung học bị nhà trường xếp vào lớp dành cho nam sinh, được chú ý một cách đặc biệt, một phần vì chơi với các anh trai từ nhỏ, Lê Minh đã quen với đá banh, bắn súng, đánh võ, xem phim bạo động hay trinh thám. Vì thế cô cũng “ngổ ngáo” như con trai: ghét cay ghét đắng nếu phải mặc áo dài, đi giày kiểu, xách bóp đầm …, nhưng thích cắt tóc kiểu demi-garçon, mặc quần jean, đội mũ lưỡi trai…

    Từ khi sang Mỹ, Lê Minh đã có ý định trở thành thám tử điều tra những vụ án bí ẩn. Cô theo dõi những tin tức về tội phạm trong xã hội, bị thu hút bởi những phim gián điệp như Silence of the Lamb, The Girl on the Train … Vì thế sau khi tốt nghiệp Đại học với bằng Cao học về Tư pháp Hình sự (Criminal Justice), cô xin vào làm cho Ban Tư pháp Hình sự Sát nhân (Criminal Justice Homicide Department). Để được chấp nhận làm việc trong Ban này, Lê Minh phải hoàn tất chương trình đào tạo các sĩ quan cảnh sát và thám tử điều tra tội phạm sát nhân của Học viện Cảnh sát. Sau vài năm làm việc tại sở Cảnh sát với nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực điều tra, Lê Minh mới được thăng chức thám tử và được bổ nhiệm làm người cộng tác (partner) với một thám tử đã khoảng 50 tuổi với trên 20 năm kinh nghiệm, là thám tử McBride. Từ đây tác giả trình bày sự cộng tác chặt chẽ của hai người để phanh phui nhiều án mạng bí ẩn.

    Sau bài viết đầu tiên để giới thiệu người nữ thám tử đặc biệt và án mạng thứ nhất, Khánh Lan viết về 12 án mạng khác. Vụ nào cũng mang tính cách kỳ bí, nhưng về sau, nhờ khả năng suy luận sắc bén và cũng một phần do may mắn, thám tử chính McBride và thám tử cộng tác Lê Minh cũng đều giải quyết được, đưa phạm nhân ra ánh sáng và thành công. Người Việt ở Nam California dễ say sưa theo dõi các truyện trinh thám do Khánh Lan viết vì chị kể những sự việc chung quanh chúng ta: chuyện xảy ra ở các thành phố Irvine, Seal Beach, Westminster …, trên xa lộ 73, với những số điện thoại bắt đầu bằng area code 714. Truyện trinh thám của Khánh Lan có khả năng hấp dẫn người đọc. Hai người viết “Lời mở đầu,” các anh Dương Viết Điền và Việt Hải, đều có những nhận xét rất tích cực về tập truyện của chị.

    Văn hào Anh Ian Fleming đã thành công vượt bực khi dựng nên điệp viên quốc tế James Bond. Sir Arthur Conan Doyle đã làm thám tử giả tưởng Sherlock Homes thành ra bất tử. Nhà văn Thế Lữ tạo ra phóng viên trinh thám Lê Phong tài ba. Các chuyện trinh thám của nhà văn Phạm Cao Củng được xây dựng chung quanh thám tử Kỳ Phát. Nhà văn Khánh Lan của chúng ta góp phần bằng cách kiến tạo nên nữ thám tử Lê Minh.

    Đọc tới cuối tập, tôi có chút luyến tiếc vì Khánh Lan cho Lê Minh “giã từ sân khấu” sớm quá. Sau hơn 20 năm trong nghề, cô vẫn còn độc thân. Thám tử McBride về hưu ở tuổi 70. Một thời gian sau, ông kết liễu đời mình bằng một viên đạn bắn vào đầu. Tin ấy khiến nhiều người bàng hoàng, nhất là Lê Minh. Cô cảm thấy mệt mỏi sau cái chết của người bạn tri kỷ nên đã xin thôi việc, đến thăm mộ thám tử McBride rồi về xuống tóc quy y. Nhà nữ thám tử tài ba đã nhận ra “tu là cõi phúc.” Tập truyện trinh thám của Khánh Lan, vì thế mang thêm tính cách triết lý và tình cảm.

    Được biết Khánh Lan rất nhiệt thành với việc học hỏi thêm và viết một cách say sưa. Tôi tin rằng với những tác phẩm đầu tay mà đã được như thế, chị sẽ còn tiến rất xa.

    Với đại thi hào Nguyễn Du, từ bài “Thác lời trai phường nón,” một trong những tác phẩm đầu tiên, đến Truyện Kiều, là một bước tiến rất dài. Với văn hào Nhất Linh, hai cuốn truyện đầu tay của ông, Nho PhongNgười Quay Tơ, chưa đạt trình độ nghệ thuật cao. Tuy nhiên, đó là bước đầu để về sau ông viết Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Đôi Bạn, Bướm Trắng, Hai Buổi Chiều Vàng, Xóm Cầu Mới, Giòng Sông Thanh Thủy …, và chủ  trương các tạp chí Phong Hóa, Ngày Nay, Văn Hóa Ngày Nay… Các tác phẩm đầu tiên của đại thi hào Shakespeare nước Anh hay đại văn hào Ernest Hemingway của Hoa Kỳ cũng chưa đạt tới trình độ xuất sắc của những tác phẩm viết sau. Chúng ta có quyền kỳ vọng rằng người bạn Khánh Lan của chúng ta sẽ còn cho ra đời những tác phẩm giá trị hơn những cuốn được giới thiệu hôm nay.

    Tôi cũng tin rằng đa số các vị thức giả, các văn nghệ sĩ lớn tuổi, cũng như các bạn trẻ tới đây hôm nay đều có chung một niềm mong ước. Đó cũng là niềm mong ước tôi trình bày một cách khái quát trong Lời mở đầu tập sách biên khảo của chị Khánh Lan.

    Sau biến cố 30-4-1975, hơn 4 triệu người Việt đã ra sống ở ngoài nước, trong đó khoảng một nửa, hơn 2 triệu, cư ngụ ở Hoa Kỳ. “Chúng ta đi, mang theo quê hương.” Quê hương đây không phải chỉ gồm thức ăn, trang phục, một số phong tục truyền thống…, mà còn là sinh hoạt tinh thần, với sách báo, văn thơ…

    Gần nửa thế kỷ trôi qua, thế hệ các nhà văn, nhà thơ tiền bối (Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Mai Thảo, Nguyên Sa, Minh Đức Hoài Trinh …) không còn giữa chúng ta. Lớp nhà văn, nhà thơ trẻ hơn (Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Nhật Tiến, Du Tử Lê, gần đây là Nguyễn Mạnh Trinh …) cũng đã ra người thiên cổ. Tại nhiều nơi, vẫn còn một số nhà văn, nhà biên khảo có tâm huyết và thành tích, nhưng các vị đã, hoặc đang bước vào tuổi lão niên. Đã có nhi ều người lo âu: “Tre” tuy già nhưng “măng” chưa kịp mọc. Vì nhu cầu tinh thần, tập thể người Việt ở ngoài nước cần có những người cầm bút mới. Rất nhiều người Việt đã thành công khi sáng tác bằng Anh ngữ, Pháp ngữ…, làm giàu thêm cho văn học thế giới. Chúng ta có Lan Cao, Andrew Lam, Monique Truong …và nhiều người nữa. Có những vị thành công một cách xuất chúng như Viet Thanh Nguyen với giải thưởng văn học danh giá Pulitzer, Ocean Vuong với giải thưởng T.S. Eliot, cùng nhiều giải khác. Các vị ấy đã chứng tỏ rằng trong khả năng diễn đạt bằng ngòi bút, dân Việt không thua kém ai. Tuy nhiên, muốn duy trì căn cước và ngôn ngữ, cộng đồng Việt ở ngoài nước vẫn cần những cây bút viết bằng tiếng Việt. Chúng ta cần có những cây bút nhiệt thành, dấn thân như Khánh Lan, và chân thành cầu chúc cho sự thành công của chị và các bạn cùng thế hệ.

    Chân thành cám ơn sự lưu tâm theo dõi của toàn thể Quý vị.