• Khánh Lan,  Văn Thơ

    Nhà thơ Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    NHÀ THƠ VIỆT CƯỜNG LƯU TẤN LÂM

    Thi nhân Lưu Tấn Lâm lấy bút hiệu là Việt Cường, sinh năm 1930, ông được 90 tuổi, gốc người Nam Định. Năm 1954 di cư vào Nam, an cự tại phố Hòa Hưng, Sài Gòn. Sang Hoa Kỳ ông định cư tại miền Nam California.

    Ông sáng tác nhiều thơ, các loại thơ như thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú và thơ tự do. Trong tuyển tập này, Ban Biên Tập chọn đăng 8 bài thơ của thi nhân, gồm hai bài thơ xuân, một bài về Chùa Hương, một bài về Huế, một bài về Nhớ Con, một bài về Việt Nam Quê Hương Tôi, một bài về nhớ người phối ngẫu, và một bài về một mai khi ra đi.

    Vài hàng về tác giả Việt Cường-Lưu Tấn Lâm:
    Ông sinh năm 1930 tại làng Hương Cát, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Ông là em trai út trong gia đình có bốn chị em, với ba người chị lớn. Mẹ mất sớm từ khi ông mới chín tháng tuổi, vợ ông mất năm bà mới 49 tuổi và ông 51 tuổi, nên trong thơ của ông có phản ảnh phần nào sự mất mát đó…
    Ông di cư vào miền Nam với gia đình năm 1954 sống ở Sài Gòn và sang định cư tại Mỹ năm 1992; ông hiện đang sống ở Anaheim, California.

    Ngày Xuân Khai Bút

    Xuân về khai bút để mua vui
    Cũng chẳng ham khen, chẳng ngại cười
    Phú quý tặng riêng phường trắng mắt
    Uy quyền chớ để bọn thâm môi
    Ngựa cày không nhuyễn, trâu chê dở
    Trâu chạy chưa hay, ngựa bảo tồi
    Trái ngược chuyện đời xuân có biết?
    Xuân tô nhân thế bớt màu vôi

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    Thơ Xuân

    Xuân ở trong tôi của đất trời
    Xuân về ngàn vạn đóa hoa tươi
    Xuân trên đầu bút, trên trang giấy
    Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ rồi

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    Đi Chùa Hương

    Mỗi lần về lại thủ đô
    Nhớ dòng sông Hát, nhớ chùa Hương Sơn
    Điệp trùng nước nước, non non
    Nhớ mơ bến đục, nhớ thôn chùa Trò
    Xa xa dăm bẩy cánh cò
    Trên sông qua lại con đò năm xưa
    Sống vui cứ tưởng trong mơ
    Hương Sơn quê mẹ bây giờ là đây
    Thoắt trông đã tới chùa ngoài
    Thiên Trù tên gọi, hỡi ai đợi chờ
    Xôn xao ta kéo lên bờ
    Nghỉ chân ta lại đi vào chùa Trong
    Nước mây hòa lẫn ráng hồng
    Non xanh nước biết cánh đồng trải xa
    Qua hang động lúc chiều tà
    Thần tiên mấy thủa cho ta ngắm nhìn
    Chẳng đi thì nhớ, thì thương
    Ra đi mến cảnh chùa Hương quên về
    Một là vui thú sơn khê
    Hai là đã trót lời thề với ai…?

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm

    Hà Nội xuân Bính Tý tháng Hai, 1996

    Huế Nhớ

    Đẹp thay chiếc nón bài thơ,
    Huế ơi soi bóng bên bờ sông Hương,
    Tháp cao Thiên Mụ ngân chuông,
    Đông Ba khói tỏa mờ sương bao chiều?
    Trường Tiền càng ngắm càng yêu,
    Một mình thầm lặng nhớ điều chi đây?
    Trăng lên nghiêng ngả hàng cây
    Ngự Bình cùng với vơi đầy thế nhân!
    Phương xa lữ khách dừng chân
    Bâng khuâng Huế mộng, nát lòng nhớ thương
    Bao Vinh, Thành Nội, Thọ Xương
    Khi xa mới thấy vấn vương Huế nhiều
    Đêm về Huế thật là yêu
    Giọng hò Vĩ Dạ mỹ miều không gian

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    Bài này đã được nữ nghệ sĩ Bích Thuận ngâm tại hội quán Tao Phùng
    buổi tối ngày 3 tháng 12 năm 1994.

    Việt Nam Quê Hương Tôi

    Quê tôi gạo trắng nước trong
    Quê tôi một khúc nhạc lòng thiên thu
    Từ khi tạo dựng cơ đồ
    Rừng vàng biển bạc đợi chờ cháu con
    Đất yêu đất nở hoa thơm
    Anh hùng hào kiệt nhiều hơn cây rừng
    Bốn ngàn năm, bao đoạn trường
    Một dân nhược tiểu, anh hùng năm châu
    Từ ngàn xưa đến ngàn sau
    Việt Nam mãi mãi đứng đầu nhân văn
    Tình đồng loại, chí quật cường
    Hai bà Trưng đã mở đường khai thông
    Tiếp theo Mai, Đinh, Lý, Trần
    Họ Lê, họ Nguyễn góp phần vinh quang
    Hưng Đạo trận Bạch Đằng giang
    Nhận chìm thuyền giặc, đầu hàng nước Nam
    Tự hào hai tiếng Việt Nam
    Máu đào xương trắng viết trang sử hùng

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm.

    Nhớ Người Khuất Bóng

    Người vợ tôi yêu khuất bóng rồi,
    Nay còn chỉ biết tiếc thương thôi!
    Đêm đêm đứng lặng nhìn chân ảnh
    Thương cảnh, thương mình, thương con côi…
    Đất nước ngày nay nối lại rồi
    Còn tôi với mợ lại chia đôi
    Ưu tư mợ gởi miền tiên cảnh
    Để lại đàn con phần cút côi
    Càng thương càng nhớ lúc gian lao!
    Biển bắc, rừng nam, nám má đào,
    Những tưởng nương nhau ngày đầu bạc,
    Ai hay đứt gánh giữa đèo cao!
    Còn một mình tôi giữa chợ trưa
    Hàng còn nhiều lắm khách đong đưa
    Đường chiều thương nỗi mình đơn lẻ!
    Lại ớn đêm về gió lạnh… mưa!

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    ngày 7 tháng 3 năm 1983.

    Chết

    Xuôi tay nhắm mắt thế là thôi
    Danh trả non sông, lợi trả đời
    Thân thể chẳng còn vương tục lụy
    Tâm hồn chắc hẳn thoát trần ai
    Không gian vơi dịu không yêu ghét
    Chẳng nợ nần chi, chẳng khóc cười
    May, rủi, hơn, thua không dại hết
    Thiền quang phó mặc tháng ngày trôi

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    Tháng Năm, 1988.

    Nhớ Con

    Gửi trong câu hát tiếng đàn
    Nỗi tâm tư với muôn vàn nhớ mong
    Chiều chiều tựa cửa ngóng trông
    Chim trời cá nước trăng lồng bóng sân
    Trăng ơi trăng sáng vô ngần
    Nhớ con nhớ cả dấu chân hôm nào
    Bạn cố tri ơi! hỡi con ơi!
    Ra đi chẳng được một lời hỏi han
    Ngồi đây nước mắt chứa chan
    Thương mình thì một, thương con thì mười

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    Mùng sáu tết 1983
    Con trai đi di tản tháng tư 1975.

    Tấm Ảnh

    Vẫn là tấm ảnh năm nào
    Quê hương hai chữ nói sao nên lời
    Gần thì gang tấc đó thôi
    Quan san cách trở phương trời xa xăm
    Mẹ hiền nay đã biệt tăm
    Ánh tà dương mãi chiếu nhằm trước sân
    Chậu hoa đó phong trần mấy độ
    Cụm phong lan dãi gió dầm mưa
    Ra đi để lại vần thơ
    Bao nhiêu năm trước bây giờ còn đây.

    Ước Gì Còn Mẹ

    Cuối đông trời lạnh se se
    Có đôi chim nhỏ nằm nghe chim về
    Ước gì cánh én chao đưa
    Để heo may báo giao thừa tới nơi
    Ước gì chiếc lá đừng rơi
    Lá rơi tôi nhớ tới người ngày xưa
    Ước gì nghe tiếng gà trưa
    Nằm đong đưa võng mẹ vừa hát con
    Mẹ như trăng sáng mùa thu
    Tay dìu con vướt sương mù ra khơi
    Mỗi lần vấp ngã trên đời
    Ước gì còn mẹ ôm tôi vào lòng
    Chim kêu ríu rít hoàng hôn
    Chim bay về tổ, tôi buồn cô đơn

    Việt Cường-Lưu Tấn Lâm
    1988

  • Khánh Lan,  Văn Thơ

    Bạn có tin vào “TIẾNG SÉT ÁI TÌNH” không?

    Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!

    Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều.

    Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

    Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…

                                          (Thơ Xuân Diệu)

    Tiếng sét ái tình (Love at first sight) luôn được coi là một thứ cảm giác gì đó, rất khó để thốt lên thành lời và không dễ để giải thích. Dẫu vẫn biết rằng mỗi chúng ta, trong tình yêu đôi lứa, gặp được nhau đều có nguyên do, có khi là vì cơ duyên nào đó không hẹn mà gặp. Thậm trí, có người cho rằng đó là “duyên tiền định” hay “định mệnh đã an bài”. Phải chăng tình yêu là một cái gì huyền bí, nó để lại trong ký ức chúng ta những kỷ niệm vui buồn lẫn lộn mà chẳng thể phai nhòa theo năm tháng. Thế các bạn đã có bao giờ thực sự “Falling in Love” chưa? Hay chỉ là “cú sét ái tình” nhất thời? hoặc bi thảm hơn nữa, bạn có bao giờ rơi vào hoàn cảnh “Tình yêu đơn phương”?

    Trước hết, chúng ta cùng bàn luận về thế nào là “tiếng sét ái tình” nhé.

    Tiếng sét ái tình là tình yêu của từ cái nhìn đầu tiên với những cảm xúc đột xuất khiến bạn choáng váng như thể đang lạc vào cõi u mê. Bạn bị thu hút bởi cái vẻ đẹp thể hiện qua ánh mắt, nụ cười chẳng hạn như vẻ mặt liêu trai hay cái vẻ điển trai kiểu Alain Delon, Omar Sharif, v.v… Trong các cuốn tiểu thuyết tình cảm xã hội bình dân, bạn thường thấy tác giả dùng những từ ngữ như “tiếng sét ái tình“, hoặc “yêu từ cái nhìn đầu tiên” để tả về tình yêu trai gái. Chính vì vậy mà cho ngày nay, nhiều người vẫn lầm lẫn và tin vào chỉ có một loại tình yêu duy nhất mà người ta goi nôm na là “Cú sét ái tình”.

    “Yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên”, thoạt nghe bạn cảm thấy thật lãng mạn như trong movie, có nhiều đôi trai gái cho rằng ngay phút giây đầu gặp gỡ, họ đã biết rằng đó là người trong mộng, là “tiếng sét ái tình” và họ sẽ không thể sống được nếu thiếu người ấy. Một nghiên cứu của nhà khoa học Florian Zsok, thuộc Đại Học Zurich (Thụy Sĩ) thực hiện chung với Đại Học Groningen (Hà Lan) qua một cuộc thăm do ý kiến (survey). Kết quả cho thấy. 

    Trong số 396 người tham gia khảo sát, 60% là phụ nữ. Những câu hỏi trong bản khảo sát được người tham gia khảo sát trả lời về mối quan hệ yêu đương hiện tại và họ được cho xem một số hình ảnh của những đối tượng khác phái, chưa từng gặp mặt, để xem họ đánh giá sự hấp dẫn của họ thế nào, dựa theo 3 tiêu chuẩn: thích thú, cảm giác thân mật và cảm giác gắn kết. Quan trọng nhất là những người tham gia cuộc khảo sát phải xác định là họ có yêu đối tượng trong hình từ cái nhìn đầu tiên hay không? Và kết quả cho thấy, “tình yêu sét đánh” không có liên hệ với niềm đam mê hay cảm giác thân mật, mà chỉ đơn thuần là “cảm giác hấp dẫn giới tính”. Đó chỉ là sự hấp dẫn và đam mê lúc ban đầu điều đặc biệt là “tình yêu sét đánh” này chỉ diễn ra từ một phía.

    Tuy nhiên, có nhiều người tham gia nghiên cứu đang có người yêu, họ cũng bày tỏ rằng bản thân đã yêu đối phương ngay từ lần gặp đầu tiên. Chính thế mà Florian Zsok cho rằng có thể “tình yêu sét đánh” (love at first sight) đã đặt nền tảng cho những mối quan hệ sâu đậm hơn sau đó của họ. Nói tóm lại, nền tảng cho một tình yêu lâu bền là sự thấu hiểu và cảm thông lẫn nhau, vì vậy để có được một tình yêu thực sự, hãy yêu thương và cùng sẻ chia nhiều hơn. Đó mới là nguyên tắc căn bản vững chắc cho hạnh phúc trọn đời.

    Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây là “Tiếng sét ái tình” và “Khao khát ái tình” (Love at first sight / Lust at first sight).

    Khao khát ái tình”làkhi bạn bị thu hút bởi cái vẻ đẹp lồ lộ thể hiện qua thể xác bên ngoài chẳng hạn như vẻ mặt khuyến rủ, thân hình hấp dẫn như Jennifer Lopez, Sophia Loren, v.v… ánh mắt đa tình như Clark Gable, Brad Pitt, v.v… chẳng hạn. Bạn bị khuyến rũ bởi cái nóng bỏng của thân xác, bạn như bị lôi cuốn vào mê hồn trận, bạn khao khát yêu đương và bạn lầm nghĩ đó là “Cú sét ái tình”. Nhưng bạn hỡi, dựa vào những nghiên cứu của các nhà tâm lý học Châu Âu thì tình yêu phát xuất từ cái nhìn đầu tiên của “Khao khát ái tình”, thực chất không hề tồn tại mà các nhà tâm lý học đã chứng minh được rằng: Nó chỉ đơn thuần là sự ham muốn của xác thịt, của tình dục mà thôi.

    Theo bác sĩ Jill Murray, bà viết trong quyển “BUT I LOVE HIM” thì “… tình yêu không phải là một sự cảm xúc mà chúng ta không thể kiểm soát được, tình yêu có sự lưạ chọn và làm gì có cái gọi là “Tiếng sét ái tình”, mà đó chỉ là sự khao khát ái tình của lúc ban đầu mà thôi …”  (No love at first sight but lust at first sight). Theo Murray thì hầu hết những mối quan hệ tình cảm giữa trai gái đều bắt đầu từ những loại tình yêu sau đây:

    1. Tình yêu cuồng dại và say đắm: (Infatuation Love):  Là một loại tình yêu trong đó biểu hiệu sự hứng thú, kích động và lãng mạn, đồng thời tạo ra những cảm xúc rất mãnh liệt, khiến hai người yêu nhau không muốn rời xa nhau, họ có thể nói chuyện hằng giờ bằng điện thoại, họ luôn mơ tưởng đến nhau và chỉ nuốn giữ độc quyền cho hết khoảng thời gian họ ở gần bên nhau.  Loại tình yêu này phải trở thành tình yêu tự nhiên (Nature Love) trong tương lai, thì sự quan hệ tình cảm trai gái mới tồn tại và bền vững được.
    • Tình Yêu Đam Mê: (Ađictive Love):  Trong quan hệ tình cảm này, cả trai lẫn gái tin tưởng rằng họ không thể nào sống xa nhau được, họ cảm thấy thất vọng và hoảng sợ nếu không được sống gần nhau.  Loại tình yêu này có thể đưa đến sự lạm dụng đáng lo ngại như:  Sự lạm dụng ma túy, đối xử tệ bạc với gia đình (thể xác và lời nói), có người trở thành kẻ lừa đảo, nói giối và có đời sống tình dục bừa bãi, liều mạng. Đối với các em còn nhỏ tuổi thì điểm học xuống thấp.  Những em gái thì có nguy cơ rất lớn là sẽ bị bạn trai ngược đãi về thể xác và tình dục.
    • Tình Yêu Tự Nhiên: (Nature Love):  Loại tình yêu này đặt nền tảng trên thực tế (Reality) và sự quan hệ tình cảm lành mạnh (Healthy relationship), trong đó cả hai người yêu nhau luôn luôn hỗ trợ, khuyến khích lẫn nhau, để cùng phát triển, trưởng thành và đi đến thành công.  Họ cùng hòa mình (hay riêng rẽ) để chung vui với bạn bè và tham gia những sinh hoạt xã hội.  Cả hai cùng cảm thấy yên tâm và tin tưởng lẫn nhau trong tình yêu đôi lứa, không có những hờn ghen vô cớ, không cần phải cố gắng trở thành hoàn hảo để lấy được sự chú ý của người yêu.  Cả hai cùng từ từ tìm hiểu lẫn nhau và không cần bào chữa cho những thói quên xấu của mình, cùng học hỏi và cùng nhau giải quyết những vấn đề nan giải để cùng đi đến một quyết định tốt đẹp.

    PHÂN LOẠI TÌNH YÊU

    1. Si tình, say mê: (Fantasy, passion, normal chemicals: hormones) Đó là một thứ tình yêu mà người ta sống trong ảo tưởng, đam mê và ước mơ được gặp một người bạn khác phái. Lý do chúng ta có những ước mơ đó là do sự hoạt động của một hợp chất trong cơ thể chúng ta gọi là “Học Môn”. (Hormones). Thí dụ: Con trai thường bị thu hút và say mê bởi vẻ đẹp của một cô gái với mái tóc óng mượt, lời nói dịu dàng, thân hình cân đối. Trong khi phái nữ thì say mê và si tình vì vẻ hào hoa phong nhã, giọng cười cởi mở yêu đời, ý tưởng hay, cách nói chuyện thu hút, và có chút hài hước của phái nam.

    Trong cuộc tình si mê này, cả hai người cứ muốn tạo cơ hội để gặp mặt hay gọi điện thoại cho nhau. Họ luôn luôn mơ tưởng tới nhau cả ngày (Day dreaming), họ thấy hồi hộp và hứng thú mà không thể diễn tả bằng lời nói được…chẳng hạn như thích bạn của cha mẹ, thày giáo, bạn học cũ, cô hàng xóm, v.v…

    • Sự hấp dẫn: Xẩy ra khi chúng ta để ý đến một người nào đó vì mái tóc, vóc dáng, cách ăn mặc, nụ cười và muốn dành đôi chút thời gian với người đó.

    Sự hấp dẫn này có thể đưa đến những đam mê mù quáng và có một sức mạnh đưa người ta đến quan hệ bồ bịch, lấy nhau, tình dục và có con với nhau.  Nó được coi là một món ăn khai vị của dục vọng.

    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TÌNH YÊU VÀ TÌNH BẠN TRI KỶ

    1. Tình bạn bè:

    Sự hấp dẫn và thu hút xảy ra khi hai người bạn đồng hành hay hai người bạn có cùng một sở thích, tâm đầu ý hiệp về một bộ môn nào đó.  Thí dụ:  Computer games, thích đạp xe đạp (Ride a bike).  Và từ đó, phát triển một sự gắn bó và tin tưởng lẫn nhau.  Tình bạn này có thể kéo dài đến cả năm và có khi đến cả một cuộc đời.  Chúng ta có thể cho đây là:  Tình bạn tri kỷ.

    2. Tình yêu lãng mạn:

    Đó là một sự si tình, rung động từ con tim (heart of crushes), theo sau là những cảm giác hứng khởi (exciting feeling).  Tuy nhiên những rung động bất chợt này lại tàn phai rất mau chóng (quickly wear-off), làm cho người ta có khuynh hướng thường xuyên thay đổi người yêu.

    Tình yêu có sự cam kết, còn được gọi là tình yêu   vĩnh cửu.  Tình yêu này rất mạnh mẽ và bền bỉ (strong & enduring), trong đó có sự hy sinh, cho nhiều hơn là nhận, đến những người mà chúng ta yêu thương, mặc dù những vật cho đi rất là quan trọng đối với chúng ta.  Thí dụ:  Tình yêu của cha mẹ cho con cái.  Tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.  Tình yêu vợ chồng.  Loại tình yêu này bao gồm sự chia sẻ giúp đỡ, thông cảm và hỗ trợ lẫn nhau, dù không nhận lại gì cả.  

    Nếu tình yêu có sự cam kết (Commitment love) mà cộng thêm tình bạn tri kỷ, đồng hành (Friendship love) hay tình yêu lãn mạng (Romantic love) thì sẽ trở thành một sự quan hệ thật là kỳ diệu.

    Khánh Lan

    California, New Year eve 2021

  • NV Nguyễn Quang,  Văn Thơ,  Việt Hải

    Nhà văn Nguyễn Quang

    Nhà Văn Nguyễn Quang

    “nhà văn Nguyễn Quang là một trí thức nhân bản và một đàn anh dễ thương, đúng là một gentleman Parisien hiếm có thời buổi này!”. Nhà văn Nguyễn Quang lớn lên ở vùng đất Sóc Trăng, thuộc đất Chân Lạp xa xưa. Sóc Trăng cũng như Bạc Liêu, Trà Vinh, Châu Đốc, Rạch Giá,… những nơi đươc thiên nhiên ưu đãi, nông ngư sản phì nhiêu và trù phú, bản chất.người dân thực thà, chất phác. 
    Trong tác phẩm Ông Giáo Làng, Nguyễn Quang mô tả những cánh đồng lúa vàng cò bay thẳng cánh, những buổi tát đìa, đi nơm cua cá tôm,… Đấy đời sống nơi thôn dã thư thái hình thành buổi thiếu thời của Nguyễn Quang. Rồi tác phẩm Ốc Mượn Hồn, Nguyễn Quang kể về giai đoạn xuất dương du học với khu La Tinh (Quartier Latin), xóm học Paris với ký túc xá kỷ niệm của nhiều sinh viên Đông Dương, Nhà Đông Nam Á (Maison de l’Asie du Sud-Est), mà trước đây là Nhà Đông Dương (Maison de l’Indochine), là một trong những nhà cổ nhất của Ký túc xá Quốc tế Paris, Cité International Universitaire de Paris (CIUP), Ký túc xá Quốc tế Paris, hay vẫn được sinh viên Việt mình gọi tắt là “Cité”, nằm trong quận 14, đối diện với công viên xinh đẹp Montsouris. Nguyễn Quang sang du học bên Anh, tai Đại học Cambridge. Âu châu sau đệ nhị thế chiến, phong trào existentialisme bùng phát ảnh hưởng dến sinh hoạt xã hội. Nguyễn Quang kể sinh hoạt sinh viên sống theo khuynh hướng tự do, gột bỏ nếp thủ cựu, bảo thủ. Ông là chứng nhân giai đoạn existentialisme lan tràn vào thơ văn nghệ thuật. 

    Đọc Nguyễn Quang chút gì đó của miệt lục tỉnh có Ông Giáo Làng, rồi bung ra văn học phương tây, nhuốm nét Guy de Maupassant, William Somerset Maugham, D.H. Lawrence, Gustave Flaubert, Françoise Sagan,… Thế hệ chúng ta phần đông đi hàng hai, văn xuôi kết cấu nội dung nửa âu nửa á. Nửa theo Tự Lực Văn Đoàn (gốc bự gia đình anh) và nửa phong thái theo nhóm Maugham-Maupassant, như ngày xưa tôi đọc Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam thuở trung học say mê, khi lên đại học đọc Guy de Maupassant, William Somerset Maugham, D.H. Lawrence, Mark Twain, Ernest Hemingway, Charles Dickens, Alexandre Dumas, Victor Hugo,… dù ở thư viện Centre Culturel Français Saïgon, Alliance Française de Saïgon, Hội Việt Mỹ hay tại các Campus Hoa Kỳ… lại mê say văn học xứ người. Như tương tự Nguyễn Quang tâm sự đi chơi với các bà đầm Paris hay Cambridge, nhưng rồi “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. I feel the same thing. Khi sang Mỹ quen đầm Mỹ vui vui, l’amour c’est pour rien, tình cho không biếu không. Nhưng rồi lại lưu luyến nét e ấp thẹn thùng của ao ta, sau cùng ao nhà vẫn hơn.

    http://www.ninh-hoa.com/VietHai-NguoiVoThuyChung.htm
    http://www.ninh-hoa.com/dacsan-2012/DS2012_VHai-MuaXuanAnhYeuEm.htm
    http://www.ninh-hoa.com/VietHai-BanTinhCaMuaXuan.htm
    http://www.ninh-hoa.com/VietHai-VanCuYeuEm.htm

    Nhà văn Nguyễn Quang được nhiều người quý mến vì bản tánh hiền hoà, khiêm nhường.và luôn sinh hoạt với Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian. Ông đỗ Cử nhân Toán ở đại học Paris, và Cao học Kinh tế tại Cambridge, làm phó chủ bút cho tờ Paris Match. Ông ghi tiểu sử trên sách vài dòng, không ghi bằng cấp, khác với một số ít người có thói quen selfie trọng bằng. Gia đình tôi họp mặt anh em tôi mời ông dự. Các em tôi quý ông, mời ông ăn lunch hay dinner. Ông sang năm mới được 91 tuổi. Mộng Thuỷ mở hàng buổi tiệc họp mặt mừng tuổi ông. Trong năm 2021, bạn bè Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian mừng sinh nhật ông đến những 4 lần, tư gia Khánh Lan mở party, bạn bè không quên ông. 
    Vâng, Nhà văn Nguyễn Quang được nhiều người quý mến vì bản chất xuề xòa, hiền hậu và luôn lo cho bạn bè.

    http://www.ninh-hoa.com/dacsan-2018/DS2018_VietHai-EmConNhoMuaXuan.htm
    Vậy Ngoại tình là gì ?

    Ngoại tình là sự kiện khi ta đề cập đến việc một người đã kết hôn có hành vi trao đổi va chạm thể xác hay có hành động dục tính với người khác không phải là người phối ngẫu của họ. Nhìn từ một khía cạnh khác, từ ngữ này có thể áp dụng cho một người độc thân có liên hệ tình dục với một người đã kết hôn.http://www.ninh-hoa.com/VietHai-TieuThuyetNgoaiTinh.htm

    Vì sao con người lại ngoại tình ?

    Có nhiều lý do như bị ép buộc, tự mạo hiểm, tìm vui, đổi chác, tham vọng (vì tiền bạc, quyền lực, cạm bẩy),… đa phần do ham muốn thể xác mà trong y học là do hormone kích dục điều tiết ra, theo cơ chế sinh học nẩy sinh tình yêu, hay do bản năng tự nhiên dục tính. Xét về những hoạt động của não người khi đang yêu và kết luận rằng có ba yếu tố khác nhau dành cho việc kết đôi và sinh sản. Như thế do 3 yếu tố chính là nỗi ham muốn, tình yêu lãng mạn và sự gắn bó lâu dài. Mỗi yếu tố trên đều có liên quan đến những hoạt động khác nhau của hormone, mà đấy chính là nguyên nhân tạo ra các thay đổi cụ thể trong hành vi lẫn cảm xúc của những người đang ham muốn. Khi nhìn vào tình yêu theo ba yếu tố chính này, ta có thể đoán biết được một người đang yêu ở giai đoạn nào, và đồng thời dễ hiểu các hành động của họ hơn. Ái tình ham muốn dục vong ở cơ thề sẽ tạo ra những kết quả do các hormone hay nhóm hóa chất cụ thể và quá trình vận hành của não trạng trong một số vùng nhất định. Thế nên tình yêu được sinh ra do sự kết hợp của các hóa chất có trong não bộ, bao gồm dopamine, oxytocin, testosterone, oestrogen và norepinephrine. Do đó khi con người ham muốn thì não bộ tiết ra một lượng lớn chất dopamine, norepinephrine, khiến đương sự có cảm giác như mình đang đắm say trạng thái ham muốn, khát khao. Điều tương tự cũng xảy ra ở những loài động vật khác có vú. Khi ham muốn, sự đòi hỏi dục tính khao khát sẽ trải qua những phản ứng hóa học làm gia tăng nhanh chóng của các chất dopamine và norepinephrine….

  • Ngọc Cường,  Văn Thơ,  Việt Hải

    Truyện Ngắn: Ba Chị Em và Hai Buổi Chia Tay Ở Gare Du Nord Của Ngọc Cường.

    Nhà Văn Ngọc Cường

    Duyệt qua tác phẩm mới Ba Chi Em Ngọc Cường đề cập về 2 cổ thụ văn học, một ngườ Anh, một Pháp, là Guy de Maupassant, William Somerset Maugham. Cả 2 nổi tiếng về lãnh vực truyện ngắn. Với William Somerset Maugham, khi tôi học lớp văn chương Anh tại đai hoc Cal State Northridge,  tôi đọc truyện Mưa (Rain), cùng những truyện ngắn của W.S. Maugham thu hút tôi vì truyện ông chất chứa đầy triết lý và tiêu biểu bởi cái kết thúc bất ngờ, hình như truyện nào cũng vậy. Về lịch sử văn học Anh, khoảng về cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tên tuổi Maugham thường được đặt bên cạnh những tên tuổi danh giá G. B. Shaw, J.Galsworthy, H.G. Wells, E.M. Forster, tức những tác giả cự phách trong dòng hiện thực phê phán. Bản thân Maugham lại rất nể phục Balzac, Tolstoy, Dostoievsky… và ông từng viết riêng một cuốn sách về các bậc thầy văn học này.

    Ngọc Cường nhắc cây cổ thụ Pháp Guy de Maupassant, tôi biết ông qua Une Vie, Bel Ami, Pierre et Jean, và Notre Coeur, thuở ở Alliance Française Saigon. Bạn bè trao đổi về sách ông. .Maupassant vốn là môn đệ của văn hào Gustave Flaubert cho nên Guy de Maupassant chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc của thầy mình về hai phương diện nghệ thuật và tư tưởng. Cũng từ các ảnh hưởng nghệ thuật của Flaubert, ông đã tiếp nhận tư duy khách quan hiện thực (pensée objective réaliste) và cung cách hành văn gọn gàng, nhưng trong sáng và sự tinh tế của bút pháp nghệ thuật mô tả nội dung truyện. Sở trường đặc biệt về truyện ngắn của Maupassant phải nói ông đã vững chãi khai thác từng khía cạnh cụ thể trong mỗi một thể loại truyện về nghệ thuật  trong những giới hạn số trang ông ấn định. Do vậy nên ông được xem là bậc thầy về truyện ngắn của thế giới.

    “Có thể quý độc giả cho chúng tôi là lẩm cẩm khi đặt ra câu chuyện vớ vẩn như trên. Sở dĩ câu hỏi được đặt ra với mục đích giới thiệu vấn đề chính của bài viết này: đó là lý do nào, khiến người ta ưa chuộng một sáng tác ? Trong cả ngàn văn nhân, thi  sĩ, biết chọn ai đây, đứng trước một vườn hoa, biết hái bông nào ? Do đó, vấn đề dựa vào tiêu chuẩn khách quan nào để có thể đánh giá ( phê bình) một tác phẩm?

    Trong cuốn Viết Và Đọc Tiểu Thuyết, Nhất-Linh đề nghị ra hai tiêu chuẩn: theo ông, một áng văn hay là qua được sự thử thách của không gian và thời gian. Nếu bất cứ ai, dù ở đâu và lúc nào đọc cũng thấy hay, tất là có gía trị lâu dài.  Sáng tác của Maugham rõ ràng đã qua 2 thử thách trên , bởi vậy, dù là người Việt, nhưng chúng tôi đã không ngần ngại chọn nhà văn người Anh này, sau khi đọc một cách thích thú một số lớn tác phẩm của ông. Văn của Maugham vừa mang tính lãng mạn và nhân hậu, vừa lôi cuốn người đọc, đưa độc giả về miền quá khứ xa xôi, và tạo cơ hội cho chúng ta lọt vào các nơi chốn xa lạ, từ Âu sang Á, y như đang sống thật trong câu chuyện của tác giả. Ông diễn tả sâu sắc tâm lý nhân vật, như hiểu thâm sâu  con người, câu chuyện sát với sự thật, như đưa người đọc đi lạc vào mê hồn trận của cuộc đời! Sống đến 91 tuổi, cuộc đời của tác giả cũng lâm ly và bi đát không kém…hơn nữa, ông có cả trăm tác phẩm xuất bản, sẽ giúp chúng tôi tiêu pha thời gian sống trên hoang đảo cô đơn ! Tuy nhiên, chúng tôi ngạc nhiên là ông không đoạt được giải Nobel về văn chương dù là một tác giả ăn khách nhất của Thế Kỷ XX? Có thể, giải thưởng đó không tương xứng với ông, và nếu được chọn, ông cũng sẽ khước từ, vì coi mọi giải thưởng là có ràng buộc, như J.P. Sartre đã làm năm 1964? Về lý do từ chối giải thưởng, Sartre nói “ một nhà văn không nên trở thành một định chế “. Tuy nhiên, có lời đồn đãi là: sau đó, Sartre muốn lãnh số tiền thưởng và bị Hội Đồng giải Nobel khước từ? Triết gia và nhà văn người Tây này có thể cao siêu về Triết Lý, nhưng lại ngây thơ về chính trị, đã tin tưởng vào sự tốt đẹp của chủ nghĩa Cộng Sản. Điển hình thuộc loại chính  trị gia salon,  Sartre thường la cà ở các quán cà-phê khu Montmartre ( với bà Simone de Beauvoir, một đồng chí, và có khi là tình nhân ), ngồi tán dóc chuyện triết lý, khạc ra những lời ca tụng chủ nghĩa Duy Vật, trong khi ( ngu si hay hèn nhát ) không lên tiếng bênh vực cho cả trăm ngàn tù nhân vô tội đang đói khổ trong các Trại tù Cộng Sản!

    Theo Maugham, một nhà văn cần vượt lên trên dư luận và viết đúng sự cảm nhận của mình ( độc lập và không chịu ảnh hưởng của bất cứ ai ) ?

    Không phải là một người đọc nhiều, và hiểu rộng, nhưng chúng tôi cũng xin mạo muội có nhận xét: ảnh hưởng của Maugham vượt ra ngoài nước Anh, lan tràn khắp thế giới, như văn chương là ngôn ngữ chung của loài người. Chính cả các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn của chúng ta cũng đã chịu ảnh hưởng của Maugham (và thêm Guy de Maupassant, một tác giả người Pháp 1850-1893). Chẳng thế, có sự tương đồng rất đậm nét giữa cuốn Đời Mưa Gió của Nhất-Linh viết chung với Khái-Hưng và  Of Human Bondage của Maugham… và trong nhiều tác phẩm khác, chúng tôi nhận thấy phảng phất tính lãng mạn, tình tiết éo le bất ngờ trong văn của cả ba người. Riêng Nhất Linh, trong cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, có đoạn đã nêu đích danh Maugham trong một cảnh miêu tả một đêm trăng. Trong một  bài tiểu luận về sáng tác (A Traveller In Romance, Uncollected Writings, 1901-1964, tr 93 ) Maugham có một lời khuyên đến những kẻ tập tành viết văn ( xin lược dịch ) như sau :

     “bạn nên viết về những điều mình biết…bởi vì , nếu viết về những thứ quý vị không biết, sẽ đưa đến lỗi lầm khôi hài…”, rồi căn dặn thêm: “ nhà văn nên viết lên sự thật như họ đã nhìn thấy, về những  điều họ biết…dù cho đó là đề tài cũ…nhưng nếu người viết có cá tính,  nhìn nó với một nhận thức riêng, vẫn gây cho độc giả sự chú ý…một tác giả có thể luôn luôn muốn ở vị trí khách quan, nhưng tâm tính, thái độ riêng của họ với đời sống, vẫn là cá biệt, và sẽ tô đẹp quan điểm của mình.”

    Chúng tôi Nguyễn Quang, Ngọc Cường, Khánh Lan và bút tôi đọc Maugham và Maupassant trong thích thú. Sách mới “Ba Chị Em” hay Tuyển tập truyện ngắn của Ngọc Cường sẽ do Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian giới thiệu. Hẹn Chủ Nhật ngày 4 tháng 10, cuối năm 2021.

    BTC: Khánh Lan, Lâm Dung, Mộng Thuỷ, Mai Hương, Vi Khiêm và Quyên Di.

    Ngoài tác phẩm của nhà văn Ngọc Cường buổi RMS còn giới hiệu tác phảm mới Hồi Tưởng của nhà văn Từ Dung (gia đình Hoàng Đạo).

    Việt Hải (October 2021)

    Phụ chú:

    Với nhà văn Ngọc Cường, tôi quý anh tự bản chất. Cái giá trị của con người Ngọc Cường là những đặc tính đáng quý như: sự thân thiện, hoà nhã, bình dị, cộng thêm sự khiêm cung, tránh ngã tôn, ngã chấp, hay “le moi ç’est pour rien”. Trong tình bạn văn chương, tôi quý anh, anh theo hai khuynh hướng: văn học truyện ngắn, phong thái như các cụ Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, những đại thụ văn học xứ ta, mà tuổi thơ của anh vốn gấn gũi. Và khuynh hướng khác tôi cảm nhận gần gũi với văn phong Ngọc Cường, anh còn theo văn học phê bình, nhận định nghệ thuật, tiểu luận văn học, hay bình luận văn học (critique littéraire, jugement artistique, essais littéraires, commentaire littéraire). Mỗi khi đọc sách mới Ngọc Cường, tôi xoáy tâm tư vào đề tài này. Ngọc Cường viết về Guy de Maupassant, William Somerset Maugham, J.P. Sartre, Fyodor Dostoyevsky, Mikhail Bakhtin, Roland Bathes, “Đôi dòng về nghệ thuật”, “Nghệ Thuật Là Gì”, Leo Tolstoy, Van Gogh, Édouard Manet,… Anh vốn có thú thưởng ngoạn văn học và hội hoạ…. Nhiều tiểu huyết của Ngọc Cường xây dựng trong bối cảnh Paris, một kinh đô văn học, nơi có đồi Montmartre, một tụ điểm nổi danh của nghệt thuật hội hoạ Âu châu.

    http://www.ninh-hoa.com/VietHai-DocThuBanVeKhiaCanhNgheThuatQuaBaiCuaNgocCuong.htm

    https://www.facebook.com/viethai.tran.942/posts/3907992309291410

    Cám ơn nhà văn Ngọc Cường cho tôi một tình bạn văn học cùng goût văn, cùng jeu viết.

    Việt Hải Los Angeles, Jan. 2nd, 2022.

    Từ trái: Nhà văn Khánh Lan, Lệ Hoa, Bích Điệp,
    Ngọc Cường, Việt Hải và Mạnh Bổng.
    Từ trái: Nhà văn Phạm Quốc Bảo, Ngọc Cường, Việt Hải,
    Khiếu Long,
    Dương Viết Điền và Ngọc Tuấn.
  • Khánh Lan,  Văn Thơ

    Bác sĩ Zhivago, tham luận bởi Khánh Lan

    Boris Leonidovich Pasternak (1890–1960)

    “Cánh tay phải của tôi. Lau nước mắt giùm tôi“.

    Ðó là hai câu trong một bài thơ của Boris Leonidovich Pasternak đã viết để diễn tả những uẩn khúc trong tim khi tác phẩm Bác sĩ Zhivago ra đời năm 1957, bị cấm xuất bản cũng như lưu hành tại Nga, nhất là khi nội dung của tác phẩm bị nhà nước cho là bôi nhọ chính sách và buộc ông phải từ chối nhận đề cử lãnh giải thưởng Nobel văn chương năm 1958, với lý do sự việc này làm giảm uy tín của Đảng Cộng Sản Liên Xô.  Tháng 12 năm 1989, người con trai của Văn Hào Boris Leonidovich Pasternak tên là Yevgenii Borisovich Pasternak đã được phép đi tới thành phố Stockholm để nhận lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương của cha cậu.  Vào buổi lễ, nhạc sĩ hồ cầm danh tiếng (cellist) người Nga và cũng là người ly khai chế độ Cộng Sản, tên là Mstislav Rostropovich, đã trình diễn một bản Serenade của J. S. Bach để vinh danh ông.

    Văn Hào Boris L. Pasternak qua đời ngày 30 tháng 5 năm 1960 vì bệnh ung thư phổi tại nhà riêng của ông ở Peredelkino. Nấm mộ của Boris Pasternak đã trở nên ngôi đền thờ chính cho các hội viên của phong trào phản kháng Xô Viết. Năm 1980, một hành tinh nhỏ do nhà thiên văn Xô Viết Lyudmila Geogievna Karachkina khám phá đã được đặt bằng tên Pasternak (minor planet 3508 Pasternak).

    Tóm tắt nội dung:

    Sau đám tang của bà Marya Nikolaevna Zhivago, Yuri Andreievich Zhivago trở nên mồ côi cả cha lẫn mẹ từ khi chàng mới 10 tuổi, Yuri được người cậu ruột là cha Niklai Nikolaevich Vendenyapin gởi chàng cho gia đình ông bà Alexandrovich Gromeko & Anna Ivanovna Gromeko nuôi dưỡng, Tonya là con gái của ông bà Gromeko.  Yury theo học y khoa tại trường đại học Moscow và biết được cha của chàng có một người con trai với Princess Stolbunova-Enrizzi tên là Eugraf Zhivago.  Sau khi Yuri ra trường y khoa và Tonya trở về từ Paris, Yuri xin cưới nàng làm vợ và họ có với nhau một đứa con trai tên Sasha. 

    Larisa Fyodorovna (Lara) là con của bà góa phụ Amalia Karlovna Guichard hiện đang làm quản lý cho hãng may Komarovsky.  Luật sư Victor Ippolitolitovich Komarovsky nổi tiếng là một thương gia “khát máu” (cold blooded businessman) và là ân nhân cũng như tình nhân của bà Guichard, nhưng h(a)́n lại để ý đến Lara và trong một phút yếu lòng, Lara đã nghe theo lời dụ dỗ của Komarovsky và hiến thân cho hắn.   Lara bị bó buộc trở thành tình nhân của gã quý tộc thô cằn, đê tiện ấy vì Komarovsky luôn buông lời hăm dọa sẽ bêu xấu nàng với mọi người nếu nàng từ chối lời yêu cầu của hắn.  Sáu tháng trôi qua, Lara sống trong cơn tủi nhục cuồng nộ và trong một buổi tiệc Giáng Sinh tại nhà bà Sventitsky, Lara lén đi đến đó và nh(a)́m bắn vào Komarovsky nhưng không may lại bắn trúng công tố viên tòa án Moscow, ông Kornakov (Prosecutor of the Moscow court) và gây thương tích nhẹ cho ông, nhưng ông không khởi tố nàng ra tòa.  Sau đó, Lara nhận lời kết hôn với Pavel Pavlovich (Pasha), người tình đầu của nàng và họ có một cô con gái tên Katenka.Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, Pasha từ giã vợ và con gái gia nhập quân đội Hoàng Gia Nga (Imperial Russian Army) và đột nhiên bị mất tích.  Yuri cũng nhập ngũ với tư cách làbác sĩ quân y cho một bệnh viện ngoài chiến trường thuộc tỉnh Meliuzeeva. Tại đây, Yuri được tin là Thiếu uý Pasha Pavlovich chưa chết, anh bị quân đội Hung Gia Lợi Austro (Austro-Hungarian Army) b(a)́t làm tù binh.  Về phần Lara, nàng không tin là Pasha đã chết nên gởi con cho bạn bè rồi lên Galicia với hy vọng tìm kiếm ra tông tích của chồng.  Lúc ấy, Yuri là bác sĩ quân y và Lara là y tá thiện nguyện, cả hai được bổ nhiệm công tác chung tại một nhà thương ở tỉnh nhỏ Galicia.   G(a)̣p lại Lara, Yuri không lấy làm ngạc nhiên cho l(a)́m vì đây không phải là lần đầu tiên họ gặp nhau.   Lần thứ nhất, Yuri g(a)̣p Lara khi Yuri tới nhà của một phụ nữ đã tự tử nhưng được cứu thoát ở thành phố Montenegro với một người đàn ông lớn tuổi tên Komarovsky.  Lần thứ hai Lara đã bắn ông Komarovsky tại một buổi tiệc Giáng Sinh của bà Sventits.  Lần thứ ba khi chàng vào thăm vợ sanh đứa con trai đầu lòng tại trạm quân y khi Tonya sanh đứa con trai đầu lòng của chàng và lần sau cùng là nơi đây, nơi mà một tình yêu ngang trái đã âm thầm nẩy nở, nhưng cả hai đều e dè vì họ đều đã có gia đình. 

    Khi Chiến tranh kết thúc, họ chia tay và trở về với gia đình của mình.   Yuri trở về chức vị bác sĩ tại nhà thương ở Moskva nhưng với bản tính yêu chuộng tự do và bình quyền, chàng thường bị bạn bè cho là thiếu tinh thần cách mạng. Khi cuộc cách mạng tháng mười (October Revolution) và chiến tranh dân sự (Russian civil war) với những xung đột chống chủ nghĩa Marx bùng nổ, hầu hết người dân ở Moscow đều đi tản về vùng quê để tránh chiến tranh, Yuri cùng gia đình chạy về Urals, một vùng đất yên bình thuộc tỉnh Varykino gần Yuriatin và định cư ở nông trại mà trước kia là của ông nội Tonya nhưng bây giờ đang được tập thể hóa.  Trên chuyến đi này, Yuri nhận thức được nỗi khổ của nông dân, tù binh và những nạn nhân của cuộc chiến.  Chàng bất mãn với những hành động và tư tuởng quá cứng rắn, thiếu tình người của những người theo cách mạng. 

    Tại Urals, Yuri cùng gia đình khai đất làm ruộng, những lúc rảnh rỗi chàng làm thơ.  Tại đây, Yuri và Lara vô tình gặp lại nhau trong thư viện Yuriatin và cũng chính tại nơi này, họ bị lôi cuốn và ngọn lửa tình yêu bùng cháy, họ yêu nhau, bất chấp mọi ràng buộc và mặc cảm tội lỗi… Nhưng rồi cuộc tình ấy cũng ch(a)̉ng bền vững, kết thúc trong dang dở và bị chia cắt bởi chiến tranh….Yuri sau hai tháng chung sống với Lara, chàng luôn bị dày vò giũa hai mối tình:  Với Tonya và Lara. Trên đường về nhà, Yury quyết định cắt đứt liên lạc với Lara và sẽ thú nhận tất cả với vợ, nhưng khi đi được nửa đường, chàng bị một nhóm du kích vốn trung thành với nước Liberius do truong nhom du kich Forest Brotherhood, the botshevik guerrilla band bắt cóc và bị bắt buộc làm bác sĩ y tế cho đạo quân này. 

    Sau hai năm, cuối cuộc chiến tranh giữa quân Bạch Nga (the Tsarist Whites) và quân Cộng Sản Đỏ (the Communist Reds), Yuri trốn thoát và trở về Yuriatin để tìm kiếm Lara và biết được là gia đình chàng đã trở về Moscow sau khi Tonya sanh đứa con gái.  Lara là người giúp đỡ đẻ cho Tonya và họ trở thành đôi bạn thân thiết.  Trong thời gian này, Lara được tin Pasha còn sống với một tên mới là Strelnikov (Pasha), hiện là một thủ lãnh trong miền núi Urals nhưng lại là người đang bị truy nã. Lara cũng đang bị lùng b(a)́t nên để tránh không bị chỉ điểm, Yuri và Lara quyết định trốn sang một nông trại khi xưa gia đình chàng từng canh tác và hai người sống những ngày hạnh phúc bên nhau trong nhiều tháng.  Yuri tiếp tục làm thơ ghi chép lại những thăng trầm của cuộc đời mình, những lo sợ mỗi đêm và tình yêu chàng dành cho Lara. 

    Lá thư của Tonya đến trễ năm tháng, nàng cho Yuri biết là cha vợ của chàng, ông Gromeko, Tonya và hai đứa con của  chàng đã bị trục xuất khỏi Nga và hiện đang sinh sống tại Paris. Trong thư Tonya viết:  “Anh Yuri yêu quý, em yêu anh l(a)́m, nhưng anh ch(a)̉ng hề yêu em, có lẽ chúng ta ch(a)̉ng nên gập lại nhau làm gì.  Lara là một người đàn bà tốt”.  Lời nói trong thư của Tonya đã làm cơn đau tim của Yuri bùng lên và chàng ngất đi…   Trong lúc Yuri và Lara đang sống trong những ngày hạnh phúc thì Komarovsky xuất hiện và khuyên họ nên đi lánh nạn về phía đông với ông để tránh bị giết, nhưng Yuri nghĩ đến sự an toàn cho Lara, chàng quyết định để Lara ra đi một mình, chàng đã lừa dối Lara và Katenka để họ cùng đi với Komarovsky.  Còn một mình ở lại Varykino, Yuri bắt đầu say sưa uống rượu để tìm quên trong nỗi nhớ Lara.  Một buổi tối, Strelnikov (Pasha) đột nhiên trở về Varykino tìm g(a)̣p Lara nhưng chỉ thấy Yuri, họ uống rượu và tâm sự rất lâu.  Sau khi biết chuyện Lara ngoại tình với Yuri, Strelmikov quá đau khổ và anh đã tự sát, sángt hôm sau Yuri đã tìm thấy xác của Strelmikov.

    Yury trở lại thành phố Moscow và kiếm sống bằng nghề viết sách, Yuri gập lại các bạn cũ là Misha và Nick.  Yuri thuê một căn phòng nhỏ và chàng bắt đầu sống chung với Marina Vico, người con gái của chủ nhà và họ có hai đứa con gái.  M(a)̣c dù đang sống chung với Marina, nhưng tâm trí của Yuri vô cùng bất an vì hình bóng của Lara nên chàng không tìm được hạnh phúc bên Marina. Yuri nhận thấy rõ một điều là chàng và Lara yêu nhau bằng một tình yêu chân thật, say đắm dù tận cùng là tuyệt vọng, chàng quyết định rời xa Marina. Yuri gặp lại người em khác mẹ Eugraf zhivago hiện là Thiếu tướng trong quân đội Nga và nhờ Eugraf tìm cho chàng một chức vụ bác sĩ tại bệnh viện ở Moscow, nhưng trên đường đi làm, Yuri đã qua đời vì chứng đứng tim.

    Lara từ Irkutsk lên Moskva và đi cùng với Thiếu tướng Eugraf Zhivago tới nhà liệm, nàng nhờ Eugraf tìm lại đứa con đã bị thất lạc trong chiến tranh, đứa trẻ ấy, phải chăng là kết quả của mối tình tuyệt vọng và bi thảm của Yuri và Lara.  Trong nhà liệm, xác của Yuri được đ(a)̣t trên một cái bàn dài, đ(a)̣t giữa phòng.  Lara đứng l(a)̣ng người nhìn chăm chú vào m(a)̣t Yuri, chàng đang n(a)̀m yên nghỉ trong quan tài, bình thản và l(a)̣ng lẽ… Còn một mình trong căn phòng v(a)́ng vẻ, Lara bước gần đến bên xác của Yuri, những giọt nước m(a)́t đang tuôn trào, lăn dài trên má làm ướt cả m(a)̣t chàng.  Lara cúi xuống và hôn nhẹ lên môi Yuri thì thầm:  “Yuri yêu dấu, hãy hôn em, nụ hôn cuối cùng”…Sau ngày ấy, tin Lara mất tích và không ai thấy nàng đâu nữa, có lẽ nàng đã bị bắt đi trại tập trung và đã chết ở đó.  (chế độ “tập thể hóa”, cuộc “Đại Thanh Trừng” (the Joseph Stalin’s Great Purge) và Quần Đảo Ngục Tù (the Gulag)).

    Nhiều năm về sau, Misha và Nicky cùng chiến đấu trong Thế Chiến Thứ Hai và họ gặp một cô gái làm nghề giặt ủi tên là Tanya, cô đã kể lại cho họ nghe về cuộc đời của cô, họ nghĩ rằng Tanya chính là con của Yuri và Lara…Khi người con gái trẻ tên Tanya được gọi lên để  g(a)̣p vị Thiếu tướng  Eugraf Zhivago và kể cho ông nghe về cuộc đời của của cô thì ông không thể nào phủ nhận r(a)̀ng người con gái trẻ đang ngồi trước m(a)̣t ông thật giống Yuri, từ cái cầm nhọn, cái mũi cao và con m(a)́t biết cười ch(a)̉ng khác gì Yuri… Eugraf lẩm bẩm một mình:  Có thể đây là đứa con gái bị thất lạc của Yuri và Lara.  Eugraf Zhivago mỉm cười:  “Có thể ta đã tìm được cháu, ta sẽ cho cháu vào trường đại học, ta sẽ chăm sóc cháu, ta sẽ g(a)̣p cháu nhiều hơn”….

    Phim chuyển thể:

    Omar Sharif là nhân vật chính trong phim và thủ vai Yuri Zhivago, một bác sĩ y khoa và là một nhà thơ. Truyện kể về cuộc đời của Bác sĩ Zhivago qua những éo le tình ái cùng hai phụ nữ Tonya và Lara bao quanh cuộc cách mạng Nga năm 1917. Cuốn phim Bác sĩ Zhivago đã trở nên một phim bán chạy nhất trên khắp thế giới nhưng chỉ tới được nước Nga sau phong trào Cởi Mở Perestroika. Lịch sử nước Nga trong những năm đầu thế kỷ 20 cho đến sau đại chiến thứ hai, hình ảnh nhân vật Yury Zhivago cùng Lara Guishar đã vẽ lên một bức tranh về số phận bi thảm của con người sống trong giai đoạn lịch sử đau thương này.  Họ là nạn nhân của chiến tranh nhưng họ đã vượt lên trên tất cả khắc nghiệt của cuộc sống cho một chuyện tình yêu lãng mạn, một mối tình đẹp đẽ nhưng đầy nước mắt và khổ đau. 

    Omar Sharif và Julie Christie trong phim Bác sĩ Zhivago

    Tác phẩm Bác sĩ Zhivago là tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Boris Leonidovich Pasternak và đã được chuyển thể thành phim năm 1965, do David Lean đạo diễn, tài tử chính là Omar Sharif và Julie Christie.  Cuốn phim Bác Sĩ Zhivago đã được chiếu ở Sài Gòn trong những năm 1960-1975, nhưng ở Nga, mãi đến năm 1994, phim này mới được trình chiếu. Ấn bản TV Nga năm 2006 về Bác sĩ Zhivago, do đạo diễn Alexander Proshkin và thủ vai Zhivago là tài tử Oleg Menshikov, được coi là trung thực với tác phẩm của Văn Hào Pasternak hơn là cuốn phim năm 1965 của đạo diễn David Lean.

    Tham luận tác phẩm:

    Tác phẩm Bác sĩ Zhivago được hoàn tất vào năm  1956 nhưng vì quan điểm của tác giả về cuộc Cách mạng tháng 10, nên không được xuất bản ở Nga.  Năm 1957 bản thảo của truyện được in ra sách b(a)̀ng tiếng Nga tại Ý do nhà xuất bản Feltrinelli.  Năm 1958 ấn bản tiếng Ý và tiếng Anh ra đời, được đề nghị nhận giải Nobel văn chương nhưng chính quyền Nga ép ông phải từ chối.  Năm 1988, Tác phẩm Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản tại Nga. Tại Việt Nam từ năm 1959-1988 có ít nhất sáu bản dịch ra tiếng Việt.  Tác phẩm Bác sĩ Zhivago trở thành một cuốn sách “best-seller” và được dịch ra 24 thứ tiếng trên toàn thế giới.

    Theo người cháu ruột của Boris Pasternak, nhà văn Anna Pasternak viết về tác phẩm của ông, bà nhận định rằng tác phẩm Bác sĩ Zhivago đã ghi lại những sự kiện lịch sử, tôn giáo, triết học của nước Nga vào thời gian từ đầu thế kỷ 20 cho đến sau đại chiến II trong bối cảnh chiến tranh và cách mạng. Tác phẩm nhận định một cách rõ ràng về số phận và lựa chọn của người trí thức trong sự xoay vần của thời cuộc bên cạnh chuyện tình yêu ngang trái giữa Yury Zhivago và Lara Guishar dựa theo chuyện tình yêu của Boris Postermak với Olga Ivinskaya, người đã tạo cho ông nguồn cảm hứng để viết tác phẩm này.   Trong một lá thư gửi một người tên R. Schweizer đề ngày 7 tháng Năm, 1958, Boris Pasternak đã viết: “Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tôi đã gặp một phụ nữ trẻ, tên là Olga Ivinskaya… Nàng chính là Lara trong cuốn tiểu thuyết mà tôi bắt đầu viết chính vào thời kỳ đó… Nàng là hiện thân của niềm yêu đời và đức hy sinh… Nàng biết rõ đời sống tinh thần của tôi và mọi công việc văn chương của tôi”. Nhân vật Lara trong tác phẩm Bác sĩ Zhivago chính là hình bóng của Olga Ivinskaya và Yury không khác hơn là tác giả.  Olga Ivinskaya gặp Boris Pasternak năm 1946, một góa phụ 34 tuổi đang làm việc cho tạp chí văn học Novy Mir, tại tòa soạn “Thế giới mới”. Olga là một phụ nữ rất quyến rũ với đôi mắt sâu thẳm, xanh biếc và suối tóc vàng trong khi Boris khi đã 56 tuổi và là một nhà thơ chịu nhiều vùi dập của nhà cầm quyền thời bấy giờ bởi chính những quan tâm của ông tới hạnh phúc cá nhân nhiều hơn là phúc lợi của xã hội. Trong cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, Boris Pasternak nhác đến “chống Xô Viết” cũng như các lời chỉ trích rất tế nhị các chế độ “Stalin-nít”, chế độ “tập thể hóa”, cuộc “Đại Thanh Trừng” (the Great Purge) và Quần Đảo Ngục Tù (the Gulag) trong các đoạn văn của ông. Không những thế, tác phẩm Bác sĩ Zhivago còn bị nhà cầm quyền gán cho tội nói xấu cuộc Cách mạng Xô viết. Năm 1949, Olga bị bắt và bị lưu đày ở trại cải tạo lao động 4 năm thời Liên Xô (Gulag) vì nghi ngờ là gián điệp và có liên hệ với Boris Pasternak. 

    Đó là một bi kịch đối với Olga và Boris và là tình sử éo le cho hai người, điều này tương tự mhư chuyện tình của Yuri và Lara trong Bác sĩ Zhivago, tình yêu của họ cũng bị xã hội Xô viết cấm đoán. Dù cho ngay cả trong truyện hay ngoài đời thực, hai mối tình ấy đều không có tương lai và bi thảm mặc dù đó là những mối tình lãng mạn làm say mê lòng người. Một cuộc tình chứa đựng nhiều đau khổ, ám ảnh và hạnh phúc, một tài năng bị vùi dập trong xã hội; một chế độ độc tài luôn cản trở tình yêu đích thực của họ.  OlgaIvinskaya cũng nhắc lại mối tình của bà và Boris Pasternak như sau: “…Cuốn tiểu thuyết ấy đã bắt đầu quyết định cả số phận của hai chúng tôi. Nó như một thứ bùa mê. Nó đem đến niềm hạnh phúc điên cuồng cùng nỗi đau khổ ghê gớm. Càng gần đến cái chết của nhân vật, đến dấu chấm cuối cùng, thì đoạn kết của cuộc đời chúng tôi càng gần lại”. Cuộc tình của Boris Pasternak và Olga Ivinskaya kéo dài đến khi ông qua đời vào năm 1960 và Olga Ivinskaya qua đời vào ngày 8 tháng Chín, 1995 tại Mạc Tư Khoa.

    Sau khi Thế Chiến II chấm dứt, chính quyền Cộng Sản lại xiết chặt việc kiểm duyệt, một số tiểu thuyết gia bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn nên không phải chỉ có tác phẩm Bác sĩ Zhivago bị kiểm soát và cấm xuất bản mà từ tháng 11 năm 1917, đảng Cộng Sản Bolshevik lên nắm chính quyền tại nước Nga và đã kiểm soát mọi hoạt động văn hóa, kiểm duyệt chặt chẽ các tác phẩm văn chương, mọi nhật báo, tạp chí và văn hóa phẩm, ấn loát, nhiều nhà in bị đóng cửa, số lượng sách báo giảm hẳn đi đồng thời chính quyền đã khuyến khích các nhà văn, nhà thơ phải sáng tác một thứ văn chương của giai cấp vô sản, các tác phẩm văn học phải phục vụ quyền lợi của giới công nhân và nông dân. Sự kiểm duyệt và chỉ đạo của chính quyền đã bóp nghẹt các sáng tác văn học khiến cho trong giai đoạn 1917-1920, không có nhiều tác phẩm được viết. Tới thập niên 1920, chính quyền Cộng Sản đã nới lỏng một đôi phần tự do, các phê bình văn học xuất hiện một số nhà thơ, nhà văn mới bắt đầu từ đấy. Năm 1953, Stalin qua đời, bắt đầu một thời kỳ dễ thở trong nền văn học, trong thập niên 1960 đã có một số nhà văn trẻ, cấp tiến hơn, cổ động cho tự do và tính sáng tạo trong đời sống văn nghệ, chẳng hạn như hai nhà thơ trẻ Yevgeny Yevtushenko và Andrei Voznesensky. Năm 1968, tác phẩm “Vòng Tròn Thứ Nhất” (The First Circle) của Alexander Solzhenitsyn mô tả đời sống của các tù nhân chính trị trong thời đại Stalin, Solzhenitsyn được trao Giải Thưởng Nobel 1970 về Văn Chương nhưng rồi bị trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1974, điều này chứng tỏ rằng không phải chỉ có Boris Pasternak là người duy nhất bị cấm nhận Giải Thưởng Nobel.

    Tóm lại, tôi hoàn toàn đồng ý với nhà biên khảo Phạm Văn Tuấn đây là bộ tiểu thuyết sử thi vĩ đại bởi nó đặt ra vấn đề số phận con người – tình yêu trong những dòng xoáy của lịch sử, sự dằn vặt của lương tri về tính thiện của con người. Tác phẩm Bác sĩ Zhivago là một chuyện tình đau đớn của những người tình lạc nhau trong chuyến tàu định mệnh, chiến tranh tạo nên sự chia ly và đặt con người trong chấp nhận hy sinh.

    Tiểu sử và sự nghiệp văn chương:

    Boris Leonidovich Pasternak sinh ngày 10 tháng 2 năm 1890 tại thành phố Moscow, trong một gia đình giàu có người Nga gốc Do Thái, ông là nhà thơ, tiểu thuyết gia và dịch giả người Nga. Boris Pasternak chịu ảnh hưởng của nhạc sĩ Scriabin nên ông có ước vọng trở một nhạc sĩ, ông ghi tên theo học Nhạc Viện Moscow (the Moscow Conservatory), học về bộ môn sáng tác nhạc trong 6 năm. Năm 1910, Boris thôi học nhạc, ông sang Ðức theo học tại Ðại Học Marburg, tại nơi này ông theo học các nhà triết học thuộc trường phái Kant-Mới (Neo-Kantian) là các Giáo Sư Hermann Cohen và Nicolai Hartman.

    Tại Moscow, Boris Pasternak đã thán phục các nhà văn biểu tượng A. Blok và A. Bely nên vào năm 1913, đã tham gia vào nhóm thi sĩ thuộc trường phái “Tương Lai” (futurism) có tên là “Ly Tâm” (Tsentrifuga) và do ở trong nhóm thi sĩ này, Boris Pasternak đã cho ra đời tập thơ đầu tay có tên là “Người sinh đôi ở trong Mây” (The Twin in the Clouds, 1914). Trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất, Boris Pasternak dạy học và làm việc tại một xưởng hóa chất tại Vsevolodovo-Vilve, ông xuất bản các thi tập tiếp theo: “Vượt qua các trở ngại” (Over the Barriers, 1917), “Chị tôi, Cuộc Ðời” (My sister, Life, 1922), trong đó có phần phản ảnh triết học của Immanuel Kant, cũng như ảnh hưởng của các nhà thơ như Rilke, Lermontov, Pushkin và các nhà thơ lãng mạn Đức và “Sinh lần thứ Hai” (Second Birth, 1932). Boris Pasternak tiếp tục viết văn và phiên dịch các tác phẩm ngoại quốc, nhưng vào khoảng giữa năm 1918, các nhà văn hầu như không thể xuất bản các tác phẩm một cách dễ dàng bởi vì các văn hóa phẩm đều bị chính quyền Xô Viết kiểm soát chặt chẽ, tiếp theo Boris Pasternak sáng tác tập thơ trữ tình “Ðứt Ðoạn” (Rupture).

    Cũng vào thập niên 1920, Boris Pasternak bắt đầu hai tập thơ dài nói về Cuộc Cách Mạng Nga Năm 1905 (the Russian Revolution of 1905). Ông chuyển sang viết văn xuôi và nhiều truyện tự thuật, đặc biệt là hai tác phẩm “Thời Niên Thiếu của Luvers” (The Childhood of Luvers) và “Cách Cư Xử An Toàn” (Safe Conduct). Sau năm 1932, chỉ có hai tập thơ của Boris Pasternak xuất hiện: “Trên Chuyến Tầu Sớm” (On Early Trains, 1943) và “Khoảng Trống Ðịa Cầu” (The Terrestrial Expanse, 1945), tác phẩm cuối cùng là “Khi thời tiết trở lại quang đãng” (When the Weather Clears, 1959). Vào mùa hè năm 1959, Pasternak bắt đầu viết vở kịch “Vẻ Ðẹp Mù”, một trong bộ ba vở kịch nói về thời gian trước và sau khi Sa Hoàng Alexander II hủy bỏ chế độ nông nô tại nước Nga. Các bản dịch sang tiếng Nga của Boris Pasternak về các vở kịch của Johann Wolfgang von Goethe, Friedrich Schiller, Pedro Calderon de la Barca và William Shakespeare, các bản văn của Juliusz Slowacki và Pedro Calderon de la Barca. Trong khi dịch Calderon, Pasternak nhận được sự yểm trợ bí mật của Nicolai Mikhailovich Liubimov, một nhân vật cao cấp của bộ máy văn chương của Ðảng.

    Sau khi Boris Pasternak qua đời, Olga Ivinskaya đã bị nhà cầm quyền Xô Viết bắt giam lần thứ hai cùng với cô con gái là Irina Emelyanova. Các tài liệu và các bức thư của ông Pasternak viết cho bà Ivinskaya đều bị mật vụ KGB tịch thu. Sau đó, KGB đã âm thầm thả cô Irina một năm sau, 1962, và thả bà Olga vào năm 1964. Năm 1978, hồi ký của bà Olga Ivinskaya đã được đưa lén lút ra nước ngoài và được xuất bản tại Paris. Bản dịch tiếng Anh do Max Hayward, đã được phổ biến cùng năm dưới nhan đề: “Thời Gian bị Cầm Tù: Các Năm của tôi với Pasternak” (A Captive of Time: My Years with Pasternak). Bà Olga Ivinskaya chỉ được khôi phục lại thanh danh vào năm 1988. Sau khi Liên Xô bị tan rã vào năm 1991, bà Ivinskaya đã kiện chính phủ Nga để đòi lại các bức thư và các tài liệu mà KGB đã chiếm giữ vào năm 1961 nhưng Tối Cao Pháp Viện Nga đã xác nhận rằng các giấy tờ này phải được lưu giữ trong văn khố quốc gia. Bà Olga Ivinskaya qua đời vì bệnh ung thư vào ngày 08 tháng 9 năm 1995.

    Khánh Lan, California July 2020

  • Khánh Lan,  Văn Thơ,  Việt Hải

    KHÁNH LAN-NHỮNG BƯỚC ĐẦU Ở NGƯỠNG CỬA VĂN CHƯƠNG

    Khánh Lan

    Tôi còn nhớ trước tháng 10, năm 2019, nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian dự trù có 2 chương trình huấn luyện về khóa văn học do GS. Quyên Di giảng dạy và lớp âm nhạc do GS. Phạm Đức Huyến phụ trách, nhưng sau đó nạn dịch Covid-19 bùng phát dữ dội, vì thế nên mọi sinh hoạt nhóm phải ngưng hết vì tình thế. Nhưng điều kỳ lạ là Nghệ sĩ Khánh Lan vẫn viết văn lai rai.

    Tôi đọc các bài viết rất hay nên tôi khuyến khích Khánh Lan viết tiếp. Nhờ những ngày bị giới nhiêm vì Covid 19 và nếp sống hưu trí, Khánh Lan đã dành thời gian sáng tác liên tục, từ 10 tác phẩm nhảy lên 20, 30, 40, 50, 60… Đã thế, Khánh Lan lại viết văn với nhiều thể loại khác nhau, một sự việc thật đáng khích lệ.

    Thế là 2 anh em tôi khởi đầu khóa học bằng cách liên lạc qua email và phone. Thời gian trôi, mỗi lúc Khánh Lan tỏ ra đầy tự tin và tự vươn lên. Khánh Lan có những lợi điểm trong quá khứ để phát triển theo ngành văn, vì thuở nhỏ gia đình Khánh Lan có tiệm sách nên cô phụ mẹ trông nom cửa tiệm, cô đọc khá nhiều sách, những kiến thức thu nhận qua sách vở từ bao năm trước, vô hình chung đã nhập tâm và tiềm ẩn trong tâm hồn Khánh Lan. Cộng thêm 2 ngành toán học và triết học là 2 môn Khánh Lan vốn thích, lên đại học cô học và đỗ văn bằng cử nhân kế toán quản trị (managerial accounting), xong đỗ tiếp cao học tâm lý xã hội (socio-psychology). Chính 2 khoa học này phần nào giúp cho kỹ năng lý luận sắc bén (logical thinking skills) và óc phân tích sự kiện, bố cục đề tài vững (creative-thinking, sharp reasoning, interpreting data, fact analysis ability, topic brainstorming development,…) Phải nói Khánh Lan tiến bộ khá nhanh trong nỗ lực viết văn do yếu tố thông minh, bén nhạy phân tích đề tài.

    Xét cho cùng yếu tố thông minh, nhạy cảm nhận chân ra vấn đề hướng dẫn ngòi bút của mình, tôi nghĩ, đây là điểm son về phẩm chất khởi đầu của Khánh Lan khi theo ngành văn chương mang nét nghệ thuật. Và do sự khởi đầu với nhiều lợi thế sẵn có, cho đến khi đem ra áp dụng cho văn chương là công việc vô cùng thích hợp. Tôi thiển nghĩ khả năng, phẩm chất đã kéo theo lòng yêu nghề cầm bút khiến cho Khánh Lan là một ngòi bút với nhiều triển vọng và tài hoa. Ngoài tình yêu với văn chương ra, Khánh Lan rất tận tuỵ với bút pháp, trau đồi kỹ năng văn phẩm của mình.

    Văn chương vốn dĩ được coi như một loại sinh hoạt mang nét thanh tao về tinh thần, một phạm vi cao quí, không phải ai cũng có đủ phẩm chất và năng lực để bước chân vào địa hạt này. Mà hình như nó chỉ là lãnh vực của những tài năng, những nhà tư tưởng, những người có sứ mệnh dấn thân có tầm ảnh hưởng đến tư duy trong xã hội.

    Bên trời Tây có JeanPaul Sartre hay Albert Camus, André Maurois, bên trời Ta có Nhất Linh, Thạch Lam hay Khái Hưng… Nhưng dẫu rằng ở vào thời kỳ nào đi nữa đều được trân trọng, văn chương vẫn luôn mãi được yêu thích và tồn tại cùng với con người. Văn chương là phương diện văn hóa tinh thần của mỗi thời đại nhân bản, ở những xã hội văn minh, khai phóng. 

    Viết văn là công việc lặn lội với chữ nghĩa. Tôi rất vui khi nhìn các bạn trẻ yêu văn chương, những Cung Lan, Alexandre ViAnh, Karen Thanh Thủy, Thuỵ Lan hay Khánh Lan là những người yêu văn học, điều mà dòng suối văn hóa hay dòng sông văn học hải ngoại cần trôi chảy luân lưu một khi thế hệ đi trước khuất núi, như những Võ Phiến, Hoàng Hải Thuỷ, Minh Đức Hoài Trinh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng…

    Trong thời gian vừa qua, Khánh Lan đã cho ra 4 tác phẩm: Những Ý Nghĩ Về Nghệ Thuật Trong Văn Học,Truyện Dài Dĩ Vãng Khôn Nguôi, Tuyển Tập Truyện Ngắn  và Tuyển Tập Truyện Trinh Thám THÁM TỬ LÊ MINH.

    Đọc tác phẩm Những Ý Nghĩ V Ngh Thut Trong Văn Học của Khánh Lan bàn về văn học, tôi nhớ câu châm ngôn của Maxim Gorky cho rằng văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý. Maxim Gorky cho là cái mỹ học của văn chương vốn đem con người về với chân thiện mỹ. Khánh Lan nhận định về bộ truyện “Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust. Nhà văn Graham Greene đã gọi Proust là “tiểu thuyết gia vĩ đại nhất thế kỷ 20” và nhà văn William Somerset Maugham đánh giá Đi tìm thời gian đã mất là “tiểu thuyết hay nhất cho đến nay”.

    Đại để nội dung của tác phẩm “Đi tìm thời gian đã mất” là loại tiểu thuyết tự thuật với nhân vật chính là người kể chuyện về chuyện tình của mình với những niềm mơ ước, trăn trở với mối tình đẩu với Gilberte, rồi đến mối tình thơ mộng và đau xót với Albertine sống trong cái thiên đường của một xã hội thượng lưu giả dối và tẻ nhạt, xong chết theo tình một cách thương tâm. Từ đó “Thời gian lại tìm thấy” hàm nghĩa là đi tìm ra lẽ sống của mình, là cống hiến cuộc đời cho thế giới nghệ thuật. Bộ sách này được xem như danh tác quốc tế.

    Ngoài ra, Khánh Lan cũng chia sẻ quyển tiểu thuyết xã hội nói về thân phận con người trong tác phẩm Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables). Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19. Những kẻ khốn cùng là câu chuyện về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 19 kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù nhân khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm gây ra thời trai trẻ.

    Những dòng văn của Khánh Lan chung quy thì dù sáng tác hay nhận định tác phẩm, tư tưởng văn chương cho thấy yếu tố mỹ học của chân thiện mỹ trong những tác phẩm của cô. Thật vậy, nhà phê bình văn học Charles Du Bos ngôn là: “Văn học tức là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng“.

    Có một dạo nhà văn Maxim Gorky đã từng khuyên một nhà văn nữ trẻ cần phải vượt lên trên những cái tầm thường, vụn vặt để viết về những điều cao thượng đáng viết hơn và đừng biến văn chương thành những thứ tầm thường, đừng làm cuộc đời xấu hơn vì những gì mình viết ra.

    Ở Khánh Lan khi đàm đạo, cô cho ý nghĩ là viết văn cô chú trọng phản ảnh tâm tư, tình cảm của chính mình, chân tâm ý nghĩ con người thật qua lăng kính nghệ thuật của bút văn, càng đạt đích điểm tôn vinh nét đẹp của văn chương, nét sâu sắc của nó, được chừng nào hay chừng đó.

    Con tim tác giả chia sẻ bao nỗi niềm thương cảm trước số phận bất hạnh, đau khổ của  Lara Guishar với một chuyện tình bi thương trong truyện Doctor Zhivago, hay nàng kiều nữ xinh đẹp Marguerite Gautier trong La Dame aux Camélias, hoặc nỗi buồn vơi của cô gái nhà nghèo Jennifer Cavalieri trong Love Story…

    Qua những sáng tác văn học rung động lương tâm con người là đích điểm của văn hào Maxim Gorky nhắn gửi những nhà văn theo sau ông. Tôi rất đồng thuận với nhà văn Khánh Lan là hãy tôn vinh nét đáng yêu chân thiện mỹ của văn chương, hãy tôn trọng và giữ trách nhiệm những gì mình viết ra…

    Thạch Lam cho cảm nhận là “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ“, và “Mỗi tác phẩm phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá về nội dung“, theo câu nói của nhà văn Leonid Maximovich Leonov ghi nhận. Bởi vì mỗi tác phẩm được hình thành là do kết quả thai nghén trong nghệ thuật mỹ học chất chứa đầy tâm huyết của người viết. Vì rằng đó là nơi để nhà văn gửi gấm những tình cảm sâu lắng nhất, những xúc cảm, những ước muốn được trân trọng ký thác vào đấy. 

    Mỗi dòng chữ hay mỗi con chữ sáng tạo bởi nhà văn gói ghém trong tâm tư của người cầm bút. Vì thế nên suy ra cho cùng là viết ra cốt truyện nào hay gửi gấm đề tài gì thì tác phẩm nên cho thấy rõ cung cách suy nghĩ của mình. Cứu cánh của nhà văn vẫn là gửi ra những thông điệp hàm tư tưởng riêng của mình, mang tính chất thẩm mỹ cho xã hội và cho con người nói chung.

    Một khi nhà văn thực hiện công việc sáng tạo văn chương, hãy nỗ lực cống hiến bằng khả năng, tiềm lực của chính mình tạo ra, cho ra đời những tác phẩm có giá trị như ý tưởng của Maxim Gorky quan niệm.

    Georges-Louis Leclerc, Comte de Buffon cho là:

    “Văn là con người.”

    Hay:

    “Le style c’est l’homme meme”

    (The style is the man himself).

    Cho nên, văn học là người bạn đường thân thiết trên mọi nẻo đường, nuôi lớn và làm phong phú tâm hồn của nhà văn, bởi những tình cảm giàu tính nhân bản nhất. Chính vì thế mà văn học không thể đứng riêng lẻ, tách rời mà phải giữ gắn bó với cuộc sống thường nhật của chúng ta.

    Tóm lại, đặc điểm giá trị to tát nhất của văn chương là đi tìm bản sắc của con người, vì con người và bởi con người. Do vậy chỉ có nhà văn trong thiên chức bút pháp qua những tác phẩm của mình, mới có khả năng mang đến tính nét đa dạng của xã hội phức tạp của nếp nhân sinh bao quát. Người viết bài này trải qua nhiều ngày tháng thảo luận cùng tác giả Khánh Lan, chúng tôi chia sẻ quan điểm là không thể có tác phẩm đích thực nếu không có nhà văn đích thực trân yêu tác phẩm.

    Để tạo ra những tác phẩm đích thực, nhà văn phải trải qua cuộc sống, và tính nét viết ra vì con người bằng cả tấm chân tình, bằng sự trân trọng qua nguồn cảm tác do niềm khao khát vì sự sáng tạo. Lịch sử văn chương nhân loại dù bên Đông hay Tây phương, dù truyện Kim Vân Kiều hay Trà Hoa Nữ thì đích điểm cuối cùng như quan điểm của Maxim Gorky, văn học chất chứa sự cao cả của nó, và những câu truyện hay vượt thời gian trong tác phẩm này thiết nghĩ cũng là tấm chân tình của nhà văn Khánh Lan, dành cho độc giả bằng sự trân trọng nhất

    Vit Hi Los Angeles.

    Ngày 02 tháng 03, năm 2021

  • Văn Thơ,  Viet-Hải

    Thử bàn về khía cạnh Nghệ Thuậtqua bài của Ngọc Cường.

    Nhà Văn Ngọc Cường

    “Cali phố xá đông người

    Bolsa Brookhust một trời sao quên”

    Hình như đất Cali vốn mở ngõ cho nhiều thân hữu, bạn bè đến đây rồi ít nhiêu họ đã bỏ quên con tim đầy ắp kỷ niệm với chốn đất thiêng Bolsa, bằng chứng khi đọc văn của tác giả Hệ Luy tôi yên tâm ý nghĩ mình đúng. Mời xem link bài tham khảo đính kèm.

    https://nhanvannghethuat.com/index.php/2019/05/15/doi-dong-ve-nghe-thuat-%EF%BB%BF/

    Bài viết “Đôi dòng về nghệ thuật” của nhà văn Ngọc Cường đã cho tôi nguồn cảm hứng dâng ngòi bút góp ý cùng anh. Trong tác phẩm Bâng Khuâng mới nhất của anh, sau văn tập Hệ Luy, nơi trang 1 giáo đầu là đề tài mang tính bàn luận, những trang giấy mở hàng bắt mắt tôi nhiều lắm. Ngọc Cường viết:

    “Một điều căn bản khi nói đến nghệ thuật, là xem nó là gì, thường nghệ thuật gồm 6 bộ môn chính như văn học, múa, kiến trúc, hội họa, sân khấu và âm nhạc, và gần đây thêm nghệ thuật thứ 7: ngành điện ảnh . Theo các cuốn từ điển thông dụng, từ nghệ thuật được định nghĩa rất vắn tắt và giản dị là … thực hiện hay diễn tả vẻ đẹp, thực tế … là sản phẩm trí thức và không là khoa học…”

    Trong 7 đề muc của phạm vi nghệ thuật mà anh liệt kê bên trên thì 2 mục văn học và hội họa đươc tác giả ghi nhận qua sách mới Bâng Khuâng. Đây cũng là 2 tiêu đề tôi xin chú trọng trong bài này. Khi nói về nghệ thuật (art) ta sẽ hiểu nó ra sao. Và nghệ thuật thường đi song hành với vẻ đẹp (beauty), trong cung cách nào đó ta cho là nét đẹp của mỹ thuật. Thế thì nghệ thuật là gì ?

    Nghệ thuật theo quan điểm của triết gia J.J. Rousseau (1712-1778) cho là “Nghệ thuật không phải là sự mô tả hay sao chép thế giới ta nhìn thấy, mà là cả một sự trào dâng của nguồn cảm xúc và của niềm đam mê”. Những tư tưởng khác như họa sĩ trường phái lập thể Pablo Picasso ghi nhận: “Nghệ thuật là tất cả mọi thứ bạn có thể tưởng tượng ra là có thật”. Còn theo họa sĩ Edgar Degas thuộc trường phái ấn tượng đồng thời với những vị như Vincent Van Gogh và Edouard Manet thì cho là “Nghệ thuật không phải là những gì bạn nhìn thấy, mà là những gì bạn làm cho người khác thấy được”. Với thi sĩ Oscar Wilde cho là: “Nghệ thuật là điều nghiêm túc duy nhất trên thế giới. Và nghệ sĩ là người duy nhất không bao giờ nghiêm túc”. Trong quan điểm của nhạc sĩ Amy Lowe suy nghĩ như: “Nghệ thuật là ước muốn của con người nói lên bản ngã của mình, ghi lại những phản ứng của ý nghĩ mình với thế giới xung quanh.”

    Riêng với danh họa Ý Agostino Carracci thuộc thời kỳ phục hưng của thế kỷ 16 nhìn vấn đề nghệ thuật là: “Một cái bóng mờ của những gì người nghệ sĩ đang nghĩ về một cái góc nhỏ qua những gì ông ta giữ bên trong tâm hồn”. Chung quy thì quan điểm nghệ thuật xuất phát từ sự suy nghĩ từ tâm hồn khiến nảy sinh ra tác phẩm.

    Nói đến Ngọc Cường hẳn nhiên không thể bỏ qua phạm trù chữ nghĩa hay sách vở, tổng quát hơn thì là khía cạnh văn học. Anh viết về nét văn hóa quanh chữ nghĩa như sau:

    “Sách được bầy bán nhiều quá, đầy trên kệ, còn la liệt trên bàn nữa.Không biết lựa chọn cuốn nào, dở trang đầu, đọc lướt qua mục “Lời Tựa”, tôi nhận thấy ở nhiều tác giả (thường là họ mới có tác phẩm đầu tay), hay nói về lý do cầm bút. Họ giải thích “tôi viết để mà viết …” , hoặc“tôi không dám tự nhận là một nhà văn …”Những câu tâm sự như vậy trở nên như một thông lệ ở phần đầu cuốn sách. Có thể do sự khiêm nhường hay dè dặt của họ, như để “rào trước đón sau”, phòng trường hợp có bị chê thì… vì tôi đâu phải một nhà văn? …Điều này theo tôi đáng tiếc, vì lẽ ít ra họ phải có chút tự tin, và cần được khích lệ vì một khi tác phẩm được xuất bản, hiển nhiên họ là một nhà văn ( theo định nghĩa) ,không nên tự phủ nhận một tất yếu như vậy ; Và một khi bỏ công ra viết là cố gắng hơn nhiều người, là điều đáng được khuyến khích, nếu không nên được khen thưởng? Người cầm bút không nên có mặc cảm. Mong độc giả rộng lượng, lên tiếng khuyến khích. Còn nếu nói viết chỉ để viết thì cũng không trọn nghĩa, vì một khi đã ra mắt , sách là để người khác đọc , nếu không , nên bỏ ở xó nhà chỉ là đống giấy lộn . J. P. Sartre trong bài tiểu luận“Văn Học Là Gì” đã khẳng định là một tác giả chỉ thành một nhà văn khi có người đọc. Thật vậy , tác giả nào chả mong có nhiều độc giả, còn nếu không thì đừng mang tác phẩm ra xuất bản – Sách bầy ra tất sẽ có người mua đọc. Và như vậy , động lực cầm bút (của một nhà văn ) , đầu tiên có thể chỉ là viết để mà viết, nhưng thật ra nó đã chứa đựng tiềm ẩn nhiều nguyên nhân : giải bày một tâm sự, chia sẻ một kỷ niệm .v.v…, và lý do khác như muốn thỏa mãn tự ái, kiếm chút danh vị… Nên, không thể nói : viết chỉ để viết đơn thuần, mà phải là viết cho người khác thưởng thức. Tất nhiên, cũng có nhiều cuốn hồi ký chỉ nhằm vào số nhóm độc giả chọn lọc nào đó ….Một tác phẩm không xuất bản, để quên vùi một xó, không ai biết thì vốn không là một tác phẩm nghệ thuật. Theo Tolstoy: sự thông tin, giao cảm giữa tác giả và người đón nhận tạo thành tác phẩm nghệ thuật. Nhật ký Ann Frank nếu không được ông bố cô bé đem ra in sau khi cô qua đời, thì cũng sẽ chỉ là một sản phẩm riêng tư, nó trở thành tác phẩm nghệ thuật khi được chia sẻ, có người thưởng thức. Sở dĩ nêu lên khía cạnh này, vì tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của độc giả. Theo tôi, dù tác giả có công sáng tạo, nhưng chính người đọc mới là sở hữu chủ của tác phẩm, ít ra thì đó là dưới quan điểm kinh tế của một cuốn sách. Còn về giá trị, hay hoặc dở là do chủ quan thưởng thức của người đọc quyết định. Một khi cuốn sách được xuất bản, nhiệm vụ nhà văn chấm dứt, như đứa con ( tinh thần ) đã trưởng thành.”

    Đoãn văn trên dùng ý tưởng của JP Sartre. Thật vậy, Jean Paul Sartre viết trong tác phẩm “Văn học là gì?” (Qu’est-ce que la littérature ?) về vai trò của văn học hay của nhà văn cần hai yếu tố: Tự Do và Dấn Thân, đươc tự do viết, dấn thân yêu và trung thành với ngòi bút, đam mê với văn chương.

    Văn học vốn được hiểu như một loại hình thức sáng tạo để nói lên những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Cách thức sáng tác của văn học có thể được tạo thành do yếu tố thực sự hay hư cấu, cách thức trình bày nội dung của đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương thường chỉ nhấn mạnh về vẻ đẹp, hoặc tính thẩm mỹ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng tác phẩm, sự hình thành kết quả qua sự biểu hiện cho đời sống thăng hoa hơn. Vĩ vậy văn học nói chung gồm có những thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca, kịch bản, bình luận biên khảo.

    Chủ điểm quan trọng như nhà văn Ngọc Cường đề cập điều kiện để được gọi là nhà văn hay để được gọi là tác phẩm là vẫn theo Sartre thì tự do tư tưởng, hay như bên trên sự tự do trong văn học là những khái niệm chính của nhà văn, nhà văn phải có hai yếu tố tự do và dấn thân (cam kết, éléments fondamentaux comme la liberté et de l’engagement) cho mục tiêu sáng tạo của nhà văn. Trong sự tự do sáng tạo nhà văn có tinh thần chấp thuận sự lựa chọn và phải ý thức trách nhiệm đối với sự lựa chọn đó. Đây là ý nghĩa của việc chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tự do tức là dấn thân viết, hay dấn thân trong tự do viết,…. Và nếu nhà văn là người có tự do khi sáng tác, thì người đọc cũng phải là người tự do khi đọc tác phẩm. Và nhà văn là người tự do nói với những người tự do, mà phải có chính đề tự do cần thiết mà thôi. Thế thì tác phẩm nghệ thuật là do giá trị bởi nó là tiếng gọi của nhà văn. Ngọc Cường nói đến yếu tố phê bình văn phẩm. Tác giả rào đón trong bút pháp chân chất, khiêm nhu theo ý tôi…

    “Thường khi cầm bút viết về một đề tài gì, tác giả nếu không qua sự tìm tòi, nghiên cứu thì cũng phải được đào tạo chuyên môn về đề tài đó. Tác giả hẳn có đủ hiểu biết, nắm vững những gì viết ra. Đó là điều kiện tối thiểu, để tôn trọng chính mình và cả độc giả. Độc giả không dễ bị lừa: Bởi qua đôi giòng đầu sách, có thể họ tin vào tác giả mà không cần suy xét sâu xa; nhưng khi càng đọc họ càng thêm khám phá ra những điều sai hay phi lý của toàn bài… Như vậy điều kiện tiên khởi của một tác giả là biết về điều mình viết .

    Xét riêng về cá nhân, tôi đang viết về đề tài văn chương, cống hiến và mua vui quý vị mà tôi chẳng có khả năng chuyên môn gì về văn học nghệ thuật cả ! Tại sao tôi lại dám liều mạng, cả gan đến vậy? Câu trả lời thực sự nằm trong nội dung bài này. Hy vọng rằng khi đọc xong lời bạt , quý vị có được sự thông cảm … và đồng ý với tôi là : riêng nghệ thuật, điều kiện đó là một ngoại lệ , ai cũng có thẩm quyền nêu ý kiến, không riêng gì các nhà nghiên cứu hay văn nghệ sĩ mà thôi.”

    Đọc văn Ngọc Cường như trên, tôi suy nghĩ về tư tưởng sau để góp lời với anh. Lão Tử nói với nhà văn Ngọc Cường rằng: “Bởi vì một người tin vào chính mình, một người không cố gắng thuyết phục dược người khác. Bởi vì một người hạnh phúc với chính mình, một người không cần người khác. Bởi vì một người chấp nhận ra chính mình, cả thế giới chấp nhận anh hoặc cô ấy nhá. “, Lão Tử ngôn (“Because one believes in oneself, one doesn’t try to convince others. Because one is content with oneself, one doesn’t need others’ approval. Because one accepts oneself, the whole world accepts him or her.”, Lao Tzu).

    Nhà văn Katherine Mansfield góp ý với nhà văn Ngọc Cường: “Hãy liều mạng đi nhé! Đừng quan tâm đến ý kiến ​​của những ai khác,… Hãy làm điều khó nhất trên đời này vì ta. Hãy hành động vì chính mình. Hãy đối mặt với sự thật.” (Risk anything! Care no more for the opinion of others … Do the hardest thing on earth for you. Act for yourself. Face the truth.)

    Nhà văn kiêm bác sĩ giải phẫu mắt (eye surgeon) Dr. Roopleen cho lời thật lòng đến nhà văn Ngọc Cường: “Nếu bạn có một giấc mơ, đừng chỉ ngồi đó mà mơ. Hãy gồng hết can đảm để tin chắc rằng bạn có thể thành công và hãy vượt qua bất kỳ trở ngại nào để biến nó thành hiện thực!” (If you have a dream, don’t just sit there. Gather courage to believe that you can succeed and leave no stone unturned to make it a reality!), Dr. Roopleen.

    Thêm nữa nhé. Vị Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ Theodore Roosevelt cho ý kiến đến với tác giả Bâng Khuâng: “Hãy tin tưởng rằng bạn có thể dư sức qua cầu và bạn đang ở giữa chừng rồi.” (Believe you can and you’re halfway there.), Theodore Roosevelt.

    Trong tác phẩm Bâng Khuâng tác giả nhà văn Ngọc Cường dùng cả hai lối văn đôc thoại (monologue) như bài “Đôi dòng về nghệ thuật”, và lối văn đối thoai (dialogue), anh dùng khá chuẩn và thành công, ví dụ nhưng trong các bài: Yêu và Hận, Long và Thủy, Dưới Ánh Đèm Màu, Anh em cột chèo,…

    Ngọc Cường nói về văn học, viết văn chương, rồi tản mạn bàn về lý luận và phê bình qua bài tham luân vế nghệ thuật. Anh nói văn học dùng phương pháp khoa học nghiên cứu văn chương, trong khi văn chương thuần túy là sáng tạo do diễn đạt xúc cảm, như định nghĩa của nó. Anh dùng lối hành văn đàm thoại. Khi vận dụng lý thuyết đối thoại, tức theo lý thuyết văn học của Bakhtin. Lý thuyết đối thoại theo Mikhail Bakhtin và những nhà nghiên cứu văn học hậu nhân chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp như Julia Kristeva, Tzvetan Todorov, Roland Bathes, Michel Foucault, Jacques Derrida, … là đã dùng điểm tựa vào lý thuyết đối thoại, để rồi sau này đối thoại thực sự trở thành nguyên lý chi phối toàn bộ văn học ở các nơi, trong đó có chúng ta. Hành văn lối tiểu thuyết là thể loại in đậm dấu ấn của nguyên lý này. Nguyên lý của lý thuyết đối thoại Mikhail Bakhtin xuất phát từ những đặc điểm thi pháp học của thể loại tiểu thuyết. Ngoài ra, trong quá trình phát triển lọai văn này, các nhà phê bình văn học có dịp đào sâu nó trong cung cách sử dụng của các nhà văn hậu bối, cũng để vận dụng lý thuyết Bakhtin qua các trường học, các lớp hậu hiện đại để nghiên cứu về lịch sử văn học.

    Đối thoại là lối văn tiêu biểu những phong cách tân văn kể từ hậu phong trào tiểu thuyết Dostoievski. Vượt qua phạm vi tác giả tiên khởi Dostoievski, văn chương đã đổi mới. Trong ngôn ngữ đối thoại vốn mang tính đa thanh, đa âm giữa các nhân vật trong truyện, điều Bakhtin chú trọng nhất là lời nói. Chính lời nói là đặc trưng tạo nên tính đối thoại rõ nét nhất của tiểu thuyết. Tác phẩm dược tạo ra do công trình sáng tạo văn chương với tính đa thanh, đối thoại của nó diễn ra trong nội dung tư tưởng trong văn bản nói chung ở thể loại thơ (thi ca), hay truyện ngắn ví dụ ngày xưa của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và nhiều tác giả khác, hoặc tiểu thuyết qua các phương diện: ngôn ngữ, giọng điệu, cách nhìn vào bố cục văn phong, tương ứng về thể loại văn chương. Ngày nay khi nhìn lại phong trào tiểu thuyết Dostoievski, hay lý thuyết đối thoại Bakhtin là cả một sự tiến bộ cho thế giới văn học nói chung.

    Nói về trường phái ngôn ngữ học xuyên qua lý thuyết Bakhtin được cấu trúc tân tiến như hiện nay, song song ta xét tiếp về văn học do Roland Barthes nói về văn bản, khi ta đi từ tác phẩm văn học sang văn bản (literal texts, literal works hay textes littéraux, œuvres littérales) có thể nói Barthes là người thành công nhất trong việc thực hiện nhiệm vụ chính yếu nói trên. Xem xét lại khái niệm liên văn bản của nhà vặn Julia Kristeva, chính nhờ Barthes đã tạo cho nó một cái tên gọi mới ngắn gọn và mạnh mẽ hơn, đó là “Văn Bản”, mà ý muốn của Barthes cần nhấn mạnh về mặt thuật ngữ. Từ ngữ “văn bản” có nghĩa là “tấm dệt”, “mạng lưới”, “tấm vải”, và nếu vào những năm 1970, nguyên mẫu “văn bản” của Barthes thường là “Thiên Hà của Gutenberg” (Gutenberg’s Galaxy), hoặc dưới tên “Thư viện của Borges” (Borges’s Library) thì ngày nay, hình ảnh thích hợp nhất với nó là “siêu văn bản” qua hình thức các máy vi tính hay điện toán chứa dữ liệu (datafiles) như một “tấm dệt”, hay là “mạng lưới toàn cầu” (world wide web) truyền đi toàn thế giới”.

    Xem tiếp Ngọc Cường qua đoạn kế…

    “Văn học bao gồm cả văn chương nhưng cộng thêm về lý luận và phê bình.Có thể nói văn học dùng phương pháp khoa học nghiên cứu văn chương, trong khi văn chương thuần túy là sáng tạo do diễn đạt xúc cảm , như định nghĩa của nó.Văn chương (thơ và văn xuôi) là nghệ thuật dùng chữ để diễn tả tư tưởng và cảm xúc.Như vậy,trước khi nói đến văn chương, ta thử tìm hiểu rõ thêm xem nghệ thuật là gì?

    Từ lâu, cách đây trên hai ngàn năm, Plato đã tìm về ý nghĩa của nghệ thuật; và từ đó đến nay, nhiều người cũng đã làm công việc này nhưng vẫn chưa ai hoàn thành vì nó phức tạp và khó khăn cho định nghĩa nghệ thuật. Văn hào Tolstoy nước Nga đã viết một cuốn sách nhỏ (Nghệ Thuật Là Gì, Tolstoy,1896), chỉ nhằm định nghĩa hai từ nghệ thuật! Dù vậy, định nghĩa của Tolstoy vẫn chưa toàn hảo,chính xác. Một tiêu chuẩn Tolstoy nêu ra (ngoài rất nhiều chi tiết khác) là : nghệ thuật không phải để giải trí ,mua vui mà là phương tiện giao cảm giữa tác giả và người khác… Điều này ….có vẻ trái với ý của cụ Nguyễn Du nước ta , khi cụ viết :

    “Lời quê chắp nhặt dông dài ,

    Mua vui cũng đươc một vài trống canh.”(câu kết của Truyện Kiều )”.

    Ngọc Cường ghi nhận về văn học hay văn chương qua lăng kính lý luận và phê bình. Khi nói về ý niệm nghệ thuật ta có thể xét qua quan điểm của triết gia Kant cho là “Nghệ thuật vị nghệ thuật” (L’art pour L’art, Art for Art’s Sake, French slogan from the early 19th century, “l’art pour l’art”, and expresses a philosophy that the intrinsic value of art, and the only “true” art, is divorced from any didactic, moral, or utilitarian function), còn được gọi là nghệ thuật thuần túy. Đây là một nguyên lý mỹ học duy tâm, chủ trương nghệ thuật độc lập với đời sống xã hội và chính trị, khước từ sứ mệnh của nghệ sĩ trong sứ mạng đấu tranh xã hội, thường dùng nền tảng lý luận cho các trường phái và khuynh hướng văn học có thái độ bất hòa với những vấn đề hiện thực, tìm lối thoát qua hình thức chủ nghĩa (Formalism). Lý luận này bắt nguồn từ những luận điểm mỹ học của triết gia Immanuel Kant (1724 – 1804), nhà triết học duy tâm cổ điển Đức, cho rằng cái đẹp của nghệ thuật là tự nhiên phát sinh ra, không thể tính toán, vụ lợi trong bất cứ mục tiêu nào khác ngoài chính bản thân nghệ thuật mà thôi. Đến thế kỷ XIX, nhiều nhà lý luận, nhà văn, nhà thơ ở Đức và Pháp đã phát triển tư tưởng này nhằm tách rời văn học nghệ thuật ra khỏi đời sống xã hội, phủ nhận ý nghĩa nhận thức và giáo dục tư tưởng, phủ nhận sự phụ thuộc của nghệ thuật vào những yêu cầu thực tiễn của thời đại. Và từ đó, trước sau sẽ dẫn đến chỗ khẳng định nghệ sĩ phải đươc “tự do” khai phá, hay sáng tác, không có trách nhiệm với xã hội, tức là đến chủ nghĩa cực đoan. Đó là mầm mống của các trường phái văn học ở cuối thế kỷ XX như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa đa đa (Multiplism), chủ nghĩa số nhiều (Pluralism), chủ nghĩa vị lai (Futurism, Prospectivism),… Ta thấy có quan diểm của JP Sartre (Existentialism), Nhất Linh (Tự Lực Văn Đoàn) trong đề tài.

    Quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” hay L’art pour L’art (Art for Art’s Sake) tương phản với chủ trương của trường phái “Sự tự chủ của nghệ thuật” (Sự tự chế của nghệ thuật, hay Pseudo-Autonomy of Art, Its frame distinguishes art from non-art, provides it with the appearance of autonomy and gives it entry into history. The frame changes the context of art. It removes the painting from the viewer’s world. The space between framed art and viewer is discontinuous). Vì những mâu thuẫn về sự suy nghĩ hay chủ trương nên có dạo lịch sử ghi nhận cả hai hê phái Nghệ thuật vị nhân sinh và Nghệ thuật vị nghệ thuật. Người viết bài hơi ba phải, vì đứng bên nào thấy cũng phải cả, tùy trường hợp nhé. Nếu duy tâm lãng mạn thì vị nghệ thuật. Nếu đương đầu với việc chính trị hay xã hội ta suy nghĩ mất ngủ luôn nhé. Thực ra thì sự phát triển cái nhìn duy tâm về nghệ thuật của những người chủ trương Nghệ thuật vị Nghệ thuật, đã đề cao nghệ thuật thuần túy đều công khai hoặc kín đáo đối với thực trạng xã hội và chính trị theo một cung cách nào đó. Khó nói lắm, uốn lưỡi 7 lần theo nhà hiền triết Socrates mà vẫn bâng khuâng tơ trời như ông Hệ Lụy vậy. Xem tiếp Ngọc Cường ở đoạn cuối qua những ghi nhận về nghệ thuật…

    “Nói chung, nghệ thuật phản ảnh cuộc sống nên cũng mơ hồ, phức tạp như thế; và giá trị của nghệ thuật mang tính chủ quan, không thể chỉ do các nhà phê bình đơn thuần cho là hay hoặc dở, đẹp hay xấu, mà chỉ có nhận định chủ quan của người thưởng ngoạn quyết định. Nếu khai triển thêm ra, nghệ thuật là sáng tạo có tính hấp dẫn: khen chê là do quyết định của người nhận, độc giả, thính giả hay người xem tranh …Trước kia, khi mới được khai sanh,trường phái họa “ấn tượng”ở Pháp đã bị chê bai gắt gao, ngay cả danh hiệu của họ (impressionism, môn phái ấn tượng ) xuất phát từ bức tranh “Ấn tượng, một buổi bình minh” của Claude Monet bị nhà phê bình Louis Leroy gắn cho cái tên “Bọn Ấn Tượng” một cách mỉa mai qua bài đăng trên báo Le Charivari. Không ngờ từ đó Ấn Tượng lại trở thành môn phái quan trọng trong nền hội họa: và gần đây, ở nước ta thấy xuất hiện một văn phái, họ viết rất hấp dẫn, dùng nhiều từ khó hiểu, ra vẻ cao siêu, đầy triết lý mà độc giả bình thường không hiểu nổi. Xin thí dụ một đoạn như sau “….tiểu thuyết Việt-Nam hiện nay, không phải là xác nhận một trở thành đã hoàn tất, mà là theo dõi những chặng đường của một vận động đang tuần tự hình thành. Vận động đó là một vận động của ý thức, một vận động của nghệ thuật…” ( Mai Thảo,1965) : Những luận điểm như trên khó hiểu và dễ làm lẫn lộn, hoang mang người đọc. Họ tự nhận là nhóm sáng tạo, gay gắt với trào lưu văn nghệ tiền chiến, nhưng hình như họ muốn đồng nghĩa khó hiểu với xâu sắc, tối nghĩa với triết lý. Sự thật, chuyện bình thường và giản dị trên đời như tình yêu, gia đình, vui, buồn … là những vấn đề sâu xa nhất của con người. Nhóm sáng tạo là môn phái lập dị thì đúng hơn (Lê Huy Oanh, Về thơ tự do, 1957 ). Dù sao, chỉ có thời gian mới là quan tòa, mới có lời phê phán cuối cùng cho nghệ thuật: Tác phẩm có giá trị khi nó vượt được thử thách của thời gian và không gian ( Nhất Linh,Viết và đọc tiểu thuyết,1958 ).

    Nếu đồng ý như vậy, ta có thể nói rằng không có tác phẩm nào tuyệt hảo cả: Nói cho cùng thì dù chỉ được một độc giả yêu thích cũng đem niềm vui cho tác giả. Nghệ thuật rõ rệt là chủ quan và phi thời trang nhưng lại mang tính dân chủ (số đông quyết định giá trị). Như trường hợp của Van Gogh, cả một đời vẽ tranh ( rất nghèo lại vắn số, chết sớm) chỉ bán lèo tèo vài bức (dù người em là môi giới hội họa đã cố gắng giúp anh). Thế mà ngày nay, bức“Hoa Diên Vỹ”( Irises,1889) được bán với giá mấy chục triệu đô! Cùng số phận hẩm hiu với Van Gogh là nữ văn hào Emily Bronte, tác giả cuốn “Đỉnh Gió Hú”( Wuthering Heights,1847) khi xuất bản đã không được độc giả hưởng ứng mà phải chờ đến cả trăm năm sau mới có lời khen. Ngày nay, tác phẩm duy nhất này của bà trở thành một tuyệt tác của thế giới, được mọi người, mọi nơi công nhận! Sự kiện tương tự sẽ là niềm an ủi cho nhiều nghệ sĩ không thành công ngày hôm nay ( trong đó có tôi, nói một cách tự an ủi),và hy vọng rằng có thể sau này, vài chục năm nữa, sẽ có người yêu thích? Phải chăng con người bao giờ cũng bám víu và sống với chút hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn hôm nay?

    Thẩm mỹ , hay cái đẹp, – đối tượng chính của nghệ thuật- hiển nhiên là do nhận định chủ quan mỗi người , nhưng liệu ta có thể tìm thấy một tiêu chuẩn, hay mẫu số chung , dựa vào đó , mọi người cùng đồng ý hoặc chấp nhận, dù họ ở đâu và sống ở bất cứ thời đại nào? Lúc trước , khi xem hình ảnh bên Phi Châu chụp mọi cà răng căng tai, ít ai coi đó là thẩm mỹ , mà còn cho là man di mọi rợ , nhưng đâu ngờ , gần đây, ngay ở Bolsa bên Mỹ , lại xuất hiện người đi căng tai , chà răng và đeo vòng ở lưỡi ! Theo tôi, vẻ đẹp (có lẽ) phát xuất từ ấn tượng người tiền sử cảm nhận qua thiên nhiên (tranh vẽ, khắc trên đá, mô tả thú vật ở hang Lascaux, Pháp, khoảng 20,000 ngàn năm trước) và sau này, khi lòai người đã hợp quần thành xã hội), thì từ tình yêu , trước tiên là tình mẫu tử , đôi lứa , vợ chồng …rồi nâng cao, biến dạng trở thành lòng trắc ẩn, thương yêu đồng loại. Không khác gì các giống vật hợp quần (con kiến, loài ong…) để duy trì giống nòi , con người phải hy sinh ; và khi sống cho tha nhân, cảm thấy thỏa mãn vì đó là bản tánh chân thật của mình (Nhân chi sơ tính bản thiện, Khổng Tử, 500 năm trước Công Nguyên).Thâm tâm con người , không một ai muốn gây đau đớn sầu khổ cho người khác. Phải chăng , tội ác do hoàn cảnh gây ra , vì mà có ai thực sự làm chủ được vận mệnh của mình đâu , nếu như vậy : ý chí tự do ( free-will ) chỉ là một ảo tưởng , như người ta thường ví : cuộc đời là một vở kịch hay canh bạc , trong đó , con người đóng một vai hay tùy thuộc vào may mắn ! Vậy tôi là ai ?

    Nếu một tác phẩm là đứa con tinh thần của người sáng tác, thì sự liên hệ giữa tác giả và tác phẩm rất mật thiết, như chuyện của một gia đình:Vì lẽ đó,muốn hiểu thấu đáo bức tranh, hoặc cuốn tiểu thuyết , sự hiểu biết về tác giả giúp ta tận hưởng rõ hơn tác phẩm của họ. Nhưng ta cũng tránh có quan điểm quá khích: như ghét tác giả ( vì lý do gì đó, chính trị chẳng hạn) rồi vơ đũa chê tác phẩm của họ luôn! Ngược lại, cũng đừng tôn thờ tác giả như là một fan của họ (nguyên ngữ từ fanatic ra, nghĩa quá khích).

    Nghệ thuật không là bản sao chép thiên nhiên mà là cách diễn tả cuộc đời qua nhận thức của tác giả- Phải chăng con người nhìn mọi thứ trên đời qua nhận thức chủ quan của mình- Nhưng chính nhờ đó mà tác phẩm trở nên sống động , như được tái sinh, có cuộc sống thứ hai, vì vậy đã đem lại sự thích thú cho người thưởng ngoạn: thu hút họ, làm như chính họ được sống như một nhân vật trong truyện dù câu chuyện đã xẩy ra cả trăm năm trước ; hay chính mình, như họa sĩ, đang đứng trước cảnh của bức tranh , dù ở một nơi ta chưa hề đặt chân tới .Đó là sự kỳ diệu của nghệ thuật,chứ không phải vấn đề triết lý cao siêu.Câu hỏi nên đặt ra, không phải là“con người,cuộc sống là gì?”mà trở thành“Cái gì có thật trên cõi đời này?”(Rainer Rilke,1912 );và đối với người nghệ sĩ thì cảm giác phải là thật (Bạn cứ thử đá chân vào hòn đá thì biết!).

    Để kết luận, có thể nói, nghệ thuật có rất nhiều mục đích, tùy quan niệm của tác giả: như giúp ta trở nên cao thượng, tận hưởng cuộc sống hơn( như nhận xét của Thạch Lam, Nhất Linh), giải bầy vấn đề triêt lý ( như Sartre, Camus) .v.v..nhưng theo tôi, tất cả những mục đích ấy chỉ là phụ, đến sau, không chủ tâm , nhưng xuất hiện như mấy phản ứng phụ của thuốc tây (side effect ) mà có thể lại mãnh liệt hơn cả mục đích chính là mua vui dù là một thú đau thương! Nghệ thuật phải có tính hấp dẫn trước nhất, để giải trí thiên hạ (Nguyễn Du), một món ăn tinh thần cho công chúng. Nếu không có tính hấp dẫn thì nghệ thuật không tồn tại và sẽ không truyền đạt các mục đích khác nữa được.

    Phải chăng,với chủ quan và hiểu biết hạn hẹp,tôi đã vừa liều lĩnh trả lời về điều kiện tối thiểu của người viết nêu ra ở phần đầu : đó là ai cũng có thẩm quyền bàn về nghề thuật cả ? Xin cảm tạ quý độc giả. Ngọc Cường.”.

    Hinh kèm hôm ra mắt sách Bâng Khuâng
    của nhà văn Ngọc Cường và nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật 
    và Tiếng Thời Gian.

    Sau cùng nhà văn Ngọc Cường còn có thú thưởng ngoạn bộ môn hội họa. Ở bìa sách Bâng Khuâng và phần Phu lục anh trình bày bức họa nổi danh “La Nuit Etoilée aux Carrières de Lumières” (à Saint-Remy-de-Provence) của họa sĩ Van Gogh. Với những vòng xoáy quyến rũ, bố cục tranh cho vẻ say đắm và màu sắc đầy mê hoặc, Đêm đầy sao (“La Nuit Etoilée”) của Vincent van Gogh là một trong những tác phẩm nghệ thuật được yêu thích và nổi tiếng nhất thế giới. Trong sự sáng tạo và thành công cuối cùng này như nội dung câu truyện có nhiều điều lý thú về Đêm đầy sao này mà khách thưởng ngoạn có thể biết.

    Ôn sơ qua về tiểu sử của Van Gogh, ông sinh ngày 30 tháng 3 năm 1853 – 29 tháng 7 năm 1890, là một danh hoạ Hòa Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng (Post-Impressionism). Nhiều bức tranh của ông nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và giá đắt nhất trên thế giới. Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện (Expressionism) và có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism) và trường phái biểu hiện tại Đức.

    Tranh La Nuit Etoilée mô tả quan điểm của Van Gogh từ một trại tị nạn. Sau khi trải qua một lần ông bị suy sụp tinh thần vào mùa đông năm 1888, van Gogh đã tự mình đến nhà tị nạn Saint-Paul-de-Mausole gần Saint-Rémy-de-Provence. Quan điểm nghệ thuật đã trở thành nền tảng của tác phẩm mang tính biểu tượng nhất của ông. Từ cảm hứng của mình, van Gogh đã viết trong một trong nhiều lá thư của mình cho em trai Theo, “Sáng nay anh thấy đất nước mình từ cửa sổ rất lâu trước khi mặt trời mọc, không có gì ngoài ngôi sao buổi sáng, trông thật to lớn.”

    Các nhà sử học nghệ thuật đã xác định rằng van Gogh có một số quyền tự do với góc nhìn từ cửa sổ phòng ngủ tầng hai của ông, một lý thuyết được hỗ trợ bởi thực tế là studio vẽ mà ông vẽ ở tầng một của tòa nhà. Ông viết: “Qua cửa sổ có rào chắn bằng sắt. Tôi có thể thấy một quảng trường lúa mì kèm theo trên đó, vào buổi sáng, tôi nhìn thấy mặt trời mọc trong tất cả nét vinh quang của nó.”

    Ngôi làng từ hướng cửa sổ của mình, van Gogh sẽ không thể nhìn thấy vùng Saint-Rémy. Tuy nhiên, các nhà sử học nghệ thuật có những nhận xét khác nhau về việc ngôi làng được trình bày trong bức The Starry Night được lấy từ một trong những bản phác thảo than của thị trấn Pháp hay nếu nó thực sự thì có thể được lấy cảm hứng từ quê hương Hòa Lan. Đêm đầy sao cho thấy tỷ lệ tử vong, khi nhìn các ngọn tháp tối ở phía trước là cây bách, loại cây thường liên quan đến nghĩa trang và cái chết. Mối liên hệ này mang một ý nghĩa đặc biệt đối với câu nói của Van Gogh này, “Nhìn những ngôi sao luôn khiến tôi mơ ước. Tại sao, tôi tự hỏi mình, không nên cho những chấm sáng trên bầu trời có thể thêm vào như những chấm đen trên bản đồ nước Pháp? Ngay khi chúng tôi đi tàu để đến Tarascon hoặc Rouen, chúng tôi sẽ chết để đến được một ngôi sao.”, ông viết.

    Tranh Đêm đầy sao nổi tiếng thế giới được vẽ vào năm 1889. Nhưng năm trước, van Gogh đã tạo ra Đêm đầy sao ban đầu của mình, đôi khi được gọi là Starry Night Over The Rhone. Sau khi đến Arles, Pháp vào năm 1888, van Gogh đã bị ám ảnh một chút với việc chụp ánh sáng của bầu trời đêm. Ông đã tìm hiểu mô tả trong tranh Cafe Terrace trên Diễn đàn Place du, trước khi dám thực hiện bản phác thảo Starry Night đầu tiên của mình với tầm nhìn ra sông Rhone.

    Xem thêm các tác phẩm ta biết đến như là tranh Saint-Paul Asylum, loạt tranh vẽ ở Saint-Remy, ông viết cho người em Theo: “Tất cả trong tất cả những điều duy nhất anh xem là tốt mà trong đó là các bức Wheatfield, Mountain, the Orchard, the Olive những cái cây với những ngọn đồi xanh và Chân dung và Lối vào mỏ đá, và phần còn lại không nói gì theo ý anh.”

    Van Gogh vô tình vẽ Venus. Vào năm 1985, nhà sử học nghệ thuật thuộc trường UCLA Albert Boime đã so sánh Starry Night với một trò giải trí trên hành tinh về cách bầu trời đêm sẽ xuất hiện vào ngày 19 tháng 6 năm 1889. Sự tương đồng rất đáng chú ý và đã chứng minh rằng “ngôi sao buổi sáng” của Van Gogh như được đề cập trong bức thư của ông gửi em trai của ông, thực tế là hành tinh Venus.

    Buồn thay cho số nghềo Van Gogh chỉ bán một hoặc hai bức tranh trong cuộc đời của mình và cũng không phải là bức Đêm đầy sao. Một trong những người được biết chắc chắn đã được bán là bức The Red Vineyard tại Arles, ít được biết đến hơn, được hoàn thành vào tháng 11 năm 1888, trước khi sự cố khiến ông phải đi tị nạn. Nghệ sĩ và nhà sưu tập người Bỉ Anna Boch đã mua nó với giá 400 franc tại triển lãm Les XX năm 1890. Ngày nay, bức tranh lịch sử này được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Pushkin ở Moscow. Nhưng có bằng chứng cho thấy van Gogh đã bán bức tranh thứ hai. Trong tiểu sử của mình về nghệ sĩ, nhà sử học Marc Edo Tralbaut đã nói về một lá thư của Theo nói rằng một trong những bức chân dung tự họa của Van Gogh đã tìm đến một đại lý nghệ thuật ở London.

    Bức tranh Đêm đầy sao được hai lần sở hữu bởi góa phụ Theo. Sau cái chết của van Gogh năm 1890, Theo được thừa hưởng tất cả các tác phẩm của em trai của mình. Nhưng khi người em qua đời vào mùa thu năm 1891, vợ của ông là Johanna Gezina van Gogh-Bonger đã trở thành chủ nhân của Đêm đầy sao và những bức tranh khác. Đó là van Gogh-Bonger, người đã thu thập và chỉnh sửa thư từ của anh em ông để xuất bản, và bà được ghi nhận với việc xây dựng danh tiếng sau khi chết của Van Gogh, nhờ vào sự quảng bá rộng rãi của Johanna về thành quả của công việc triển lãm..

    Năm 1900, van Gogh-Bonger đã bán Starry Night cho nhà thơ người Pháp Julien Leclerq, người đã sớm bán nó cho nghệ sĩ hậu ấn tượng Émile Schuffenecker. Sáu năm sau, Johanna đã mua lại bức tranh từ Schuffenecker để bà có thể chuyển nó đến Phòng trưng bày Oldenzeel ở Rotterdam, Hòa Lan.

    Đó là bức tranh van Gogh. Còn ở trang 11 sách Bâng Khuâng, Ngọc Cường cho trưng bức tranh Bữa trưa trên cỏ của họa sĩ Édouard Manet.

    Édouard Manet (1832 – 1883) là một danh họa người Pháp, nổi tiếng với phương pháp vẽ hiện đại trong hội họa. Manet luôn tự nhận mình đi theo trường phái hiện thực. Tuy nhiên, vào năm 1868, sau buổi gặp gỡ với các họa sĩ theo trường phái ấn tượng, Manet quyết định sẽ kết hợp cả hai trường phái lại. Kể từ đó, ông trở thành bậc thầy khi kết hợp 2 trường phái này tưởng chừng chẳng ăn nhập gì với nhau.

    Bữa Trưa Trên Cỏ là một trong những tác phẩm thành công nhất của Édouard Manet và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Louvre nước Pháp. Bữa Trưa Trên Cỏ đáng giá vì nó khác biệt với những bức tranh đương đại cùng thời về bố cục, kích thước và nhân vật trong tranh.

    Về bố cục tranh Bữa Trưa Trên Cỏ được lấy cảm hứng từ hai bức vẽ Italy vào thế kỷ 16 là Buổi Hòa Nhạc Đồng Quê (The Pastoral Concert, Le Concert Pastoral) và Phán Xét Của Paris (The Judgment Of Paris, Le Jugement de Paris).

    Sau cùng, bài viết này được tản mạn lãng đãng từ những ý niệm trong đề tài “Đôi dòng về nghệ thuật” của nhà văn Ngọc Cường ghi nhận về nghệ thuật và những khía cạnh của nó.

    Nhà văn Ngọc Cường viết về những cảm nghĩ chung cuôc về nghệ thuật. Nghệ thuật dù bị áp lực chính trị chi phối hay bị trấn áp, khủng bố, nghệ thuật bị cám dỗ bởi duy tâm lãng mạn cũng hại chúng ta.. Phải chăng nghệ thuật là con dao hai lưỡi. Người nghệ sĩ hãy chọn khuynh hướng sao cho thích hơp cho mình. Đoạn văn dưới đây là phấn kết thúc bài viết chung của hai chúng tôi.

    “Có lẽ phải đợi một trăm năm sau vấn đề chính trị mới không còn ảnh hưởng đến nghệ thuật nữa chăng.. Mục đích của nghệ thuật là mua vui, và đôi khi sự hiểu biết nhiều về tác giả hay tác phẩm cũng chỉ làm giảm thú thưởng ngoạn: Như khi còn trẻ, tình yêu bao giờ cũng đẹp hơn người yêu, có nhạc sĩ than thở: “làm sao giết được người trong mộng!” Là một “fan” hay bị lung lạc bởi tác giả là quan niệm ấu trĩ về nghệ thuật vì, như đã nêu ở trên, chính kẻ thưởng ngoạn làm chủ tác phẩm.. Hãy trả lại chủ quyền cho khán thính giả, cho giới thưởng ngoạn.

    Bàn về nghệ thuật, có lẽ nếu đi sâu quá thì sẽ không cần thiết và lâm vào lãnh vực chuyên môn của mấy nhà khảo cứu triết học. Tuy nhiên, là một độc giả, khán thính giả bình thường, ta cũng nên có một xác định rõ rệt về sở thích của riêng mình. Cũng như khi cầm ly rượu lên uống, không cần biết nó đắt tiền, giá bao nhiêu mà chỉ cần biết là nó ngon với mình, như vậy là đủ rồi.”

    Việt Hải và Ngọc Cường
    6/2019

  • Văn Thơ,  Việt Hải

    Tây Ninh Quê Tôi – Việt Hải

    Tây Ninh Quê Tôi – Việt Hải

    Tây Ninh là quê hương tôi, vì tôi ra đời tại đó, dù không sống tại đó lâu, nhưng những năm tháng về nơi này nghỉ hè cũng đủ cho tôi cái tình thân ái của những năm tháng thiếu thời. Gần 3 thập niên xa quê hương ngoài ý muốn, tâm tư tôi vẫn không nguôi ngoai nhìn về cố quốc trong nhung nhớ, mặc dù quê hương vẫn còn chìm đắm trong sự tụt hậu so với các lân lang. Người dân chịu nhiều thiệt thòi nhất trong lịch sử quê hương. Để nhẹ nhàng cho bài viết, tôi không đi sâu về sự tụt hậu này, mà lý do ly hương của đa số người Việt tại hải ngoại đã nói lên đủ rồi. Do đó, khi tìm hiểu về vùng đất nào đó, người ta thường bàn về các yếu tố như lịch sử, địa dư, phong cảnh, di tích và thức ăn hay thổ sản tiêu biểu. Trong ý niệm như vậy cho bài viết ngắn này, tôi xin phác họa những nét đại cương về Tây Ninh hay về quê hương tôi như trong phần sau.

    ĐỊA DƯ:

    Về địa lý, Tây Ninh cách Sài Gòn 99km về hướng bắc, chu vi dài 214km. Phía bắc Tây Ninh tiếp giáp với tỉnh Kompong Cham của Cao Miên, phía nam giáp tỉnh Hậu Nghĩa, phía đông giáp tỉnh Bình Dương và phía tây giáp 2 tỉnh Prey Veng và Svay Rieng của Cao Miên. Do đó, khi nhìn vào bản đồ địa lý thì Tây Ninh có biên giới chia chung với xứ láng giềng Cao Miên khá nhiều. Về diện tích thì Tây Ninh choáng khoảng 3850km vuông. Địa thế Tây Ninh quan trọng là vì nằm ngay trên trục giao thông nối liền Sài Gòn sang Miên. Tây Ninh nằm trên địa thế khá cao là 15 mét trên độ cao của mặt biển. Về khí hậu thì Tây Ninh rất nóng, ẩm ướt vào mùa nóng bức, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.

     LỊCH SỬ:

    Điểm qua về lịch sử Tây Ninh là vùng đất của Thủy Chân Lạp, có tên là Romdum Ray, tức Chuồng Voi (Pare aux éléphants) vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dữ mà cọp, voi, beo, rắn.. cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt di cư đến định cư khai khẩn đất đai từ Hốc Môn lên Trảng Bàng, rồi qua Gò Dầu lên tận núi Bà Đen. Vì người Việt đến định cư mang theo ngôn ngữ, phong tục, tập quán hay văn hóa khác với người Miên, nên khi người Việt tràn đến đâu thì người Miên tự động lui về hướng tây tức vào sâu sang biên giới nước họ. Khi đó

    đất Tây Ninh được Triều Đình Huế sáp nhập vào nền hành chánh của tỉnh Gia Định (tức Phiên An trấn). Khi Chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh đuổi bỏ chạy vào Nam, ông chạy lên Tây Ninh ẩn náu, tìm đường sang Miên, rồi bắt liên lạc cầu viện quân Xiêm trợ giúp đánh lại Nhà Tây Sơn. Tuy vậy, Nhà Tây Sơn đánh bại quân Xiêm. Năm 1789, Chúa Nguyễn nhờ đến viện binh là quân Pháp sang giúp. Năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh dẹp xong Nhà Tây Sơn và lên ngôi lấy vương hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Đại Nam. Đến thời kỳ Vua Thiệu Trị và Tự Đức, quan Thủy Chân Lạp hay Cao Miên đem quan sang đánh phá muốn chiếm lại đất đai, Tây Ninh là lãnh thổ tiếp giáp hai bên giằng co. Nhưng cuối cùng quân Miên yếu thế thua cuộc bỏ mộng lấy lại đất đai. Trong những trận thư hùng với quân Miên, có những anh hùng Việt Nam đền nợ nước, trong đó có quan tri phủ Huỳnh Công Giản mà miếu thờ ông là một trong những chốn di tích ghi công tiền nhân tại Tây Ninh. Về lãnh thổ hành chánh thì tỉnh Gia Định thời bấy giờ rất rộng lớn, nó bao trùm các vùng đất Tây Ninh, Tân Bình, Chợ Lớn, Tân An và Gò Công vào Sài Gòn. Sau này dưới thời Pháp thuộc để dễ kiểm soát, nền hành chánh mới qui định lại lãnh thổ mà vùng Trảng Bàng được làm ranh giới phân chia hai tỉnh Tây An và Tây Ninh. Riêng tỉnh Tây Ninh gồm hai vùng đất chính là Tây Ninh và Gò Dầu. Điểm đặc biệt của thuở xa xưa đó là đất Tây Ninh có vô số cây bàng lác, là loại cây thổ sản dùng làm bao xách hay làm đệm. Còn Gò Dầu là vùng đất cao có vô số cây dầu mà người dân đốt đèn. Gò Dầu lại chia làm hai vùng là Gò Dầu Hạ nơi có cư dân qui tụ sầm uất và Gò Dầu Thượng giáp ranh biên giới Miên. Dưới thời chính phủ VNCH cải danh Gò Dầu thành quận Hiếu Thiện vì nó tượng trưng cho dân tình vốn trung hiếu hiền hòa.

     DANH LAM THẮNG CẢNH:

    Nói về di tích hay danh lam thắng cảnh, đến Tây Ninh người sẽ đi thăm Thánh Thất Cao Đài, một Tòa Thánh thật nguy nga, tráng lệ, là nơi mà đạo Cao Đài được phát sinh rất linh thiêng tại thánh địa này. Kế nữa là rất nhiều địa danh, những cổ miếu, những cổ tự như Linh Sơn Cổ Tự với núi Bà Đen, Chùa Ông Gia Ninh, Giếng Mạch Thiên Nhiên, Cổ Tháp Prey Prasath di tích của người Miên, Lăng Ông Huỳnh Công Nghệ, Miếu Ông Gốc, Dinh Ông Gò Dầu Thượng, Miếu Ông Cả Trước, Miếu Thờ Ông Huỳnh Công Giản, Miếu Thờ Ông Huỳnh Công Thắng, Phước Lâm Cổ Tự, Thiền Lâm Cổ Tự, Cẩm Phong Tự, Hiệp Long Cổ Tự, Cổ Lâm Tự (Thanh Điền), Từ Lâm Tự (Gò Kén), Chùa Ông Phước Kiến, Đình Thái Bình, Đình Hiệp Ninh, Đình Thạnh Đức, Đình Gia Lộc.. Do đó Tây Ninh là một vùng đất linh thiêng, có nền văn hóa lâu đời hổn hợp giữa người Miên và Việt.

    THỨC ĂN:

    Đến Tây Ninh, người ta không thể quên những tô bánh canh, những dĩa thịt heo luộc cuốn bánh tráng, rồi món bì ram, cháo lòng hay cháo bồi là những đặc sản “rất Tây Ninh”.

     1) Cháo Lòng:

    Cháo lòng Tây Ninh gồm đủ lục phủ ngũ tạng của loài heo như dồi trường, lá mía, tim, cật, huyết và gan. Gạo được rang cho thơm xong ta nấu gạo cho nhuyễn nhừ, cho các thứ lòng vào nấu chung cho chất ngọt do cốt trong các món lòng heo tiết ra. Công phu nhất là món dồi nướng sả. Ruột già của heo mua về lật ngược bề trong bằng chiếc đũa, xong chà xát bề trong ruột với muối cho thật sạch trong dung dịch dấm hoặc rượu đế để khử mùi hôi. Xong phơi ruột cho ráo. Khi dồn nhân làm dồi, ta lật lại chiều của ruột nguyên thủy. Nhân là thịt heo bằm nhuyễn trộn chung với tỏi sả ớt bằm, cho tiêu sọ hột vào nêm muối cho vừa ăn (tùy khẩu vị, người viết ăn khá lạt). Nhân được nhồi vào ruột mà một đầu được thắt bằng sợi chỉ. Đầu kia được cột khi dồi được căng đều. Xong ta nướng dồi bằng lửa than hay lò điện. Món đồi này ăn với cháo hay lai rai ba sợi với bia hay cognac pha Perrier cũng bắt mồi không kém.

     2) Cháo bồi:

    Cháo bồi là gì? Nó chính là món cháo bột báng mà phần thịt lại giống với món bánh canh. Do vậy, nhiều hàng bánh canh bán song song với cháo bồi bột báng. Cháo được rang thơm xong nấu thành cháo chín nhừ với bột báng. Điểm đặc biệt của cháo bồi khác cháo thường ở món bột báng. Bột báng khi nóng làm cho cháo sền sệt với độ lỏng trơn tru dễ nuốt. Thịt heo nạc phần giò heo khi ta cắt khoanh ra có da, thịt và gân. Điểm thêm hành ngò, tiêu và nước mắm thì đúng điệu cháo bồi.

     3) Bánh canh:

    Nói tới bánh canh thì bột bánh canh có hai loại là loại bột gạo trắng đục và loại bột năng trắng trong. Theo ký ức cũ của tôi thì hình như người Tây Ninh chỉ dùng loại bột gạo. Nước lèo cho món bánh canh nấu tương tự như món hủ tiếu hay mì nước, tức chúng ta nấu nước dùng bằng xương heo. Thịt cho món bánh canh thì tận dụng tối đa 4 cái giò của con heo, nghĩa là chúng ta dùng giò phần thịt và phần bàn chân heo có cả móng. Tôi nhớ bà nội tôi dạy tôi ăn món này đầu đời là lấy nước mắm ngon (có nước mắm nhỉ thì càng tuyệt vời tâm tư) cho ớt chín đỏ cắt khoanh vào, nặn chanh cho vị cay, chua và mặn hòa lẫn nhau cho lâm li vị giác. Món này được tìm thấy nhiều nơi từ Trảng Bàng về tới Tây Ninh.

    4) Thịt và lòng heo cuốn bánh tráng:

    Vì các gian hàng hay các quầy bán cháo lòng và bánh canh dùng các sản phẩm heo, nên các món khác được tạo ra là món giò heo, thịt heo hay lòng heo luộc cuốn bánh tráng chấm nước mắm pha thật ngon. Món này cần có rau sống đi kèm. Tây Ninh là miền đất trù phú do thiên nhiên ưu đãi nên Tây Ninh có đủ loại rau từ rau sống đến các loại rau đọt chiếu, hay những lá xanh non, có vị chua rất bắt với món ăn cuốn bánh tráng như bì cuốn, nem cuốn, cá hấp hay cá nước cuốn bánh tráng đến món thịt hay lòng heo cuốn bánh tráng.

     5) Nước mắm chấm:

    Theo công thức mẹ tôi lưu truyền trước ngày tôi lên xe hoa về nhà vợ thì nước mắm được pha theo tiêu chuẩn như sau:-2/3 chén nước mắm loại ngon hoặc loại khá (loại dở có nồng độ mặn hơn, độ đạm ít hơn, cần pha chế gia giảm theo kinh nghiệm).

    -1/2 chén dấm trắng (có thể thay bằng chanh)

    -1/3 chén đường cát trắng.

    -2 chén nước lọc (nếu ăn lạt dùng 3 chén)

    -Ớt, tỏi bằm tùy khẩu vị mà nêm vào.

    Theo kinh nghiệm khẩu vị, mỗi người tự biến chế theo cung cách riêng.

     6) Món bì ram:

    Tây Ninh làm món bì ram có phần hơi khác với các tỉnh khác vì cách làm thịt cho món bì theo cung cách khác. Đa số các tỉnh luộc thịt heo xong rồi thái sợi. Kiểu Tây Ninh là ram hay chiên thịt heo cho tỏi vào dầu phi thơm, khi thịt chín vàng óng ả, vớt ra dùng chầy hay bề sống của dao phay (phần lưng không nhọn) dần cho mềm và tưa ra. Xong ta trộn thính và bì tươi vào thịt tưa nêu trên. Bì thịt này dùng chung cho cơm tấm, bì bún hay bì cuốn.

     VỀ VĂN HỌC:

    Những sinh hoạt thi văn đàn đã phát sinh rất thịnh hành tại Tây Ninh mang vào lịch sử của tỉnh này bao nhân tài văn thơ. Dù hoạt động của họ về thi văn khá nổi bật trong địa bàn miền Nam. Đầu thế kỷ 19, khi nền văn học chữ quốc ngữ được phát triển thì nhóm nhà thơ tiền bối Tây Ninh ra đời năm 1915, họ họp nhau lại làm thơ, họa thơ và ngâm thơ. Những nhân vật tiêu biểu là cụ Đốc Phủ Tô Ngọc Đường, cụ Hương Cả Huỳnh Văn Tâm, cụ Hương Lễ Võ Văn Sâm, gọi tắt là Võ Sâm, là những gương mặt lãnh đạo thi đàn. Cụ Võ Sâm trở thành nhân sĩ đại biểu cho Tây Ninh, cụ cũng là soạn giả biên khảo quyển “Thi Phú Văn Từ” được giới văn học thời bấy giờ trọng nể. Nối tiếp nhóm Thi Đàn của cụ Võ Sâm và Văn Đàn Quốc Biểu của cụ Nguyễn Văn Hiến. Nhóm Quốc Biểu sinh hoạt văn học họp nhau định kỳ mỗi tuần trao đổi văn thơ. Họ họp nhau tại Gò Chẹt tại Tây Ninh. Nhóm này quy tụ khá nhiều thi văn hữu như quý ông: Thanh Vân, Nguyễn Toại Chí, Thanh Phong, Nguyễn Văn Trí, Lâm Tuyền, Võ Trung Nghĩa, Võ Văn Tấn, Sầm Sơn, Nguyễn Văn Vàng, Du Tử, Mai Huê, Lê Văn Thành, Nhà Quê, Dương Văn Kim, Nhất Thiện…

    Một trong những sinh hoạt nổi bật là nhóm của quý cụ tiền bối Võ Sâm và Tô Ngọc Đường xướng họa cùng nữ sĩ Sương Nguyệt Anh của tỉnh Bến Tre. Bà là con gái của cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu. Nhân dịp xuân tân niên Tân Sửu 1901, làng thơ Tây Ninh tổ chức hội thơ tại Điện Núi Bà hay Linh Sơn Thánh Mẫu, nơi thắng cảnh thiên nhiên rất hùng vĩ, uy nghi, trước những hàng mai trắng đang trổ hoa mừng xuân, nữ sĩ Thụy Khuê Sương Nguyệt Anh cảm tác ba bài thơ mà tôi xin trích hai bài tiêu biểu là “Thưởng Bạch Mai Cảm Đề” và “Linh Sơn Nhất Thụ Mai” để tặng làng thơ Tây Ninh để tạ lòng lời mời của các thi nhân nặng tình thi phú Tây Ninh và Bến Tre như sau:

     Non linh đất phước trổ hoa nhân

    Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân

    Tuyết được nhành tiên in sắc trắng

    Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân

    Mây lành gió lạnh nương hơi chánh

    Vóc ngọc mình băng hắt khói trần

    Sắc nước hương trời nên cảm mến

    Non linh đất phước trổ hoa thần

    (Thưởng Bạch Mai Cảm Đề)

     Vài bài thơ Đường bằng Hán tự khi xuân về tại Linh Sơn mà nữ sĩ Thụy Khuê cảm tác:

     Quỳnh tư ngọc cốt bản thiên chân

    Tịnh độ cô liêu viên tục trần

    Noãn nhập ám hương xuân dật dừ

    Hàn xung sơ ảnh nguyệt tà thần

    Tuyết trung tự khước lưu phong vận

    Phong ngoại ưng liên đạp tuyết nhân

    Thừa hứng mạc hiểm sơn thủy viễn

    Đồng lai dự tử phú dương xuân

    (Linh Sơn Nhất Thụ Mai)

     Bài thơ trên được thi sĩ Hi Đạm của Tây Ninh chuyển ngữ sang nghĩa Việt:

     Ngọc quỳnh cốt cách trời ban

    Đất tịnh trơ vơ lánh thế gian

    Ấm áp hương đầm xuân buổi sớm

    Lạnh lùng bóng nhs5t nguyệt đêm tàn

    Nghĩ thân ánh tuyết hơn sương đượm

    Thương kẻ hài sương gót tuyết chan

    Mến cảnh nước non xa chớ ngại

    Cùng lên ngâm vịnh tứ xuân tràn.

     Tóm lại Tây Ninh cũng như bao tỉnh khác có những cái chung và riêng trong lịch sử cấu tạo thành lãnh thổ Việt Nam, Bao thế hệ đi trước đổ mồ hôi, đổ xương máu khai phá đất đai thành vùng đất trù phú từ một vùng đất chỉ có rừng rậm. Viết những lời này ra đây tôi muốn tri ân tình quê hương đậm đà đã cho tôi chào đời và đầy ắp kỷ niệm quê hương khi tắm nước sông Vàm Cỏ Đông, những kỷ niệm chèo ghe chòng chành trên sông với các bạn địa phương, những kỷ niệm khó quên của miệt đồng quê tại nơi mà tôi gọi là quê hương, nó xao xuyến, ngọt ngào như những dòng nước mưa rào đổ xối xả của những ngày tắm mưa vô tư lự trên những con đường đất đỏ lầy lội, để kỷ niệm hiện về quyện lấy tâm thức tôi cả cuộc đời này, nó sẽ mãi như lời của bài hát mà nhạc sĩ mà nhạc sĩ Quách Nam Dung từ bên vùng nam cực của xứ Úc Đại Lợi đã viết tặng cho quê tôi với bao ân tình non sông gấm vóc trong lời nhạc sau đây:

     ”… Linh Sơn cheo leo, núi thiêng chốn xưa, tiếng kinh vắng xa Tây Ninh thân yêu, giấc mơ thiết tha, sống trong thái hòa. Ai qua nơi đây, nhớ Thánh Mẫu xưa, hiển linh..”.

    (”Tây Ninh Quê Tôi”, Quách Nam Dung)

    Sau cùng, tôi muốn mượn những câu thơ tiêu biểu của thi sĩ Bửu Đà diễn tả qua bài “Tây Ninh Cảm

    Tác” là:

     Tây Ninh là tỉnh hiền lương

    Bên đời, bên đạo tình thương đậm đà

    Trời thương đất lợi người hòa

    Tinh thần hướng thiện trên đà nghĩa nhơn.

     Với bao nỗi nhớ về quê xưa, hôm nay tôi ngồi đây bằng dòng viết này cách quê tôi 22 ngàn dặm hay nửa quả nữa địa cầu, tôi chạnh lòng cảm tác lại quê tôi qua bài thơ “Nhớ về quê tôi”:

     Vàm Cỏ Đông nước chảy hiền hòa

    Đồng lúa vàng gợi nhớ tình ta

    Con diều căng gió khung trời xưa                          

    Quê hương bao phủ ánh chiều tà

    Chim trời xoải cánh về chốn cũ

    Núi Bà hùng vĩ áng mây xa

    Hỏi ai vương vấn mộng bồi hồi?

    Đếm nhớ thương ơi sao đậm đà!

    Việt Hải

    Tây Ninh, quê tôi đó, nơi mà người dân làm lụng cần cù lại mang đặc tính hiền hòa để tôi mãi mãi nhung nhớ về Gò Dầu, về Tây Ninh và vui sướng được nhìn nhận như một người con của vùng đất quê tôi. Mỗi con người được sinh ra ở miền nào đó, dù phì nhiêu hay nghèo khổ, dù được thiên nhiên đãi ngộ hay không thì nó vẫn là quê hương. Nếu Việt Nam của tôi là một đất nước thiêng liêng luân lưu trong dòng huyết quản, đẹp đẽ về địa lý và văn hóa, thì Tây Ninh của tôi cũng trong sáng trong hai yếu tố đặc trưng đó: Chỉ vì Việt Nam và Tây Ninh đều là quê hương tôi, và tôi đã gắn bó bằng từng thớ thịt, bằng khối óc, bằng con tim hay bằng với cả hai yếu tố đặc trưng đã nêu từ tiềm thức xa xưa của thuở thiếu thời và của hoài niệm đã qua sẽ mãi mãi ngự trị trong tâm hồn tôi, cho nỗi niềm ấp ủ mang theo trong lòng người lưu lạc của quê hương đã thật sự xa xôi cách trở vì địa lý, để Tây Ninh quê tôi vĩnh viễn trong nỗi nhớ nhung hay trong niềm nhớ thương vô biên.

  • Văn Thơ,  Yên Sơn

    Sứ Mệnh Tinh Thần

    Yên Sơn

    1.
    Đang nín thở, nằm bẹp dí trong một góc tối tăm ở một nơi xa lạ để chạy trốn công an Việt cộng thì nghe tiếng dọng cửa ầm ầm. Tôi cố khom mình, nhích sâu thêm một chút vào bóng tối bỗng bị lọt thỏm… xuống sàn nhà, đau điếng! Mở bừng mắt, mồ hôi vã như tắm, tôi thở phào, vui mừng… khi biết mình đang nằm trong phòng khách sạn vừa trải qua một giấc mơ kinh hoàng!

    Chưa kịp hoàn hồn thì lại nghe tiếng gõ cửa. “Ai đó?” “cần dọn phòng không?” “Chưa cần”. Đó là mẩu đối thoại với người bồi phòng ở ngoài hành lang. Tôi leo lên giường nằm xuống, cố ngủ thêm một chút nữa nhưng không tài nào chợp mắt được vì những tiếng ồn ào bên ngoài xông vào phòng rất khó chịu. Nhìn đồng hồ bàn thấy đã qua trưa! Tôi lại hoảng hốt bước như nhảy vào phòng tắm, làm vệ sinh rồi sắp xếp công việc phải làm hôm nay. Việc phải làm hôm nay cũng là lý do chính tôi về Quảng Ngãi lần này.

    2.
    Tôi đã rời xa Quảng Ngãi khá lâu; bây giờ về đây, thấy đâu đâu cũng đều xa lạ, nhưng trong tôi vẫn như bùi ngùi, luyến tiếc một thứ gì đó. Có lẽ tuổi xuân chăng chứ cảnh không cũ và người người đều xa lạ. Quảng Ngãi trong tâm thức của tôi là những hình ảnh thân thương, mộc mạc nhưng diệu kỳ vô cùng. Quảng Ngãi trong tôi là dòng sông Trà, sông Vệ mông mênh; là những con đò ngang mỏng manh; là những bờ xe nước kỳ vĩ; là những tiếng xe ngựa gõ lộp cộp trên đường đá; là những đêm trăng sáng, trời trong bạn bè kéo nhau ra bãi cát ngủ qua đêm. Quảng Ngãi trong tôi là an vui, thanh bình suốt thời tuổi thơ mầu nhiệm… Lòng tôi lâng lâng cảm xúc, bâng khuâng, rưng rức lạ lùng!

    Ra khỏi khách sạn, trời nắng chói chang, tính tìm một anh xe ôm để đi đến chỗ cần đến. Vâng, đi về xóm nhỏ thì chỉ có đi xe ôm mới tiện tìm kiếm. Đang lớ ngớ giữa một chỗ xô bồ, phía trước khách sạn Trung Tâm trên đường Lê Lợi, Quảng Ngãi. Có lẽ đây là nơi tụ tập chờ khách của những người chạy xe ôm, xích lô đạp. Họ tụ năm tụ ba tán dóc, đánh cờ, binh xập xám, nói nói cười cười xen lẫn tiếng cãi cọ ồn ào cả một góc phố. Tôi nghĩ cần một tách cà phê trước khi đi. Bước vào quán cà phê bên đường ngồi xuống. Trong lòng xôn xao lạ. Biết là không gian này không phải là sự chọn lựa của tôi. Có bóng dáng của các em bé bán vé số dạo. Tiếng mời chào đủ các âm giọng ba miền đất nước. Đầu óc tôi mụ mị trong không gian hỗn tạp tiếng người, tiếng còi xe; trên tay ôm một chiếc bình sành nhỏ đựng tro cốt của Huệ – một người học trò ngoan hiền- đưa về từ Mỹ.

    Vừa ngồi vào bàn thì một đám nhóc bán vé số nhào tới mời chào. Tôi lắc đầu nói không mua mặc dù chúng nó năn nỉ dai dẳng. Tôi ngồi làm thinh, mặt mày nghiêm và buồn được một lúc thì chúng nó bỏ đi. Xong lại có thằng bé đánh giày trờ tới “chú đánh giày không chú”. “Trời đất, chú mang giày thể thao mà đánh nỗi gì?” “Giày thể thao thì đánh theo giày thể thao chú ơi.” “Không đâu cháu, chú cần uống ly nước rồi đi công việc gấp.”

    Thằng bé vừa đi thì một bé gái rất nhỏ – có lẽ chừng 5-6 tuổi là cùng – sà đến bên tôi: “Chú mua giùm con ít vé số đi chú?” “Không, chú không mua đâu cháu.” “Chú làm ơn giúp con; mua mấy tờ cũng được. Con cần bán rất nhiều vé số hôm nay vì mạ con đang bệnh, cần tiền mua thuốc!”

    Tôi nghĩ tụi nhỏ bán vé số bao giờ cũng có những lý do bi đát để câu khách nên tôi chẳng quan tâm gì lắm. Chỉ khi nhìn kỹ con bé, thấy mặt mũi sáng sủa, xinh xắn nhưng gầy gò, chiếc áo bà ba có hai miếng vá ở khuỷu tay và vai, chân đi đôi dép mòn cả gót làm tôi chạnh lòng! Với số tuổi này đáng lẽ cháu ở nhà vui chơi sao lại tả tơi bán vé số! Nhìn quanh một lượt thấy lũ nhóc bán vé số đều không khác gì nhau mấy nhưng tự nhiên tôi có thiện cảm với con bé này. Không biết vì cái giọng Huế nhỏ nhẹ dễ thương của nó có dự phần trong tình cảm bất chợt này không; đối với trẻ con, nhất là các bé gái bao giờ tôi cũng dành nhiều cảm tình hơn. Tôi dạy con nít hơn 40 năm qua nên tôi rất yêu mến trẻ con; thế nhưng, tuổi đời đã đi qua ngã sáu rồi, tôi vẫn chưa có cơ hội thực tập hai tiếng “ông cháu” mầu nhiệm.
    – Chú không mua vé số nhưng chú có thể tặng cháu ít tiền ăn bánh mì được không? Miệng nói tay móc túi lấy ra một ít tiền lẻ đưa cho con bé.
    Nó khoa tay từ chối và đi thụt lui vài bước:
    – Dạ không được mô chú. Chú mua vé số thì con rất vui. Rất cám ơn chú nhưng con không xin tiền.
    – …? Tôi bỡ ngỡ, chưa biết ứng xử sao.
    – Mạ con dặn không được lấy tiền của người khác.
    – Thì cháu có lấy của ai đâu, chú tự nguyện, kể như tiền chú mua vé số thôi mà?
    – Chú mua vé số thì con bán. Còn không mua thì con không lấy mô. Chú mua giùm con một ít đi?
    – Chú không thích vé số. Người ta nói trúng số xui lắm!
    – Con mới nghe chú nói lần đầu. Chú không mua thì con đi nghe.
    Con bé mới chừng ấy tuổi mà đối đáp như người lớn. Nó dợm bước đi, tôi vội vã nắm tay con bé giữ lại:
    – Được rồi, được rồi! Chú mua.
    Con bé nhoẻn miệng cười dễ thương hết sức:
    – Chú mua mấy vé nì?
    Thấy con bé cầm trên tay một xấp, tôi hỏi:
    – Một tấm bao nhiêu tiền cháu?
    – Dạ 10 ngàn!
    – Phần cháu lời được bao nhiêu mỗi tấm
    – Dạ tám trăm!
    – Từ sáng tới giờ cháu bán được bao nhiêu?
    – Dạ tệ lắm! Chắc chỉ khoảng hơn 10 tấm thôi!

    Trong đầu tôi làm vội một con toán: 10 tấm được 8 ngàn, khoảng 40 xu Mỹ.
    – Bán bao nhiêu mới đủ tiền thuốc cho mẹ cháu?
    – Dạ không biết nơi, nhưng chắc cần bán nhiều lắm
    – Cháu đếm thử cháu còn bao nhiêu tờ?

    Con bé mở to đôi mắt có vẻ ngạc nhiên, quẹt ngón trỏ bé tý vào miệng, cắm cúi đếm một hồi rồi ngước lên nói:
    – Dạ còn đúng 86 tờ.
    – Nếu hết ngày mà cháu bán không hết thì làm sao?
    – Cuối ngày phải trở lại đại lý để thanh toán. Số không bán được sẽ bị phạt 10%.
    – Vậy làm sao? Bây giờ đã xế bóng?
    – Có lẽ con phải bán tới khuya!
    – Cuối ngày! Tới khuya!?
    Như hiểu ý tôi nó nói liền:
    – Dạ cuối ngày là lúc mình đem tới đại lý thanh toán. Con xin người ta tới 10 giờ đêm. Nếu hết sớm thì được về sớm. Chú mua giùm con 10 vé nghe?
    – Nếu chú mua hết thì cháu về nhà với mẹ hay đi bán tiếp?
    Con bé trố mắt như không tin những gì nó vừa nghe:
    – Chú noái thiệt không?
    – ….! – Tôi không nói gì, chờ đợi câu trả lời tiếp của nó.
    – Rứa thì con sẽ về mua thuốc cho mạ trước rồi tính tiếp. Con bé nói như reo.

    Tôi đưa tay đỡ tập vé số trên tay con bé, móc bóp đưa cho nó tờ 50 đô. Nó ngập ngừng một thoáng xong cầm tờ giấy bạc rồi móc cục tiền bó bằng dây thun trong túi đưa hết cho tôi và nói: “đây là tiền thối lại cho chú nè.” “sao cháu chưa đếm mà đưa hết cho chú vậy?” “đó là tiền con bán 14 tấm vé số từ sáng giờ đó.” Tôi đẩy tay nó, bảo giữ luôn không cần thối lại, nó không chịu; nó nhất định chỉ lấy đúng số tiền vé số mà thôi, dù tôi có năn nỉ thêm cũng vô ích. Tôi thầm nghĩ, ở cái xã hội băng hoại, mục nát từ thượng tầng đến các anh công an đứng đường này sao còn có được những tâm hồn lương thiện, đoan hậu như thế! Ước gì những kẻ ăn trên ngồi trốc có được một chút liêm sỉ của con bé này thì đất nước mình, dân tộc mình đâu đến nỗi tang thương, khuất phục như hôm nay! Vừa cảm phục vừa thương con bé quá, muốn ôm nó vào lòng.
    Vì thấy nó có vẻ ngập ngừng khi cầm tờ 50 đô nên để chắc ăn, tôi dắt nó qua tiệm vàng kế bên đổi ra tiền VN và đưa cho nó đúng con số nó muốn. Nó đếm lại lần nữa rồi ngước mắt lên nhìn tôi nhỏen miệng cười nói:
    – Con đếm lại cho chắc chú không đưa hơn số tiền vé số.
    Tôi cười méo vì thương tính nết ngay thẳng và hồn nhiên của con bé; tôi đưa tay xoa đầu tạm biệt con bé với nhiều lưu luyến, và cũng không quên chúc mẹ nó chóng lành bệnh.

    3.
    Tôi ngoắc một anh xe ôm. Hai anh cùng chạy tới hỏi tôi muốn đi đâu. Tôi nói tôi chỉ cần một anh cho tôi đi về địa chỉ này. Vì không biết hỏi anh nào nên tôi xòe số địa chỉ ghi trên tờ giấy ra giữa. Một anh nói 65 ngàn một chiều. Anh kia nói 45 ngàn… rồi hai anh cãi nhau, “đây chạy tới Mỹ Khê mà 45 ngàn, tính giựt khách người ta hay sao?” “Chỉ chạy tới Tịnh Khê mà đòi chặt người ta 65 ngàn!” “Anh có biết chỗ này gần bãi biển Mỹ Khê hay không?” “Nhưng chưa tới cầu Mỹ Khê, cũng không phải ra bãi tắm!”… Thấy hai người cãi nhau mãi mất thì giờ, tôi chọn anh bạn lấy 45 ngàn. Thật ra 65 hay 45 cũng chỉ thêm $1 USD mà thôi, đâu có bao nhiêu nhưng tôi theo anh 45 ngàn vì thấy anh ta có vẻ thật thà hơn nhiều.
    Tôi leo lên xe ngồi sau gợi chuyện:
    – Anh nghĩ bao lâu mình sẽ tới nơi?
    – Dạ khoảng 45 phút là nhiều.
    – Tôi không gấp lắm, anh chạy an toàn là tốt nhất.
    – Dạ, vậy cứ đi đường chính theo Quốc lộ 24B là tốt nhất.
    – Mình đi đường mới qua ngã Tam Thương phải không?
    – Dạ, em sẽ chạy theo Lê Thánh Tôn, rẽ trái đường Đinh Tiên Hoàng, cũng là đường Bà Triệu, qua cầu mới, rẽ phải theo quốc lộ 24B về hướng Mỹ Khê.
    – Anh cứ chạy đường nào nhanh và an toàn là được rồi.
    – Mà anh tìm ai ở đó vậy?
    – Một người quen.
    – Em có thể biết tên không, may ra em biết?
    – Anh ở vùng đó à?
    – Dạ, nhà em ở gần chợ Tịnh Khê, không xa địa chỉ anh sắp tới.
    – Anh biết ai tên Phạm Thị Phương Lan, một người đàn bà khoảng tuổi 30?
    – Vậy thì xin lỗi, em không biết.

    Anh xe ôm khoảng hơn 40 tuổi. Ăn nói lịch sự và có vẻ thành thật. Tôi cảm thấy yên tâm. Trên đường xe cộ tấp nập đủ loại. Anh vừa chạy vừa kể chuyện khi tôi hỏi để mà hỏi “anh có gia đình vợ con rồi chứ?” Có lẽ anh cũng đã biết tôi không phải là người ở đây nên “cạn mạch sầu” thao thao bất tuyệt. Anh kể chuyện anh sinh ra không có cha. Cha anh là lính Sư đoàn 2, chết trên đường chạy loạn tháng 3/1975. Vì là gia đình “ngụy quân” nên mẹ con anh bị chế độ mới ức hiếp đủ điều trong đời sống cơ bần. Mười năm sau mẹ anh bạo bệnh mất và anh mồ côi cả cha lẫn mẹ từ đó. Anh ở với Nội được mấy năm, không làm gì được để giúp mà còn là gánh nặng cho một gia đình cũng tả tơi không kém. Sau đó anh tự bươn chải để sống cho tới bây giờ. Ngày ngày chạy xe ôm mưu sinh, có một con trai đang học cấp một; có vợ buôn bán nhỏ ngoài chợ Tịnh Khê…

    Tôi ngồi nghe anh kể chuyện với tiếng gió ào ào bên tai, nên chỉ nghe mà không góp chuyện. Trong lòng tôi đang bâng khuâng, hồi hộp nghĩ tới chuyện gặp gỡ sắp tới!

    Xe chạy khoảng gần tiếng đồng hồ thì tới khu Trường Trung Học Cơ Sở Võ Bẩm nằm bên trái quốc lộ; đối diện bên kia lộ là trường Trung học Phổ Thông Sơn Mỹ. Anh tài xế nói với tôi sắp tới nơi rồi. Tôi giật mình vì khu này ở gần họ hàng nhà tôi. Nhìn đồng hồ thấy hơn 2 giờ chiều. Thấy vẫn còn sớm, hơn nữa tôi cũng cần thêm thời gian để ổn định tinh thần trước khi giáp mặt; tôi đề nghị ghé vào quán uống nước trước khi vào nhà. Tôi đã từng nhiều lần hồi hộp trước ngưỡng cửa sinh tử của cuộc đời, nhưng chỉ đơn thuần hồi hộp trước khi loạt đạn đầu tiên được bắn ra khỏi nòng súng. Còn sứ mệnh (mission) của tôi lần này coi bộ khó khăn hơn nhiều; ngoài sự hồi hộp, lòng tôi còn đầy thương cảm và bối rối. Dẫu đã có được tấm hình bỏ túi do người học trò đưa để dễ nhận diện – tấm hình chụp chung của hai người hơn hai năm trước – nhưng vẫn không hình dung được người ấy bây giờ ra sao, sẽ phản ứng ra sao trước một thực tế phũ phàng.

    Ngồi uống nước độ hơn mười phút, chúng tôi chạy tới địa chỉ đã ghi. Tôi đưa tay gõ cửa một lúc lâu mới có một ông cụ ra mở cửa. Tôi hơi bỡ ngỡ:
    – Thưa Bác cháu muốn hỏi thăm cô Phương Lan.
    – Ồ! Cô ấy đã về ở trên thành phố tháng trước rồi. Mà anh là ai, quen biết ra sao với cô đó?
    – Thưa Bác, có người ở bên Mỹ nhờ cháu tìm giúp cho họ.
    – Trông tướng tá chú chắc mới bên Mỹ về phải không?
    – Dạ phải!
    – Chờ con tui một chặp, nó về đưa chú địa chỉ của cô ấy. Khi dọn đi, cô có dặn con tui, nếu có người quen nào muốn tìm, nhất là người ở bên Mỹ, thì đưa địa chỉ cho họ.
    Tôi sốt ruột quá, hỏi “bao lâu nữa con Bác mới về?” Ông cụ cười mỉm nói “chắc chặp nữa thôi, nó chạy qua trường mầm non đón con về liền, chắc không lâu nữa đâu.” Nói xong mời chúng tôi vào nhà ngồi đợi. Cụ mời chúng tôi hai tách trà thơm.

    Ngồi một lúc, tôi cứ thắp thỏm ngó mong. Anh tài xế biết tôi nóng ruột nên hỏi “anh có muốn đi một vòng trong lúc chờ đợi không, em không tính tiền thêm đâu?” “Thôi mình đợi đi anh!” Thật tình tôi cũng muốn chạy ra biển cho khuây khỏa nhưng trong lòng cứ nôn nao muốn lấy địa chỉ ngay để còn đi tìm. Thời gian cứ chậm chạp, chậm chạp!

    Hơn 20 phút mới thấy một thiếu phụ dắt cháu nhỏ vào nhà. Bỡ ngỡ nhìn chúng tôi. Ông cụ nói liền “người ở Mỹ về muốn tìm chị Lan, Ba nói họ chờ con về đưa họ địa chỉ.” Thiếu phụ quay qua hỏi tôi:
    – Chắc ông là người muốn tìm chị Lan?
    – Tôi tên Phong, ở Mỹ về, tìm giúp cho một người khác.
    – Sao người đó không tự về tìm lấy?
    – Có, nhưng không nói được!
    Tôi chỉ chiếc bình sành trên tay. Thiếu phụ có vẻ tái mặt, lúng túng, lẳng lặng đi vào trong một lúc đem ra một tờ giấy có ghi địa chỉ đưa cho tôi.
    – Xin chia buồn với ông. Có lẽ ba tôi đã cho ông biết chị Lan dọn về thành phố tháng rồi. Chị Lan ốm yếu không biết có chịu nỗi sự đau buồn này không. Chúc ông may mắn.
    Tôi cám ơn cô ta và nói lời từ giã với hai cha con. Hỏi anh xe ôm có muốn đưa tôi trở lại thành phố tìm tới địa chỉ này không. Anh trả lời là rất vui lòng và cũng sẽ lấy thêm 45 ngàn nữa thôi. Tôi nói không thành vấn đề, chỉ mong làm cho xong trách nhiệm hôm nay cho nhẹ mình.

    4.
    Về lại thành phố hơn 4 giờ chiều. Địa chỉ ở trong hẻm Ngô Quyền với hai cái xẹt (sur), khu chợ Quảng Ngãi, rất khó tìm. Anh xe ôm vừa chạy vừa hỏi thăm, cuối cùng cũng tới được. Địa chỉ là một căn nhà nhỏ trông gọn gàng, sạch sẽ. Tôi lại hồi hộp đưa tay gõ cửa, nghe tiếng trả lời của một cụ bà người Huế; rồi cửa xịch mở. Một bà cụ trông gầy gò ốm yếu, lưng lại cong, ngó tôi từ đầu tới chân:
    – Cậu muốn tìm ai?
    – Thưa Bác có phải cô Phương Lan ở đây không ạ?
    – Cậu là ai mà biết tên con gái tui?
    – Thưa Bác có người bên Mỹ nhờ cháu tìm giúp.
    – Phải thằng Huệ nhờ cậu không?
    – Dạ phải.
    – Mời cậu vào nhà nói chuyện.
    – Vâng cho cháu trả tiền xe cho họ về đã.
    – Nếu anh muốn em ở quanh đây chờ anh cũng được. – Anh tài xế vội nói.
    – Cám ơn anh, đây về khách sạn không xa lắm, hơn nữa không biết phải bao nhiêu lâu mới xong. Khi xong việc tôi sẽ gọi xe khác chắc không khó lắm đâu.
    – Theo me thấy anh có thể đi bộ tới khách sạn cũng được.
    Tôi đưa cho anh ta 200 ngàn VND mới đổi ở tiệm vàng hồi trưa. Anh ta gãi đầu lúng túng:
    – Em tên Minh, mỗi ngày em đều loanh quanh trước khách sạn Trung Tâm và bến xe Quảng Ngãi. Anh cần đi đâu em sẽ hướng dẫn anh không sợ bị người ta lường gạt.
    – Vâng, nếu cần tôi sẽ tìm anh.

    Nhìn anh tài xế đi khuất, tôi theo bà cụ vào nhà. Căn phòng nhỏ trông rất tươm tất, vắn khéo nhưng có vẻ đạm bạc. Bà cụ mời tôi ngồi vào chiếc ghế duy nhất bên cạnh chiếc bàn con kê sát tường; tôi ý tứ đặt hũ tro cốt xuống chiếc bàn. Từ trưa đến giờ tôi ôm cứng trên tay, chỉ để xuống được 15 phút ở quán nước dưới Tịnh Khê. Bà cụ vén tấm màn ngăn làm phòng ngủ và ngồi trên cạnh giường.
    – Mạ con hắn vừa ra chợ chắc cũng sắp về. Cậu ngồi đợi được chớ? Để tui lấy nước mời cậu.
    – Dạ thưa Bác không cần đâu ạ, cháu vừa uống nước rồi.
    Nói là nói vậy chứ tôi cũng đã khát nước, chỉ vì thấy nhà đơn chiếc quá và bà cụ cũng gầy gò trông tội nghiệp.
    – Cậu mới về hay về lâu rồi? Hiện ở mô?
    – Thưa Bác, cháu tên Phong, từ Saigon về Đà Nẵng xế trưa hôm qua, vậy mà mãi tới khuya xe mới về tới khách sạn Trung Tâm trên đường Lê Thánh Tôn gần đây.
    – Dường như cậu ở bên Mỹ về?
    – Sao Bác biết?
    – Thì trông bộ dạng của cậu và nghe cậu nói thằng Huệ bên Mỹ nhờ cậu ra đây tìm em Lan.
    – Dạ vâng ạ! Để Phương Lan về cháu sẽ kể hết đầu đuôi luôn ạ.
    Tôi sốt ruột quá, đứng lên ngó mong ra cửa. Bà cụ nhận là mẹ của Phương Lan nhưng sao không nghe Huệ nhắc tới khi còn sống.
    – Thưa Bác cho cháu để cái bình ở đây, cháu ra hẻm mua bao thuốc lá về liền.
    – Được được, cậu cứ để đó tôi coai cho, không mất đi mô mà lo.

    Tôi lang thang ra đầu hẻm, ngồi ngay quán cóc đầu con hẻm để ngó chừng; gọi ly cà phê đá và mua gói thuốc lá của một bà bán bên cạnh, phì phà chờ đợi. Tôi nghĩ ngồi ở đây, nếu mẹ con cô ấy về nhà nhất định phải đi qua con hẻm này, nên yên tâm ngồi chờ. Thế mà tôi đã hút hết hai điếu thuốc, uống hết ly cà phê mà vẫn không thấy tăm dạng của một cô gái khoảng 30 tuổi đi với đứa con nhỏ nào cả. Sự chờ đợi thật vô cùng khó chịu, thấy thời gian đi chậm như rùa. Tôi nghĩ tôi phải vô nhà kẻo bà cụ trông.

    Tính đưa tay gõ cửa thì cửa xịch mở. Một thiếu phụ với suối tóc đen mượt, dài chấm lưng, gương mặt thanh tú, khả ái nhưng trông võ vàng, tiều tụy. Đôi mắt đỏ ngầu, dường như vừa mới khóc. Tôi lúng túng hẳn. Nàng cũng chưa kịp nói gì thì một con bé phía sau lưng vượt lên trước:
    – Ủa chào chú!
    Tôi kinh ngạc thấy con bé bán vé số khi trưa.
    – Mạ ơi, đúng là chú ni là người mua hết vé số của con khi trưa mà con noái với mạ đó! – Con bé quay sang nói với mẹ nó.
    – Chào anh. Anh Phong phải không? Tôi là Phương Lan, mẹ của cháu Lan Huệ! – Giọng nàng sũng nước mắt.
    – ….
    – Mời anh vào nhà đã.
    – Con qua quán dì Tám mua cho mạ mấy chai nước ngọt; nhớ lấy ít nước đá.
    – Dạ mạ!
    – Không cần đi đâu cháu. -Tôi giữ vai ngăn con bé lại.
    – Anh để cháu đi, nhà chẳng có gì.

    Thấy không tiện ngăn cản thêm, tôi đành buông tay, theo nàng bước vào nhà. Thấy bà cụ vẫn ngồi trên giường mặt buồn dàu dàu, tôi gật đầu chào, nói với cụ cũng như nói với Phương Lan:
    – Xin lỗi Bác, cháu đợi lâu sốt ruột quá nên ra ngoài đầu hẻm uống nước. Tưởng đâu Phương Lan về đường đó mà không thấy nên ngồi hơi lâu.
    – Tôi tưởng cậu đi luôn rồi chớ!
    – Dạ đâu có! Cháu về đây chỉ có một việc này thôi mà!
    – Cậu ngồi xuống đi rồi nói chuyện.
    Phương Lan đẩy chiếc ghế về phía tôi và ngồi chiếc đối diện. Chắc có lẽ chiếc ghế để trong bếp mới được mang ra. Tôi chưa biết mở lời cách nào thì nàng nói tiếp:
    – Mạ con em đi đường trong nên anh không thấy là phải. Khi vô tới nhà, thấy trên bàn có cái bình sành này, bé Lan Huệ nói liền “sao giống cái bình của chú mua vé số của con khi trưa quá!”
    – …
    – Con bé về lúc trưa, khoe với em, “có một cái chú chắc ở đâu mới tới; tụi thằng Tèo, thằng Dũng bị chú từ chối mà chú lại mua của con, còn mua hết nữa chứ!” Rồi nó khoe là “chú nớ cố cho tiền con mà con nhớ lời dặn của mạ nên nhất định không lấy.”
    – Vâng, sự thực là vậy! Phương Lan dạy con hay quá! Chính vì sự thông minh và thực thà của nó mà tôi đã “phải lòng nó”.
    – Cám ơn anh, tuy gia đình em nghèo nhưng lúc mô em cũng nhắc con “nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Em đâu có muốn bắt con đi bán vé số, chỉ vì thời gian gần đây em bệnh triền miên không làm ăn chi được hết. Ba thế hệ tùy thuộc vào em mà sức em tàn, lực em kiệt! Cả tuần nay lại nằm liệt một chỗ, ăn uống khó khăn. Con bé thương mẹ, nhất định đòi cho nó đi bán vé số tạm thời. Cũng may, cháu được nhiều người thương, nhưng không vì vậy mà em để con phải khổ lâu. Chỉ vì đang mùa hè cháu nghỉ ở nhà không việc chi làm và chưa biết làm răng để thoát ra khỏi hoàn cảnh tối tăm ni. Khi trưa nó về lại mang theo một chị y tá chích dạo… cách đây vài tiếng đồng hồ, em mới ngồi dậy nỗi, ráng cùng đi với cháu ra nhà thuốc tây mua thuốc theo lời dặn của cô y tá; cũng là cách cho đỡ quẫn trí, cuồng chân.

    Nàng thao thao như để che giấu cảm xúc; như để cho tôi có thêm bình tĩnh. Ngồi nghe nàng nói mà lòng tôi xót xa, bối rối, vẫn chưa dám mở lời.

    Cánh cửa xịch mở, con bé đã về cầm theo mấy lon nước ngọt và một cục nước đá nhỏ. Tôi nhìn con bé với tất cả trìu mến. Nó đi thẳng vào bếp, nghe tiếng nước chảy, tiếng chặt đá và tiếng ly tách lịch kịch. Tôi ngó vẩn vơ chung quanh phòng. Bà cụ vẫn ngồi yên kiên nhẫn nhai trầu. Tôi nhìn qua khung cửa sổ. Bên ngoài bóng chiều đã xuống thấp, tiếng rao hàng cũng thưa thớt dần. Tôi đưa mắt nhìn nàng nhưng không đủ can đảm nhìn lâu. Con bé đem cho bà một ly nước trước khi đặt hai ly trên bàn chúng tôi ngồi, xong tới ngồi bên cạnh giường gần bà ngó tôi… Tôi bảo con bé “chú không uống nước ngọt được, uống vào là sưng cuống họng, ho liền trong vòng 30 phút. Cháu cho chú tách nước lạnh rất tốt. Con bé ngó mẹ nó, thấy Phương Lan gật đầu, nó lại chạy xuống bếp đem lên cho tôi một ly đá lạnh. Tôi đưa ly nước ngọt cho nó, nó ngần ngừ nhìn mẹ và mẹ nó gật đầu ra dấu đồng ý.
    Bỗng nhiên, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi:
    – Có phải anh mang cho chúng tôi một tin rất xấu không?
    Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực; miệng tôi chát đắng, ấp úng không nói nên lời!
    – Có phải đây là hũ tro cốt của Huệ?
    – …!

    Tôi nghẹn lời chưa kịp trả lời. Người thiếu phụ đang ngồi trước mặt tôi quá sức thông minh và thẳng thắn. Tôi bối rối nhìn bà cụ rồi nhìn con bé. Không gian vô cùng tĩnh mịch, thỉnh thoảng nghe tiếng rao hàng của những người bán rong đi ngang trước cửa. Lòng tôi chùng xuống, nghe nhịp tim đập bồi hồi. Mọi người như rất chú tâm để nghe tôi xác nhận. Phương Lan vừa khóc vừa nói:
    – Em đã sẵn sàng nghe anh xác nhận. Cả tháng ni em đã linh tính có điều bất thường, mặc dù đã hơn hai năm rồi không nghe tin tức chi của Huệ. Dù vậy, em vẫn nhất quyết không tin Huệ quên bỏ mạ con em.
    – Vâng, Huệ không bao giờ quên bỏ mẹ con Phương Lan. Có quá nhiều đau thương đã xảy ra cho Huệ, nhưng nó nhất định không nói với ai, kể cả tôi. Tôi là thầy dạy võ của Huệ. Huệ đã đến học với tôi gần bốn năm. Tính Huệ hiền hòa ít nói nhưng siêng năng và vô cùng lễ phép. Những ngày lễ tết, Huệ thường đến nhà thăm và tặng quà cáp, đôi khi đi với Mẹ. Nhìn cách đối đáp với mẹ nó, tôi biết Huệ là một người con chí hiếu. Dần dà tôi coi nó như một người thân và không lấy tiền học phí của nó nữa. Mỗi lần có tiệc vui trong gia đình đều có nó tham dự, vài lần đi chung với Mẹ nó. Dù vậy, khi tôi hỏi chuyện gia đình vợ con thì nó chỉ cười buồn mà không nói. Tôi biết Huệ chắc có điều gì khó nói nên tôi tôn trọng sự riêng tư không hề hỏi nữa. Mỗi lần đến tập xong rồi về. Lâu lâu tôi không thấy tới thì tôi gọi hỏi thăm. Rồi Huệ lại bất chợt xuất hiện, vẫn tập tành siêng năng, kỷ luật như thường.
    Tôi ngưng lại, bưng ly uống một ngụm nước. Nước đá lạnh như làm cho tôi bình thản trở lại. Tôi thong thả đặt ly xuống bàn, hắng giọng tiếp:
    – Cách đây khoảng hai năm, buổi chiều, lúc tôi đang dạy lớp thì nghe điện thoại của Huệ. Tôi bắt điện thoại để nghe tiếng nấc của Huệ, “Thầy ơi! Mẹ em mất rồi!” Tôi sửng sốt hỏi “Mẹ đau bệnh gì vậy?” “Dạ, Mẹ em bị ung thư buồng trứng!” “Mới phát giác hay lâu rồi?” “Dạ chữa trị cả năm rồi Thầy ạ!” “Mẹ đang được quàn ở đâu?” “Dạ nhà quàn Vĩnh Phước.” “Có người thân nào ở đó với em không?” “Kính Thầy em là người duy nhất, em không có thân nhân, chỉ có hai mẹ con thôi!” Thế là tôi giao lớp cho học trò lớn, lái xe xuống ngay với Huệ vì tôi nghĩ Huệ đang cần tôi.
    Phương Lan nấc nhẹ, nước mắt đầm đìa. Con bé lấy khăn tay đưa cho mẹ nó. Tôi cũng nghẹn ngào, khó khăn nói tiếp:
    – Sau khi tang lễ hoàn tất, Huệ càng lúc càng vắng mặt ở trường. Tôi nghĩ có lẽ Huệ vì quá đau buồn nên hết muốn tập luyện. Lâu lâu không thấy thì tôi lại gọi hỏi thăm an ủi. Có lần tôi đề nghị “hay là em về ở chung với Thầy”, Huệ nói nó không muốn bán căn nhà kỷ niệm của mẹ nó. Những khi tôi thắc mắc về sự tập tành không đều đặn của Huệ nó đều nói “thầy đừng lo nhiều cho em, khi nào khỏe em sẽ đi tập.” Dù trong đầu tôi nghĩ “bây giờ chỉ có một thân một mình mà sao không khỏe?” nhưng tôi không nói ra điều đó. Bẵng đi một thời gian khá lâu tôi không nghe thấy gì ở Huệ nữa, tôi định tạo bất ngờ cho Huệ bằng cách ghé ngang nhà không báo trước. Tôi bàn với nhà tôi nhưng nhà tôi không bằng lòng. Nhà tôi nói “mình là người lớn, là cương vị thầy nữa, không nên làm như vậy dù thật lòng thương mến. Mỗi người có một cuộc sống riêng tư, đừng đặt người khác trước những ngỡ ngàng đáng ân hận…” Thế là tôi chỉ còn biết thương nhớ và đầy thắc mắc.

    Tôi ngưng lại uống nước. Mọi người vẫn kiên nhẫn ngồi chờ. Tôi cố ngậm hớp nước lạnh thật lâu để dằn cơn xúc động trước khi nói tiếp:
    – Cách đây hai tháng, Huệ gọi nói muốn gặp tôi gấp, có việc vô cùng hệ trọng cần nhờ. Tiếng nói nghe rất yếu ớt. Địa chỉ là nhà thương MD Anderson, khu Medical Center gần trung tâm phố Houston. Lòng tôi nghi nghi ngại ngại. MD Anderson là trung tâm ung bứu nổi tiếng thế giới cũng là nơi làm việc của nhà tôi gần 20 năm qua. Buông điện thoại xong là tôi lái xe đi ngay. Vào đến nơi mới biết Huệ đang nằm điều trị tại khu chăm sóc đặc biệt (intensive care unit). Trông Huệ tiều tụy quá mức làm tôi rất ngỡ ngàng. Hình ảnh chú học trò văn vẻ, mạnh khỏe, đẹp trai chỉ còn lại vài đường nét lu mờ trên người bệnh. Huệ bị ung thư ruột già thời kỳ chót; đã kinh qua hóa trị rồi xạ trị nhưng không thoát. Tôi bốc điện thoại gọi nhà tôi nhờ hỏi thăm vị Bác sĩ chuyên môn xem lại hồ sơ. Hóa ra, vị Bác sĩ chuyên môn này lại là cấp trên của nhà tôi và cũng là Bác sĩ đang chăm sóc cho Huệ. Ông ta nói với tôi rằng khi Huệ nhập viện thì đã quá trễ! Ông đã cố gắng hết sức nhưng không cứu được. Vì Huệ không có thân nhân nên họ đang làm thủ tục chuyển Huệ qua hospice- nơi chăm sóc cho những bệnh nhân không còn phương án trị liệu. Nói cách khác là nằm chờ chết!

    Tôi phải dừng lại vì Phương Lan khóc nức nở thành tiếng. Nàng lẩm bẩm, “Huệ ơi! Thế mà em đã trách oan cho anh rồi!” Đột nhiên nàng tuột xuống khỏi ghế ngồi; tôi nhanh tay chụp được tay nàng giữ lại để khỏi va đầu vào bàn; đứng phắt dậy đỡ lưng nàng trước khi đụng đất. Con bé khóc thét lên gọi mẹ ơi mẹ hỡi. Bà cụ cũng vội vàng chạy xáp tới. Tôi vội vã bế xốc nàng đặt ngay ngắn trên giường, khuyên bà cụ và con bé bình tĩnh… Tôi dùng hai đầu ngón trỏ xoa bóp liên tục vào hai đại huyệt Nhĩ Môn và Thái Dương hai bên mặt nàng được một lúc thì nàng tỉnh dậy. Bà cụ lấy chai dầu xanh dưới gối xức vào hai bên thái dương cho nàng. Nàng tiếp tục khóc rấm rứt:
    – Em xin lỗi, anh kể tiếp đi.
    – Phương Lan tịnh dưỡng chút đi rồi tôi sẽ kể tiếp.
    Bóng tối đã chiếm gần trọn căn phòng. Bà cụ bảo con bé thắp đèn lên. Con bé đứng dậy bưng chiếc đèn dầu ở góc phòng, quẹt diêm đốt. Ánh sáng lù mù trông căn phòng nghiêng ngả, thê lương hơn. Tôi bỗng sực nhớ từ sáng tới giờ chưa ăn gì. Tôi đề nghị đưa cả nhà đi ăn nhưng tất cả 3 người đồng loạt từ chối. Tôi nghĩ ngay ra một phương cách:
    – Thưa Bác và cô Phương Lan, cả ngày nay bận rộn nên tôi chưa có gì trong bụng, nếu không ăn tối tôi sẽ không đủ sức nói chuyện thêm!
    – Rất tiếc nhà em cũng chẳng có gì để mời anh. Phương Lan gượng ngồi dậy, con bé đỡ lưng mẹ nó.
    – Thế thì thường ngày 3 người ăn uống ra sao?
    – Dạ ăn cho qua ngày anh à. Lúc em không bệnh thì buôn bán vặt vãnh ngoài chợ mỗi ngày. Hai năm trước, em nhận được 10 ngàn đô la của Huệ gửi cho, kèm theo bức thư nói rằng “em cố gắng dùng số tiền này buôn bán đỡ đần trong thời gian tới chờ anh làm thủ tục giấy tờ bão lãnh.” Thế rồi bặt tin luôn. Em có gửi thư và gọi điện thoại nhiều lần nhưng không thấy hồi âm. Em cay đắng nghĩ rằng, Huệ đã thí cho mạ con em 10 ngàn để rồi trốn biệt! Em cố nghĩ tốt cho Huệ nhưng càng ngày em càng thấy suy nghĩ Huệ đã bỏ mạ con em đúng hơn tất cả những lý do em bào chữa khác.

    Kể tới đây lại khóc òa. Con bé lấy khăn ướt lau mặt cho mẹ nó. Được một lúc, nàng trấn tỉnh lại nói tiếp:
    – Anh biết không, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. buôn bán nhỏ để nuôi ba miệng ăn nên càng ngày vốn càng hao hụt. Vì thế, tháng trước khi con em nghỉ hè, em quyết định dọn về thành phố để xoay xở may ra khá hơn; ai ngờ lòng người lừa lọc, họ nhẫn tâm giựt mất lẽ sống của ba người chúng em khi em nộp tiền sang một cái sạp bán trái cây ngoài chợ Quảng Ngãi. Tuần sau em tới nhận sạp thì mới biết đó là trò lường gạt. Không tìm được thủ phạm, lại tiếc tiền và lo sợ không biết gia đình sẽ sinh sống ra sao nên kiệt sức quỵ dần, nằm liệt giường cả tuần nay. Đó là lý do em đành lòng để Lan Huệ đi bán vé số tạm thời.
    – Phương Lan nghỉ chút đi, đừng nói nữa. Bây giờ phải giải quyết buổi ăn tối trước đã. Chuyện đâu còn có đó. Thế nào cũng có con đường sáng cho Cụ và hai mẹ con Phương Lan. Tin tôi đi!
    – Rứa thì anh tính răng em xin nghe theo. Nhưng người em yếu quá, em không thể ra ngoài được.
    Tôi chưa biết nói sao, bà cụ đỡ lời:
    – Huệ, mi chạy ra quán chú Tư nói chú cho người mang cho mình 4 phần cơm đặc biệt để đãi khách rồi mạ mi thanh toán sau.
    – Cô với Bác nghỉ chút đi, cháu đi cùng với Lan Huệ.
    Con bé ngó mẹ nó, thấy mẹ nó gật đầu:
    – Con dẫn đường bác Phong đi đi.

    Tôi nắm tay con bé, muốn truyền tất cả sự thương yêu của Ba nó qua trái tim ướt sũng của tôi. Với số tuổi này ở bên Mỹ sung sướng biết bao nhiêu, trong khi con bé này phải ngày ngày lê gót đi khắp phố phường bán vé số lo thuốc cho mẹ! Còn đau đớn nào bằng! Tôi trìu mến hỏi nó:
    – Lan Huệ, cháu bao nhiêu tuổi rồi?
    – Dạ con 7 tuổi!
    – Cháu học lớp mấy?
    – Con vừa xong lớp một ở dưới Tịnh khê. Đầu mùa hè mạ con dọn về đây; khai trường con sẽ ghi danh lớp hai.
    – Nếu có Ông Tiên cho cháu một mơ ước bây giờ, cháu sẽ mơ ước điều gì?
    – Ước cho mạ con khỏe mạnh và con có cha như lũ bạn trong lớp. Nó nói liền không cần suy nghĩ.
    – Đã nói là chỉ có một thôi mà!
    Nó cúi gầm xuống, bước đi theo tay kéo của tôi. Không biết nó tính toán cái gì trong cái đầu bé tí đó. Được một lát nó ngước lên nói:
    – Ba con chết rồi, rứa cho con xin mạ khỏe mạnh như xưa.
    Con bé này vừa thông minh vừa chí hiếu giống như ba mẹ nó. Tôi cũng chợt đau lòng thay cho nó. Nếu có điều kiện học hành đàng hoàng, chắc chắn nó sẽ nên người hữu dụng mai sau. Tôi tự nhủ thầm “chắc chắn cháu sẽ có tương lai tốt đẹp thôi”
    Chúng tôi bước vào một tiệm ăn nhỏ xíu bên ngoài con hẻm. Con bé nhìn tôi, tôi nhìn nó:
    – Bà và Mẹ cháu muốn ăn món gì?
    – Khi nãy Bà nói mua 4 phần cơm đặc biệt đãi khách.
    – Cháu muốn ăn gì khác không?
    – Hủ tíu mì! Nhưng chỗ ni chỉ bán cơm thôi.
    – Ở đâu bán hủ tíu mì?
    – Ngoài đường lớn mới có.
    – Xa không?
    – Một con hẻm nữa là tới đường Ngô Quyền sẽ thấy tiệm liền hà!
    – Rồi, chú cháu mình đi.
    – Không được mô chú. Không mua cơm về nhà sẽ bị Bà và Mạ la chết.
    – Chú chịu trách nhiệm cho. Hơn nữa mẹ cháu không được khỏe làm sao nuốt cơm cho trôi; Bà cũng già rồi, cơm khó nuốt lắm.
    – Vậy thì về nhà chú nói là tại chú muốn ăn hủ tíu mì đó nghe.
    – Được rồi, chú hứa.

    Tôi đưa ngón tay ngoéo ngón tay bé tí của nó. Nhìn mặt cười rạng rỡ của nó tôi càng thương hơn. Tôi bỗng ước ao nó làm con, làm cháu gì của tôi cũng được, tôi sẽ lo lắng, thương yêu nó hết lòng để bù trừ những bất hạnh trong mấy năm qua.
    Về đến nhà với 4 tô hủ tíu mì đựng trong hai cái gà-mèn, tôi nói liền:
    – Tôi mua hủ tíu mì cho Bác và Phương Lan dễ ăn nha.

    Nói xong kín đáo nhìn con bé nháy mắt, nó mỉm cười quay đi đồng lõa. Bà cụ và Phương Lan ráng ăn một ít rồi ngừng. Riêng con bé ăn một cách ngon lành làm tôi muốn chảy nước mắt. Có lẽ lâu lắm nó chưa được ăn món ăn xa xỉ này.

    Sau bữa ăn ngắn, thấy không tiện ở lâu, tôi đề nghị ngày mai tôi trở lại sớm để nói cho hết câu chuyện. Phương Lan dụ dự nhưng đồng ý. Có lẽ bất đắc dĩ chứ có cách nào hơn.
    – Cháu xin chào Bác và mẹ con Phương Lan. Sáng mai mấy giờ tiện cho tôi trở lại?
    – Giờ nào anh ngủ dậy thì tới cũng được ạ. Anh đang ở khách sạn nào?
    – Khách sạn Trung Tâm trên đường Lê Lợi.
    – Chỗ nớ cách đây không xa lắm.
    – Nếu biết trước tôi đâu mất nửa ngày đi tìm!

    Chợt để ý thấy hũ tro cốt của Huệ đã được đặt lên bàn thờ có nén hương đang cháy.
    – Thưa Bác và cô Phương Lan, trước khi ra về, tôi muốn được thắp nhang cảm tạ trời đất và tạm an vị tro cốt của em Huệ.
    – Cám ơn anh đã chu đáo!

    Phương Lan vừa âm thầm khóc vừa bước tới trước bàn thờ, lấy một nén nhang run run đốt. Tôi nghĩ có lẽ nàng sẽ khóc suốt đêm nay. Tôi không biết an ủi cách nào, đành lặng lẽ cầm nén nhang từ tay nàng trao, đứng trước bàn khấn vái lớn cho mọi người cùng nghe.
    – Huệ ơi! Cuối cùng thì em cũng đã về bên vợ con như ý nguyện. Thầy cảm tạ hương linh em đã giúp Thầy vượt qua nhiều thử thách để chu toàn lời hứa với em. Dĩ nhiên công việc chưa xong, hy vọng trong vài ngày nữa sẽ được. Em an nghỉ và ở bên vợ con phù trợ cho họ vượt qua tất cả nghịch cảnh do ông trời thử thách, sớm cho họ được bình an từ tinh thần đến vật chất. Thầy cũng đã hứa với em, Thầy sẽ để tâm tới bé Lan Huệ từ hôm nay. Bây giờ kể như đã xong phần quan trọng nhất, những việc khác chắc không có gì để lo. Ngày mai, Thầy sẽ trở lại đây để lo cho xong trách nhiệm em giao phó. Tạm biệt Huệ.

    Tôi cắm nhang xong quay lại đã thấy Phương Lan mắt lệ đầm đìa, dang tay ôm chặt tôi, gục đầu trên vai khóc nức nở:
    – Mạ con em đội ơn anh. Còn nhiều điều em nôn nóng muốn biết nhưng không còn thắp thỏm như mấy năm qua nữa. Huệ đã về với mạ con em dù chỉ là di cốt nhưng trong thâm tâm em cũng đã thấy mãn nguyện lắm rồi. Vô vàn cám tạ tấm chân tình anh đã dành cho chúng em, và đặc biệt cho mạ con em. Hẹn gặp anh sáng mai và chúc anh ngủ ngon đêm nay.

    Tôi nghĩ phải có niềm cảm xúc sâu sắc lắm mới khiến một người con gái Việt Nam biểu lộ cử chỉ thân mật như vậy. Tôi quá bất ngờ nên đâm ra lúng túng, một tay buông thõng, một tay ngại ngùng đập nhẹ trên chiếc vai gầy run rẩy, thổn thức để nói lời an ủi. Nàng cố dằn cơn xúc động, buông tay, ngả nghiêng bước tới giường nằm vật xuống gối khóc vùi. Con bé giờ này cũng khóc theo mẹ và bà Cụ cứ lấy tay áo quẹt nước mắt. Tôi bối rối chôn chân tại chỗ. Tình cảnh rất khó lòng, đi không nỡ ở không được! Không quay mặt lại, Phương Lan nói trong nước mắt nhưng dứt khoát “anh đi về kẻo muộn, mai chúng em gặp lại anh”. Tạm biệt!

    Tôi bước qua khuôn cửa, thuận tay khép lại, nghe nặng bước chân, tâm hồn chùng xuống thật thấp với tấm lòng đầy trắc ẩn và âu lo lẫn xót thương. Một gia đình nhỏ với 3 thế hệ toàn là đàn bà đứng trước một nghịch cảnh đớn đau. Tôi thấy mình bất lực quá trước đau thương to tát của 3 người đàn bà đáng thương này.

    5.
    Màn đêm phủ kín khu phố; những ngọn đèn đường vàng vọt trải xuống cảnh vật chung quanh một màu ảm đạm, thê lương. Đâu đây tiếng dế kêu vang như hòa cùng tiếng khóc than của một người thiếu phụ mất chồng và một đứa con gái nhỏ mất cha.

    Có chiếc xe ôm trờ tới, tôi bảo anh ta cho tôi trở về khách sạn Trung Tâm. Anh ta nhìn tôi chằm chặp, nói “anh có thể đi bộ được mà”. “Tôi không thể đi thêm bước nào nữa”. Anh tài xế nhìn tôi ái ngại, “anh có muốn tôi chạy quanh một vòng cho khuây khỏa không?” “Cám ơn anh, tôi cần một giấc ngủ!”
    Chỉ xa hơn một lốc đường và tốn không đầy 3 phút chạy xe, anh tài xế đã đổ tôi xuống trước khách sạn. Bước xuống xe, hai chân muốn khuỵu xuống. Về đến phòng, không kịp thay đồ, tôi tuột giày nằm vật mình trên nệm… Một ngày đầy âu lo, vất vả làm rệu rã cả tâm hồn lẫn thể xác! Thế nhưng có ngủ được đâu. Niềm xót thương đứa học trò tình nghĩa đã ra đi, để lại vợ con trong hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã như hiện tại cứ dâng đầy, làm hai con mắt ráo hoảnh. Tôi cố làm mọi cách để quên hết mọi chuyện, áp dụng mọi phương pháp để dỗ giấc ngủ… nhưng hình ảnh đau thương của một gia đình 3 thế hệ cứ chập chờn làm cay đôi mắt.
    Cứ ray rứt như thế cho đến quá nửa khuya, tôi bật dậy vào phòng tắm mở nước đầy bồn, nằm ngâm mình với những suy tư dằn vặt rồi ngủ quên cho tới gần sáng khi tiếng loa tuyên truyền vang lên ra rả bên ngoài khách sạn.

    Lau mình sạch sẽ xong, tôi lại vùi đầu vào gối cố ngủ tiếp nhưng không thể nào, cứ nghĩ tới những công việc cần phải làm trước mắt, trong ngày hôm nay… tôi nóng lòng trông cho trời mau sáng…

    7 giờ sáng, tôi thay đồ ra hàng quán trước khách sạn uống mấy cốc cà phê chờ đợi. Tôi nghĩ có lẽ mọi người cũng nóng lòng muốn biết hết câu chuyện, và tôi cũng muốn nói cho xong, cho nhẹ lòng. Thấy còn nhiều thì giờ, tôi quyết định đi bộ theo con đường anh xe ôm chạy tối hôm qua. Đi dọc theo đường Quang Trung để nhớ về một thời… Ngày xưa, tôi cũng có “người yêu bé nhỏ” có tiệm bán xe đạp ở trên con đường này. Khi đi ngang qua trường Trung học Trần Quốc Tuấn – ngôi trường nổi tiếng năm xưa không biết bây giờ có còn được dư hương ngày tháng cũ hay cũng chỉ còn là những kỷ niệm muôn màu như tuổi ấu thơ của tôi đã biệt mù trong thế kỷ trước… Ngôi trường đồ sộ hơn nhiều so với “năm xưa”. Bây giờ đang là mùa Hè, sân trường lác đác người và xe cộ, những tàng phượng vỹ đỏ ối sân trường cho tôi nhiều bồi hồi nhớ tiếc.

    Quẹo phải Nguyễn Nghiêm, quẹo trái Ngô Quyền, quẹo vào hai con hẻm, tới trước nhà thấy cửa trước mở hé. Vừa bước qua khoảng sân hẹp đã thấy Phương Lan đứng chờ:
    – Em nghĩ tối qua chắc anh không ngủ được… nên mới tới trễ?
    – Bằng vào đâu cô nói vậy?
    – Nhìn mặt anh trỏm lơ em đoán rứa. Vì không ngủ được, anh trằn trọc suốt đêm và rồi ngủ quên lúc về sáng?
    – Nếu vậy tôi cũng có thể nói cô đã thức và khóc trắng đêm.
    Phương Lan cúi mặt như cố giấu đôi mắt đỏ ngầu, sưng húp.
    – Dạ, em mô có muốn rứa nhưng nước mắt cứ tuôn hoài. Em đã tốn biết bao nhiêu nước mắt trước khi anh về nhưng có lẽ trời sinh ra em với hồ nước mắt lớn hơn bình thường!
    Bé Lan Huệ cũng vui mừng ôm chầmm lấy tôi khi tôi vừa đặt chân qua ngưỡng cửa. Cụ bà cũng đã thức, đang ngồi trên mép giường nhai trầu bỏm bẻm.
    – Cháu chào Bác ạ. Tối qua Bác ngủ được tí nào không?
    – Ngủ nghê chi được cậu. Mạ con chúng nó khóc hoài cả đêm. Hơn nữa tui cũng buồn cho số phận của con cháu quá!
    – Vâng thưa Bác, cháu là người ngoài mà cũng buồn não nuột cho hoàn cảnh của gia đình Bác huống chi người ruột thịt, và là con là vợ. Chuyện đã xảy ra rồi, bây giờ những người còn sống phải sống cho đáng sống để linh hồn người ra đi không quá nặng nề.
    – Anh uống cà phê chưa? – Phương Lan hỏi.
    – Đã uống ở khách sạn rồi.

    Ngửi thấy mùi khói nhang nồng nực, tôi đưa tay kéo thêm cánh cửa mở rộng hơn chút nữa, xong tự động ngồi xuống chỗ ngồi hôm qua. Phương Lan cũng ngồi xuống ghế đối diện. Trông nàng có vẻ bình tĩnh hơn nhiều. Trên chiếc bàn nhỏ có một chiếc bình trà nhỏ với 4 cái tách nằm úp trong một cái đĩa vừa đủ lớn. Nàng khoan thai rót trà ra ba tách, đẩy về phía tôi một chung, gật đầu thay lời mời và hai tay bưng một chung đứng lên mời bà cụ. Trở lại ghế ngồi, nhắm môi vào chung trà rồi nhẹ nhàng đặt xuống, nhìn thẳng vào tôi, giọng tâm sự:
    – Anh Phong à! Suốt đêm qua em đã nghĩ thấu đến thực tế đời mình. Huệ đã chết rồi và em có bổn phận phải sống tốt để lo cho cháu Lan Huệ. Chừ em đã bình tĩnh hơn nhiều rồi; anh có thể kể hết ngọn ngành câu chuyện.
    – Hôm qua mình ngừng ở chỗ Huệ sắp chuyển nhà thương.
    – Anh nói Huệ bị ung thư không cứu chữa kịp và vì Huệ không có thân nhân nên người ta chuẩn bị đưa Huệ qua chỗ nằm chờ chết… Trời ơi nghe đau lòng quá! Huệ có vợ, có con mà!
    Nói tới đây nàng lại nấc lên, nước mắt lại tuôn trào. Tôi ái ngại nhìn nàng, nhìn con bé, nhìn bà cụ, nhìn quanh căn phòng, nhìn lên bàn thờ nghi ngút khói hương… Để làm nhẹ không khí ảm đạm, tôi nói như chọc nàng:
    – Cô mới nói là cô đã bình tĩnh rồi mà?
    Nàng nhích môi như cố mỉm cười nhưng là nụ cười méo xệch trên bờ môi khô héo:
    – Em xin lỗi, em sẽ cố gắng!
    – Tôi mong cô cố gắng nhiều hơn nữa vì những gì tôi sắp nói ra sẽ vô cùng bi thiết. Cô nên nhớ, đàng nào Huệ cũng đã chết rồi; bổn phận của tôi phải làm những gì Huệ gửi gắm; và bổn phận của cô là giữ gìn sức khỏe thật tốt để chăm sóc cụ bà trong lúc tuổi già và lo tương lai cho bé Lan Huệ, giọt máu duy nhất của Huệ.

    6.
    Tối hôm đó Huệ mệt quá không nói được gì ngoài câu “em trông mong Thầy giúp em, vì em không còn ai thân thuộc ngoài vợ và con gái nhỏ còn ở VN.” Tôi quá bất ngờ để nghe như vậy nhưng không tiện nói gì vì Huệ lả đi. Tôi quanh quẩn với Huệ tới khuya, khi thấy Huệ đã tạm ổn tôi ra về vì không chuẩn bị trước.
    Sáng sớm hôm sau tôi trở lại thì người ta đã chuyển Huệ qua nhà thương hospice. Theo lời chỉ dẫn của phòng y tá trực, tôi chạy qua với Huệ.

    Huệ thấy tôi vào mừng rỡ gượng ngồi dậy, “em trông Thầy từ sáng sớm đến giờ! Em đã ký giấy ủy quyền pháp lý cho Thầy với bệnh viện tối hôm qua.” Tôi ngăn không cho ngồi dậy, nhưng Huệ nói hôm nay Huệ thấy khỏe hơn nhiều. Tôi bấm nút cho chiếc giường cao lên tối đa, chặn thêm vài chiếc gối sau lưng để Huệ ngồi thoải mái. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường.
    – Huệ nói “hôm nay em phải nói hết sự thật cho Thầy biết vì em rất cần đến sự hy sinh và giúp đỡ của Thầy.”
    Tôi lo sợ Huệ phải vận động tâm lực nhiều quá không tốt:
    – Thì khi nào em thật khỏe kể Thầy nghe cũng được.
    – Thầy không cần phải lo cho sức khỏe của em nữa. Em biết thời gian của em không còn được bao lâu, bác sĩ và y tá cũng đã nói cho em biết là em có thể ra đi bất cứ lúc nào.
    Tôi mủi lòng ráng cầm nước mắt:
    – Nếu Thầy có thể giúp được gì cho em, Thầy rất vui lòng. Đã từ lâu Thầy coi em như người thân trong gia đình. Chỉ vì em ít nói nên Thầy không rõ em nghĩ sao.
    – Em xin Thầy cho em nói hết mọi việc xong Thầy sẽ cho em biết ý kiến của Thầy; nhất là sau này, khi có dịp Thầy nói lại với vợ con em giùm em.
    Dù trong thâm tâm tôi nghĩ sẽ chẳng có cơ hội đó nhưng vì tôn trọng thời gian hiếm hoi còn lại của chú học trò, tôi gật đầu lắng nghe.
    – Em sẽ nói điều cần nói trước và không theo thứ tự nào. Những gì em không kịp nói thì cũng đành, Thầy không cần bận tâm. Em cũng xin Thầy tha thứ vì em đã không cho Thầy biết về đời sống riêng tư của em. Và còn tự ý làm một việc mà không hỏi ý kiến Thầy trước. Em sẽ nói tới sau. Em biết Thầy ngạc nhiên lắm khi biết em đã có vợ có con ở Việt Nam.

    7.
    Bảy năm về trước em đi cùng mẹ em về Mỹ Khê, Quảng Ngãi lần đầu tiên thăm mộ phần của ba em. Theo lời mẹ em kể, ba em bị giết trong trại tù Cộng sản vì trốn trại khi em chưa đầy tuổi. Trong chuyến đi này em gặp và thương yêu một người con gái đồng cảnh ngộ tên Phạm Thị Phương Lan, dân Mỹ Khê gốc Huế. Sau khi về Mỹ, chúng em vẫn thường xuyên liên lạc càng ngày càng mật thiết. Chúng em thật sự yêu nhau, muốn tiến đến hôn nhân. Trong thời gian quen biết em nhận thấy Phương Lan là một cô gái hiền hòa, xinh đẹp, tâm hồn đoan hậu và là một người con hiếu đễ. Nàng không hề đòi hỏi bất cứ một điều gì ở em, kể cả khi em đề nghị làm giấy tờ cho nàng sang Mỹ. Đến lúc này em mới biết mẹ con Phương Lan không còn thân nhân nào ở Việt Nam!
    Dĩ nhiên tất cả việc riêng tư này em đều cho mẹ em biết. Mẹ em nói em đủ khôn lớn rồi có thể tự quyết định tương lai cho mình; mẹ không lo được gì và cũng sẽ không phản đối.

    Vì quá yêu thương và tin tưởng lẫn nhau, sáu tháng sau, em xin phép Mẹ trở lại Quảng Ngãi một mình để làm một đám cưới đơn giản nhằm hợp thức hóa hôn nhân. Em về lại Mỹ hỏi thăm nhiều Luật sư Di trú về trường hợp của chúng em. Ai cũng nói là không có cách nào cho tới khi Phương Lan trở thành công dân Hoa Kỳ mới bảo lãnh cho mẹ nàng qua được.

    Tụi em chưa biết tính sao thì được tin Phương Lan có mang. Em vừa mừng vui vừa buồn bã… Rồi Phương Lan sinh hạ một bé gái. Em tức tốc bay về khi nàng còn trong nhà thương. Chúng em đồng ý đặt tên cho con là Lan Huệ để đánh dấu mối tình sâu đậm của chúng em. Việc bảo lãnh vẫn dậm chân tại chỗ. Không ai nói với ai nhưng trong thâm tâm đều biết rất khó để chúng em đoàn viên trong nghịch cảnh éo le này. Em thương yêu mẹ của nàng như yêu thương mẹ của em. Chúng em cùng đau đớn chấp nhận số phận. Không dám nói ra nhưng ai cũng biết chỉ khi nào hai bà mẹ trăm tuổi thì chúng em mới có cơ hội chung sống với nhau, hoặc bên này hoặc bên kia…

    Nói tới đây thì Huệ mệt quá phải ngưng lại. Tôi khuyên Huệ nằm xuống nghỉ ngơi đợi lúc khỏe sẽ tiếp. Huệ ra dấu xin uống nước, cùng lúc cô y tá vào thăm bệnh. Tôi bước ra ngoài, gọi nhà tôi hỏi ông bác sĩ về tình trạng sức khỏe của Huệ. Ông ta khuyên, nếu là người thân thì nên chuẩn bị tinh thần và vui vẻ với Huệ được lúc nào hay lúc nấy (enjoy him while you could). Tôi cố làm tỉnh, trở lại phòng. Huệ đã đỡ mệt và muốn tôi ngồi bên giường để Huệ nói tiếp.
    – Thưa Thầy, Thầy đừng lo cho em, em cần nói ngay những điều cần nói chỉ sợ không còn đủ giờ. Dạ, cách đây khoảng ba năm, mẹ em ngả bệnh rồi mất vài năm trước như Thầy đã biết. Trong thời gian mẹ em bệnh, em phải luôn ở bên mẹ sau giờ đi làm, dù Mẹ ở nhà hay trong bệnh viện, vì chỉ có hai mẹ con. Ngoài ra, em còn phải cáng đáng tài chánh cho mọi chi phí trong gia đình kể cả thuốc men. Những khó khăn này em chỉ giữ riêng em chứ không dám nói với Phương Lan vì em nghĩ chẳng lợi ích gì mà còn tạo thêm sự lo lắng cho nhau hơn thôi. Em chỉ nói với Phương Lan về bệnh tình của mẹ em. Phương Lan tỏ ra rất thông cảm và khuyên em yên tâm lo cho mẹ là quan trọng hơn hết. Sự cao thượng của nàng đã an ủi em không ít. Trong khi đó tiền để dành càng ngày càng cạn dần, em lo sợ nếu không tính ngay thì cuộc sống của mẹ con Phương Lan sẽ rất khó khăn; vì thế, em quyết định lấy ra 10 ngàn đô gửi cho nàng, khuyến khích tìm cách buôn bán sống tạm trong thời gian khó khăn sắp tới. Bệnh tình của mẹ em trở nên nguy kịch nên em không còn tâm trí nào để nghĩ tới việc riêng của mình. Để rồi chưa đầy năm sau mẹ em lìa đời! Tang lễ cho mẹ xong, tinh thần em suy sụp đáng kể, tài chánh kiệt quệ. Cả tháng sau em mới nguôi ngoai, dần dần phục hồi. Trong thời gian bị bệnh em có nghĩ nhiều về vợ con nhưng em không muốn liên lạc trong lúc cùng quẫn. Em dự định trở lại sở làm một thời gian để dành đủ tiền sẽ về thăm mẹ con Phương Lan; lúc gặp nhau sẽ giải thích sự vắng bóng của em trong thời gian qua cũng không muộn. Nhằm lúc kinh tế khó khăn, hãng xưởng sa thải nhân viên hoặc đóng cửa và vì vậy em bị cho nghỉ việc luôn!”
    Thấy Huệ ra dấu xin uống nước, tôi nói em nghỉ một lát nhưng Huệ lắc đầu. “Thầy để em nói, phần này mới là quan trọng.”

    Ba tháng sau em vẫn chưa tìm ra việc làm, em buồn chán quá sức, ăn ngủ thất thường lại nhớ vợ, nhớ con đứt ruột… rồi ngã bệnh. Ông bác sĩ gia đình chỉ nói có lẽ tại em buồn rầu rồi sinh bệnh; bảo em về cố tĩnh dưỡng, ăn uống, ngủ nghỉ điều độ một thời gian sẽ khỏi; rồi cho cái toa mua mớ trụ sinh về uống.

    Thấy cơn đau bụng thuyên giảm đi nhiều em chưa kịp mừng thì phải nhờ ông bạn hàng xóm đưa đi cấp cứu vì bụng dưới của em đau không chịu nỗi!

    Sau khi khám nghiệm, bác sĩ nói em có vấn đề ở ruột già! Họ gửi em đi các chuyên khoa để xác nghiệm… Sự xác nhận cuối cùng là em bị ung thư ruột già không còn cách chữa trị như Thầy đã biết. Họ đề nghị em làm xạ trị không ổn, đổi qua hóa trị cũng vô phương. Trong thời gian điều trị, em sợ em khó thể vượt qua nên đã lo sắp xếp mọi thứ từ ngân hàng, nhà cửa, xe cộ, hang bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ; đi luật sư làm di chúc; làm giấy ủy quyền pháp lý (power of attorney). Em đã để tên Thầy là người đại diện pháp lý, có toàn quyền định đoạt về tài sản khiêm nhường của em kể cả thân xác này sau khi em không còn tự quyết định được nữa. Em hoàn toàn tin tưởng vào tấm lòng nhân ái của Thầy; và Thầy là người thân duy nhất của em bên Mỹ. Tất cả sổ sách, giấy tờ, chìa khóa em đựng trong hộp sắt để tại Chase Bank trên đường Bellaire Blvd., Houston, TX gần đường Synott; và đây là chìa khóa chiếc hộp sắt em xin trân trọng giao lại cho Thầy quản thủ. Sau khi em chết rồi, Thầy cứ theo di chúc mà giúp em hoàn thành tâm nguyện.

    Nói xong, Huệ cởi chiếc chìa khóa đeo trên tay đưa cho tôi rồi nhắm mắt lịm đi. Hơi thở gấp gáp, mặt tái nhợt! Tôi hoảng hốt gọi y tá trực vào phòng xem xét… Một lúc sau Huệ tỉnh lại. Huệ nhìn tôi gượng mỉm cười, môi mấp máy, yếu ớt nhưng thần thái có vẻ tự tại lắm. Tôi nắm chặt tay Huệ và áp tai để nghe:
    – Bây giờ thì em yên tâm rồi. Thầy hứa với em đi! Em chỉ ân hận là không chính miệng em kể lại cho vợ em nghe về những trầm luân của em; em biết Phương Lan đang buồn trách em và rồi nàng sẽ đau đớn lắm khi biết tất cả sự thật. Và em cũng ân hận không được nhìn được mặt đứa con gái yêu quý; hơn ba năm qua chắc nó đã lớn lắm rồi…

    Nói tới đây Huệ thở hắt ra và nhắm mắt lại, hai giọt nước mắt lăn dài trên đôi má gầy nhom. Tôi ngó nhịp tim vẫn đập nhưng không đều đặn và hơi thở yếu dần đi. Một tay nắm, một tay ôm vai, tôi áp miệng vào tai Huệ thì thầm: “Thầy tuyên hứa với em sẽ làm tất cả những gì em muốn Thầy làm.” Huệ mở bừng mắt ra, cố siết nhẹ tay tôi, mỉm miệng cười xong trút hơi thở cuối cùng!

    8.
    Phương Lan hự lên một tiếng rồi ngất xỉu. Tôi đã đề phòng nên đỡ nàng kịp lúc, bế xốc nàng đặt lên giường, làm các động tác như hôm qua. Ngoài xoa bóp ở hai huyệt Nhĩ Môn và Thái Dương, lần này tôi phải nắn bóp thêm huyệt Thần Đình trên đỉnh đầu để trợ não. Tiếng khóc của bà cụ và con bé quyện hòa với mùi hương trầm u uất làm đau xé tim gan. Dù vậy, tôi cũng cố bình tĩnh để trấn an hai người trong lúc nước mắt cứ chực tuôn trào.

    Một lúc sau Phương Lan tỉnh dần nhưng lại hôn mê ngay. Tôi thực sự lo sợ cho sức khỏe của nàng, nên vừa nắn bóp các huyệt đạo cho nàng vừa bảo con bé mở toang các cánh cửa cho thoáng khí và chạy tìm gấp người y tá hôm nọ. Nó vừa khóc vừa chạy đi. Bà cụ lu bu xức dầu xanh lên mũi, lên thái dương Phương Lan. Tôi xem mạch nàng vẫn điều hòa dù hơi thở có yếu ớt. Tôi biết, ai mà không sốc với hoàn cảnh đau đớn cùng cực như vầy!

    Vài phút sau nàng lai tỉnh, ngỏ lời xin uống nước. Tôi lấy tách trà và giúp nàng ngồi dậy. Thân hình nàng ẻo lả như cọng bún; tôi phải để nàng tựa vào tôi và chậm chạp cho nàng uống từng hớp nước xong đặt nàng nằm gối đầu lên hai chiếc gối chồng cao.
    Khoảng mười phút sau, cô ý tá và con bé hớt hải bước vào nhà. Người y tá hành sự thành thạo, bày đồ nghề và chích cho nàng một ống thuốc khỏe (?); tôi không buồn hỏi loại thuốc gì vì thấy cô ta đã chích cho Phương Lan hôm qua rất tốt. Cô y tá ra về hẹn tối sẽ tới chích thêm một ống nữa.
    Tôi nhẹ nhàng nói với Phương Lan:
    – Tôi chia sẻ sự đau đớn, mất mát to lớn của Phương Lan nhưng cô phải ráng khỏe, chúng ta còn vài việc cần làm, tôi chỉ có thể ở đây vài hôm nữa thôi.
    Phương Lan lại òa khóc. Tôi khuyên giải:
    – Người đi đã đi, người ở lại mới là quan trọng. Bà cụ và bé Lan Huệ chỉ trông cậy vào cô, và đó cũng là ước nguyện của Huệ.
    – Dạ, em hiểu!
    – Tôi nghĩ tốt nhất bây giờ tôi về khách sạn, để mọi người nghỉ ngơi; sau trưa tôi trở lại, rất mong Phương Lan khỏe đi ra ngoài được, chúng ta có việc cần làm.
    – Bao giờ anh trở lại Mỹ?
    – Xong việc ở đây, tôi trở lại Mỹ Khê, ghé thăm mồ mả ông bà một hôm xong về Saigon thăm bạn bè vài hôm.
    – Quê anh cũng ở Mỹ Khê? – Nàng có vẻ ngạc nhiên.
    – Dòng họ, bà con tôi hầu hết ở đó.
    – Anh có liên hệ chi với dòng họ Trương Quang không?
    – Dòng họ của tôi.
    – Em sém làm dâu nhà Trương Quang.
    – ??? – Tôi ngó nàng chờ đợi.
    – Cũng may, em khám phá sớm gia đình nớ có thân nhân làm lớn trong chính quyền Việt cộng nên chấm dứt liên hệ liền.
    – Ăn nhằm gì tới tương lai của cô?
    – Em không thích liên hệ tới Việt cộng!
    – Cô chưa biết tôi là ai sao dám nói những điều như vậy?
    – Em chắc anh không phải Việt cộng, vì Việt cộng không có trái tim từ ái, không có tấm lòng nhân hậu.
    – Thôi bỏ qua chuyện này đi Phương Lan, tôi không muốn tai bay họa gửi cho ai hết.
    – Bi chừ em thấy khỏe nhiều rồi, anh không cần phải đi tới đi lui. Anh muốn em đi mô và làm chi mà anh noái rất cần?
    – Buổi trưa các ngân hàng có làm việc hay không?
    – Em không lui tới những chỗ nớ nên không rõ. Chắc ăn mình có thể tới đó sau 1 giờ chiều. Ở trên đường Hùng Vương gần nhà có Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, đó là chi nhánh của Vietcombank.
    – Rất tốt! Vậy liệu cô và mọi người đi tiệm ăn trưa với tôi được không, xong tôi với cô đi nhà bank lúc 2 giờ, để cho họ còn ngủ trưa an giấc.
    – Mạ em không thích đi tiệm ăn mô. Mình mua thức ăn đem về nhà như hôm qua được không anh?
    Tôi dành phần đi mua thức ăn cùng với bé Lan Huệ. Con bé vui hẳn lên, tự động nắm tay tôi kéo đi. Không ai nói ăn gì nên tôi tự quyết định tới tiệm cơm gà nổi tiếng ở gần chợ Quảng Ngãi mua về.
    Trong suốt bữa ăn gia đình, tôi cố pha trò để phá tan không khí u trầm nhưng không thành công mấy. Phương Lan và bà cụ vẫn chỉ ăn chút đỉnh; tôi và con bé cứ ăn ngon lành vì bụng đói. Tôi chưa nói gì về những dự định sắp tới, chỉ mở hé chút chút là ngoài tin buồn cũng sẽ có tin vui…

    9.
    Sau khi Huệ trút hơi thở sau cùng và trong lúc chờ giảo nghiệm, tôi dàn xếp với nhà thương rồi cấp tốc chạy về ngân hàng Chase mở tủ sắt đọc di chúc để biết phải làm gì.

    Trong di chúc, Huệ cho tôi chi tiết để liên lạc với hãng bảo hiểm nhân thọ AIG ngay sau khi Huệ tắt thở để được hướng dẫn. Huệ muốn được hỏa thiêu; nhờ tôi tìm cách bán căn nhà và chiếc xe; đến nhà băng đóng trương mục, lấy hết tiền ra; đến ngôi chùa nơi để di ảnh của Mẹ, trích ra $5 ngàn để cúng chùa. Khẩn cầu tôi đi Việt Nam về Mỹ Khê tìm gặp mẹ con Phương Lan trao lại tất cả số tiền còn lại để nàng buôn bán nuôi con và lo cho mẹ già sau khi chi trả tất cả những khoản chi phí cần thiết, kể cả chi phí cho chuyến đi của tôi; tiền bảo hiểm nhân thọ ký thác vào quỹ học vấn cho con gái Lan Huệ. Huệ cũng bày tỏ ước mong Phương Lan sẽ thay Huệ chăm sóc mồ mả của Ba Huệ ở Mỹ Khê…

    Tôi chảy nước mắt vì những toan tính tình nghĩa và chu đáo của Huệ. Tôi gọi ngay cho hãng bảo hiểm. Ngạc nhiên thay, họ đã biết trước, đã chuẩn bị sẵn giấy tờ cho tôi ký nộp qua internet. Tôi thắc mắc hỏi họ, họ chia buồn và nói với tôi Huệ đã chuẩn bị cho việc ra đi từ mấy tuần trước. Nhờ vậy mọi thủ tục rất suôn sẻ.

    Sau khi xong việc tang lễ, tôi mang hũ tro cốt để tạm vào chùa (cho tới khi tôi mang đi Việt Nam) nhân dịp đến cúng viếng theo lời dặn của Huệ. Vị trụ trì cũng là chỗ quen biết lâu dài nên dành cho tôi mọi sự dễ dàng. Tôi nhờ chú em làm địa ốc đăng bảng bán nhà sau khi đã mướn người dọn dẹp, lau chùi, cắt cỏ sạch sẽ. Nhà trệt có 3 phòng ngủ, rộng 1700 square feet, hai phòng tắm, mái nhà thay chưa quá 5 năm, nhà để xe riêng, khoản đất ¼ mẫu, bàn ghế tủ giường còn nguyên vẹn. Chú em đề nghị đăng giá $120 ngàn gồm luôn đồ đạt. Đồng thời tôi cũng liên lạc với một người bạn quen, có công ty mua bán xe cũ để bán chiếc xe của Huệ. Chiếc xe Toyota Camry 2008, bạn nói vì thương hoàn cảnh của Huệ nên mua giúp $10 ngàn, không tính thuế. Tôi liên lạc với hãng bảo hiểm AIG làm thủ tục chuyển hết số hiện kim vào một trương mục đặc biệt tôi vừa mở ở ngân hàng Citibank. Trong khi đó tôi cũng xếp đặt công việc ở trường võ, giao cho một học trò lớn tuổi, cao đẳng nhất để trông coi trong thời gian tôi vắng mặt.
    Trong đời tôi thăng trầm cũng lắm, gian nan cũng thừa trong bất cứ công việc gì tôi làm; thế nhưng, trong tiến trình lo cho Huệ mọi việc đều trơn tru, mau lẹ. Nhiều lúc tôi nghĩ có lẽ Huệ theo phò hộ cho tôi nên mọi chuyện mới êm thắm như vậy.

    Nhà đăng bảng chưa đầy một tháng đã có mấy người muốn mua; trong số đó có một cặp vợ chồng lớn tuổi người Việt ở California mới dọn về, muốn mua một căn nhà nho nhỏ, trả tiền mặt, để an hưởng tuổi già. Họ hẹn đến xem nhà rồi đồng ý mua luôn với giá $122 ngàn tiền mặt, đặt cọc 20% ngay trong ngày. Chú em tôi vui mừng gọi báo cho biết; rồi năm ngày sau, giấy tờ sang nhượng hoàn tất. Chú em chỉ lấy ít tiền công tượng trưng.

    Tôi làm một cuốn sổ nhỏ, ghi tất cả những dữ kiện về tài chánh của Huệ để sau này trao lại cho Phương Lan.

    ***

    Hai giờ chiều chúng tôi có mặt ở ngân hàng. Phương Lan rất đỗi ngạc nhiên thấy tôi mở hai trương mục, một cho nàng và một dành riêng cho con bé. Càng ngạc nhiên đến nỗi không tin là sự thật khi tôi chuyển ngân vào mỗi trương mục. Tổng số tiền cho nàng là $124+ ngàn (gồm tiền bán nhà, bán xe, sổ tiết kiệm); của con bé $105+ ngàn (gồm $100 ngàn trị giá bảo hiểm và tiền lời). Tôi đề nghị nàng lấy ra một ít để chi dụng và lo thuốc men, số còn lại để trong nhà băng cho an toàn cho tới lúc cần dùng thì lấy. Nàng đồng ý lấy ra 10 triệu tiền mặt.

    Tôi thật không ngờ mọi sự việc lại xảy ra một cách mau lẹ và suôn sẻ như vậy. Khi mọi thủ tục đã xong, tôi mở xách tay lấy ra tờ di chúc của Huệ để lại cho riêng tôi, và cuốn sổ tài chánh trao lại cho Phương Lan giữ làm kỷ niệm. Tôi cũng nói luôn ước nguyện của Huệ muốn nàng thay Huệ chăm sóc mộ phần của ông cụ. Nước mắt lại lả chả rơi; nàng sụt sùi khóc như thế suốt trong thời gian làm thủ tục giấy tờ.

    Tôi thở phào khoan khoái như trút được gánh nặng trên lưng. Cám ơn người nhân viên ngân hàng rối rít. Chúng tôi đứng dậy ra khỏi nhà băng. Đôi chân tôi nhẹ tênh, tâm hồn tôi bềnh bồng. Sức khỏe Phương Lan quá yếu, tôi phải dìu nàng ra cửa gọi taxi đưa nàng về nhà. Tôi dự định về tới nhà dặn dò đâu đó xong xuôi sẽ nói lời từ giã với mọi người. Phương Lan rất yếu để đi hết hai con hẻm nhưng tôi ngại người ta dòm ngó đành để nàng chậm chạp bước đi một mình, tôi theo sát sau canh chừng. Khi tới ngõ đã thấy bà Cụ và con bé bắc ghế ngồi trước cửa như trông đợi. Con bé thấy mẹ chạy lại ôm chầm, dìu mẹ nó vào giường rồi xoay lại ôm tôi và khóc. Tôi cảm động ôm chặt con bé vào lòng, thủ thỉ:
    – Từ nay về sau cháu ngoan của chú không cần đi bán vé số nữa. Ba của cháu đã chuẩn bị hết việc học hành cho cháu rồi. Cháu phải hứa với chú học hành ngoan ngoãn để nên người hữu dụng mai sau. Đó cũng là ước nguyện của ba cháu. Ba cháu đã thương nhớ cháu vô cùng!
    Con bé khóc lớn, nói trong tiếng nấc:
    – Dạ con hứa với Ba, con hứa với Chú!
    Tôi gật đầu chào bà cụ, bế con bé trên tay cùng bước đến trước bàn thờ khói hương nghi ngút, tôi đặt con bé xuống, loay hoay đốt hai nén nhang, trao cho con bé một… Phương Lan cũng tới đứng một bên từ lúc nào, tôi trao nén nhang còn lại cho nàng và đốt thêm một cây khác. Tôi khấn lớn:
    – Huệ quý mến, Thầy đã giữ trọn lời hứa với em rồi đó, đã chu toàn tốt đẹp một “mission” tưởng đâu “impossible”; một sứ mạng tinh thần đầy nước mắt. Thầy biết chắc có sự phù trợ của em nên mọi việc đều thông suốt, hoàn mỹ. Thầy cám ơn em. Bên kia thế giới chắc em đang nở nụ cười mãn nguyện. Thầy tiếc cho em có vợ đẹp con ngoan mà không cùng cộng hưởng hạnh phúc gia đình lâu dài. Có lẽ mỗi người chúng ta khi sinh ra đã được xếp đặt cho một định mệnh riêng biệt. Định mệnh của em có nghiệt ngã nhưng Thầy chắc những người thân yêu này sẽ làm rạng danh em. Cầu xin linh hồn em đời đời an lạc nơi cõi vĩnh hằng.
    Phương Lan khóc rấm rứt, cắm nhang rồi phũ phục xuống đất lạy trước di cốt của Huệ. Con bé cũng quỳ lạy theo mẹ. Cụ bà ngồi ở cạnh giường tự nãy giờ cũng lặng lẽ đứng dậy thắp nhang lên bàn thờ.

    Ngoài hiên bóng chiều mờ dần, tiếng ồn ào của thị tứ cũng lắng xuống cùng với tiếng rao hàng thỉnh thoảng vang lên. Tôi ngỏ lời chào tạm biệt nhưng ai cũng năn nỉ tôi ở thêm chút nữa. Phương Lan vừa khóc vừa nói:
    – Lần chia tay này không chắc có lần tái ngộ. Xin anh ở lại dùng bữa cơm cuối cùng với chúng em. Em không biết nói gì hơn ngoài tấm lòng tri ân sâu xa của gia đình em đối với nghĩa cử cao đẹp của anh. Em xin lạy anh một lạy đền ơn…
    Tôi nhảy tránh qua một bên để nghe nàng nói tiếp:
    – Em xin hứa với anh và vong linh Huệ, em sẽ tự lo thân mình, bảo trọng sức khỏe và tận tình chăm sóc Lan Huệ; nhất định cháu sẽ học hành tới nơi tới chốn để có một tương lai rạng rỡ như di ngôn của Ba nó. Việc mồ mả của Ba Huệ, em đã là vợ của Huệ nên đã và đang thay mặt chồng lo việc hương khói từ lúc cưới nhau đến giờ.
    – Cậu ráng ở lại với chúng tôi một lúc nữa nghe. -Bà cụ nói.
    – Chú đi con buồn lắm!
    Nói xong nó lại khóc ròng. Tôi cũng buồn bã nói:
    – Trước sau gì cũng phải chia tay. Tôi sẽ đưa số điện thoại của tôi bên Mỹ cho Phương Lan để khi nào cần thiết thì liên lạc. Việc tôi làm hoàn toàn do lòng tự nguyện và do tấm lòng quý mến người học trò đầy tình nghĩa của tôi. Vì thế, tôi không dám nhận cái lạy đền ơn của cô nhưng tôi nhận lời với mọi người… ở lại dùng cơm tối với gia đình.

    Tôi lại đi với Bé Lan Huệ mua thức ăn đổi món nhưng bà cụ và Phương Lan cũng chẳng ăn uống gì khá hơn mặc dù cô ý tá đã trở lại chích thêm cho nàng một ống thuốc khỏe.
    Khoảng 9g tối tôi ra về, lòng tràn ngập niềm vui, chân bước lâng lâng, tâm hồn nhẹ nhàng… nhưng khi về tới phòng thì đôi mi nặng trĩu, đôi chân rời rã, đặt lưng nằm xuống là ngủ vùi một giấc, không còn biết trời trăng gì cả cho tới hơn 8 giờ sáng hôm sau khi những tiếng động của mấy người dọn phòng làm tôi thức giấc.

    10.
    Tôi xếp đặt thì giờ để đi Mỹ Khê thăm nhà thờ Đại Tôn, nhà thờ Tiểu Tôn và nhà thờ Thái Bảo Trương Đăng Quế một chuyến; nhân tiện ghé thăm một vài người bà con thân thuộc rồi sáng mai trở về Saigon, tuần sau về lại Mỹ.

    Vừa bước ra phòng khách, tôi khựng lại vì thấy Phương Lan đã đứng đó từ lúc nào! Nàng có vẻ mừng ra mặt nhưng bỗng nước mắt lại rơi! Tôi chưa kịp nói gì thì nàng đã nói:
    – Em sợ anh đi sớm nên đến đây chờ từ lúc 6g sáng hỏi thăm chị Lễ Tân (front desk) cho biết anh còn đang ngủ nên ngồi chờ tới bây giờ.
    Tôi ái ngại nhìn nàng và mời nàng ngồi xuống ghế, âu lo hỏi:
    – Có chuyện gì không Phương Lan?
    – Dạ không có gì quan trọng lắm. Tối qua khi anh về rồi em vẫn bâng khuâng thương tiếc Huệ nên không ngủ được. Em lấy bản Di Chúc của Huệ và cuốn sổ nhỏ của anh đưa ra xem. Em thấy anh ghi tỉ mỉ việc tài sản của Huệ và chi tiết chi tiêu nhưng không thấy chi phí cho chuyến đi của anh như lời Huệ muốn nên em đến tìm anh để xin anh cho em gửi lại tất cả chi phí theo lời dặn dò của Huệ trong di chúc. Nếu không, em sẽ áy náy suốt đời.
    – Phương Lan không cần phải áy náy. Như tôi đã nói, công việc này hoàn toàn tự nguyện như một nghĩa cử cuối cùng đối với một người học trò yêu quý đã đặt hết niềm tin vào mình. Thật sự lúc đầu tôi nghĩ sẽ làm như vậy, nhưng suy đi nghĩ lại tôi thấy không thể làm như thế được, nhất là khi thấy tình cảnh sống của Bà cụ và mẹ con Phương Lan. Thật ra, tất cả những chi phí cho chuyến đi này đối với tôi không đáng là bao nhiêu, mong cô yên tâm để cho tôi có cơ hội làm được một việc đáng làm và kể như quà tặng của tôi dành cho gia đình cô vậy.
    Phương Lan đứng lên tiến lại phía tôi. Tôi cũng ngập ngừng đứng dậy, nàng ôm choàng tôi vừa khóc vừa nói:
    – Anh đã noái rứa thì em xin nghe. Mạ con em xin kết cỏ ngậm vành cảm tạ tấm lòng cao thượng của anh.
    Thấy mọi người nhìn làm tôi luống cuống, gỡ tay nàng dìu ngồi xuống ghế:
    – Xin đừng nói chuyện ân nghĩa nữa. Cô hãy ráng bảo dưỡng sức khỏe thật tốt để lo cho bà cụ và cháu Lan Huệ. Tôi không cần nhắc cô cũng thừa biết là rất nên cẩn thận trong việc giao tế. Cũng không cần bày là cô cần phải làm gì để có tương lai tốt đẹp hơn. Tôi quý mến con bé lắm, nó rất thông minh, hiếu nghĩa giống ba mẹ nó. Xin giữ liên lạc; nếu tôi có dịp trở lại Quảng Ngãi lần sau, tôi sẽ tìm thăm mọi người. Bây giờ thì tôi phải đi Mỹ Khê. Kể như đây là lần từ giã cuối cùng.
    – Em ước phải chi sức khỏe của em tốt em sẽ đi cùng với anh về Mỹ Khê hôm nay luôn.
    – Khi nào xong hết mọi việc và sức khỏe cho phép, cô về cúng ông cụ mâm cơm là tốt rồi!
    – Em xin nghe lời anh. Chúc anh đi bình yên.

    Chúng tôi cùng đứng dậy sánh vai bước ra cửa. Không gian bên ngoài tràn ngập tiếng còi xe và tiếng người qua lại ồn ào bất tận. Phương Lan cúi mặt bước đi bên tôi, nghe tiếng nàng sụt sịt nhưng tôi làm như không để ý, nói lời từ biệt lần nữa. Bất ngờ nàng quay lại ôm chặt tôi, sau một khoảnh khắc, buông tay quay mặt vội vã bước đi hòa lẫn vào đám đông tấp nập trên đường. Tôi thương cảm nhìn theo “tội nghiệp cho một kiếp con người”.

    Ánh nắng hè chói chang, cùng tiếng ve sầu râm ran hòa nhập vào hoạt cảnh của một thành phố cố vươn mình lên trong một xã hội phát triển không mấy trật tự.
    Đó, Quảng Ngãi quê tôi!

    Mùa Hè 2014

    Sứ Mệnh Tinh Thần

  • Văn Thơ

    CHUYỆN NHƯ HUYỀN THOẠI – Phương Hoa

    Viết tặng bạn Phạm Phan Lang, cựu nữ Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ

    Cái tin cô bạn cựu Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Phạm Phan Lang (Thực sự thì Phan Lang đã nhận quyết định thăng chức Đại Tá trước khi giải ngũ) từ xứ du lịch bờ biển Hạ Uy Di dọn về California làm nức lòng bè bạn khắp nơi trên đất liền. Nhóm Bắc Cali toàn nữ chúng tôi và Phan Lang cũng đều là thành viên của Văn Thơ Lạc Việt (VTLV), Văn Bút Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, Cô Gái Việt, và Minh Châu Trời Đông, vui mừng điện thoại cho nhau ơi ới mỗi ngày, bàn tính rôm rả chuyện đi Nam Cali thăm nhà mới của “Đứa con gái cưng Mỹ Quốc” nữ Trung Tá gốc Việt đầu tiên của Hoa Kỳ, cũng là “Hậu duệ Hai Bà Trưng Triệu Việt Nam” là những câu chúng tôi thường gọi đùa người bạn gốc quân nhân này.Và tôi bắt đầu chuyện làm thơ cho chị Đỗ Dung viết thư pháp Chúc Mừng Tân Gia. ĐỌC TIẾP