• KÝ SỰ,  Viet-Hải

    Đỗ Bình: Nhà thơ và nhân cách đáng quý.

    Tôi biết anh từ lâu: nhà thơ Đỗ Bình, một nghệ sĩ đa tài về văn, thơ và nhạc; tính tình đôn hậu, hòa nhã, khiêm cung, ba dặc diểm khiến tôi quý trọng anh.

    Là chiến sĩ quốc gia thuộc ngành chiến tranh chính trị, vào tù gulag, CS hành hạ anh dã man, hậu quả nay anh mang bệnh. Đỗ Binh thẳng thắn, cương trực, nhưng không sinh sự với bạn bè, anh chọn phong thái đứng ngoài những tranh châp, bút chiến, những chuyện đời thường vốn đau đớn lòng như thi ca của cụ Tố Như-Thanh Hiên.

    Sau đây, tôi xin giới thiệu về anh đối với bạn bè trong ngoài Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian qua những ý tưởng anh viết hay nói chuyện, mà hôm Hội ngộ bạn bè từ Pháp Mỹ tại nhà hàng Sài Gòn (Paris) chị Teresa Thanh Vân không tiếc lời khen tài nói chuyện văn thơ của anh.

    Thơ thăm hỏi của nhà thơ Đỗ Bình Paris, xin theo dõi sau đây…

    Một số bạn bè Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian trong chuyến Âu châu du.

    “Subject: Re: THƯ PAIRS

    Qúy Anh Chị mến

    Do sức khỏe hôm nay tôi mới hồi âm đến các bạn.

    Các bạn Paris rất vui khi đọc đưọc bản bút ký của nhà văn Khánh Lan, nhà văn Trần Việt Hải. Ngày 20 tháng 9 vừa qua, các bạn đã mang cho chúng tôi một món quà tinh thần trong buổi hội ngộ qua sự thân thiện chân tình. Những lời phát biểu về sinh hoạt văn học nghệ thuật của Nhóm Nhân Ảnh Nghệ Thuật& Tiếng Thời Gian, Nhóm Hậu Duệ của Tự Lực Văn Đoàn, cũng như cảm nghĩ của các anh chị. Chúng tôi được thưởng thức những giọng ca truyền cảm, độc đáo  của Lệ Hoa, Thụy Lan, Mạnh Bổng đã trình bày những ca khúc giá trị làm tăng giá trị buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật Thu Paris. Hình ảnh của nhà văn Nguyễn Ngọc Cường chúng tôi cảm thấy bồi hồi khi nhớ lại người bạn cùng sinh hoạt chung vừa ra đi là KTS, TS Nguyễn Tường Hùng , một nhà đạo diễn có tài của Pháp. Ông là anh cả của nhà văn Nguyễn Ngọc Cường. Chúng tôi thấy nhà văn Trần Việt Hải ngồi xe lăn xuất hiện, hình ảnh đó làm xúc động các bạn Paris vì gợi nhớ hình ảnh ngồi xe lăn đi sinh hoạt văn hóa của các nhà văn đã tận tụy với văn chương chữ nghĩa như: Duyên Anh, nhà văn Hồ Trường An, nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh (là một trong hai vị nữ giáo sư phái nữ duy nhấtt của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn năm xưa: GS Thái Hạc Oanh Paris, GS Nguyễn Thị Thịnh ở San Jose), nhà văn Trần Tam Tiệp, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, nhà thơ, nhà biên khảo Phương Du (Một trong 10 vị bác sĩ đầu tiên của QLVNCH).

    Sự mê say văn chuuơng, hăng say và tận tụy trong những sinh hoạt văn học nghệ thuật, cũng như tấm lòng trọng Thày, qúy các bậc trưởng thượng của nhà văn Trần Việt Hải ở Cali  khiến các bạn Paris ngưỡng mộ. Tôi thường ra vào nhà thương, thêm bệnh mới của tuổi đời về cột sống, nhưng gặp các bạn tôi thấy tâm hồn vui, lên tinh thần  bỗng dưng sau hôm đó đi đứng trở lại khá hơn. Nghe lời ca khúc Triệu Đóa Hoa Hồng của Vương Trùng Dương tôi lòng lâng lâng theo giai điệu lời ca.

    Cuộc du lịch của các bạn thăm xứ Pháp và một số nước Âu Châu thật đáng giá, vì đó là những nới rất giá trị, không những đẹp mà còn mang tính văn hóa ịch sử.

    Các anh chị Paris nhờ tôi chuyển lời thăm và cảm ơn những tình cảm của các anh chị đối với các bạn.

    Chúc các anh chị nhiều sức khỏe. 

    Thân mến

    Đỗ Bình  “


    Tôi giữ nguyên nội dung thơ Đỗ Bình gửi ra như sau:

    “Objet : Re: Bản Chương Trình Thu Paris Văn Học Nghệ Thuật 20 tháng 9

    Thưa các Anh Chị

    Xin gởi các Anh Chị bản chương trình ngày 20 tháng 9 năm 2023, mong gặp các anh chị. Xin các anh chị tìm nghe lại giai điệu hai ca khúc Lối Về Xóm Nhỏ của nhạc sĩ Trịnh Hưng và Trăng Mờ Bên Suối của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên để hôm đó chúng cùng đồng ca.    Lời của những ca khúc Trăng Mờ Bên Suối, và Lối Về Xóm Nhỏ sẽ được in ra nhiều bản để chúng ta cùng hát.

    Thân mến,

    Đỗ Bình”

    Sujet: Chiều Văn Học & Nghệ Thuật

    MC: NhS Thẩm Thái Hà, BS Nguyễn Bá Linh.

    Quay Phim: KS Trần Đình Quốc.

    Âm Thanh KS Lê Minh Triết.

    CHƯƠNG TRÌNH

    Phần I

    12h00 Tiếp Tân

    12h10 Khai Mạc :

    Nhà văn Đỗ Bình giới thiệu các văn nghệ sĩ từ Mỹ sang (15’).

    TS Nguyễn Thị Phượng Anh và BS Nguyễn Tối Thiện phát biểu cảm tưởng (5’).

    Luật gia  Đoàn Trần Thiều : phát biểu cảm tưởng.(2’)

    Nhà văn Nguyễn Ngọc Cường: Vài Nét Vê Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. (7’)

    Nhà văn Khánh Lan Vài Nét Về Nhóm Nhân Ảnh Nghệ Thuật &Tiếng Thời Gian( 7’).

    Nhà văn Trần Việt Hải phát biểu Cảm Tưởng. (3’)

    GS Hoàng Đức Phương: Vài Nét Về Văn Hóa Thuần Việt.(7’)

    Phần II

    13h10 Dùng Cơm.

    Phần III

     14h00 Nhạc Thính Phòng : Tình Thơ Trong Ý Nhạc

    Nhà văn Đỗ Bình : Vài nét về guồn cảm hứng sáng tác những ca khúc trữ tình của một số nhạc sĩ vang bóng một thời: Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, Lê Mộng Nguyên, Lê Trạch Lựu, Trịnh Hưng, Phạm Trọng Cầu, Quốc Dũng, Vũ Đức Sao Biển.(3’)

    Bên Nhau Ngày Vui, nhạc Quốc Dũng, Lê Hoa trình bày.

    Hai ca khúc: Trăng Mờ Bên Suối của Lê Mộng Nguyên và Lối Về Xóm Nhỏ, sẽ do tất cả những người hiện diện cùng hát.

    Ngọc Lan, nhạc & lời Dương Thiệu Tước, Hồng Loan trình bày.

    Em Tôi của Lê Trạch Lựu Đỗ Bình trình bày.

    Thu Hát Cho Người: nhạc&lời Vũ Đức Sao Biển, Tuyết Dung trình bày.

    Mùa Thu Paris qua Âm nhạc:

    GS Nguyễn Bảo Hưng : Vài nét độc đáo trong văn hóa Paris. Thái Hà trình bày ca khúc minh họa Les Feuilles Mortes , thơ Jacques Prévert, nhạc Joseph Kosma.

    Mùa Thu Paris, thơ Cung Trầm Tưỏng, nhạc Phạm Duy, Mạnh Bổng trình bày.

    Chiều Trên Sông Seine, thơ &nhạc Đỗ Bình, Thúy Hằng trình bày.

    Mùa Thu Không Trở Lại, nhạc &Lời Phạm Trọng Cầu, Kim Thu trình bày.

    Phần IV

    15h50 Mạn đàm với văn nghệ sĩ.

    17h00       Chấm dứt.


    Sau dây tôi xin tóm lược nội dung Đỗ Bình kể chuyện, mà nhà văn Vương Trùng Dương vì kẹt babysit giữ cháu ngoại như nhà văn Dương Việt Điền phải ở Nam Cali, nên không biết Đỗ Binh nói gì mà madame Teresa Thanh Văn Virginia khen nồng nàn, mà ông Vương Trùng Dương (aka tên cúng cơm Trần Văn Dưỡng) nóng lòng biên email “sao 2 bạn Khánh Lan và Việt Hải lại im lìm vậy cả”. Thôi thì hôm nay xin gởi bài cho sư huynh Dương Trần dây nhé…

    Trong buổi lễ Chiều Văn Học & Nghệ Thuật tại nhà hàng Sài Gòn, Paris.

    Nhà văn Đỗ Bình nhắc đến bài viết của Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian “Nhìn về phương diện văn hoá tại Nam California”, được dăng trong ấn phẩm biên khảo công phu của Câu Lạc Bộ Văn Hóa Paris,… tóm lược như sau:

    Ban Biên Tập chúng tôi, Vương Trùng Dương, Trần Mạnh Chi, Trần Việt Hải và Lưu Khánh Lan xin gởi đến Câu Lạc Bộ Văn Hóa Paris bài “Nhìn Về Văn Hóa Tại Nam California”.  Bài được đúc kết gồm ba phần sau đây:

    • Phần 1:  Về Văn Hóa VN Nam Cali.

    (Bài của Khánh Lan, Trần Việt Hải ) 

    • Phần 2:  Về Nền Báo Chí Tại Miền Nam California.

    (Bài của Vương Trùng Dương)

    • Phần 3:  Bảo Tồn Việt ngữ Tại Miền Nam California.

    (Bài của Trần Mạnh Chi)

    Phần 1:  Về văn hóa tại miền Nam California:

    Khánh Lan và Việt Hải   

    Định nghĩa văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh, báo chí, truyền thông, giáo dục, v.v…Riêng vùng Nam California của nước Mỹ, từ mùa thu năm 1975 là thời điểm bắt đầu cho những hứa hẹn một “Trung tâm văn hóa” của người Việt ở hải ngoại, bởi vì chính quyền Mỹ thiết lập một trại tiếp cư Pendleton, đón nhận người tị nạn Việt Nam lớn nhất nhất tại Hoa Kỳ.   Camp Pendleton tọa lạc ở vùng Oceanside, cách San Diego độ 38 miles (hay 62 kilometers) và cách thành phố Wewstminster khoảng 58 miles (hay 93 km).  Camp Pendleton là một căn cứ của Thủy quân Lục Chiến Mỹ, ngay từ đầu tháng ba năm 1975, trại tị nạn Pendleton đã tiếp nhân 20,000 người Việt, trong số này rất nhiều người tài hoa về phạm vi văn hóa của Việt Nam Cộng Hòa qua trại này, rồi phân tán ra các nơi khác trên nước Mỹ, đặc biệt là một số đông văn nghệ sĩ đã định cư và sinh hoạt văn hóa tại miền Nam California.

    Nói về văn hóa, chúng tôi thiết nghĩ văn hóa lấy yếu tố nhân bản con người làm gốc:  Đó là yếu tố dân tộc sinh tồn, lấy yếu tố cội nguồn lưu truyền làm nền và yếu tồ khai phóng giáo dục để xã hội được tự do, thăng hoa, mở mang và phát triển.  Để lưu truyên văn hóa gốc thì vấn đề giảng dậy tiếng Việt vô cùng hệ trọng.  Tại miền Nam California từ hạt Santa Barbara hướng Bắc xuống tới hạt San Diego ở tận cuối hướng Nam của hoa kỳ, có rất nhiều trường dạy Việt ngữ. …

     Bài viết khá dài, xin xem đính kèm.

    —————————————————

    Đỗ Bình kể chuyện về nhạc sĩ Trịnh Hưng Paris khiến madame Teresa Thanh Vân nghe mùi tai nên vỗ tay lốp bốp…

    Lối về xóm nhỏ & Tôi yêu (với NS. Trịnh Hưng)

    Cuộc đời, nhạc sĩ Trịnh Hưng tên thật là Trịnh Hưng (sau này đổi tên thành Nguyễn Văn Hưng) sinh năm 1930 tại Hà Nội. Cha ông là một quan huyện, còn mẹ là thứ thiếp. Ông mồ côi mẹ lúc mới ba tuổi nên sống với một người bà con ở Hà Nội.

    Từ năm 1945 đến 1953, ông tham gia kháng chiến chống Pháp với chức vụ Đội phó văn công Trung đoàn Thăng Long.

    Năm 1954, ông hồi thành rồi theo đoàn người di cư vào miền Nam. Tại đây, ông mở lớp nhạc dạy đàn, sáng tác và luyện giọng tại đường Cao Thắng – Sài Gòn. Học trò của ông có nhiều người thành danh như Ánh Tuyết, Bạch Yến, Thanh Thúy, Đỗ Lễ, Phạm Thế Mỹ và đặc biệt là nhạc sĩ Trúc Phương. Ông bắt đầu sáng tác nhạc vào những năm 1950 nhưng khoảng sáu năm sau mới được chú ý. Nhạc của ông lời ca mộc mạc, trong sáng, vui tươi, chan chứa tin yêu, gợi cho người nghe một cảm giác thanh bình, an lành nơi thôn dã.

    Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông ở lại Việt Nam. Năm 1980, con trai cả của ông bị bắt đi lính sang Campuchia chống Khmer Đỏ, chịu không nổi nên đã bỏ trốn. Hai năm sau bị công an bắt được và hành hung đến chết. Trịnh Hưng phẫn uất nên đã viết bài “Ta quyết tâm giết lũ Hồ”[1], cũng vì bài này nên Trịnh Hưng bị đi tù 8 năm ở Hàm Tân. Năm 1990, sau khi ra tù, ông được con gái bảo lãnh sang Pháp. Tại đây, ông theo đạo Tin Lành và cộng tác với các tạp chí văn học.

    Ông mất ngày 10 tháng 5 năm 2008 tại Paris, Pháp. Sáng tác hơn 25 bái ca về quê hương và tình ca. NS. Trịnh Hưng và các nhạc bản đượm tình quê hương

    ——————————————————

    Kế tiếp Đỗ Bình kể về Nhà văn Duyên Anh thời xưa và thời ở Paris…

    Duyên Anh, Đắng cay của một người tù do Đỗ Bình ghi nhận như sau.

    Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Xuất thân trong một gia đình nghèo. Di cư vào Nam năm 1954, một thời gian lại về Mỹ Tho mở lớp trường dạy đàn guitare tại gia, rồi lại bỏ trở về Sài Gòn, ở đây ông được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn thương mến nâng đỡ hướng dẫn vào con đường văn chương, tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý đã nổi tiếng, tiếp theo là những tác phẩm Thằng Côn,Thằng Vũ, Con Thúy được độc gỉa yêu thích, nhất là đối với những độc giả di cư, văn của ông rất lãng mạn đầy hoài niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Tên tuổi của Duyên Anh sáng chói trong lòng giới mộ điệu và từ đó sự nghiệp văn chương của ông thăng tiến. Ngoài nghề viết văn, ông còn làm ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…Những tác phẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thực xã hội diễn tả những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố 30 tháng 4.1975, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Mai Thảo, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn bị nêu danh là “Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa – Tư Tưởng” và tác phẩm bị cấm lưu hành.Trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4.1976 của nhà cầm quyền CS ban hành, Duyên Anh cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù. Ông được ra tù tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc tài Cộng sản VN, sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn Thời gian này, ông còn làm thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp, để lại hơn 100 tác phẩm.

    Tôi qúy nhà văn Duyên Anh ngoài tài năng còn ở một nghị lực phi thường. Bản tính nghệ sĩ trong anh quá mãnh liệt, tâm hồn anh là một khoảng rộng chứa sự bao dung và tha thứ. Anh chọn cho mình một con đường riêng để đi, những điều anh nói phát ra từ con tim mà người đời chưa quen hay không muốn nghe về triết lý sống. Đó là quyền sống và sự tự do, nên anh đã dung nạp cả thiên đường lẫn địa ngục mà trên đời chưa có người nào đặt chân đến!Đỗ Bình, Paris 05.12.2016.

    Madame Teresa Thanh Vân tiếp tục vỗ tay, về sau madame cho biết madame là độc giả của những Mơ Thành Người Quang Trung, Nắng Chiều Quê Nội, Ngày Xưa Còn Bé, Tuổi Học Trò,  Hoa Thiên Lý, Nhà Tôi, Điệu Ru Nước Mắt,…

    ———————————————

    Khi Đỗ Bình kể vể NS. Lê Trạch Lựu Paris, tôi chạnh nhớ ông bạn Cỏ Thơm Phan Anh Dũng và tác phẩm “Văn Nhân & Tình Sử” của nhà văn Vương Trùng Dương, sách có bài viết về một chuyện tình đẹp về kỷ niệm và thơ mộng như: “Lê Trạch Lựu và Tình Khúc Em tôi”, ở trang 167, đây là một mối tình mang theo mãi một đời người. Nhạc phẩm Em Tôi ra đời đầu năm 1953 đến nay vẫn tiếp tục đem đến cho người nghe những xúc cảm như gần, như xa của một thời tưởng như đã thuộc về dĩ vãng nhưng vẫn tiếp tục làm rung động trái tim những thính giả trẻ tuổi ở thế hệ bây giờ. Đằng sau ca khúc lãng mạn này là một cuộc tình mang theo từ thuở vừa biết yêu cho đến tuổi xế chiều khi nhạc sĩ sáng tác liên lạc lại người xưa qua đường dây điện thoại viễn liên. Nay chuyện ấy đã chìm vào danh sách những thiên tình sử đẹp trong lãng mạn và lưu luyến kèm theo bạn tình ca Em Tôi bất hủ.

    ———————————————

    Em tôi: Lê Trạch Lựu và mối tình theo mãi một đời.

    “Em tôi” ra đời đầu năm 1953 đến nay vẫn tiếp tục đem đến cho người nghe những xúc cảm như gần, như xa của một thời tưởng như đã thuộc về dĩ vãng nhưng vẫn tiếp tục làm rung động trái tim những thính giả trẻ tuổi ở thế hệ bây giờ. Đằng sau ca khúc lãng mạn này là một cuộc tình mang theo từ thuở vừa biết yêu cho đến tuổi xế chiều khi nhạc sỹ sáng tác “gặp” lại người xưa qua đường dây điện thoại viễn liên. Hôm nay nhạc sĩ Lê Trạch Lựu nói về câu chuyện tình đã đưa chúng ta đến với “Em Tôi”, mời quí vị cùng theo dõi với Lan Phương sau đây.

    Lê Trạch Lựu rời Việt nam thời loạn ly năm 1951, bỏ lại sau lưng một mối tình, không hiểu người yêu của mình ở phương nao khi mà khói lửa, chiến tranh, tản cư, ly tán đã đẩy mọi người vào tình huống chẳng biết những người thân của mình còn sống hay đã chết.

    (theo Phưong Lan, VOA)

    ————————————————-

    Chính nhạc sĩ Lê Trạch Lựu đã tâm sự rằng: Cái bóng của “Em Tôi” che mờ những tác phẩm khác của ông…

    “Nhạc của tôi người ta không biết nhiều, người ta chỉ biết đến ‘Em Tôi’ thôi. Ở Hà Nội, ông Thẩm Oánh có ra một bài của tôi là bài ‘Thôn Chiều’, ông ấy quí bài đó lắm. Sang Pháp, nhớ quê hương, tôi làm bài ‘Nhớ’ được trình bày trên đài phát thanh Hà Nội, và Sài Gòn sau này. Bài thứ ba là bài ‘Em tôi’. Bài ‘Em Tôi’ được người ta quí trọng nó quá nên thên hạ quên mất ‘Nhớ’ và ‘Thôn Chiều’.”

    Khoảng 20 năm sau khi “Em Tôi” ra đời, vẫn nỗi nhớ người xưa, nhạc sĩ họ Lê đã sáng tác “Cành Mai Tóc Ngắn”.

    —————————————

    Madame Teresa Thanh Vân say sưa nghe thuyết giảng và không quên vỗ tay tiếp…

    Đỗ Binh và ông Dương Trần đều có bài về NS Lê Mộng Nguyên Paris

    Tin tức cho biết: “Lê Mộng Nguyên đã qua đời ngày 19 tháng 5 vừa qua, đã  hỏa thiêu 9 ngày sau”. Về tiểu sử của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên đã được phổ biến trước đây. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học. Năm 1949, ông sáng tác nhạc phẩm Trăng Mờ Bên Suối được thành danh nên ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường Âm Nhạc Paris nhưng sau đó sang học Luật và Kinh Tế tại Đại Học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques).Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp cử nhân Luật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l’Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của Đại Sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État) về Droit Public, Droit Privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, ông dạy Luật Hiến Pháp (Droit Constitutionnel) và Khoa Học Chính Trị (Sciences Politiques) tại Đại Học Franche-Comté Besançon, miền Đông nước Pháp.  Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại Học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997.

        Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950. Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại (Académie des Sciences d’Outre-Mer) của Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm Hội Viên Chính Thức (Membre Titulaire), trước đó, đã có một số người Việt làm Hội Viên Liên Lạc (Membre

    Correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm…

        Về lãnh vực âm nhạc, ông tự học nhạc từ khi còn nhỏ ở Huế, đàn mandoline, guitar và violon. Ca khúc đầu tay Xuân Tươi vào năm 15 tuổi ký tên Lan Đào. Bài nhạc Mừng Khánh Đản sáng tác vào năm 1948 nhân dịp khánh thành Chùa Từ Đàm. Kế tiếp với nhạc phẩm Trăng Mờ Bên Suối, tháng 11, năm 1949 khi ông mới 19 tuổi. Và từ đó, ông tiếp tục sáng tác rất nhiều ca khúc…

    ————————–

    Mới đây Đỗ Bình gởi tôi xem bài viết của anh, ôội đọc và hiểu anh cũng như đồng tình về những tranh cãi trong văn học như về những chuyện, về tổ chức Văn Bút hay về thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,… là những chuyện buồn Nguyễn Du, “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”

    Trong bài viết về Nhà báo Đặng Văn Nhâm, Đỗ Bình bộc bạch như sau:

    “….Riêng Văn Bút Việt Nam Âu Châu được thành lập ngày 27 tháng 6 năm 1987 gồm các văn sĩ ở nước Anh ,Pháp, Bỉ, Hòa Lan tạm thời do các vị LS Trần Thành Hiệp làm chủ tịch, GS Phạm Việt Tuyền làm phó chủ tịch, Nhà báo Đặng Văn Nhâm làm Tổng thư ký. Đến 30 tháng 1 năm 1988 Văn Bút Âu Châu được hợp thức hóa trở thành Trung Tâm Văn Bút Âu Châu, do Nhà báo Trần Văn Ngô làm chủ tịch, Nhà báo Đặng Văn Nhâm làm phó. Đến năm 1992 nhà báo Đặng Văn Nhâm rút khỏi Văn Bút Âu Châu. GS Phạm Việt Tuyền làm chủ tịch, Từ Nguyên phó chủ tịch, Nguyễn Hòa Tổng thư ký. Kể từ nhiệm kỳ sau nhà báo Từ Nguyên được tín nhiệm trở lại chức chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Âu Châu đến sau này. Nhà báo Từ Nguyên rất hăng say trong việc điều hành Văn Bút, hàng năm vẫn tổ chức những buổi ra mắt sách. Tập Thơ Buồn Viễn Xứ của tôi cũng do ông tổ chức. Kể từ khi Văn Bút xảy ra cuộc tranh chấp tôi đứng bên ngoài, nhưng vẫn giữ tình bạn với các văn hữu khắp nơi.”

    ” Để giải thích sự việc ông viết cuốn: Trận Giặc Văn Bút, nhà văn Hải Triều viết cuốn Vũng Lầy Văn Bút. Sau đó ông khởi xướng, cùng một ít nhà văn nhà báo ở Mỹ thành lập Hội Ái Hữu Văn Nghệ Sĩ Việt Nam, nhưng thất bại! Những văn nghệ sĩ ở Paris không hưởng ứng. Riêng tôi để giữ tình bạn và tính độc lập, kể từ đó tôi ra khỏi Văn Bút, và cũng ra khỏi HĐVNTD lui về sinh hoạt thuần túy văn hóa cho đến hôm nay.”

    Đỗ Bình viết tiếp:

    “Tôi nói:

    “Vì thế, tôi thích làm thơ thả hồn trong cõi riêng chẳng đụng chạm ai hơn viết báo,…Ngày đó trên báo chí có một số ý kiến, nhận xét trái ngược nhau về nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tôi muốn viết về ông nhưng ngại có thêm ý kiến làm tăng sự mâu thuẫn nên thôi. Tôi đứng bên ngoài những quan niệm, phán xét, tranh chấp của bằng hữu nên tôn trọng những suy nghĩ riêng của mỗi người.” 

    Đoạn kết: “tôi chợt nhớ đến nhà thơ Nguyễn Chí thiện mà bùi ngùi, ông Thiện là nạn nhân của cộng sản, bị tù 27 năm tù ngục tối mất hết đời trai trẻ chỉ vì hai chữ Tự do mà lại bị nghi ngờ làm gián điệp cộng sản!

    Tôi ngao ngán và chán ghét sự ganh đua vì cảm thấy cuộc đời quá ngắn ngủi. Được thua tất cả rồi cũng xuôi tay chẳng mang theo được gì, do đó tôi chọn một thái độ im lặng để đừng mất thêm bạn ! Để tránh gây thêm sự mâu thuẫn nhau, tôi dừng bài viết, và cũng từ ngày đó cho đến ngày nhà báo Đặng Văn Nhâm qua đời năm 2017 dù chúng tôi không còn liên lạc nhau nữa, nhưng tôi vẫn quý mến ông.

    Paris 26.11.2022

    (Con Đường Văn Nghệ )Đỗ Bình

    Sau hết xin ghi nhận vài Nét Sinh Hoạt Tác giả Đỗ Bình:

    Đỗ Bình sinh quán Bắc Việt, theo gia đình di cư vào Nam 54. Bút hiệu khác: Lữ Bằng.

    Cựu SV Luật Khoa Sài Gòn.

    Tốt nghiệp trường Thương Mại Paris.

     Cựu SQ Chiến Tranh Chính Trị VNCH. 

    Chủ nhiệm  tuyển tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris.

    Sáng lập viên Thư Viện Cergy. 

      Nhóm chủ trương những tạp chí Văn học nghệ Thuật: Việt Điển, Hương Xa

     Nhóm chủ trương tuyển tập Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VN Hải Ngoại:

    Hội viên Hội Les Poètes Du Dimanche.

     Thành viên Hội thơ Pháp Jouy Le Moutier. 

    Chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris. Thành Viên Hội Ba Lê Thi Xã.

      Đã Xuất Bản nhiều tập thơ và CD Nhạc. 

    Ngoài ra còn có những: Biên Khảo, Tiểu Luận, Nhận Định Văn Học, Âm Nhạc, Truyện ngắn, Bút ký, Tản Văn, sáng tác nhiều ca khúc.

    Góp mặt các tuyển tập :  Esquisses de L’Âme (La Bibliothèque Internationale de Poésie)  Les Poètes Du Dimanche 1,2,3,4  La Plume de L’Ecritoire 1…10 

    The Silence of Yesterday (Cội Nguồn)

    Thơ Việt Hải Ngoại (Hội Văn Học Nghệ Thuật Thi Đàn Lạc Việt) Vườn Thơ Hải Ngoại (Tủ Sách Phụ Nữ Thời Nay)

      Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VN Hải Ngoại (Văn Hóa Pháp Việt)

     Bút Luận 25 năm Thơ Hải Ngoại (Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn).  Thi Văn Viễn Xứ (Tình Thơ). Thập Thúy Tầm Phương (Hoa Ô Môi., Khung Trời Hướng Vọng( Nắng Mới)

    Cộng tác với nhiều Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Hải Ngoại.

    Và tiểu sử của nhà văn Vương Trùng Dương như sau:

    Nhà văn/nhà báo Vương Trùng Dương là một tên tuổi quen thuộc trong sinh hoạt báo chí & văn học nghệ thuật hải ngoại từ gần 30 năm qua. Ông là Sĩ Quan QLVNCH xuất thân Khoá I Đại Học Chiến Tranh Chính Trị (Dalat). Từ dạo định cư ở California ông viết cho nhiều báo/đài.

    Vương Trùng Dương nguyên là Tổng Thư Ký Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại & Trưởng Khối Báo Chí của Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California (1998-2008). Hiện cây bút chuyên nghiệp Vương Trùng Dương là Chủ Bút nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hoà.

    Tác phẩm của Vương Trùng Dương:

    – Đã xuất bản: Ngẫm truyện nhân sinh (2004) + Văn nhân & Tình Sử (2015).

    – Sẽ xuất bản: Người Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ + Vó Ngựa Trường Chinh & Nỗi Nhục Thiên Triều (lịch sử & dã sử).

    * Nhà văn/nhà báo Vương Trùng Dương (Cựu SVSQ Đại Học CTCT Khoá I).

    https://longhovinhlong.blogspot.com/2021/09/thu-paris-hoi-thao-van-hoc-nghe-thuat.html

    Cám ơn bạn bè Câu Lạc Bộ Văn Hóa Paris và Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian nhiều lắm.

    Trần Việt Hải, Los Angeles.

    ——————————————————————

    Chút ghi nhận sau cùng.

    Văn hào Maxim Gorky cho là cái mỹ học của văn chương vốn đem con người về với chân thiện mỹ. Thật vậy, nhà phê bình văn học Charles Du Bos ngôn là: “Văn học tức là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng”.

    Maxim Gorky

    Cũng như nhà văn Maxim Gorky đã cho cảm nghĩ là nhà văn cần phải vượt lên trên những cái tầm thường, vụn vặt để viết về những điều cao thượng đáng viết hơn và đừng biến văn chương thành những thứ tầm thường, đừng làm cuộc đời xấu hơn vì những điều gì mình viết ra.

    Hãy tận tuỵ với bút pháp, trau đồi kỹ năng văn phẩm của mình. Văn chương vốn dĩ được coi như một loại sinh hoạt mang nét thanh tao về tinh thần, một phạm vi cao quý.

  • Kiều My,  Văn Thơ

    NHÀ SÁCH KHAI TRÍ, SAIGON TRƯỚC 1975

    Nhà văn hóa Nguyễn Hùng Trương

    Khi còn là học sinh của bậc tiểu học, vào những ngày cuối tuần, Ba tôi thường dẫn mấy chị em tôi đi dạo phố Saigon để ngắm cảnh nhộn nhịp của thủ đô. Nhưng địa điểm đầu tiên mà ba tôi luôn hướng tới chính  là nhà sách KHAI TRÍ. Ông mong muốn các công chúa bé nhỏ của ông làm quen với sách vỡ, hầu có thể lĩnh hội sự hiểu biết từ kho tàng kiến thức trong những sách vỡ lành mạnh.

              Nhà sách thật bề thế, tọa lạc tại số 60 – 62 đại lộ Lê Lợi Saigon, đông người qua lại. Lần đầu tiên đến đây, ngước lên nhìn bảng thương hiệu với hàng chữ lớn “NHÀ SÁCH KHAI TRÍ”, tôi bèn hỏi ba tôi về ý nghĩa của hai chữ “ Khai Trí”. Ba tôi chậm rãi giải thích – khai: là mở mang, trí: là trí tuệ;  khai trí: tức là “mở mang trí tuệ con người”.

              Khi lớn khôn, tôi nghiệm ra rằng: cửa hàng bán sách có tên Khai Trí, chắc hẵn phải mang một ý nghĩa thâm thúy và thực tiễn. Mục đích chính của nhà sách không đặt nặng vấn đề kinh doanh về sách vỡ; mà hàm chứa một lý tưởng thật cao đẹp của chủ nhân, mong muốn tận dụng việc mở tiệm sách để “mở mang dân trí” cho người Việt – Vậy chủ nhân của nhà sách Khai Trí là ai, mà mang một hoài bão tốt đẹp và lớn lao như thế?

              Vâng! Đó chính là ông Nguyễn Hùng Trương, sinh quán tại Thủ Đức, miền Nam, Việt Nam năm 1926, mà thường được gọi là ông Khai Trí. Một người từ thời niên thiếu đã rất đam mê đọc sách, đến nỗi cậu học trò nhỏ phải nhịn ăn sáng để có tiền mua sách. Lên bậc trung học, Nguyễn Hùng Trương may mắn là học sinh của trường nổi tiếng Petrus Ký. Thời gian này ông đã sở hữu một tủ sách nhỏ có giá trị mua từ Pháp cho riêng ông, nhờ vào tiền dành dụm từ nhịn ăn buổi sáng. Sau khi tốt nghiệp trung học,  ông lập gia đình với bà Phùng Thị Bông. Hai vợ chồng rất vất vả vừa dạy học, làm thuê, vừa bán sách trên một chiếc xe đẩy. Đến năm 1952, ông bà tích lũy được một số vốn đủ để mở nhà sách Khai Trí tầm cỡ ngay tại trung tâm Saigon. Nhà sách ngày càng phát triển mạnh mẽ và hoạt động cho đến năm 1975. Thành quả mà ông Khai Trí đã gặt hái được  từ sự kiên trì, cùng  ý chí mạnh mẽ, với một lý tưởng cao đẹp và niềm đam mê sách vỡ. Ông chính là tấm gương sống động: từ hai bàn tay trắng đã tạo được sự nghiệp hiển hách về ngành kinh doanh sách lớn nhất và uy tín nhất miền Nam. Nhà sách Khai Trí, chính là biểu tượng của giới học sinh, sinh viên, trí thức Saigon của một thuở vàng son trước 1975.

    Nhà sách Khai Trí đã đóng góp về hoạt động văn hóa đáng kể như việc xuất bản TẬP SAN SỬ ĐỊA, với sự cộng tác của nhiều văn sĩ và chuyên gia của Đại học Saigon. Khai Trí còn phát hành một loạt tự điển Pháp Việt của Đào Đăng Vỹ; Anh Việt – Việt Anh của Nguyễn Văn Khôn. Bên cạnh đó, chủ nhân còn sưu tầm nhiều sách báo ngoại ngữ được dịch ra tiếng Việt của những soạn giả nổi tiếng như Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Ngu Ý v.v…Nhà sách có khả năng đáp ứng nhu cầu sách giá trị cho giới sinh viên, học sinh và giới nhân sĩ trí thức, nhờ vào kinh nghiệm và khả năng đánh giá và phân loại sách của chủ nhân. Đến năm 1971, nhà sách Khai Trí phát hành tuần báo THIẾU NHI, do nhà văn Nhật Tiến là chủ biên. Nội dung của báo Thiếu Nhi rất lành mạnh và thật hữu ích cho trẻ em; với chủ trương – mở mang kiến thức và giáo dục cho lớp trẻ, là tương lai của nước Việt.

    Sách vỡ là phương tiện để phát triển tri thức con người qua văn hóa đọc sách. William Shakespeare, một đại văn hào người Anh đã để lại câu nói bất hủ cho đời: “Sách vỡ là sự tổng hợp kiến thức của con người. Sách là nguồn dinh dưởng của thế giới.” (Ah, the famous Shakespeare quote: “Books are summary of human knowledge. Nutrition books in the world.”

    Nhờ đọc sách, con người đã lĩnh hội được kho tàng kiến thức vô giá về mọi lãnh vực trong cuộc sống của nhân loại. Sách nghiễm nhiên đã trở thành người bạn thân thiết của con người. Văn hóa đọc sách đã trở thành một phần quan trọng trước thời đại văn minh không ngừng phát triển, để thăng tiến tri thức nhân bản từng người trong cộng đồng xã hội.

    Ngoài ra, sách vỡ rất cần thiết về mặt giáo dục con người và được học hỏi cả đời qua việc đọc sách. Triết gia Jiddu Krishnamuti: “Không có điểm dừng cho giáo dục. Không phải bạn đọc một cuốn sách, vượt qua một kỳ thi và kết thúc việc học hành. Suốt đời bạn, từ lúc sinh ra đến khi chết là một quá trình học hỏi.” (There is no end to education. It is not that you read a book, pass an examination, and finish with education. The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning.)

    Đối với xã hội, văn hóa đọc sách là nhu cầu cần thiết của tri thức học hỏi từ sách vỡ, do các nhà sách, nhà xuất bản, báo chí v.v… đã tạo ra những sản phẩm cung cấp cho độc giả. Vậy, chủ nhân nhà sách Khai Trí, ông Nguyễn Hùng Trương xứng danh là một nhà văn hóa Việt Nam, qua sách vỡ ông đã giúp mở mang kiến thức cho dân Việt hơn hai thập kỷ.

    Trong nhà sách Khai Trí được chia thành ba khu sách riêng biệt:  sách dành cho thiếu nhi; sách người lớn và sách ngoại ngữ như: Pháp, Anh, Tàu…Ngoài việc kinh doanh sách, ông Trương còn là nhà xuất bản nhiều loại sách hữu ích như: học làm người, dạy nấu ăn, hay nghiên cứu về khoa học, văn hóa và dịch thuật…Đặc biệt, ông rất nặng lòng với thiếu nhi, là rường cột của nước nhà. Vì thế, ông đã xuất bản tuần báo THIẾU NHI, thiết kế rất tiên tiến, công phu và đẹp mắt. Tuần báo này được đánh giá cao vì tính giáo dục lành mạnh dành cho tuổi thơ. Vì tuổi thơ của ông cũng rất thiếu thốn, nên ông có mối cảm thông với học sinh nghèo. Vì thế, ông tặng sách miễn phí cho những học sinh không đủ điều kiện mua sách, ngõ hầu nâng đỡ và khuyến khích các em học tập. Ông cũng dành một khoảng không gian rộng lớn trong tiệm sách, dành cho thiếu nhi đến ngồi đọc sách thoải mái, tạo môi trường thuận tiện cho các em học hỏi những điều hữu ích trong sách vỡ.

              Tuần báo THIẾU NHI là món ăn tinh thần của các thế hệ măng non trước 1975. Đây là tâm huyết của ông Khai Trí cũng như các nhà văn, nhà báo biên soạn dành cho tuổi thơ. Ông Khai Trí luôn nhắc nhở rằng: “Tương lai nước Việt Nam sau này hay hay dở đều do sự giáo dục hiện tại của lứa tuổi thiếu nhi, mầm non của đất nước.” Đây cũng là câu tâm niệm luôn mở đầu cho các loại sách dành cho thiếu nhi mà ông làm chủ nhiệm. Ngoài ông Khai Trí, nhà văn Nhật Tiến là chủ biên, là linh hồn của tuần báo, cùng đồng hành để thực hiện món ăn tinh thần vô cùng cần thiết này cho thiếu nhi.

              Số đầu tiên của tuần báo Thiếu Nhi ra mắt ngày 15/8/1971, và phát hành liên tục hàng tuần cho đến 1975. Về hình thức, họa sĩ ViVi phát họa tranh vẽ màu nước và trang trí  rất đẹp mắt cho trang bìa trước về các đề tài khác nhau. Trang cuối, thường là những câu chuyện bằng tranh màu, được dịch ra tiếng Việt từ những cốt chuyện hay và lạ nước ngoài như: Walt Disney, Tin-Tin, Asterix Obelix. Ngoài ra, còn có  truyện hoạt họa Con Ngựa Của Cháu Mi- Su v.v… được trình bày rất công phu với kỷ thuật tân tiến thời bây giờ, đã thu hút giới độc giả tuổi măng non vô cùng mãnh liệt.

              Đọc qua những tuần báo Thiếu Nhi phát hành hàng tuần, không thể phủ nhận – đây là tờ báo mang lại sự bổ ích rất lớn cho trẻ em về mặt tri thức; chẳng khác nào thức ăn dành cho sự sống vậy. Trong báo gồm những bài vỡ nội dung lành mạnh, viết đúng chính tả, hình ảnh ý nghĩa và màu sắc vui tươi. Ngoài ra, mỗi số báo đều có kèm theo những đề tài như:

    • Gương danh nhân – giúp các em học hỏi về sự thành công của các danh nhân nổi tiếng trên thế giới.
    • Những câu danh ngôn – gồm những lời hay ý đẹp, thích hợp để áp dụng vào đời sống thường ngày.
    • Khoa học thường thức – học hỏi về những phát minh tân tiến trong lãnh vực khoa học.
    • Trang giải trí – gồm những câu đố vui, ảo thuật, trò chơi, hay những câu hỏi nát óc…
    • Em học vẽ – dùng những phương pháp giản dị giúp các em bắt chước vẽ dễ dàng.
    • Cuộc thi Sáng Tác Văn Chương – mục đích tạo cơ hội cho các em tập luyện viết văn.
    • Trang vườn hồng – dành cho các em gái thiếu nhi có đời sống vui tươi, hạnh phúc…
    • Truyện bằng tranh – với những cuộc phiêu lưu kỳ thú, hay những câu chuyện lý thú mang đến lợi ích cho tuổi thơ.

    Nội dung tuần báo Thiếu Nhi rất phong phú vì bao gồm nhiều bài viết giá trị đủ thể loại như: truyện bằng tranh, truyện thơ, truyện ngắn, truyện dài, kiến thức khoa học, đời sống v.v…được thực hiện bởi những nhà giáo, nhà văn đầy tâm huyết dành cho thiếu nhi. Chính nhờ vậy mà tuần báo Thiếu Nhi luôn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu đối với THIẾU NHI VIỆT NAM của một thời. Tuần báo này đã được sự ủng hộ nhiệt thành từ giới nhi đồng cho tới bậc phụ huynh thời bấy giờ, nhờ nội dung của báo mang đến những hữu ích thiết thực và lành mạnh cho thiếu nhi.

    Loạt hình bìa của tuần báo Thiếu Nhi thật đẹp, thật trong sáng với những hình ảnh màu sắc sáng ngời… gợi trong ta một tiếc nuối khôn nguôi vì sự mất mát quá lớn lao cho tuổi thơ, khi nhà sách Khai Trí cũng như tuần báo Thiếu Nhi mãi mãi không còn hiện hữu.

    Trong những ngày cuối đời của ông Nguyễn Hùng Trương, người đã một đời mang tâm huyết cũng như tận tụy để sáng lập nhà sách Khai Trí, cũng phải ngậm ngùi chua xót…khi ngước lên tìm bảng thương hiệu NHÀ SÁCH KHAI TRÍ…Thật xa lạ và bàng hoàng! Cái tên thân thương “Khai Trí” giữa thủ đô Saigon đã không còn nữa, nó đã bị khai tử, nó đã thay tên đổi chủ! Hoài bão của ông đã hoàn toàn sụp đổ!

    Vào năm 1975, lịch sử đã sang trang và mang đến nhiều hệ lụy đáng tiếc. Cả kho tàng sách vỡ quý giá trong nhà sách Khai Trí đã bị tiêu hủy và “NHÀ SÁCH KHAI TRÍ” cũng bị xóa tên vĩnh viễn kể từ đó. Lý tưởng cao quý của chủ nhân nhà sách cũng đã trở thành đống tro tàn. Cùng chịu chung số phận bị hủy diệt với những sách vỡ, tuy vô tri vô giác, nhưng chứa đựng những bộ óc thông minh vượt bực của nhân loại.  Tuy nhiên, nhà sách Khai Trí là một “kho tàng tri thức và đạo đức,” luôn khắc sâu trong ký ức của người Việt văn minh và hiếu học, mãi không thể phai nhòa.

    Ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương cả một đời đam mê sách vỡ, góp công sức bảo tồn nền văn hóa Việt cho thế hệ tương lai; đặc biệt giáo dục giới thiếu nhi qua sách báo lành mạnh. Thương hiệu “NHÀ SÁCH KHAI TRÍ” sẽ đi vào lịch sử văn hóa Việt Nam, và công đức của ông bà Nguyễn Hùng Trương Khai Trí, nhà văn hóa Việt… chắc hẵn sẽ được truyền tụng đến mai sau.

    KIỀU MY, California, 2023

  • Âm nhạc,  Kiều My

    LÊ VĂN KHOA MỘT ĐỜI CHO ÂM NHẠC

    Vào buổi tối cuối hạ ngày 6 tháng 9 năm 2023, tại Robert Moore Theater – Orange Coast College, Costa Mesa city, California, Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ (Vietnamese American Philharmonic) đã tổ chức một buổi trình diễn âm nhạc rất tầm cỡ, mừng đại thọ 90 tuổi cho nhạc sĩ LÊ VĂN KHOA. Đặc biệt, buổi hòa nhạc cho sự kiện này cũng nhằm vinh danh người nhạc sĩ tài ba mang dòng máu Việt, hàm chứa một biểu tượng sáng ngời của Lê Văn Khoa:  “A Lifetime of Music ( Một Đời Cho Âm Nhạc) Để mừng ngày sinh nhật cho một người được mệnh danh “ A Lifetime of Music”, một món quà đầy ý nghĩa trao tặng ông không gì khác hơn ngoài ÂM NHẠC. Đó chính là món ăn tinh thần không thể thiếu suốt một đời của người nhạc sĩ đam mê âm nhạc Lê Văn Khoa.

    GS Trần Huy Bích, GS NS Lê Văn Khoa, Mạnh Bổng, Kiều My, Khánh Lan

    Qua 90 năm tuổi đời của Lê Văn Khoa, là thời gian dài ông làm việc không ngừng, hầu cống hiến cho đời những nét “đẹp” qua âm thanh huyền hoặc của âm nhạc, hay những nét “đẹp” của đường nét, màu sắc… qua nghệ thuật nhiếp ảnh mà ông đã thực hiện. Ông là một nghệ sĩ ôm ấp nhiều hoài bão cao xa và ông đeo đuổi đến khi đạt mục đích. Ông yêu nghệ thuật tới đỉnh điểm và hầu như trái tim, khối óc… tất cả ông đều dành cho nghệ thuật. Ông là một nhạc sĩ hy sinh và tận hiến cuộc đời cho âm nhạc. Lê Văn Khoa là người mang nặng “HỒN VIỆT và ƯỚC MƠ”! Ông luôn mơ ước đưa âm nhạc Việt Nam vào dòng nhạc thế giới, cho mọi người trên hành tinh này biết đến văn hóa Việt, nhạc Việt và dân Việt…đầy nhân bản. Chính vì nung nấu mơ ước đó, mà ông đã sáng tác những ca khúc và những tác phẩm âm nhạc không lời, trong đó có nhạc giao hưởng “Vietnam 1975 Symphony. Việc làm của ông đã mang đến niềm hãnh diện, là ngày nay những tác phẩm nhạc Việt đồ sộ , lẫy lừng do ông sáng tác, được trình diễn nhiều nơi trên thế giới và được giảng dạy trong nhiều trường học ở Hoa Kỳ và Ukraine.

              Biệt tài của nhạc sĩ Lê Văn Khoa, là mang âm nhạc Việt Nam hòa hợp vào nhạc cổ điển Tây phương vốn phức tạp; do đó, đòi hỏi trình độ cao mới có thể thưởng thức được loại nhạc này.  Ấy thế mà khúc giao hưởng “Vietnam 1975 Symphony” đã được Lê Văn Khoa hoàn thành ở hải ngoại, là một tác phẩm lớn nổi tiếng về mặt này. Đặc sắc hơn nữa là: Vietnam 1975 Symphony được đánh giá như một sử ký Việt được viết bằng âm nhạc. Tác phẩm này được xem như một “di sản” giá trị của tác giả để lại cho hậu thế vậy. Ông là nhạc sĩ viết hòa âm xuất sắc cho nhiều nhạc phẩm được trình diễn nhiều năm qua; bên cạnh khả năng xuất sắc về nghệ thuật tạo hình mà ông đã sáng tác nhiều tác phẩm nhiếp ảnh nổi tiếng…Trong đó, có tác phẩm nhiếp ảnh The Day Is Gone được trưng bày ở bảo tàng viện Baltimore, Maryland Hoa Kỳ ( Baltimore Museum Of Art)

              Ngoài ra, nhạc của Lê Văn Khoa không chỉ để trình tấu, hợp xướng, đơn ca, hay độc tấu…mà còn là một hình thức đấu tranh, chống chế độ phi nhân, phi dân tộc ở Việt Nam qua những ca khúc như: Trường Ca Quê Hương Mến Yêu, Trên Biển Cả, Ca Ngợi Tự Do v.v…Ông là nhạc trưởng điều khiển các ban nhạc giao hưởng, trong đó có Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ, mà ông là Chairman. Lê Văn Khoa là người am tường về âm nhạc tới mức thượng thừa, nhưng thật khiêm hạ và đơn sơ khi phát biểu:

    Âm nhạc là tấu khúc của vũ trụ, nhà soạn nhạc chỉ có khả năng nghe và ghi lại một vài điểm nhỏ của tấu khúc vĩ đại ấy để chia sẽ với đồng loại.

                                                                                           GS NS Lê Văn Khoa

              Bước vào đêm trình tấu nhạc giao hưởng của Ban Hiếu Nhạc Việt Mỹ với dàn nhạc sĩ rất quy mô, đã sẵn sàng trên sân khấu để chào đón khán giả. Đêm ấy là đêm thật tưng bừng, đánh dấu 90 năm tuổi đời của một vị nhạc sĩ Việt Nam lỗi lạc Lê Văn Khoa. Ban Hiếu Nhạc Việt Mỹ đã tập luyện công phu qua nhiều ngày tháng để trình diễn cho một đêm nhạc giao hưởng khó quên này. Sự hiện diện đông đảo quan khách trong hí viện, đã nói lên lòng tri ân và ngưỡng mộ người nhạc sĩ tài ba, đạo đức với tấm lòng yêu nước trung kiên Lê Văn Khoa.

     Không khí trong hội trường thật tưng bừng và ấm áp tình người. Khán giả đang chờ đợi được thưởng thức dàn nhạc giao hưởng trình tấu những ca khúc được tuyển chọn từ kho tàng nhạc Việt; đặc biệt là những sáng tác của nhạc sĩ Lê Văn Khoa, qua những giọng ca điêu luyện chuyên nghiệp. Dàn nhạc giao hưởng ( Vietnamese American Symphony Orchestra) dưới sự điều khiển ngoạn mục của  nhạc trưởng Nguyễn Khánh Hồng – Vice Chair, Executive của Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ. Dàn nhạc rất hùng hậu, phối hợp những nhạc sĩ: piano, violin, viola, cello, flute, trumpet, Harp, String Bass, Clarinet v.v…Cùng những giọng ca thiên phú như: Teresa Mai, Ngọc Hà, Bích vân, Phạm Hà, Trịnh Hoàng Hải, Nguyễn Cao Nam Trân, Diệu Nga v.v…Đặc biệt, màn độc tấu dương cầm của thiên tài Nguyễn Vân Anh trong ca khúc Ta Tắm Ao Ta, Remembrance do Lê Văn Khoa soạn nhạc thật tuyệt vời, đã gây ngạc nhiên và thích thú cho người thưởng lãm.

    Ca Sĩ Ngọc Hà, phu nhân của NS GS Lê Văn Khoa

    Lắng nghe và thả hồn vào những ca khúc do nhạc sĩ Lê Văn Khoa sáng tác, được trình tấu bởi dàn nhạc giao hưởng trong đêm đó…đã nâng tâm hồn ta tới đỉnh điểm thật cao, cũng như chìm vào chiều sâu âm nhạc của một khả năng thiên phú Lê Văn Khoa – Tiếng nhạc như những lời ru dịu dàng của mẹ…là tình yêu dạt dào đối với nét đẹp của quê hương. Tiếng nhạc dìu dặt…lan tỏa vuốt ve… vỗ về…xoa dịu tâm hồn người. Bất chợt, tiếng nhạc như gào thét trong uất hận… cuồn cuộn tuôn tràn đớn đau…đưa ta chìm vào trong nỗi niềm nhung nhớ sâu xa.  Cũng như nhạc trưởng Nguyễn Khánh Hồng đã có những nhận xét rất sâu sắc về tài biên soạn nhạc của Lê nhạc sĩ:

    Nguyễn Khánh Hồng, Conductor

    Về nhạc giao hưởng, tôi muốn đề cập đến tác phẩm Symphony Vietnam 1975 của ông. Khi dàn nhạc tấu lên những nốt nhạc đầu tiên, tôi thấy một bầu trời Việt Nam tươi sáng mở ra, làm tôi rúng động tâm can và tự hỏi: Việt Nam có người viết nhạc hay như thế này à? Tôi liên tưởng đến tác phẩm “Pictures At An Exhibition” của Modest Moussorgsky. Tôi thấy nó có một gần gũi nào đó. Ngay từ những âm thanh đầu, tôi thấy hình ảnh của quê hương ta. Lê Văn Khoa viết lại lịch sử Việt Nam, đến giai đoạn 1975 và cả 10 năm sau, hình ảnh của những người tranh sống trên biển cả, cho đến khi họ đến được bến bờ và ca ngợi tự do. Hành âm này rất đặc biệt. Nhạc dạo cho ban hợp ca không phải là lối dẫn nhạc thông thường, mà bằng khúc độc tấu cello mà ông Khoa viết cho một cello concerto. Khúc nhạc đầy xúc cảm và người nhạc sĩ độc tấu cello cảm thông được, nên dốc hết tài nghệ thượng thặng để trút ra hết nỗi uất hận trong lòng, mở đường cho ban hợp ca bùng vỡ như sấm động và kết thúc với niềm vui bay bỗng trong bầu trời tự do. Nghe nhạc mà tôi cảm thấy rợn người, bao nhiêu da gà đều nổi lên hết, vì nhạc vẽ lên hình ảnh rất gần với sự thật.”

                                                         Nguyễn Khánh Hồng, Conductor

    Theo giáo sư Lyudmila Chichuk, một concert pianist xứ Ukraine, đã có cơ hội độc tấu dương cầm một cách say mê những tác phẩm của soạn nhạc gia Lê Văn Khoa, cô nói:

     Lyudmila Chichuk, Pianist

    Tôi rất yêu thích nhạc của Lê Văn Khoa. Nhạc của ông thật trong sáng, đầy nhân bản, có nhiều chất lược để được khám phá. Tôi đưa ý nhạc lên trí và chuyển nó vào tim. Nó cho tôi cảm giác thư giãn. Tôi có trình diễn nhạc piano của ông ở nhiều quốc gia Âu Châu. Khán giả rất yêu quý nhạc của Lê Văn Khoa. Họ thường hỏi tôi về nhạc của ông sau mỗi buổi trình diễn, nhưng tôi không có nhạc để chia sẻ với họ. Tôi hy vọng nhạc của ông sẽ được trình diễn khắp thế giới.”

                                                               Lyudmila Chichuk, Pianist

    Lê Văn Khoa, người có tâm hồn yêu quê hương đất nước chân thành đáng cho chúng ta khâm phục. Dù sống xa quê hương, nhưng với  tâm hồn Việt, màu cờ vàng ba sọc đỏ và quốc thiều Việt Nam Cộng Hòa luôn là niềm tự hào của ông. Lê Văn Khoa đã hòa âm, phối khí bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa  cho ban nhạc phủ tổng thống Ukraine trình tấu rất xuất sắc vào năm 2010. Vì lòng trung thành với lý tưởng “tự do”,  và là một nghệ sĩ chân chính, Lê Văn Khoa đã khước từ những bỗng lộc, cũng như từ chối hợp tác với bạo quyền Cộng sản Việt Nam.

    Càng về đêm, ban nhạc giao hưởng đã tấu lên những cung nhạc tuyệt vời qua những tác phẩm của soạn nhạc gia Lê Văn Khoa. Khán giả đã chìm lắng trong âm thanh tha thiết tựa những giọt lệ chực chờ dâng tràn khóe mắt… Có lúc tâm hồn nhẹ nhàng chìm sâu trong tiếng nhạc chiều đắm say… Rồi hồn người lặng theo niềm lưu luyến cõi đời không muốn rời xa…  Tiếng dương cầm réo rắc đưa ta vào cảnh thiên nhiên của đời sống thanh bình thuở nào…Một nét nhạc sang trọng, trau chuốt  trổi lên, gọi cả nỗi nhớ nhung từ dĩ vãng kéo về làm ngây ngất lòng người. Bỗng âm thanh hân hoan dồn dập trổi lên thật lộng lẫy…như nghìn cánh chim tung bay vụt thoát lên trời cao xa tít…như để “Ca Ngợi Tự Do.” Bao cảm xúc dào dạt tuôn tràn… đã đưa ta vào thế giới âm nhạc giao hưởng huyền hoặc của lê Văn Khoa.

    Đối với nền âm nhạc thế giới, Áo quốc có nhạc sĩ nổi danh Johann  Strauss trong ca khúc luân vũ tuyệt vời Le Beau Danuble Bleu tức Dòng Sông Xanh. Đức quốc có nhạc sĩ trứ danh Ludwig Van Beethoven, mà ca khúc Fur Alise là một trong những bản nhạc nổi tiếng của ông. Nước Poland, có nhạc sĩ tài ba Frederic Chopin mà bản nhạc Tristesse là một trong những bản nhạc nổi tiếng thế giới. Việt Nam cũng hãnh diện với thế giới có nhạc sĩ lừng danh Lê Văn Khoa qua tác phẩm nhạc giao hưởng Vietnam 1975 Symphony, đã được trình diễn nhiều nơi trên thế giới.

    Nhân dịp này, nhạc sĩ Lê Văn Khoa cũng đã trình làng một ấn bản đặc biệt  LÊ VĂN KHOA: HỒN VIỆT và ƯỚC MƠ cùng độc giả. Một tác phẩm rất có giá trị và được in ấn thật công phu, đẹp mắt, dày 322 trang. Chứng tỏ rằng: Lê Văn Khoa là người đa tài, ông chẳng những là một nhạc sĩ lừng danh, mà còn là một nhiếp ảnh gia nổi tiếng, một  nhà văn đặc sắc và nhà giáo đạo đức…Lãnh vực nào ông cũng đạt đến mức xuất sắc và hoàn hảo.

     Qua thành quả 90 năm âm nhạc của Lê Văn Khoa, cho ta một nhận xét: ông chính là viên ngọc quý của nền âm nhạc Việt Nam mà mọi người đều ngưỡng mộ và kính phục. Ông cũng là niềm tự hào cho dân Việt đối với thế giới, vì nước Việt đã đào tạo được một thiên tài âm nhạc Lê Văn Khoa. Ông đã mang nhạc Việt  sánh vai cùng dòng nhạc thế giới và sẽ lan tỏa đi khắp nơi trên hành tinh này. Cầu chúc ông còn được nhiều sức khỏe, để tiếp tục cuộc hành trình đầy “ước mơ” của một “hồn Việt” mà ông luôn ấp ủ trong lòng.

    Kiều My, California, October 2023

  • KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

    12 sự thật đáng kinh ngạc về Albert Einstein có thể bạn chưa biết.

    Trong suốt cuộc đời mình, Albert Einstein đã làm thay đổi thế giới vật lý. Ông được công nhận vô số lần vì những đóng góp cho khoa học và đã được trao giải Nobel Vật lý năm 1921.

    Sinh ngày 14/3/1879, là một nhà khoa học gốc Đức – một trong những người quan trọng nhất của thế kỷ 20.

    Nhân kỷ niệm sinh nhật của ông, xin giới thiệu 12 sự thật đáng kinh ngạc có thể bạn chưa biết về Albert Einstein.

    1. Ông được đề nghị chức tổng thống của Israel và đã từ chối.

    Dù lời đề nghị hào phóng nhưng Einstein đã từ chối chức vụ tổng thống Israel vào năm 1952. Trong thư trả lời của mình, ông nói: “Tôi rất cảm động bởi lời đề nghị từ Nhà nước Israel của chúng ta, đồng thời cũng rất buồn và xấu hổ vì không thể nhận nó. Toàn bộ cuộc sống của tôi đều phải đối phó với những vấn đề khách quan, vì thế tôi thiếu cả năng khiếu tự nhiên và kinh nghiệm để giao tiếp đúng cách với mọi người và để thực hiện các nhiệm vụ chính thức.”

    2. Einstein qua đời vì ông nói không với phẫu thuật.

    Vào ngày 17/04/1955, Einstein bị phình động mạch chủ bụng dưới, dẫn đến xuất huyết nội. Sau khi được các bác sĩ yêu cầu phẫu thuật, ông nói: “Tôi muốn ra đi lúc tôi muốn. Thật vô vị khi kéo dài cuộc sống một cách gượng ép. Tôi đã hoàn thành đóng góp của mình, đã đến lúc tôi phải ra đi. Tôi sẽ ra đi thanh thản.”

    Và ông qua đời vào ngày hôm sau.

    3. Bộ não của ông đã bị đưa trái phép ra khỏi cơ thể và bị thất lạc trong vòng 50 năm.

    Thomas Stolz Harvey là bác sĩ tiến hành khám nghiệm tử thi của Einstein, nhưng không có bất cứ giấy tờ nào liên quan đến việc Harvey hoàn thành các thủ tục khám nghiệm. Việc khám nghiệm tử thi được thực hiện bất hợp pháp.

    Bảy giờ sau cái chết của Einstein, Harvey đã lấy cắp não của Einstein mặc dù mong muốn cuối cùng của Einstein là được hỏa táng cùng với bộ não còn nguyên vẹn của mình, nhưng không ai biết lý do tại sao.

    4. Trái với nhiều người vẫn tin, ông không bao giờ thi trượt môn Toán.

    Năm 1935, một tờ báo xuất bản một bài báo với tựa đề “Nhà toán học vĩ đại nhất thi trượt môn Toán” và yêu cầu bồi thường vẫn còn diễn ra cho đến hôm nay.

    Einstein chưa bao giờ thi trượt môn Toán. Ông đã nói trong một bài báo và cười lớn: “Tôi chưa bao giờ thi trượt môn Toán. Chưa đầy 15 tuổi, tôi đã thành thạo các phép tính vi phân và tích phân.”

    Einstein lúc trẻ thực sự thuộc loại học sinh đứng top đầu của lớp và luôn vượt xa sự mong đợi của giáo viên.

    5. Ông đã có một cô con gái với người vợ đầu tiên của mình, nhưng không có hồ sơ chính thức về những gì xảy ra với cô.

    Lieserl Einstein là đứa con đầu tiên của Albert và người vợ đầu tiên của ông, Mileva. Hồ sơ lục duy nhất của Liersel là cái tên.

    Cô được sinh ngoài giá thú vào tháng Giêng năm 1902 và không được nói đến nhiều. Có suy nghĩ cho rằng cô đã chết vào 09/1903 vì bệnh ban đỏ.

    Liersel được cho là đã được sinh ra với khuyết tật tâm thần và đã được đề cập lần cuối trong một lá thư Albert gửi cho Mileva, ngày 19/09/1903, trong đó hàm ý họ đang lên kế hoạch cho cô được nhận nuôi trước khi chết.

    6. Sau người vợ đầu tiên, ông đã kết hôn với em họ của mình là Elsa.

    Albert sau cùng kết hôn với Elsa nhưng họ thực sự bắt đầu hẹn hò khi ông vẫn còn kết hôn với người vợ đầu tiên là Mileva.

    Cuộc ly hôn của Einstein và Mileva không hoàn thành mãi cho đến năm 1919 – 7 năm sau khi bắt đầu hẹn hò với cô em họ.

    7. Ông không giành được giải thưởng Nobel cho lý thuyết nổi tiếng nhất của mình.

    Thuyết tương đối là thuyết nổi tiếng nhất của Einstein lại không phải là thứ khiến ông giành được giải Nobel. Einstein không chỉ nổi tiếng với phương trình về sự tương đương khối lượng-năng lượng E = mc2, mà ông còn nổi tiếng về lĩnh vực vật lý lý thuyết, đặc biệt là khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện, khai sinh ra lý thuyết lượng tử, trụ cột của ngành vật lý học hiện đại và được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 cho các phát minh này.

    8. Tất cả tiền thưởng đều gửi cho người vợ đầu tiên như là một thủ tục giải quyết ly hôn.

    Là một phần của việc giải quyết ly hôn, vợ chồng ông đồng ý sẽ chuyển tiền từ giải thưởng mà ông dự đoán mình sẽ giành chiến thắng vào tài khoản tiết kiệm của con trai họ, Hans và Eduard.

    Số tiền này cuối cùng đã được sử dụng để mua ba ngôi nhà ở Zurich – một để Mileva sống và hai cái khác là để đầu tư.

    9. Đôi mắt của ông vẫn còn trong một két an toàn ở thành phố New York.

    Bác sĩ khám nghiệm tử thi không chỉ lấy cắp bất hợp pháp não của Einstein mà còn lấy đi cả đôi mắt của ông. Ông ta đã đưa đôi mắt đến bác sĩ mắt của Einstein, Henry Abrams. Chúng được lưu giữ trong một két an toàn ở thành phố New York cho đến ngày nay.

    10. Ông là nguồn cảm hứng cho nhân vật Yoda.

    Stuart Freeborn, nghệ sĩ hóa trang cho bộ phim đã tạo ra nhân vật Yoda theo mô hình khuôn mặt Jedi nhưng những nếp nhăn cho đến đôi mắt là lấy cảm hứng từ Einstein để biểu thị sự khôn ngoan và thông minh.

    11. Một trong những câu nói nổi tiếng nhất của Einstein đã bị hiểu sai hoàn toàn.

    “Chúa không chơi trò xúc xắc với vũ trụ” là một trong những câu nói nổi tiếng nhất và hơi khó hiểu của Einstein.

    Sử dụng Đức Chúa Trời khiến mọi người cho rằng ông tín ngưỡng, nhưng không phải vậy. Ông đã sử dụng Chúa Trời như một phép ẩn dụ. Trong một lá thư viết vào năm 1954, ông nói:

    “Tôi không tin vào cá nhân Thiên Chúa và tôi chưa bao giờ phủ nhận điều này, ngược lại còn thể hiện rất rõ ràng. Nếu có gì đó trong con người tôi có thể được gọi là tín ngưỡng thì đó chính là sự ngưỡng mộ vô bờ bến đối với cấu trúc của thế giới cho đến nay khi khoa học của chúng ta có thể tiết lộ nó.

    Và khi Einstein nói “không chơi xúc xắc” là ông đang đề cập đến bản chất khó lường của các hạt hạ nguyên tử trong vật lý lượng tử.

    12. Niềm đam mê chính của Einstein không phải là khoa học.

    Bất kể tài năng và những thành tựu khác, âm nhạc vẫn là thứ khiến cho Einstein hạnh phúc nhất. Ông không bao giờ đi du lịch mà không mang theo đàn vĩ cầm và ông cũng đã từng nói: “Cuộc sống không có âm nhạc đối với tôi không thể nào tưởng tượng được. Tôi sống với những giấc mơ của tôi trong âm nhạc. Tôi nhìn cuộc sống trong những giới hạn của âm nhạc. Những niềm vui lớn nhất trong đời không ngoài âm nhạc.”

    Nguồn : businessinsider

    Người dịch : Ngọc Hà

    DÒNG SỬ VONG QUỐC – Hai nước Champa và Đại Việt.

    Champa và Đại Việt là hai nước láng giềng. Đại Việt lúc nào cũng lăm le chiếm lấy Champa bằng nhiều cách, kể cả gả công chúa cho vua Champa đổi đất. Ranh giới giữa Champa và Đại Việt bị rút ngắn dần về phía nam rồi Champa mất Nước và Dân Tộc Diệt Vong. Theo từng triều đại có mỗi cách lấn chiếm khác nhau như sau:

    I – Champa mất đất và diệt vong.Trước năm 1069 ranh giới là dãy Hoành Sơn, là ranh giới Quảng Bình – Hà Tĩnh ngày nay. Năm 1069 vua Lý Thánh Tông của Đại Việt đánh bại vua Chăm – Chế Củ. Vậy, Đại Việt mở rộng lãnh thổ đến Quảng Trị. Đường ranh giới được dời về sông Thạch Hãn.Năm 1306 vua Trần gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chăm Chế Mân, đổi lại vua Chăm giao cho Đại Việt vùng đất từ phía nam sông “Thạch Hãn đến đèo Hải Vân”. Biên giới được dời tới đèo Hải Vân.

    Năm 1402 Hồ Quý Ly tấn công Champa và lấy thêm từ đèo Hải Vân đến đèo Bình Đê, ranh giới giữa Bình Định và Quảng Ngãi. Khi ấy, biên giới tiến rất gần đến kinh đô “Đồ Bàn” của Vương Quốc Champa, thuộc tỉnh Bình Định.Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đánh chiếm thủ đô Đồ Bàn, mở rộng lãnh thổ đến đèo Cù Mông ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên.

    Năm 1597 chúa Nguyễn Hoàng cho đánh chiếm phía nam đèo Cù Mông, cho đến 1611 chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ đến đèo Cả, ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa.Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Chu đánh vào Champa là mở rộng bờ cõi Đại Việt đến hết Khánh Hòa. Đến năm 1692 chúa Nguyễn cho Nguyễn Hữu Cảnh lấy đến Bình Thuận. Vậy, chiếm trọn vương quốc Champa.

    Vậy, nhìn theo dòng lịch sử Vương Quốc Champa cho thấy rõ chính sự “Hòa Thuận” giữa hai NƯỚC láng giềng chỉ là TẠM THỜI kết thân. Nghĩa là Nước mạnh luôn luôn truyền đời ấp ủ tham vọng xâm lấn bờ cõi Nước yếu hơn. Từ đó, có những cuộc sáp nhập nhỏ biến một Nước mở rộng dần và một Nước teo dần. Rất giống như Việt Nam và Trung Quốc từ khi Hồ chí Minh rước đảng Cộng Sản về và dựa lưng Trung Quốc để xây dựng “đảng Cộng Sản Việt Nam”, và hiện nay Việt Nam bị biên giới lùi vào phía nam, mất Ải Nam Quan, mất Thác Bản Giốc… biển đảo thu hẹp bỡi Trung Quốc lấn chiếm.

    “Trung Quốc – Việt Nam” và “Việt Nam – Champa” đều giống nhau. Cũng là hai nước láng giềng đánh nhau từ thế hệ này đến thế hệ sau. Kết quả Champa đã bị khai tử bởi Việt Nam (Đại Việt) và dân tộc Champa (Chăm) bị diệt gần hết. Việt Nam chỉ là thời gian sẽ bị Trung Quốc sáp nhập ĐỒNG HÓA thành một nước Trung Quốc và Dân Tộc Việt thành một Dân Sắc Tộc của Trung Quốc. Trước mắt thấy như Tây Tạng, Mông Cổ…

    Hiện nay, dân số của người Chăm tại Ninh Thuận – Bình Thuận còn chỉ khoảng 98.000 người; Số còn lại họ lưu lạc khắp thế giới khoảng 300.000 người. Như vậy, những lần thất thủ phải mất đất thì kèm theo đó là bị tiêu diệt. Tại sao, Dân Tộc Chăm là một Quốc Gia trải rộng cả đất Miền Trung, nhưng sao họ biến đâu mất ? Đấy là cái khủng khiếp của Nước Yếu cúi đầu “Hòa Thuận” với Nước Mạnh thì phải gánh lấy hậu quả Mất Đất và Diệt Vong.

    II – Suy luận theo dòng sử.Nhìn lại lịch sử các nước láng giềng Trung Quốc, thì cũng đã có những Quốc Gia bị Trung Quốc khai tử. Dân Tộc của họ đã bị tiêu diệt và phải lưu lạc khắp nơi mà giờ cũng chỉ làm thân phận Dân Tộc Thiểu Số.

    Như, Vương Quốc Đại Lý nằm phía Tây Bắc Đại Việt đã bị nhà Nguyên tiêu diệt và họ mất nước từ đó. Bây giờ tộc người Thái phía bắc Việt Nam chính là con cháu dân Đại Lý khi xưa. Họ phải lưu lạc khắp Đông Nam Á, họ sống như một “Dân Tộc Thiểu Số” và quên hẳn cội nguồn của họ. Từ một quốc gia rộng lớn gồm có tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, một phần lãnh thổ tây bắc Việt Nam, một phần bắc Myanmar, phần bắc Lào, nhưng nay là đất của người Hán. Đó, người Thái và người Chăm số phận chẳng khác nhau mấy.

    Nếu Việt Nam sáp nhập thành một tỉnh của Trung Quốc. Vậy, dân Việt sẽ có lợi gì không? Và sẽ được hưởng những quyền lợi như người Trung Quốc Không? Trả lời là không. Rất khác với nước Mỹ, nghĩa là các tiểu bang trong Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ đứng chung trong một nhà nước liên bang, hoàn toàn khác với trường hợp Việt Nam bị sáp nhập Đồng Hóa bởi Trung Quốc, tại sao? Đọc tiếp bên dưới.

    Hãy nhìn vào bản chất của nhà nước liên bang trong một “Thể Chế Tự Do Dân Chủ” tại Mỹ. Trong nhà nước liên bang thì vai trò các bang là đồng làm chủ nhà nước liên bang. Nhà nước liên bang tựa công ty cổ phần, chính quyền bang tựa các cổ đông. Trong cơ cấu tổ chức này, nó luôn bảo đảm sự công bằng giữa các BANG. Bất cứ người dân của bang nào cũng đều có quyền ứng cử tổng thống. Và bang nào cũng có hai thượng nghị sĩ đại diện cho chính quyền bang ấy, bang nào cũng có nhiều dân biểu đại diện cho nhân dân bang đó trong quốc hội liên bang.

    Chính vì, ai là bang thành viên Hợp Chúng Quốc thì được làm chủ một phần chính quyền liên bang, nên Puerto Rico mới muốn trở thành bang thứ 51 của Hoa Kỳ. Làm một bang của Hoa Kỳ nghĩa là có tiếng nói trong chính quyền liên bang, là một trong các ông chủ của chính quyền liên bang thì ai mà không thích? Như vậy làm một tiểu bang của Mỹ không hề vong quốc, và cũng không hề bị tiêu diệt nòi giống, mà là được đứng chung cùng bang khác để hưởng sự thịnh vượng chung của một nước HOA KỲ giàu mạnh, hùng manh…

    Còn nhà nước Cộng Sản Độc Tài phương đông, không bao giờ chịu đứng chung một cách “Dân Chủ” với nước khác. Đặc biệt, nước lớn bao giờ cũng tự phong cho mình là chủ của các nước nhỏ. Hãy nhớ thời Tổ Tiên ta, khi Trung Hoa chưa chiếm được Đại Việt, các hoàng đế Trung Hoa đã chỉ định Đại Việt phải sang triều cống lễ vật. Tức là trong mắt của các hoàng đế Trung Hoa, họ xem Đại Việt là thứ dân mọi rợ, cho nên họ gọi Dân Tộc Việt là “Tộc Man Di”. Nếu Trung Hoa chiếm Việt Nam thì số phận dân Việt sẽ bị diệt vong như dân tộc Chăm đã từng chịu dưới bàn tay Đại Việt.

    Cũng như 800 năm trước, Trung Hoa đã thâu tóm Nước Đại Lý. Hôm nay, đất nước Đại Lý cũ tức “tỉnh Vân Nam” ngày nay, hiện là đất người Hán; Còn người chủ thực sự của Đại Lý bị tiêu diệt và phải lưu lạc khắp nơi để lẩn trốn sự thanh trừng sắc tộc. Đó là bài học lịch sử. Nếu Việt Nam rơi vào Trung Quốc cai trị thì nòi giống Việt cũng sẽ bị “Diệt Vong” bởi bàn tay Tàu Cộng.

    III – Đọc, thấy, nghe, nhớ, nghĩ.Trước mắt, nếu “Con Người nhận thức sai lầm về mối Nguy thì sẽ mất Mạng”, nếu “Dân Tộc nhận thức không đúng mối Nguy thì Dân Tộc đó sẽ Diệt Vong” và Nước bị xóa sổ. Việt Nam hiện nay trong thời đại văn minh, không bị tiêu diệt như Champa mà diệt tinh vi bằng “Chất Độc” tẩm vào thực phẩm… Người Việt sẽ chết bệnh tật và người Tàu Cộng sẽ tràn khắp Nước dựng nhà sinh sống. Mối họa vô lường đang đứng trước mắt.

    Ngày xưa Champa nhu nhược nhượng đất cho Đại Việt nhiều lần và cuối cùng bị diệt vong; Ngày nay Việt Nam cũng đang nhượng đất cho Trung Cộng và kết tình Răng Môi. Như vậy, Việt Nam cũng sẽ đi trên con đường Vong Quốc – Diệt Vong chỉ là vấn đề thời gian. Than ôi ! ./.Tác giả: Vivi

  • Văn Thơ,  Vương Trùng Dương

    Tình Khúc Mùa Thu Với Paris

    Mùa thu hình như là nguồn cảm hứng với thi nhân, nhạc sĩ… nên từ xưa đến nay có nhiều sáng tác qua thi ca và âm nhạc với nhiều bài thơ và ca khúc được ưa thích.

    Nhà văn Dương Viết Điền (bạn cùng khóa với tôi) viết về Mùa Thu Qua Thi Ca Việt Nam, mở đầu với bài thơ nổi tiếng Chansons D’automne của thi sĩ Pháp Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi hồi và xúc động. Bài thơ này được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc Thu Ca Điệu Ru Đơn.

    Nhà văn Việt Hải & Phạm Chung trong bài viết Mùa Thu Trong Tình Ca Việt Nam, đề cập đến nhiều ca khúc trong những thập niên qua liên quan đế chủ đề… Từ thời tiền chiến đến hai thập niên ở miền Nam Việt Nam, có hàng trăm ca khúc trữ tình (sáng tác và phổ thơ) liên quan đến mùa thu.

    Với tôi, trong bài viết về nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, gọi ông là nhạc sĩ của mùa thu (lời Từ Linh), điển hình qua vài ca khúc Ánh Trăng Mùa Thu (1947), Thu Quyến Rũ (1950), Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay (1952), Lá Đổ Muôn Chiều (1954), Tà Áo Xanh (Dang Dở 1954)… Tập nhạc Tình Khúc Mùa Thu (Đoàn Chuẩn – Từ Linh) gồm 18 ca khúc do trưởng nam của ông là Đoàn Chính, ấn hành ở Canada năm 1990.

    Nhân chuyến thăm trời Tây và Paris của nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian vào mùa thu năm 2023, tôi viết về những ca khúc tiêu biểu với thu và Paris, và “Gửi Người Em Gái” thấp thoáng trong ca khúc trữ tình của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước trong chiều nhạc thính phòng vào  thu ở Paris.

    Nhạc sĩ Phạm Duy với những ca khúc phổ thơ về mùa thu như: Mùa Thu Chết (phổ thơ L’Adieu của thi sĩ Pháp Apolinaire theo bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Bùi Giáng là Lời Vĩnh Biệt). Ca khúc Mùa Thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng) “Mùa thu Paris, trời buốt ra đi… Chờ mong em chín đỏ trái sầu”. Ca khúc Tiễn Em (thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế của Cung Trầm Tưởng vào mùa đông Paris).

    Nhạc sĩ Lam Phương với những cuộc tình trở thành tình sử bi thương. Vào thập niên 1980s, sau khi chia tay nghệ sỹ Túy Hồng, ông dọn sang Paris để sống và gọi là “tị nạn ái tình”. Làm quản lý nhà hàng Như Ánh của cô em út. Về đêm, tổ chức ca nhạc cho vơi bớt nỗi buồn. Với cuộc tình định mệnh người đẹp Cẩm Hường, đang có chồng. Khi cuộc tình chớm nở ông đã sáng tác vài ca khúc Mùa Thu Yêu Đương “Mùa thu ơi Paris dệt mộng tình si… Đưa anh vượt khỏi cơn đau ngày nào”, ca khúc Mùa Thu Vào Mộng… Thế rồi sau mười năm chung sống, ông viết ca khúc Tan Vỡ! Cuối cùng với nhạc phẩm Thu Đến Bao Giờ với nỗi buồn chia ly trong mùa thu trước khi định cư ở Mỹ.

    Trước đây, tôi đã viết Nguyên Sa, Lời Thơ Ý Nhạc, là nhà thơ tình mang hình ảnh Paris về Sài Gòn giữa thập niên 1950s.

    Bài thơ Mai Tôi Đi với nỗi buồn xa xăm:

    “Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu

    Giòng sông Seine đang mặc áo sương mù

    Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc

    Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa”.

    Bài thơ nầy Song Ngọc phổ thành ca khúc Tiễn Biệt khi còn học sinh vào năm 1961.

    Năm 1998, nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc cùng tựa bài thơ với các câu cuối:

    “Mai tôi đi, chắc rằng Paris nhớ

    Nhưng dù sao, nhớ nhung rồi sẽ mờ

    Muôn vạn ưu sầu rồi cũng sẽ xa nhau

    Mình cũng sẽ xa nhau”.

    Ca khúc Em Mùa Thu Của Tôi  của nhạc sĩ Vũ Hữu Toàn (thơ Phạm Ngọc):

    “Paris buồn giữa trời thu

    Cơn mưa ùa theo hối hả

    Tiếng đàn pha cùng tiếng gió

    Thở dài thành những cơn mưa”

    Nhân chuyến đi của nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian khi bước vào mùa thu ở Mỹ, sau những tháng nắng nóng ở California, thời tiết đã thay đổi, viết những dòng nầy để gợi nhớ lại bảy thập niên về trước ở thế kỷ XX khi những chàng trai trẻ du học ở Pháp, với khung cảnh hữu tình đó đã sáng tác các bài thơ được phổ thành ca khúc sau nầy đã hòa nhập vào trái tim của người thưởng ngoạn từ trong nước đến hải ngoại.

    Hy vọng chiều nhạc thính phòng ở Paris níu lại thời gian năm xưa qua bao biến thiên của cuộc đời.

    Vương Trùng Dương, Little Saigon, September 14, 2023

  • Văn Thơ,  Vương Trùng Dương

    Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm & Ca Khúc Gọi Người Yêu Dấu

    “Thương yêu dáng vai gầy thanh thanh

    … Thương em mong manh như một cành lan”

    (Vũ Đức Nghiêm)

    “Thương em đắm linh hồn mong manh.

    … Như sương pha lê trên một cành lan”.

    (Hoàng Anh Tuấn)

    “Em gầy như liễu trong thơ cổ

    Anh bỏ trường thi lúc thịnh Đường”

    (Nguyên Sa)

    Về tiểu sử nhạc sĩ Vũ Đức Nghiem đã được đề cập qua nhiều bài viết, nay chỉ tóm lược quãng thời gian liên quan ngắn gọn. Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm sinh năm 1930 tại làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, trong gia đình theo đạo Tin Lành. Nhập học lớp Đệ Thất vào năm 1944 lúc 14 tuổi tại trường Bưởi (Trường Bưởi – trường Bảo Hộ (Lycée du Protectorat), được thành lập vào năm 1908. Tới ngày 9/3/1945, trường bị giải thể sau khi Nhật đảo chánh Pháp. Trường Bảo Hộ đổi tên thành trường Chu Văn An).

    Năm 1951, sau khi đậu Tú Tài I và đang học lớp Đệ Nhất C, động viên vào Khóa 1 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định. Tháng 6/1952, ra trường, cấp bậc Thiếu Úy, phục vụ tại đồn Trung Lăng, thuộc huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Kiến An. Tháng 7/1954, lập gia đình với bà Dương Thị Năng, con gái út của Mục Sư Dương Tự Ấp. Ông bà có 7 người con.

    Sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954, gia đình di cư vào Nam, ông phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ban đầu được bổ nhiệm đồn trú tại đơn vị thuộc đảo Phú Quốc. Tháng 3/1956, Vũ Đức Nghiêm được thuyên chuyển về Trung Đoàn 7, thuộc Sư Đoàn 3 Dã Chiến đóng tại Sông Mao, Bình Thuận. Ông sáng tác Sư Đoàn 3 Dã Chiến Hành Khúc (sau nầy là Sư Đoàn 5 Hành Khúc).

    Năm 1957, Trường Sinh Ngữ Quân Đội thành lập, ông là một trong những giảng viên Anh Ngữ đầu tiên tại trường này. Năm 1958, ông sang Hoa Kỳ, phục vụ tại trung tâm huấn luyện Fort Benning, tiểu bang Georgia. Nghiên cứu trước các tài liệu giảng dạy cho huấn luyện viên Hoa Kỳ cho các khóa tu nghiệp sĩ quan Quân Đội VNCH.

    Sau khi về nước, ông tiếp tục công việc giảng dạy tại Trường Sinh Ngữ Quân Đội. Tháng 1/1963, thăng cấp Đại Úy, phục vụ tại Sư Đoàn 22 Bộ Binh, ông viết Sư Đoàn 22 Hành Khúc, rồi Tòa Đại Biểu Chính Phủ tại Ban Mê Thuột, ở đây gần Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, ông viết Sư Đoàn 23 Hành Khúc.  

    Giữa năm 1966, Đại Úy Vũ Đức Nghiêm được giao chức vụ Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn, tỉnh Tuyên Đức, và sau đó giữ nhiệm vụ Trưởng Phòng Hành Quân, tiểu khu Tuyên Đức.

    Năm 1969, Thiếu Tá Vũ Đức Nghiêm làm phụ tá Quân Trấn Trưởng, thị xã Đà Lạt.

    Trong thời gian phục vụ quân ngũ, ông tiếp tục học, tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa, Viện Đại Học Đà Lạt.

    Cấp bậc cuối cùng của ông là Trung Tá, Huấn Luyện Viên Tiếp Vận, Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Đà Lạt, năm 1971 chuyển về Long Bình, Biên Hòa.

    Sau tháng Tư năm 1975, ông bị tù tại Long Giao, Long Khánh, Suối Máu, Tân Hiệp, tháng 6/1976 bị đưa ra trại tù ở Hoàng Liên Sơn rồi Yên Bái, Lào Cai… Tháng 10/1978, chuyển về trại giam Nghệ Tĩnh (lúc nầy vợ ông mới nhận được tin để đi thăm nuôi). Tháng 1/1981 chuyển về trại tù Hàm Tân. Tháng 4/1982 chuyển về trại tù Xuân Phước (Phú Khánh – Phú Yên & Khánh Hòa) cho đến tháng 9/1988, được trả tự do.

    Trong thời gian ở trong lao tù, ông ở chung với nhiều nhạc sĩ, nhà thơ, ông đã sáng tác các rất nhiều ca khúc, điển hình như Tâm Tư Chiều, Muôn Trùng Xa Em Về, Như Mây Bay Về, Tâm Khúc Đêm Sao, Cờ Vàng Tung Bay, Giả Sử Mai Ta Về (thơ Nguyễn Xuân Thiệp), Xin Cho Tôi Hy Vọng (lời Thục Vũ), Mưa Buồn Long Giao (thơ Hà Thượng Nhân)… và Đoá Hồng Cho Ngươì Yêu Dấu (ca khúc nầy để tôn vinh người bạn đời của ông, sau nầy thực hiện thành CD cùng tên).

    Riêng ca khúc Trong Ngục Tù Bao La của ông khi đó có người bạn tù được thả ra, ông gởi về gia đình, để tránh rắc rối khi kiểm soát nên ông để là nhạc Liên Xô. Thế rồi ca khúc nầy được thu âm và phát hành vào năm 1977 vì họ đã hiểu lầm rằng Trong Ngục Tù Bao La là một ca khúc của Liên Xô.

    Trong đợt H.O 4, gia đình ông định cư tại Hoa Kỳ diện H.O 4, tại San Jose, tháng 11/1990. Ông tiếp tục sinh hoạt trong cộng đồng người Việt, nhiều Hội Thánh Việt Nam đã tổ chức các chương trình ca nhạc Vũ Đức Nghiêm để giới thiệu những Tôn Vinh Ca của ông. Năm 2015, Liên Hữu Tin Lành Việt Nam Thế Giới đã tổ chức chương trình nhạc Vũ Đức Nghiêm và trao bằng ghi nhận cống hiến của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm cho nền thánh nhạc Việt Nam.

    Bà Dương Thị Năng là mẫu người vợ, người mẹ hiền thục, bao dung, cao đẹp  như bao người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa. Với tấm lòng độ lượng bao dung của bà đã giữ được tình yêu thủy chung trọn đời, và sự hy sinh, lo cho con cái khi người chồng trong lao tù Cộng Sản. Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo của bà:

    “Ngày chồng tôi đi tù, anh đang ở Sài Gòn, gia đình ở Đà Lạt nhận tin anh sẽ đi trình diện ngày 15 tháng 6 và nhắn tôi về Sài Gòn, nhưng thư đi chậm, tôi về tới nơi thi đã quá muộn, anh đã đi trước một ngày… Cuối năm 1978, tôi được thư anh cho biết đã chuyển về trại tù Nghệ Tĩnh số 6 và trại cho tù được thăm gặp gia đình

    … Tôi nhận ra chồng tôi, xưa anh uy nghi mạnh mẽ bao nhiêu thì giờ đây xơ xác, tiều tụy bấy nhiêu. Ý nghĩ đó làm lòng tôi quặn thắt; anh đội chiếc nón lá rách rưới, chỉ còn chiếc chóp nhỏ như nón người lính thú đời xưa; đôi chân mốc meo khẳng khiu lê trên đôi dép râu buộc chằng chịt bằng giây thép. Nước da anh nhợt nhạt như người sốt rét kinh niên, đôi mắt lờ đờ, tròng trắng đã ngả vàng, không còn vẻ tinh anh như trước. Anh bước đi, lao đao như muốn ngã, tôi muốn chạy lại đỡ anh, nhưng tên V.C đã ngăn tôi lại. Tên cán bộ phụ trách thăm nuôi gọi từng tên người tù và thân nhân ngồi ở hai bên một chiếc bàn lớn, và hắn ngồi chính giữa. Tôi cho chồng tôi biết tin tức gia đình, anh lắng nghe, giọng xúc động, hỏi thăm tin tức cha mẹ, anh vui mừng khi biết cha mẹ ở California vẫn bình yên và hằng cầu nguyện cho anh sớm được trở về đoàn tụ.

    Nhìn mắt anh hướng về phiá tên V.C với cái nhìn căm hờn, tôi sợ hãi, xin anh nhịn nhục “nín thở qua sông’’ để còn có ngày về gặp lại vợ con…

    Hồi đó, phong trào vượt biên làm xôn xao Sài Gòn. Tôi suy nghĩ về tương lai các con. Phải đi tìm đường song cho các con vì nếu ở lại thì sợ có ngày con trai tôi đến tuổi phải đi nghĩa vụ rồi sẽ phải làm bia đỡ đạn cho giặc Cộng ở Campuchia thì khi gặp lại chồng tôi, tôi biết ăn nói làm sao?… Cho nên, tôi đã bán tất cả nữ trang và các đồ vàng bạc, đá quý, đã dành dụm được cho các con vượt biên… Lần thú nhất, con gái thứ tư, Giao Duyên, tới Malaysia bình yên, được ông bà nội bảo lãnh về Pasadena, California.

    Lần sau, ba đứa lớn, Quỳnh, Giao, Đức Dũng bị bắt giam mấy tháng, riêng Dũng bị giam hơn 2 năm. Trong thời gian ấy, tôi phải chuẩn bị nhiều bao bị khác nhau để đi thăm chồng và ba con. Tôi như lên cơn sốt vượt biên, có chút tiền để dành nào cũng gom góp cho con đi tìm tự do; sau hàng chục lần thất bại, nhưng không nản lòng. Rút cục, Dũng cũng đã ra tù, vượt biên qua ngả đường bộ đến Thái Lan và tới Mỹ năm 1983, riêng vợ chồng Quỳnh Giao và Dũng Tuấn, con trai út mãi tháng 9/88 mới đến Mỹ, đúng vào thời gian chồng tôi được trả tự do!”.

    (Trong bài viết, bà cho biết có 7 người con, đứa con lớn nhất 19 tuổi và con út mới 8 tuổi. Trong Cáo Phó có 6 người con: Vũ Ngọc Quỳnh, Vũ Ngọc Giao, Vũ Đức Dũng, Vũ Giao Duyên, Vũ Duyên Thơ, Vũ Thư Trinh, Vũ Đức Dũng Tuấn để biết rõ những người con khi ông ở trong lao tù, bà hy sinh tất cả để lo cho con vượt biên, ở lại đợi chồng).

    Năm 2003, nhật báo Viễn Đông tổ chức cuộc thi Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo, với 150 tác giả dự thi gởi bài viết. Tôi ở trong Ban Giám Khảo, vợ tôi cũng ở trong hoàn cảnh đó, thế mà khi đọc mỗi bài viết, mỗi câu chuyện qua bi thương, nghiệt ngã, có khi mắt nhòa đi trên từng trang giấy. Sau đó thực hiện 3 tuyển tập, tôi có viết giới thiệu còn lưu trên trang web Việt Báo.

    Ca khúc Muôn Trùng Xa Em Về nói lên nỗi đau khi người vợ lặn lội thăm nuôi chồng trong trại tù, chỉ trong phút giây ngắn ngủi rồi thẩn thờ chia tay trong với chiếc bóng lẽ loi trên đường về, với tôi là ngục tù ca hay nhất trong của các nhạc sĩ khi sáng tác ở trong lao tù. Với những người tù cùng rơi vào hoàn cảnh bi thương như ông, cảm ơn tác giả thay cho “bạn tù” vì âm nhạc dễ truyền đạt cho các thế hệ con cháu.

    Trải qua bao nhiêu sóng gió, nghịch cảnh trong cuộc biến thiên của thời thế. Gia đình nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm sống hạnh phúc bên nhau nơi xứ người cho đến khi ông ra người thiên cổ.

    *

    Trong dòng nhạc trữ tình, lãng mạn từ thập niên 1950s ở miền Nam VN đến nay đã bảy thập niên, nhiều ca khúc vẻ lên hình ảnh người tình còn in sâu trong lòng mọi người thưởng ngoạn. Những ca khúc đó, với nam giới, nhất là sinh viên, học sinh… với thuở ban đầu còn ngại ngùng không nói lên lời nên mượn lời ca để chia sẻ.

    Điển hình như vài tình khúc của các nhạc sĩ: Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước “Ngọc Lan giòng suối tơ vương mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan nhành liễu nghiêng nghiêng tà mấy cánh phong nắng thơm ngoài song… Bông hoa đời ngàn xưa tới nay. Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây”. Người Em Sầu Mộng của Y Vân, thơ Lưu Trọng Lư “Ai bảo em là giai nhân. Cho đời anh đau buồn… Cho tình giăng đầy trước ngõ. Cho mộng tràn gối chăn”. Mộng Dưới Hoa của Phạm Đình Chương, lời Đinh Hùng “Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại… Bóng hoa ngã xuống bàn tay mộng. Và mộng em cười như giấc mê”. Chiều Tím của Đan Thọ, lời Đinh Hùng “Chiều tím chiều nhớ thương ai. Người em tóc dài sầu trên phím đàn. Tình vương không gian. Mây bay quan san có hay?”. Tà Áo Tím của Hoàng Nguyên “Một chiều lang thang trên dòng sông Hương. Tôi gặp một tà áo tím. Nhẹ thấp thoáng trong nắng vương. Màu áo tím ôi luyến thương. Màu áo tím ôi vấn vương… Mơ một tà áo, một tà áo qua đường. Như mong một lời nói, một lời nói yêu thương”.

    Và, với tình si đó, trong ca khúc Phượng Yêu của Phạm Duy chấp nhận “Yêu người xong, chết được ngày mai” tương tự như câu thơ của Xuân Diệu “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Hay trong Gợi Giấc Mơ Xưa của Lê Hoàng Long “Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi… Kiếp sau xin chắp lời thề cùng sống bước lang thang… Đêm đêm đèn le lói một mình ngồi ôm giấc mộng tình. Kiếp sau đôi tim hòa chào đón ánh bình minh”. Ngàn Thu Áo Tím  của Hoàng Trọng & Vĩnh Phúc “Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím. Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím. Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau. Tháng năm càng lướt mau. Biết bao giờ thấy nhau”.

    Trường nữ trung học Đồng Khánh ở Huế, trong những thập niên đầu, nữ sinh mặc đồng phục màu tím, sau nầy mặc áo dài trắng. Trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn mặc áo dài tím nên gọi là Trường Áo Tím.

    Bài thơ Cần Thiết của Nguyên Sa “Không có anh lấy ai đưa em đi học về. Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học. Ai lau mắt cho em ngồi khóc. Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa… Không có anh nhỡ một mai em khóc. Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi”. Ca khúc Nếu Vắng Anh của Anh Bằng đựa vào ý thơ “Nếu vắng anh ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió. Nếu vắng anh ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố. Nếu vắng anh ai đón em khi tan trường về. Kề bóng em ven sông chiều chiều, gọi tên người yêu… Nếu vắng anh ai ngắm môi em tươi nụ cười. Làn tóc xanh buông lơi tuyệt vời, chan chứa mộng đời”.

    Màu tím (purple, violet) được kết hợp hài hoà từ màu đỏ và màu xanh dương đậm, nhạt tùy theo các sắc độ màu pha chế. Màu tím tượng trưng cho những ý nghĩa khác nhau cho sự sang trọng, quyền quý, lãng mạn, quyến rũ, bí ẩn. Trong tình yêu mang ý nghĩa bi thương, chia lìa. Trong thi ca và âm nhạc… gợi nguồn cảm hứng sáng tác trong tâm hồn nghệ sỹ.

    Không chỉ ở Huế, Sài Gòn với tà áo tím được đi vào thơ nhạc, ở Cần Thơ với tà áo tím trong bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của Kiên Giang, Huỳnh Anh phổ nhạc.

    “Mười năm trước em còn đi học

    Áo tím điểm tô đời nữ sinh

    Hoa trắng cài duyên trên áo tím

    Em còn nguyên vẹn tuổi băng trinh.

    … Hoa trắng thôi cài trên áo tím

    Mà cài trên nếp áo quan tài”

    Đây là thiên tình sử của cậu học trò mới 16 tuổi rời quê Kiên Giang lên Cần Thơ học ở trường tư thục Nam Hưng. Trong lớp có cô nữ sinh mặc áo tím cài hoa trắng khi đến giáo đường. Mối tình trong trắng thơ ngây đó chớm nở rồi bị chia xa theo thời cuộc. Mười năm sau trở lại, người tình đã ra người thiên cổ.

    Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan được phổ thành 5 ca khúc với Pham Duy, Song Ngọc, Duy Khánh, Anh Bằng, trong đó ca khúc Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh được thịnh hành nhất và số phận của người nhạc sĩ nầy hẫm hiu khi phục vụ ở Trung Đoàn 44, Sư Đoàn 23 BB ở Sông Mao bị “hứng trọn một tràng đạn AK của địch trong đêm” khi mới 28 tuổi.

    Với ca khúc trữ tình với các nhạc sĩ nổi danh một thời Sài Gòn như Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím của Hoàng Trọng, Áo Tím Ngày Xưa của Mạnh Phát & Lan Đài, Màu Tím Pensée của Ngọc Sơn & Đài Phương Trang, Căn Nhà Màu Tím của Hoài Linh, Tango Tím của Anh Bằng, Hoa Tím Người Xưa của Thanh Sơn, Màu Tím Tình Yêu, Chân Trời Tím của Trần Thiện Thanh (cũng là truyện dài của Văn Quang năm 1964 và phim cùng tên của đạo diễn Lê Hoàng Hoa năm 1971, nhạc phim là Nửa Hồn Thương Đau & Người Đi Qua đời Tôi của Phạm Đình Chương). Đây là cuốn phim lãnh mạn trong thời chiến, nổi tiếng nhất ở miền Nam VN, kinh phí sản xuất bộ phim này là 14 triệu đồng, thu về 94 triệu đồng (Theo tỉ giá năm 1971 thì 1 USD khoảng 280 đồng VNCH, vàng lúc đó là 35 USD/Oz). Cuốn phim được giải thưởng Văn Học nghệ Thuật và “đem chuông đi đấm nước ngoài”… Thuở còn đi học, tôi có chút kỷ niệm với tà áo tím rồi chia xa trước khi bước chân vào quân ngũ để rồi màu tím ngày nào xa xôi! Nơi cố hương, vào mỗi dịp nghỉ Hè, lên vùng quê ở Quế Sơn, Duy Xuyên có rừng sim thật đẹp, nhà thơ Bùi Giáng mang nỗi đau khi người vợ vĩnh biệt cõi trần nơi đó “Anh lùa bò vào đồi sim trái chín. Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim”

    Trở lại với dòng nhạc trữ tình, lãng mạn ở trên với nỗi nhớ nhung khi chia xa, mang theo nỗi sầu đau, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm sáng tác các thể loại trải qua bốn giai đoạn khác nhau: Quân hành ca, ngục tù ca, tôn vinh ca, trong đó với tình ca của ông có nhiều ca khúc, đặc biệt với Gọi Người Yêu Dấu.

    “PK: Gọi người yêu dấu bao lần

    Nhẹ nhàng như gió thì thầm

    Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi

    Thương người xa xôi

    Gọi người yêu dấu trong hồn

    Ngập ngừng, tha thiết, bồn chồn

    Kỷ niệm xưa mờ thoáng trong sương

    Cho lòng nhớ thương

    ĐK: Người yêu dấu ơi

    Sao lòng se sắt đầy vơi?

    Người yêu dấu ơi

    Thu về, tim vẫn đơn côi

    Người yêu dấu ơi

    Khi ngàn sao đêm lấp lánh

    Tâm hồn bâng khuâng

    Nhớ ngày vui đã qua nhanh

    Thương đôi mắt sao trời lung linh

    Thương yêu ngón tay ngà xinh xinh

    Thương yêu dáng vai gầy thanh thanh

    Thương yêu vòng tay ghì siết ân tình

    Thương yêu dáng em buồn bơ vơ

    Thương yêu nét môi cười ngây thơ

    Thương yêu tóc buông lơi dịu dàng

    Thương em mong manh như một cành lan

    ĐK: Gọi người yêu dấu xa vời

    Mà lòng lưu luyến, bồi hồi

    Ngày biệt ly đành nhớ nhau thôi

    Khi chiều nhẹ rơi

    Gọi người yêu dấu muôn đời

    Nghẹn ngào không nói thành lời

    Tình yêu xưa ngày tháng pha phôi

    Biết bao giờ nguôi!”.

    Về âm nhạc, ông cho biết: “Tôi không hề được đặt chân đến một trường âm nhạc nào, và cũng như chưa đựợc theo học một nhạc sĩ nào cả. Tôi tự học, và học hỏi qua bạn bè. Tôi có những người bạn thân rất giỏi về âm nhạc như Phạm Đình Chương, Nhật Bằng đã chỉ vẽ cho tôi”. Bài hát đầu tiên là tình ca Bến May (1947), và từ đó theo thời gian, ông vừa học hỏi thêm về lý thuyết và sáng tác, trở thành nhạc sĩ từ giữa thập niên 1950s. Ông tham dự cuộc thi sáng tác ca khúc do đài phát thanh quân đội tổ chức, trúng tuyển một số bài: Đoàn Quân Bắc Tiến 1956, Chào Mừng Quốc Khánh 26 tháng 10 1960, Chúng Ta Đi Xây Nền Cộng Hoà… Và từ đó, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm được thành danh.

    Ông đã sáng tác nhiều thể loại: tình ca, quân hành ca, ngục tù ca, tôn vinh ca theo quãng đời trong suốt những thập niên.

    Với ca khúc Gọi Người Yêu Dấu, ca khúc nầy được đề cập với vài giai thoại như thiên tình sử, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm cho biết: “Tôi viết Gọi Người Yêu Dấu vào năm 1969 trong một cuộc phiêu lưu tình cảm. Khi viết xong, ca sĩ Thanh Lan ghé nhà chơi. Tôi đưa cho cô và may mắn Thanh Lan đã đem về hát ở Đài Truyền Hình và các Đài Phát Thanh Sài Gòn. Từ đó nhạc phẩm đuợc giới trẻ biết đến”.

    Đây là một ca khúc theo vài giai thoại được khởi đầu bằng một chuyện tình lâm ly của chính nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm ở Đà Lạt. Nhà thơ Hoàng Anh Tuấn được bổ nhiệm làm Quản Đốc đài phát thanh Đà Lạt năm 1965 vì vậy thời gian ông phục vụ ở Đà Lạt trở thành đôi bạn tri kỷ.

    Theo nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, “Ca khúc Gọi Người Yêu Dấu, lời 1 của ông viết năm 1969. Sau đó thi sĩ Hoàng Anh Tuấn có viết lời (*). Khi ở tù, ông cũng viết thêm lời 2. Ra tù, ông kết hợp lời của tôi và của Hoàng Anh Tuấn. Tóm lại, lời 2 gồm 3 phần, phần A và C là của ông, phần B là của Hoàng Anh Tuấn”

    Ca khúc ra đời tháng 11 năm 1969, lúc vừa chia tay; nhạc sĩ ngồi bên bờ hồ Xuân Hương viết và ca sĩ Thanh Lan lên Đà Lạt chơi gặp Vũ Đức Nghiêm hỏi có viết ca khúc nào mới và ông đưa bản này. Tháng 1 năm 1970, tiếng hát Thanh Lan lần đầu tiên giới thiệu bài tình ca ướt át này trên đài phát thanh và truyền hình Sài Gòn, được thính giả ưa thích.

    Cùng thời gian này, một người quen của Vũ Đức Nghiêm ở Sài Gòn đã gửi gắm cho ông một cô “bồ nhí” 21 tuổi, đang có mang được vài tháng. Người đẹp này phải đi “lánh nạn” một thời gian để chờ ngày sinh nở. Thông cảm cho hoàn cảnh oái oăm này, Vũ Đức Nghiêm đã đón cô gái về ở tại một ngôi biệt thự mà ông quản lý, nằm trên ngọn đồi nơi có ít người qua lại. Người đẹp kia đi lánh nạn chỉ mang theo một vali nhỏ, và Vũ Đức Nghiêm phải đích thân đi mua những vật dụng cần thiết cho chuyến “vượt cạn” của cô, và mang thức ăn đến cho cô hằng ngày.

    Ban đầu chỉ là muốn giúp bạn, cảm thương cảnh ngộ giai nhân phải đi trốn tránh thế gian. Nhưng với sự gặp gỡ, tiếp xúc hàng ngày, và hình dáng “mong manh như một cành lan” của người đẹp đã khiến nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm không cầm lòng được, dù cho lúc đó ông đã có vợ, con.

    Khung cảnh thơ mộng xinh đẹp của Đà Lạt hẳn là cũng góp phần vun vào cho cuộc tình ngang trái này. Hoàn cảnh này được anh Vũ Trung Hiền, em trai của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm nói lại như sau: “… Từ biết ơn, dẫn đến cảm phục con người hào hiệp chăm lo cho nàng, một người chưa hề quen biết, còn hơn cha của đứa bé đang nằm trong bụng nàng! Và một ngày nọ, người phụ nữ trẻ tuổi đã gục đầu lên ngực gã đàn ông 39 tuổi, vợ và 7 con, khóc như mưa như gió!

    Rất có thể nàng khóc để trút hết nỗi đắng cay, tủi nhục vì bị tình nhân lừa dối. Có thể đó cũng là những giọt lệ vui mừng, cảm động vì nàng mơ hồ thấy dường như thuyền mình đã tìm được một bến đậu. Bến đậu, dù tạm bợ, vẫn còn hơn lênh đênh giữa dòng, trong cơn bão tố… Cuộc tình đã cuốn Vũ Đức Nghiêm vào trong, như một cơn lốc dữ dội…”.

    Bà Dương Thị Năng, hiền thê của ông, một hôm, bà nhẹ nhàng bước vào phòng “cô gái lầm lỡ” kia ngay lúc chồng đang ngồi xỏ vớ vào chân cho người yêu để giữ ấm, vì trời Đà Lạt rất lạnh. Không ồn ào to tiếng, bà chỉ nhỏ nhẹ với chồng: “Anh ơi, sếp gọi anh…”. Chàng nhạc sĩ đa tình luống cuống đứng dậy đi ra khỏi phòng, và hình như đó cũng là lần cuối họ gặp nhau. Sau đó thì cô gái mẹ tròn con vuông đã được cha mẹ đón về.

    Một thời gian sau, trong lần đi ngang ngôi biệt thự có nhiều kỷ niệm đó, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm thấy mủi lòng nhớ người xưa và sáng tác Gọi Người Yêu Dấu, trở thành ca khúc nổi tiếng nhất trong sự nghiệp âm nhạc của ông…

    Năm 2005, trong đêm nhạc “Vũ Đức Nghiêm – Nửa Thế Kỷ Viết Ca Khúc”, nhà báo Bùi Bảo Trúc đã bày tỏ: “Người ta nói đằng sau sự thành công của người đàn ông là bóng dáng một người phụ nữ. Còn ở đây chúng tôi xin sửa lại chút xíu, đằng sau mỗi ca khúc thành công là… sự bao dung của người phụ nữ. Thưa chị Vũ Đức Nghiêm, chúng tôi xin cảm ơn sự bao dung của chị vì nếu không có sự bao dung độ lượng ấy thì ca khúc Gọi Người Yêu Dấu đã không được chào đời và chúng tôi đã thiệt thòi biết bao vì không được nghe, được hát một nhạc phẩm dễ thương như thế”.

    Năm 2015, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm cũng thừa nhận những lời mà nhà báo Bùi Bảo Trúc nói: “Phải nói bà xã tôi là người rất độ lượng. Tôi bay bướm nhưng vợ vẫn chung thủy. Bao năm tù cải tạo, vợ ở nhà nuôi con thay chồng và vẫn chờ đợi. Trong cơn lốc cuồng bạo của thời cuộc, khi người lính trở về, không gì quý báu bằng hình ảnh người vợ tựa cửa chờ mong”.

    Hoàn cảnh này được Vũ Trung Hiền, em trai của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm nói lại như sau: “… Từ biết ơn, dẫn đến cảm phục con người hào hiệp chăm lo cho nàng, một người chưa hề quen biết, còn hơn cha của đứa bé đang nằm trong bụng nàng! Và một ngày nọ, người phụ nữ trẻ tuổi đã gục đầu lên ngực gã đàn ông 39 tuổi đã có vợ con, khóc như mưa như gió! Rất có thể nàng khóc để trút hết nỗi đắng cay, tủi nhục vì bị tình nhân lừa dối. Có thể đó cũng là những giọt lệ vui mừng, cảm động vì nàng mơ hồ thấy dường như thuyền mình đã tìm được một bến đậu. Bến đậu, dù tạm bợ, vẫn còn hơn lênh đênh giữa dòng, trong cơn bão tố… Cuộc tình đã cuốn Vũ Đức Nghiêm vào trong, như một cơn lốc dữ dội…”.

    Ngày xưa mỗi khi có cô gái trẻ nào bị lâm nạn kiểu như vậy thì thường phải đi thật xa, sau khi xong xuôi thì lại trở về để che giấu chuyện động trời kia, giữ lại chút thanh danh cho gia đình. Một thời gian sau, trong lần đi ngang ngôi biệt thự có nhiều kỷ niệm đó, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm thấy mủi lòng nhớ người xưa và sáng tác Gọi Người Yêu Dấu, trở thành ca khúc nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của ông.

    Khi ca khúc được mọi người ái mộ, nếu có bí ẩn của thiên tình sử thì càng gây nên sự tò mò. Và, chỉ có người trong cuộc “sống để đời, chết mang theo” với thiên tình sử. Trong vài lần phỏng vấn với nhạc sĩ, ông cũng không tiết lộ người quen gửi gắm là ai? Và tại sao ông viết “trong một cuộc phiêu lưu tình cảm”?. Thi hào Nguyễn Du trong hai câu “Nợ tình chưa trả cho ai. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” (Kiều, câu 709 và 710) nên chỉ cảm nhận giai điệu và lời ca với hình bóng cũ.

    Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm qua đời ngày 24/7/2017 tại tư gia ở San Jose, hưởng đại thọ 87 tuổi. Sinh thời, nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm tính tình hoà nhã, khiêm nhượng, thân thiện với mọi người nên được sự cảm mến, quý trọng nên khi ông lìa cõi đời, nhiều người bày tỏ sự cảm mến. Chủ Nhiệm tạp chí Cỏ Thơm (Phan Anh Dũng) đã dành số Tưởng Niệm Nhạc Sĩ Vũ Đức Nghiêm với 86 trang với hình ảnh và bài viết còn lưu trữ.

    *

    Khi ca khúc Gọi Người Yêu Dấu phổ biến, tôi đã rời quân trường Đà Lạt về phục vụ ở Tiểu Đoàn 20 CTCT Pleiku, rất thích nghe ca khúc nầy để nhớ lại khung trời cũ. Cuối tháng 8/1990 tôi đến phi trường Utapao, Thái Lan (đợt đầu tiên của H.O 4), thời gian ở đó khoảng 10 ngày (tùy theo chuyến bay đến các nơi ở Mỹ), trước khi rời Thái Lan, có nhiều đợt H.O 4 tiếp theo nhưng rất tiếc không được gặp ông để biết thêm “tình sử” của ca khúc nầy. Khi đến phi trường Stockholm-Arlanda, Thụy Điển như từ địa ngục đến thiên đường, xuyên đại tây dương, tỵ nạn ở quê hương nhạc đồng quê nhưng tránh “vỏ dưa gặp vỏ dừa” tá túc trong khu da màu châu Phi, sợ quá nên đáp chuyến xe Bus Greyhound, từ Đông sang Tây đến Little Saigon cũng là lúc gia đình nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm đến San Jose.

    Với bảy thập niên sáng tác từ tình ca… đến tôn giáo ca, ông đã ra đi vĩnh viễn để lại cho đời nhiều nhạc phẩm, mỗi khi nghe, tưởng nhớ đến nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm.

    Gọi Người Yêu Dấu

    (*) Lời Hoàng Anh Tuấn, 1969

    PK: Gọi người yêu lúc thu về.

    Giận người quên lãng lời thề.

    Chiều năm nao nguyện sống bên nhau, nay đành quên sao?

    Gọi người yêu dưới trăng vàng.

    Gọi tình xưa cũ muộn màng.

    Từ ly tan, ngày tháng hoang mang, mây trời tóc tang.

    ĐK: Người yêu dấu ơi, sương chiều dâng xóa ngàn thông.

    Mình ta đứng đây nghe hồn thu lắng mênh mông.

    Hồ xưa vẫn xanh trong ngàn sao đêm thương nhớ.

    Nhưng còn tìm đâu dáng hình yêu dấu xa xưa.

    Thương em ngón tay dài mơn man.

    Dư âm tiếng dương cầm đi hoang.

    Thương em đắm linh hồn mong manh.

    Thương em nụ hôn nồng cháy ân tình.

    Đôi tay xiết thêm vòng đam mê.

    Thương em phút trao hồn qua đi.

    Buông lơi chút hương yêu dịu dàng.

    Như sương pha lê trên một cành lan.

    PK: Gọi tình xa vắng đôi bờ.

    Gọi thầm giây phút hẹn hò.

    Chiều thu mưa, đồi núi bơ vơ, mây trời ngẩn ngơ.

    Gọi người, nước mắt chan hòa.

    Gọi ngày vui cũ ngọc ngà.

    Tình dù xa, dù tháng năm qua, xót xa lòng ta”.

    Hình ảnh “Như sương pha lê trên một cành lan” quá tuyệt, tình yêu, người tình như viên ngọc quý trên cành lan (loài hoa được mệnh danh là nữ hoàng của các loài hoa) biểu tượng sự cao quý, cho tình cảm sâu sắc, tình yêu son sắt, chân thành, thủy chung, viên mãn nhưng rất mong manh, hiện hữu trong thời gian ngắn ngủi!

    Vương Trùng Dương, Little Saigon, 10, 2023

  • Khánh Lan,  KÝ SỰ

    BONJOUR PARIS – CHUYẾN DU LỊCH KỲ THÚ

    Khánh Lan

    Trước khi đi Pháp, chúng tôi nhận được một email “Paris đẹp lắm” của ông Nhất Hùng nói rất rõ về một số địa điểm ngoạn mục tại Pháp trong chuyến du lịch Âu Châu của ông. Khánh Lan xin đăng ở phần dưới của bài ký sự này.

    Paris, nơi được mệnh danh là “Kinh Đô Ánh Sáng”, một địa điểm du lịch mà nhiều người trên thế giới ai cũng muốn một lần ghé thăm. Đây là lần thứ tư trở lại Paris nhưng chuyến đi nào cũng để lại trong tôi những kỷ niệm đẹp và khó quên. Trong chuyến đi lần này với nhóm NVNT & TTG, gồm có tất cả 12 người: NV Ngọc Cường & Bích Điệp (Ohio); NV Việt Hải & Lệ Hoa, Thụy Lan, Mạnh Bổng & Khánh Lan (California); Chị Hoàng Loan, Anh chị Tấn Công & Thanh Vân (Viginia), anh chị Vĩnh Cửu & Kim Bạch (Florida). NV Nguyễn Quang cũng đã dự định cùng đi chơi với chúng tôi trong Chuyến này nhưng cuối cùng phải hủy bỏ vì lý do sức khỏe.

    Mạnh Bổng & Khánh Lan, Bạch Kim, Hoàng Loan, Thụy Lan, Ngọc Cường, Vĩnh Cửu, Bích Điệp, Lệ Hoa, Raymond, Việt Hải

    18 tháng 9, 2023: KHỞI HÀNH

    NV Việt Hải & Lệ Hoa, Thụy Lan, Mạnh Bổng & Khánh Lan hẹn gặp nhau tại phi trường Los Angeles lúc 6:00 chiều vì máy bay sẽ cất cánh lúc 9:15 tối. Trong Chuyến bay sang Pháp lần này, chúng tôi được hãng Air France ưu đãi rất đặc biệt nhờ sự có mặt của một nhân vật quan trọng: Đó là NV Việt Hải. Vì NV Việt Hải là ưu tiên nên chúng tôi thẳng tiến lên máy bay mà không phải trải qua những thủ tục xếp hàng lâu lắc.

    Lệ Hoa, Việt Hải, Mạnh Bổng, Khánh Lan

    Sau 11 giờ bay non-stop, chúng tôi đã đến phi trường Charles De Gaulle (CDG). NV Ngọc Cường, chị Bích Điệp, anh Raymond và chị Hoàng Loan đã đến trước và có mặt tại khu lấy hành lý để đón chúng tôi.

    Sau khi lấy hành lý xong, Khánh Lan và Mạnh Bổng đón xe về hotel Le Mesnilamecot. Riêng các anh chị Ngọc Cường, Vĩnh Cửu, Việt Hải, Tấn Công, Hoàng Loan và Thụy Lan mướn Air B&B ở quận 13.

    20 tháng 9, 2024: “CHIỀU THU PARIS VĂN HỌC NGHỆ THUẬT”

    Khánh Lan và Mạnh Bổng đi taxi đến quận 13 để dự buổi HỘI NGỘ CÙNG CÁC VĂN NGHỆ SĨ CLB VĂN HOÁ VIỆT NAM tại Paris (CLBVHVN). “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” – Đó là một ngày mà chúng tôi mong đợi vì các anh chị em nghệ sĩ chúng tôi tại Mỹ và các vị nhà văn tại Paris chỉ liên lạc qua email nhưng chưa một lần gặp mặt trong suốt những năm qua.

    Sự tiếp đón nồng hậu và chu đáo của BTC CLBVHVN tại Paris khiến chúng tôi vô cùng cảm kích bởi nó đã nói lên được mối thân tình và sự kết nối văn học giữa hai nền văn hóa Pháp & Mỹ. Đặc biệt, NV NT Đỗ Bình đã bỏ nhiều công sức cũng như thời gian để tổ chức một buổi họp mặt gần 50 người trong bầu không khí thân mật, ấm cúng, đậm nét đặc trưng và liên kết giữa hai lãnh vực: Văn học và Âm nhạc.

    HỘI NGỘ CÙNG CÁC VĂN NGHỆ SĨ CLB VĂN HOÁ VIỆT NAM tại Paris

    Khai mạc chương trình “ChiềuThu Paris, Văn Học Nghệ Thuật”, MC Dentist Thẩm Thái Hà giới thiệu NT NV Đỗ Bình. Ông ngỏ lời chào các bạn từ Mỹ, đồng thời giới thiệu Ban Chấp Hành CLBVHVN tại Paris gồm các anh chị: Nguyễn Tối Thiện, Nguyễn Thị Phượng Anh, Lê Thị Kim Lan, Nguyễn Mạnh Trí, Trần Minh Răn, Trần Trung Quân, Nguyễn Thị Cung và Đoàn Trần Thiều. Các anh chị thành viên của CLBVHVN gồm: Hoàng Đức Phương, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Đức Tăng, Nguyễn Xuân Trường, Tuyết Mai, Nguyễn Minh Cầm, Thúy Hằng, Đỗ Bình, Nguyễn Bảo Hưng, Trịnh Cơ, Phượng Anh, Thụy Vi, Cát Tưởng và Hồ Bảo Lộc. Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt tại Pháp gồm các vị: Vũ Ngọc Hải, Lê Đức Thọ, Lệ Hằng, Lê Lộc, Trần Thanh Loan, Mai Đỗ, Tuyết Dung.

    NV NT Đỗ Bình

    Theo NV TS Đỗ Bình, số khách mời đến dự tiệc đã được chọn lọc và giới hạn. Tuy nhiên, một số nhà văn hóa Paris rất muốn đến chung vui, nhưng hoặc vì lớn tuổi, ở xa hay đang đi nghỉ hè cùng gia đình, nên không tham dự được.

    NV NT Đỗ Bình khai mạc buổi hội ngộ và giới thiệu Quan khách tham dự

    Tiếp đến là Tiến Sĩ Nguyễn Thị Phượng Anh, Bác Sĩ Nguyễn Tối Thiện và Luật Gia Đoàn Trần Thiều phát biếu cảm Tưởng. NV NT Đỗ Bình cho biết, Tiến Sĩ Phượng Anh là người đã và đang gồng gánh rất nhiều trách nhiệm trong cộng đồng tại Pháp qua nhiều lãnh vực khác nhau, từ Văn hoá đến xã hội. Bà du học và đã sinh sống tại Paris hơn 60 năm. Hiện tại, bà đang chung sống cùng chồng, con và các cháu tại Paris.

    Tiến Sĩ Nguyễn Thị Phượng Anh, Bác Sĩ Nguyễn Tối Thiện và Luật Gia Đoàn Trần Thiều phát biếu cảm Tưởng

    Chương trình tiếp tục với NV Ngọc Cường nói về nhóm TLVD. Kế tiếp, NV Việt Hải phát biểu cảm tưởng và sau đó NV Khánh Lan tường thuật về cơ cấu và sinh hoạt của Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian (NVNT &TTG).

    NV Việt Hải gởi lời chào đến NV NT Đỗ Bình, BTC, các nhà văn hóa Paris và phát biểu cảm tưởng

    NV Ngọc Cường nói về nhóm TLVD

    NV Khánh Lan tường thuật về cơ cấu và sinh hoạt của Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian (NVNT &TTG)

    NV Khánh Lan đúc kết phần nói chuyện bằng bài thơ PARIS HỘI NGỘ. Bài thơ mà Khánh Lan đã viết vội trên máy bay và diễn ngâm trong buổi họp mặt thay cho lời chào và cảm tạ sự tiếp đón nồng hậu và chu đáo của BTC CLBVHVNP. Bài thơ như sau:

    Bây chừ trời chớm vào thu
    Nắng vàng vươn ngõ, vị thi hữu tình
    Sài-Gòn đầy những bạn mình
    Buổi cơm thân mật, bóng hình ngộ tri

    Hàn huyên Pháp-Mỹ văn thi
    Cám ơn bằng hữu Pa-ris đón chào
    Ân tình duyên ngộ gặp nhau
    Đây lời cảm tạ, xin trao mọi người. 

    MERCI PARIS, MERCI BEAUCOUP ATOUS

    Ngay sau đó, NT Lệ Hằng thay mặt BLBVHP tặng lại anh em chúng tôi 4 câu như sau.

    NT Lệ Hằng

    Người từ xứ Mỹ qua đây
    Cho ngày hội ngộ chan đầy quê hương
    Rồi mai người sẽ lên đường
    Để Paris nỗi vấn vương ít nhiều

    Cũng trong dịp này, 3 anh em chúng tôi gồm NV Vương Trùng Dương, NV Việt Hải và NV Khánh Lan được NV NT Đỗ Bình trao tặng tác phẩm “Những Khuôn Mặt Văn Hoá Việt Nam Hải Ngoại” do CLBVHVNP phát hành năm 2022. Khánh Lan cũng biếu NT NV Đỗ Bình hai tác phẩm văn học mới nhất, phát hành trong tháng 06, 2023. Đó là PHÂN TÂM HỌC & ĐỜI SỐNG và TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN của Khánh Lan.

    MC Dentist Thẩm Thái Hà trao tặng tác phẩm “Những Khuôn Mặt Văn Hoá Việt Nam Hải Ngoại”

    Phần I kết thúc với GS Hoàng Đức Phương nói về “Vài nét về văn hóa thuần Việt”, ông cũng không quên tặng mỗi chúng tôi một USB tài liệu về cách sử dụng từ ngữ văn hóa thuần Việt.

    GS Hoàng Đức Phương nói về “Vài nét về văn hoá thuần Việt”

    Trong bữa cơm thân tình giữa CLBVHVN tại Paris & NVNT &TTG, CLBVHVN đã trao tặng cho nhóm chúng tôi một chai rượu nho và chị Thanh Vân đại diện nhóm NVNT & TTG nhận quà. Chị Thanh Vân là phu nhân của anh Tấn Công.

    Chị Thanh Vân đại diện NVNT & TTG nhận chai rượu đỏ do CLBVSVNP tặng

    Bữa cơm thân tình

    NHẠC THÍNH PHÒNG

    Sau bữa cơm trưa là phần nhạc thính phòng gồm hai phần: “Tình thơ trong ý nhạc” và “Những ca khúc về mùa thu Paris qua âm nhạc”.

    NT NV Đỗ Bình nở đầu chương trình với những sáng tác của các vị tiền bối trong thi ca như thơ phổ Nhạc của Pervert, Cung Trần Tưởng, Phạm Duy, Dương Thiệu Tước, v.v… trong phần nhạc mở đầu này, Lệ Hoa & Thụy Lan với nhạc phẩm Bên Nhau Ngày Vui và tiếp theo là 2 bài hợp ca: Trăng Mờ Bên Suối và Lối Về Xóm Nhỏ. Thụy Lan với nhạc phẩm Ngọc Lan, Em Tôi với Đỗ Bình và Tuyết Dung với Thu Hát Cho Người.

    Lệ Hoa & Thụy Lan với nhạc phẩm Bên Nhau Ngày Vui

    Thụy Lan với nhạc phẩm Ngọc Lan

    Em Tôi với Đỗ Bình

    Tuyết Dung với Thu Hát Cho Người.

    Trước khi bước vào phần 2, GS Nguyễn Bảo Hưng giới thiệu vài nét về Paris, nơi từng được mệnh danh là cái nôi của văn hóa trên thế giới. Sau đó, những ca khúc về mùa thu Paris qua âm nhạc được trình diễn qua các giọng ca của Thái Hà-Les Fenilles Mortes, Mạnh Bổng với hai nhạc phẩm Mùa Thu Paris và Autumn Leaves. Thúy Hằng, phu nhân của NT NV Đỗ Bình-Chiều Trên Sông Seine và sau cùng là ca sĩ Kim Thu với Mùa Thu Không Trở Lại.

    Thái Hà-Les Fenilles Mortes

    Mạnh Bổng với hai nhạc phẩm Mùa Thu Paris và Autumn Leaves

    Thúy Hằng, phu nhân của NT NV Đỗ Bình-Chiều Trên Sông Seine

    Kim Thu với Mùa Thu Không Trở Lại

    Chương trình CHIỀU THU PARIS, VĂN HỌC NGHỆ THUẬT bế mạc lúc 5:00 chiều. Mọi người lưu luyến chia tay.  Những máy điện thoại di động loé sáng liên tục ghi lại những kỷ niệm thân thương giữa chúng tôi. Phải chăng PARIS & CALI là những nơi mà người đến sẽ chẳng muốn trở về!

    Tiệc hội ngộ đã tàn, nhưng hình như mọi người vẫn cứ “phớt tỉnh Paris” và tiếp tục thăm hỏi, chuyện trò vui vẻ. Hình như tất cả chúng tôi ở trong tâm trạng “chân chưa muốn bước và tâm chẳng nỡ rời“. Anh chị em chúng tôi và một số Giáo Sư, Văn Thi Sĩ đã ở lại nhà hàng Saigon cho mãi đến gần 6:30 chiều.

    Lưu luyến chia tay: “chân chưa muốn bước và tâm chẳng nỡ rời”

    Rời nhà hàng Saigon, chúng tôi cuốc bộ trên đường Rue des Orteaux để đến nghe các anh chị trong nhóm Tốp ca người ngoại quốc “La chorale des Non-vietnamiens chantant en Vietnamien” hay còn được gọi là F.A.V.I.C, chuyên hát nhạc VN do Luật gia Đoàn Trần Thiều sáng lập (ông từng là thông dịch viên Tòa Thượng Thẩm Paris) và dưới sự hướng dẫn của một nữ giáo sư tiến sĩ người Việt dạy tại trường âm nhạc Paris mà tôi không nhớ tên, cùng với 2 nhạc sĩ Phương Oanh và Vân Anh phụ trách đàn tranh và đàn guitar.

    NhómTốp ca” người ngoại quốc “La chorale des Non-vietnamiens chantant en Vietnamien” hay còn được gọi là F.A.V.I.C, chuyên hát nhạc VN

    Luật gia Đoàn Trần Thiều sáng lập FAVIC

    Hai nhạc sĩ Phương Oanh và Vân Anh

    Điều kiện được gia nhập nhóm “Tốp ca” này rất nghiêm khắc. Hội viên ca sĩ phải là người ngoại quốc mà không phải là người Việt Nam, trừ khi đó là nhạc công. Nhóm FAVIC có khoảng trên dưới 15 người gồm 8 sắc tộc khác nhau: Pháp, Nhật, Ba Lan, Thụy Điển, Hung Gia Lợi, An Giê Ri, Tây Ban Nha, Nam Tư và Bỉ. Họ hát những bài dân ca Việt Nam như Qua Cầu Gió Bay, Trống Cơm, Em Gái Bắc Ninh Anh Trai Biên Hòa, Là Hù Là Khoan hay những bài ca quốc tế như La Paloma, Besame Mucho, Come Back to Sorento, v.v…

    Nhóm FAVIC đang tập hát với giáo sư tiến sĩ người Việt của trường âm nhạc Paris (mặc áo màu xám)

    Chúng tôi nhận thấy khi hát, nhóm FAVIC chia ra làm hai bè: Nam và nữ. Với giọng hát thật uyển chuyển, rất đều và phát âm rõ ràng từng chữ. Và trong đam mê và say đắm, họ tự minh hoạ và biểu diễn dựa theo nội dung của bài nhạc. Họ trình diễn thật ngoạn mục và điệu nghệ như một ban hợp xướng chuyên nghiệp.

    Trong số các thành viên, có cô Maguy là dân bản xứ của đảo Guadeloupe, khi hát cùng các đồng nghiệp cô vừa hát vừa biểu diễn, trông rất độc đáo bởi Cô đã hát với tất cả nhiệt huyết, tâm hồn và niềm đam mê. Điều ấy thể hiện rõ trên nét mặt của cô với đôi tay tự múa, miệng cười như hoa nở và ánh mắt đa tình. Theo chúng tôi thì tất cả các thành viên trong nhóm FAVIC đều hát thật tuyệt vời khiến chúng tôi vô cùng khâm phục.

    Theo Luật gia Đoàn Trần Thiều thì trong vòng 25 năm qua, nhóm tốp ca này đã đi lưu diễn ở nhiều nơi trên nước Pháp và các nước lân cận như Cologne, Franfurt, Munnich, Damstradt, Geneve và các dịp lễ hội. Theo dự định và qua sự giới thiệu của GS NS Lê Văn Khoa, nhóm FAVIC đáng lẽ sẽ đi trình diễn ở Houston, Texas trong chương trình Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi trong năm 2023, nhưng vì đại dịch Covid đã làm trì hoãn mọi sinh hoạt văn học nghệ thuật.

    DẠO PHỐ PARIS- PARIS BY NIGHT

    Quả không sai khi được mệnh danh là “Kinh Thành Ánh Sáng”! Paris By Night đẹp lộng lẫy như một nàng tiên đang khoe sắc, tỏa ánh sáng huy hoàng bao phủ cả bầu trời. Đứng bên kia đường, hàng triệu ánh đèn li-ti từ ngọn tháp Eiffel chiếu lấp lánh, tựa như những vì sao đang nhảy múa trên bức màn nhung đen thẫm tạo nên một nét đẹp lộng lẫy và kiêu kỳ.

    Tối nay, bầu trời Paris thật trong sáng và thời tiết như đãi ngộ anh em chúng tôi. Còn gì thú vị cho bằng tản bộ trên Avenue Des Champs Élysée, tận hưởng và hít thở làn gió thu se se lạnh. Chúng tôi dừng chân chụp vài kiểu hình kỷ niệm ở Arc De Triomphe De L’étoile hùng vĩ…Sau cùng, ghé thăm nhà thờ Notre Dame. Đáng tiếc là nhà thờ còn đang trong tình trạng sửa chữa nên chúng tôi chỉ chụp một tấm hình kỷ niệm phía trước sân của nhà thờ.

    Nhà thờ Notre Dame

    Tháp Eiffel

    Loanh quanh thế mà đã gần 12 giờ đêm. Mọi người cảm thấy đói nên chúng tôi ghé vào một tiệm Café-Brasserie, Le Malakoff, 6 Place du Trocadéro, 75116 PARIS để dùng cơm tối và trở về khách sạn lúc 2:00 giờ sáng ngày 21.

    Café-Brasserie, Le Malakoff, 6 Place du Trocadéro, 75116 PARIS

    Sau buổi “Dạo Phố Paris” cùng nhóm, các anh chị Ngọc Cường, anh chị Vĩnh Cửu, anh chị Việt Hải, anh chị Tấn Công, chị Hoàng Loan và Thụy Lan check-in chuyến du thuyền MSC-Grandiosa để ghé các địa điểm như Spain (Barcelona), Italy (Naples. Genoa, Palermo), France (Marseille), Tunisia. Mạnh Bổng & Khánh Lan không chọn chuyến du thuyền MSC-Grandiosa với các anh chị trong nhóm vì chúng tôi đã đi qua tuyến đường này trong tháng 04, 2023 cùng với 4 người bạn cũng trong nhóm NVNT & TTG gồm Ngọc Châu, Đức Hạnh, Kim Hương và Quốc Dân trên du thuyền Royal Caribbean, Symphony of The Sea (Xin kèm theo dưới đây vài tấm hình về những địa danh mà chúng tôi đã đi qua).

    Check-in Royal Caribbean Cruise, Symphony of The Sea (April 2023 trip)

    Marseille: Kim Hương, Khánh Lan, Đức Hạnh, Ngọc Châu (April 2023 trip)

    Naples, Italy: Quốc Dân, Kim Hương, Đức Hạnh, Khánh Lan, Mạnh Bổng (April 2023 trip)

    Florance: Mạnh Bổng & Khánh Lan (April 2023 trip)

    Florance: Mạnh Bổng, Khánh Lan, Đức Hạnh, Kim Hương, Quốc Dân

    Saint Peter’s Square & Vatican City, Rome (April 2023 trip)

    Colosseum, Rome: Đức Hạnh, Ngọc Châu, Kim Hương, Khánh Lan

    Blue City, Morocco (April 2023 trip)

    Hill Church of Barcelona (April 2023 trip)

    The Sagrada Familia, Barcelona, (April 2023 trip)

    The Gaudi Park, Barcelona, Spain

    Leaning Tower of Pisa, Italy

    21 tháng 9, 2023. Sáng ngày 21, tiếng gõ cửa của người dọn phòng khiến chúng tôi (Mạnh Bổng & Khánh Lan) choàng tỉnh. Đồng hồ điểm 9:00 sáng nên chúng tôi chỉ kịp ăn sáng, dọn hành lý, rồi gọi taxi ra Gare de Lyon đi Marseille. Chỉ cần chậm một tíc-tắc nữa là chúng tôi bị trễ chuyến tàu đi Marseille!

    Đến Gare de Saint-Charles, Marseille lúc 4:00 chiều, chúng tôi gọi taxi về Écale Villa Chambres d’hôtes, 1 rue Bernard Hinault, 13700 Marignane, cách khoảng 30 phút đi taxi từ Gare de Saint-Charles. Marignane là một thành phố nhỏ cách Marseille khoảng 2 miles, nhưng nằm tại vùng ngoại ô nên vắng vẻ và buồn hiu. Nhìn quanh không thấy tiệm ăn nào, nên chúng tôi chỉ ăn tối qua loa rồi lên giường ngủ để chuẩn bị ra bến tàu sáng sớm hôm sau.

    Gare de Saint-Charles, Marseille

    22 tháng 9, 2023. Sáng hôm sau, Mạnh Bổng & Khánh Lan thuê taxi ra bến tàu, “check-in” du thuyền MSC-Seashore khoảng 1:00 chiều. Đây là chuyến du hành qua 6 cảng bắt đầu từ Marseille (France), Genoa, Civitavecchia & Palermo (Italy), Ibiza & Valencia (Spain).

    Mạnh Bổng & Khánh Lan

    Ngày 23 tháng 9: 2023, TRÊN DU THUYỀN MSC-SEASHORE

    Có thể nói, không một du thuyền nào giống du thuyền nào về phong cách cũng như hệ thống thiết kế. Nếu so sánh du thuyền Royal Caribbean-Symphony Of The Sea với du thuyền MSC-Seashore thì sự khác biệt rất rõ. Symphony Of The Sea là một trong 5 du thuyền lớn và mới nhất của hãng Royal Caribbean sau Icon Of The Sea vừa mới khai trương đầu năm 2023. Tuy nhiên, phương cách trang trí và cơ cấu trên du thuyền MSC-Seashore cũng có những đặc điểm hay và lạ mắt như sân khấu, bar rượu, quán ăn, v.v…

    Bar rượu

    Sân khấu s 4 tầng-Piano biểu diễn ở tầng số 1

    Sân khấu trình diễn ca nhạc ở tầng số 2.

    The White Night-Dancing all night

    The Captain party là ngày mà du thuyền lênh đênh trên biển gần hai ngày. Hôm ấy, Captain sẽ chụp hình và khiêu vũ với mọi người. Đây là ngày mà “phái đẹp” có dịp diện áo đẹp, ăn tối, nhảy đầm và chụp hình. Chúng tôi cũng đóng bộ và đi chụp vài kiểu hình để làm kỳ niệm.

    The Captain party night

    Du lịch vòng quanh trái đất qua phin ảnh…

    Đây là lần đầu chúng tôi đi trên du thuyền MSC, chúng tôi nhận thấy phần lớn du khách trên du thuyền MSC là người gốc Ý hay Tây Ban Nha nên họ rất ồn ào và thiếu nguyên tắc cũng như không tuân theo luật lệ căn bản và cần thiết như xếp hàng vào lấy thức ăn hoặc khi dùng căn phòng vệ sinh, v.v…

    Nhân viên trên du thuyền chào tạm biệt du khách

    Dịch vụ trên du thuyền MSC tốt nhưng thực phẩm thì không được ngon và không có nhiều lựa chọn như các du thuyền khác (Royal Caribbean, Celebrity hay Holland America, v.v…). Hơn thế nữa, hầu hết tất cả mọi thứ trên du thuyền đều phải trả tiền thêm như coi movie (9 euros cho mỗi phim); thậm chí, nước giải khát như nước trà, nước ngọt đều phải mua – ngoại trừ nước lạnh. Tuy nhiên về lãnh vực giúp vui giải trí thì rất phong phú, nếu không muốn nói là xuất sắc. Mỗi tối đều có show mới như:

    • MYSTIC FOREST là một hành trình cổ xưa của Good vs Evil

    • COAST TO COAST: Trong show này, các ca sĩ có cơ hội góp phần trình diễn của họ vào âm nhạc của Hoa Kỳ.

    • PAZ là linh hồn của Flamenco và nghệ thuật kỳ diệu của hoạ sĩ Pablo Picasso.

    • FRENCH FOLLIES là nghệ thuật sân khấu của những nghệ nhân gồm ca, vũ, nhạc.

    • GRAVITY là những kỹ thuật nhào lộn và giữ quân bằng, một kỹ năng rất cần thiết của người trình diễn chống lại trọng lực.

    • ALLEGRO là trung tâm điểm của Địa Trung Hải tuyệt vời, là đặc trưng về văn hoá, ca múa và âm nhạc của những địa danh mà được nhiều người trên thế giới yêu thích.

    • BEAUTIFUL CELEBRATION là màn trình diễn rất đặc biệt mở đầu cho chương trình giải trí của du thuyền MSC với các nữ Ca Sĩ từ The Broadway Diva’s cùng những màn minh họa tuyệt vời của các Vũ Công.

    THĂM THÀNH PHỐ GENOA, CIVITAVECCHIA & PALERMO (ITALY)

    Thuyền nhổ neo ở Hải Cảng Marseille, France, địa điểm đầu tiên du thuyền MSC-Seashore dừng lại là Genoa.

    Genoa (Genova) là một thành phố cảng và là thủ phủ của vùng Liguria phía tây bắc nước Ý. Genoa là trung tâm thương mại hàng hải trong nhiều thế kỷ. Từ những con đường hẹp được mở rộng ra thành những quảng trường lớn như Piazza de Ferrari, nơi có đài phun nước bằng đồng và nhà hát opera Teatro Carlo Felice.

    Thị trấn Genoa nhìn từ bacony cabin của du thuyền

    Dạo phố Genoa

    Dạo phố Genoa

    • Nhà thờ St. Lorenzo Ruiz Catholic PARISH COMMUNITY tọa lạc trong khu phố cổ, đươc xây dựng theo phong cách La Mã, với mặt tiền sọc đen trắng và nội thất được trang trí bằng tranh bích họa. Thánh Lorenzo Ruiz là người Philippines đầu tiên được tôn kính trong Giáo hội Công giáo La Mã. Là người Philippines gốc Hoa gốc, ông trở thành vị tử đạo đầu tiên của đất nước sau khi bị Mạc phủ Tokugawa hành quyết trong cuộc đàn áp những người theo đạo Cơ đốc Nhật Bản vào thế kỷ 17.

    Thánh Lorenzo Ruiz sinh ra ở Binondo, Manila, cha là người Trung Quốc và mẹ là người Philippines, cả hai đều là người Công giáo. Khi còn trẻ, Lorenzo Ruiz từng là cậu bé giúp lễ tại Nhà thờ Binondo. Ông theo học với các tu sĩ Đa Minh và sau một vài năm, Lorenzo Ruiz đã giành được danh hiệu nhà thư pháp nhờ tài viết lách điêu luyện của mình. Lorenzo Ruiz trở thành thành viên của Hiệp hội Mân Côi Rất Thánh.    

    Bên trong nhà thờ St. Lorenzo Ruiz

    Lorenzo Ruiz kết hôn với Rosario và họ có hai con trai và một con gái. Gia đình Lorenzo Ruiz có một cuộc sống yên bình, hạnh phúc và tôn thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi đang làm thư ký cho Nhà thờ Binondo, Lorenzo Ruiz đã bị buộc tội giết một người Tây Ban Nha, vì thế, Lorenzo Ruiz xin tị nạn trên một con tàu với sự giúp đỡ của ba linh mục Đa Minh.  

    Lorenzo Ruiz và một số bạn bè của ông rời đến Okinawa vào ngày 10 tháng 6 năm 1636, với sự giúp đỡ  của các cha Đa Minh. Khi đến Nhật Bản, các nhà truyền giáo đều bị bắt và tống vào tù. Sau hai năm, họ bị chuyển đến Nagasaki để xét xử bằng hình thức tra tấn. Ngày 27 tháng 9 năm 1637, Lorenzo Ruiz và những người bạn đồng hành bị đưa đến Đồi Nishizaka, nơi họ bị tra tấn và treo ngược. Phương pháp này cực kỳ đau đớn, vì nạn nhân bị trói, một tay luôn được thả tự do để họ có thể ra hiệu muốn rút lui, điều đó sẽ dẫn đến việc họ được thả. Nhưng Lorenzo Ruiz không chịu từ bỏ Cơ đốc giáo và chết vì mất máu và ngạt thở. Thi thể của Lorenzo Ruiz được hỏa táng và tro ném xuống biển.

    Lorenzo Ruiz được phong chân phước bởi một sử gia đáng kính, Cha Fidel Villarroel và Lorenzo Ruiz đã được phong chân phước trong chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II khi Ngài đến Philippines. Đây là lễ phong chân phước đầu tiên được tổ chức bên ngoài Vatican trong lịch sử. Thánh Lorenzo Ruiz được phong thánh bởi cùng một vị giáo hoàng tại Vatican vào ngày 18 tháng 10 năm 1987, khiến Thánh Lorenzo Ruiz trở thành vị thánh đầu tiên của người Philippines. Việc phong thánh cho Thánh Lorenzo Ruiz dựa trên một phép lạ xảy ra vào năm 1983, khi Cecilia Alegria Policarpio, một bé gái hai tuổi mắc chứng teo não bẩm sinh đã được chữa khỏi sau khi gia đình và những người ủng hộ bé cầu nguyện xin Thánh Lorenzo Ruiz chuyển cầu.

    Ở Chicago, Thánh Lorenzo Ruiz được thờ tại Nhà thờ Old St. Mary.

    Mặt tiền của nhà thờ San Lorenzo, phía chân một cột trụ bên phải của nhà thờ, có hình tượng của một con chó đang nằm ngủ dưới chân cột, có lẽ nó đã được bàn tay khéo léo của một điêu khắc gia nào đó, đẽo cắt, rồi đặt vào chỗ ấy, mà mắt thường khó có thể nhận ra nếu không được ai chỉ cho thấy.  

    Civilitavecchia tọa lạc tại Lazio. Civilitavecchia là một thị trấn ven biển phía tây bắc Rome, Ý. Được xây dựng vào thế kỷ thứ 2, cảng Civilitavecchia có một số đặc điểm như Bến tàu La Mã, Pháo đài Michelangelo thế kỷ 16. Pháo đài Michelangelo không chỉ là một trong những biểu tượng của Civitavecchia mà còn là một trong những công trình kiến trúc quan trọng nhất của bờ biển Lazio. Gần đó, Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia trưng bày các hiện vật bằng đồng và gốm. Phía đông bắc thị trấn là Terme Taurine, tàn tích của khu tắm nước nóng La Mã.

    Cảng Civilitavecchia

    Phố Civilitavecchia

    Phố Civilitavecchia

    • Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô Assisi (tiếng Ý: Basilica di San Francesco d’Assisi; tiếng Latin: Basilica Sancti Francisci Assisiensis) là nhà thờ của Dòng tu sĩ Công giáo La Mã nhỏ ở Assisi, một thị trấn ở vùng Umbria ở miền trung nước Ý, nơi Thánh Phanxicô sinh ra và qua đời. Đây là một tiểu vương cung thánh đường của giáo hoàng và là một trong những địa điểm quan trọng nhất của cuộc hành hương Kitô giáo ở Ý. Với tu viện đi kèm, Sacro Convento, vương cung thánh đường là một địa danh đặc biệt đối với những người đến sinh sống ở Assisi. UNESCO công nhận là Di sản Thế giới từ năm 2000.

    Parrocchia Cattedrale San Francesco Assisi

    Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô Assisi được khởi công xây vào năm 1228, bên sườn đồi bao gồm hai nhà thờ gọi là Nhà thờ Thượng,Nhà thờ Hạ và một hầm mộ, nơi an táng hài cốt của các vị thánh. Riêng nội thất của Nhà thờ Thượng có phong cách Gothic ở Ý. Nhà thờ Thượng và Hạ được trang trí bằng những bức bích họa của nhiều họa sĩ cuối thời trung cổ, các trường phái La Mã và Tuscan. Đồng thời bao gồm các tác phẩm của Cimabue, Giotto, Simone Martini, Pietro Lorenzetti và có thể cả Pietro Cavallini. Phạm vi và chất lượng của các tác phẩm mang lại cho vương cung thánh đường một tầm quan trọng và đặc biệt trong việc thể hiện sự phát triển vượt bậc của nghệ thuật Ý trong thời kỳ này.

    Bên trong Parrocchia Cattedrale San Francesco Assisi

    Palermo là thủ đô của đảo Sicily, Ý. Vì lý do văn hóa, nghệ thuật và kinh tế, Palermo là một trong những thành phố lớn nhất ở Địa Trung Hải và hiện là một trong những điểm đến du lịch hàng đầu ở cả Ý và Châu Âu. Nhà thờ Palermo từ thế kỷ 12 có lăng mộ hoàng gia, trong khi Teatro Massimo tân cổ điển khổng lồ nổi tiếng với các buổi biểu diễn opera. Ở trung tâm thành phố có Palazzo dei Normanni, một cung điện hoàng gia được xây dựng từ thế kỷ thứ 9 và Cappella Palatina với những bức tranh khảm Byzantine. Các khu chợ sầm uất bao gồm chợ đường phố tọa lạc tại trung tâm Ballarò và Vucciria… Di sản Thế giới UNESCO công nhận Arab-Norman Palermo và Nhà thờ lớn Cefalù và Monreale.

    Cảng Palermo

    Phố Palermo

    • Chợ đường phố trung tâm Ballarò và Vucciria rất vui, đông người, nhộn nhịp và bán đủ mọi thứ từ thực phẩm, hải sản, rau củ và có cả bán thức ăn đã nấu sãn.

    Chợ đường phố trung tâm Ballarò và Vucciria

    Quầy rau củ quả

    Thức ăn đã nấu sãn

    THĂM THÀNH PHỐ IBIZA & VALENCIA (SPAIN)

    Ibiza là một trong những hòn đảo nhỏ nhất trong quần đảo Balearic, Tây Ban Nha ở biển Địa Trung Hải nơi có nền văn hóa phong phú lấy những gì tốt nhất từ ​​Tây Ban Nha và pha trộn với lối sống Balearic độc đáo của riêng mình. Ibiza nổi tiếng với cuộc sống về đêm sôi động ở Thị trấn Ibiza và Sant Antoni, nơi các câu lạc bộ đêm lớn ở châu Âu. Nhưng trong đất liền, quang cảnh thực vật tươi tốt, những ngôi làng yên tĩnh, các khu tập yoga. Dọc theo bờ biển là những vùng trời ngập nắng với bầu không khí trong lành. Từ Platja d’en Bossa với dãy khách sạn, quán bar và cửa hàng cho đến những vịnh cát yên tĩnh hỗ trợ bởi những ngọn đồi phủ thông xung quanh bờ biển. Ibiza được công nhận là di sản Thế giới UNESCO.

    Dọc theo bờ biển với dãy khách sạn, quán bar và cửa hàng

    • Phố cổ ở Ibiza còn biết đến là Dalt Vila, có nghĩa là thị trấn Thượng lưu (Upper Town).  Dalt Vila là một thành phố nhỏ được bao bọc trong một pháo đài cổ từ thế kỷ 16 và là một Di sản UNESCO. Trên đỉnh một ngọn đồi, Dalt Vila là điểm thu hút văn hóa chính trên đảo, với những thánh đường đẹp và lớn, những con đường lát đá, bảo tàng, nhà hàng, tu viện, cửa hàng, quảng trường xinh, v.v… Một số khu vực trông giống như những ngôi làng trắng nổi tiếng ở Andalucia, những khu vực khác trông giống một lâu đài và những khu vực khác vẫn trông giống như một khu phố bình thường.

    Thị trấn Thượng lưu (Upper Town), Dalt Vila

    Cổng Thị trấn Thượng lưu (Upper Town), Dalt Vila

    Nhà thờ Ibiza

    • Thị trấn mới là nơi có các tòa nhà sáng sủa và đầy màu sắc, cây cối tươi tốt và các cửa hàng bán mọi thứ, từ thời trang địa phương và cổ điển, đến đồ lưu niệm truyền thống được bày tràn ra đường.

    Valencia là thủ đô của cộng đồng tự trị Valencia, là đô thị đông dân thứ ba ở Tây Ban Nha và là trung tâm thành phố trở sản xuất tơ lụa lớn vào thế kỷ 18. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, thành phố này từng là trụ sở tình báo của người Tây Ban Nha.

    Nằm trên bờ biển phía đông của Tây Ban Nha, thành phố 2000 năm tuổi này tự hào có những bãi biển rộng, kiến trúc đẹp, khung cảnh ẩm thực và văn hóa náo nhiệt. Đây là thành phố lớn thứ ba ở Tây Ban Nha, các điểm du lịch chính bao gồm nhà thờ, Trung tâm Mercado và Lonja de la Seda được UNESCO công nhận.

    Trên sân thượng của Valencia’s City Hall

    Bên trong của Valencia’s City Hall

    Dạo quanh thành phố Valencia

    Chợ Valencia

    Người Valencia thích tiệc tùng, Las Fallas thành phố được biết đến nhiều nhất vì một lễ hội hoang kéo dài năm ngày vào tháng 3. Khi những con rối giấy bồi khổng lồ được rước qua các đường phố và sau đó đem đốt cháy. Vào dịp Lễ hội hóa trang vào tháng 2 thì thành phố trở nên sống động với các bữa tiệc trên đường phố, có bắn pháo hoa và diễn hành. Những người ái mộ âm nhạc thường đến tham dự Festival de les Arts kéo dài hai ngày, với sự tham gia của các nhạc sĩ trong nước và quốc tế, nghệ thuật hiện đại và ẩm thực sáng tạo.

    Lễ hội hoang kéo dài năm ngày vào tháng 3

    Festival de les Arts

    Sau 7 ngày du hành trên biển, chúng tôi rời du thuyền MSC và thuê taxi về Greet Hotel Marseille ăn tối và nghỉ ngơi.

    Ngày 30 tháng 9, 2023-Sáng hôn nay, chúng tôi mướn taxi từ Greet Hotel Marseille với giá 300 Euros cho 5 tiếng (từ 11:00 sáng-4:00 chiều) để đi thăm 2 thành phố:

    SALON-DE-PROVENCE VÀ AIX-EN PROVENCE

    Salon-de-provence là một thành phố nhỏ, hiền hoà và yên tĩnh, năm 2017, có 45.528 dân số. Salon-de-Provence, thường gọi là Salon, là một xã nằm cách Marseille khoảng 52 km về phía tây bắc, thuộc tỉnh Bouches-du-Rhône, vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur, miền Nam nước Pháp. Đây là nơi đặt căn cứ không quân quan trọng của Lực lượng Không quân và Vũ trụ Pháp.

    • Château de l’Empéri Salon de Provencelà một lâu đài từ thế kỷ thứ 9 được xây dựng trên đá Puech, thống trị vùng đồng bằng rộng lớn Crau thuộc xã Salon-de-Provence thuộc tỉnh Bouches-du-Rhône của Pháp. Nó được Bộ Văn hóa Pháp liệt kê là di tích lịch sử từ năm 1956. Lâu đài là nơi ở của các tổng giám mục Arles cũng như các hoàng đế La Mã Thần thánh. Sau này, lâu đài có tên là Đế chế bao gồm bờ Đông của sông Rhône. Trong năm 1481, vào thời điểm giao nhau với Provence, nó nằm dưới quyền lực của các vị vua Pháp. Trong thế kỷ 15 và 16, Château de l’Empéri được sử dụng làm nhà tù và doanh trại sau thời Cách mạng.

    Château de l’Empéri bị hư hại nặng nề bởi trận động đất vào năm 1909, các tòa nhà đã được Di tích Lịch sử khôi phục trong năm 1926 và là nơi đặt bảo tàng của Salon, hiện nay trở thành bảo tàng Nghệ thuật và Lịch sử Quân đội. Trong Empéri có nhiều vị vua và hoàng hậu của Pháp. Francis I và triều đình của ông, Louis XIV. Năm 1660, Catherine de’ Medici đến hỏi ý kiến Nostradamus, nhà chiêm tinh nổi tiếng đã dự đoán ngai vàng cho ba người con trai của bà và sự lên ngôi của cháu trai bà, vị vua tương lai Henri IV.

    Lâu đài chứa đựng những hình ảnh đại diện trung thực của các quân đoàn khác nhau từ Chiến tranh Napoléon cho đến ngày nay trong bảo tàng của nó. Bảo tàng còn có bản sao chiếc giường của Napoléon I tại Saint Helena. Cùng với moussue Fontaine và Nostradamus, lâu đài đã trở thành biểu tượng của thành phố.

    Aix-en provence là một thành phố đại học ở vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur ở miền nam nước Pháp. Đây là nơi sinh của họa sĩ trường phái hậu ấn tượng Paul Cézanne. Con đường đi bộ nối các địa điểm bao gồm ngôi nhà thời thơ ấu của ông, Jas de Bouffan, và xưởng vẽ cũ của ông, Atelier Cézanne. Ngọn núi đá vôi trắng Sainte-Victoire nhìn ra thành phố cũng như vùng nông thôn xung quanh là chủ đề thường xuyên trong các tác phẩm của ông.

    Aix-en-Provence nổi tiếng với kiến trúc tuyệt đẹp, trong đó có Cathédrale Saint-Sauveur, một nhà thờ theo phong cách La Mã-Gothic có niên đại từ thế kỷ thứ 5. Aix-en-Provence thường được gọi là “Thành phố của ngàn đài phun nước” do có rất nhiều đài phun nước nằm khắp thành phố. Vào năm 122 trước Công nguyên, người La Mã đã từ bỏ cao nguyên Entremont và định cư tại một địa điểm có các dòng suối đang sủi bọt: Aquae Sextiae (vùng nước của Sextius) đã ra đời. Sau khi trở thành thuộc địa của La Mã, thị trấn là bước đệm giữa Ý và Tây Ban Nha, đồng thời phát triển thành một trung tâm đô thị và spa.

    Khác hẳn với Salon-de-provence, Aix-en provence rất vui và nhộn nhịp với những hàng quán mọc lên san sát nhau. Du khách đến thăm thành phố khá đông. Đây là thành phố du lịch mà trước kia những người Pháp giàu có ở Paris thường đến đây để nghỉ mát. Lối kiến trúc tại thành phố này tuy cổ kính nhưng được bảo trì kỹ và thường xuyên nên rất sạch sẽ, đẹp mắt và lôi cuốn khách thưởng ngoạn

    Ngày 01 tháng 10, 2023-Hôm nay là ngày Chủ Nhật, chúng tôi thuê taxi đi Marseille với giá 110 euros để chở chúng tôi đến downtown của Marseille lúc 10:30 sáng và đón chúng tôi về lại hotel lúc 4 giờ chiều. 

    Marseille là một thành phố cảng ở miền nam nước Pháp và là ngã tư của người nhập cư và thương mại kể từ khi được người Hy Lạp thành lập vào khoảng năm 600 trước Công nguyên. Vieux-Port là nơi những người bán cá, đó là sản phẩm mà họ đánh bắt được nên dọc theo bến cảng có nhiều thuyền. Marseille được biết đến với những bãi biển tuyệt đẹp, văn hóa và lịch sử phong phú. Marseille là một trong những thành phố sôi động và thú vị nhất ở Pháp. Từ người Hy Lạp cổ đại đến các nghệ sĩ và nhạc sĩ thời hiện đại, Marseille là nơi có nhiều nền văn hóa và ảnh hưởng đa dạng đã hình thành nên nét độc đáo của thành phố này.

    Được người Hy Lạp và La Mã cổ đại gọi là Massalia, Marseille là trung tâm thương mại quan trọng nhất trong khu vực và là cảng thương mại chính của Cộng hòa Pháp. Marseille hiện là thành phố lớn nhất của Pháp trên bờ biển Địa Trung Hải và là cảng lớn nhất cho tàu thương mại, vận chuyển hàng hóa và du lịch. Cái tên Marseille có nghĩa là “một nơi được bảo vệ” nhưng điều này không hoàn toàn chắc chắn. Thành phố được thành lập bởi các thương nhân Hy Lạp từ Phocaea vào thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên ban đầu được gọi là Phokaia. Nó nhanh chóng trở thành một trung tâm thương mại quan trọng và là đối thủ của Carthage.

    Thành phố phát triển từ Cảng Vieux (Tên Cũ) và tàu đã cập cảng ở đó gần 3000 năm. Nhờ thương mại phát đạt, Marseille vẫn độc lập trong một thời gian dài. Mãi cho đến khi vua Louis XI thừa kế Marseille, sau cái chết của René d’Anjou (Bá tước Provence), thành phố này mới trở thành một phần của Pháp. Được biết đến với những bãi biển tuyệt đẹp, lịch sử phong phú và văn hóa sôi động, Marseille là một trong những thành phố sôi động và thú vị nhất ở Pháp. Từ người Hy Lạp cổ đại đến các nghệ sĩ và nhạc sĩ thời hiện đại, Marseille là nơi có nhiều nền văn hóa và ảnh hưởng đa dạng đã hình thành nên nét độc đáo của thành phố.

    Hải cảng Marseille

    Ngày nay, Hải cảng Marseille là một Hải cảng quốc tế nổi tiếng trên thế giới về lãnh vực xuất nhập cảng hàng hóa, giao thông cũng như vận chuyển bằng đường biển của các thương thuyền. Mặc dù ngày nay, Hải cảng Marseille không còn được ưa chuộng và thông dụng nhiều như trước vì phương cách vận chuyển bằng đường hàng không thịnh hành hơn phương cách vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, hiện nay, cảng Marseille lại trở thành một trong những bến đậu tấp mập của nhiều du thuyền và là địa điểm du lịch hấp dẫn, thu hút đa số du khách yêu thích đường hướng thưởng ngoạn và ngắm cảnh bằng đường biển. (GS Dương Ngọc Sum trước đây cũng có viết về Hải Cảng Marseille)

    Vì là ngày lễ nên một số cửa hàng thương mại đóng cửa, nhưng không vì thế mà phố phường kém vui và thiếu phần nhộn nhịp… Đường phố vẫn đông người qua lại và các quán ăn vẫn đầy thực khách. Đây là lần thứ hai chúng tôi trở lại Marseille. Trong lần trước, cách đây 5 tháng, du thuyền Royal Caribbean chỉ dừng lại Marseille có một ngày nên chỉ đủ đi city tour-cable car và đi shopping chút đỉnh là hết giờ. Lần này, chúng tôi quyết định ở lại thành phố Marseille thêm 3 ngày nữa để có đủ thời gian khám phá và tìm hiểu thêm về tầm vóc quan trọng của Hải cảng Marseille với một thời vang bóng.

    Hải Cảng Marseille hôm nay nhộn nhịp hơn những ngày thường. Từ 9 giờ sáng, các quán bar, tiệm cà-phê, nhà hàng đã chuẩn bị bàn ghế, thực phẩm để đón khách đến ủng hộ trận đấu World Cup 2023-WALLABIS de RUGBY. Những chiếc áo thun màu xanh rêu đậm với huy hiệu của 2 đội được các “khách ngưỡng mộ” của họ mặc trên người và đi tràn ngập đường lối. Những lá cờ màu xanh, đỏ, vàng tượng trưng cho mỗi đội tung bay trong gió, trông thật vui mắt.

    “Khách ngưỡng mộ” đội banh WALLABIS

    Vì thế mà con đường chính của trung tâm thành phố Marseille, ngay trước bến tàu tràn ngập người, vừa khách du lịch lẫn dân bản xứ vì 2 lý do:

    Hôm nay, con đường chính của trung tâm thành phố Marseille tràn ngập người vì ngoài Trận đấu World Cup 2023-WALLABIS de RUGBY giữa hai đội banh Australia & Portugal. (WALLABIS de RUGBY là một bộ môn thể thao giống như Football của Mỹ nhưng cái khác biệt là các cầu thủ của đội banh WALLABIS không đội mũ an toàn trong trận đấu).

    Trận đấu World Cup 2023-WALLABIS de RUGBY

    Những chiếc áo thun màu xanh rêu đậm với huy hiệu của 2 đội được các “khách ngưỡng mộ” của họ mặc trên người và đi khắp phố và phía dưới là những poster quảng cáo và ủng hộ đội banh WALLABIS de RUGBY.

    Ngoài ra còn có một cuộc biểu tình phản đối một vấn đề nào đó, liên quan đến nhà nước giữa hai phe bảo thủ và cấp tiến. Vì thế đường phố rất ồn ào, náo nhiệt bởi tiếng hô hào quá lớn qua microphone. Trên nhiều góc phố, chúng tôi nhận thấy có khoảng 30 tới 35 cảnh sát viên suất hiện với vũ trang trên người, có lẽ để bảo vệ sự an toàn cho người dân và du khách.

    • Saint-Vincent-De-Paul Churchnằm ở phía trên Canebière, ở quận Thiers, địa chỉ là 2-3 Cours Franklin Roosevelt, một đại lộ được đặt theo tên của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt (1882–1945). Saint-Vincent-De-Paul Church được xây dựng trên một tu viện và nhà nguyện đã bị phá hủy của những người theo đạo Augustinô Cải cách, điều này giải thích tại sao nó thường được gọi là “Les Réformés” mặc dù là một nhà thờ Công giáo La Mã. Nhà nhà thờ được thiết kế bởi kiến trúc sư François Reybaud và tu viện Joseph-Guillaume Pougnet, xây dựng từ năm 1855 đến năm 1886.

    Saint-Vincent-De-Paul Church

    Saint-Vincent-De-Paul Church mang phong cách tân Gothic, với các lề đường hình ogival trên trần nhà. Các kiến trúc sư lấy cảm hứng từ Nhà thờ Reims và Nhà thờ Amiens. Hai mũi tên cao 70 mét. Cổng đồng được thiết kế bởi Caras-Latour, bàn thờ cao được thiết kế bởi Jules Cantini (1826-1916), và cửa sổ màu được thiết kế bởi Édouard Didron (1836-1902). Ngoài ra, nhà điêu khắc Louis Botinelly (1883-1962) đã thiết kế các bức tượng của Joan of Arc và của Chúa Giêsu. Về phần ống đàn organ, chúng được chế tạo bởi Joseph Merklin (1819–1905).

    • Ẩm thực của Marseille: Trời hôm nay dịu mát nên rất thích hợp cho việc đi dạo phố và ngắm cảnh, thưởng thức những món ăn thuần túy của Marseille. Ẩm thực của Marseille không có gì đặc sắc nếu đem so với các vùng khác của Pháp. Từ món cá truyền thống đến súp rau tươi, từ trứng cá muối Provençal đến bánh ngọt, bánh trái cây, v.v…Tuy nhiên, những đặc sản ẩm thực truyền thống ấy đã trở thành huyền thoại ở thành phố Marseille và chúng sẽ làm hài lòng vị giác của mọi du khách.

    • Basilique Notre-Dame-de-la-Garde là một nhà thờ theo phong cách La Mã-Byzantine. Notre Dame de la Garde cao 157 mét, một khung cảnh ngoạn mục của toàn bộ thành phố Phocaean. Notre Dame de la Garde nằm trên ngọn đồi cao nhất gần Cảng Marseille. Tháp chuông của Notre Dame de la Garde cao 41 mét. Tượng Đức Mẹ Maria thống trị vương cung thánh đường bằng vàng dài 11,20 mét và nặng gần 9.796 kg! Nó được sản xuất bởi công ty Christofle và cần được mạ vàng 500 gram vàng mỗi 1/4 thế kỷ. Bên trong, kích thước trở nên khiêm tốn hơn: gian giữa dài 32,7 mét và rộng 14 mét. Nhà thờ có sức chứa 3.000 chỗ ngồi và hướng ra biển. Các nhà nguyện có kích thước 3,8 mét x 5,4 mét. Notre Dame de la Garde hoàn tất sau 40 năm xây cất. Nhà thờ có sức chứa 3.000 chỗ ngồi và hướng ra biển

    Lịch sử Notre Dame de la Garde bắt đầu từ “Bonne Mère” được biết đến với cái tên “La Bonne Mère”, được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1214 – lúc đó La Bonne Mère là một nhà nguyện nhỏ, xây dựng lại vào thế kỷ 15 trước khi bị phá hủy lần thứ hai vào năm 1853, để nhường chỗ cho một vương cung thánh đường lớn hơn với mục tiêu là có một nơi đủ rộng để chứa những người hành hương ngày càng đông. Bên trong nhà thờ, các vật liệu xây cất là đá cẩm thạch trắng từ Carrara và đá cẩm thạch đỏ từ Brignoles cùng với đồ khảm theo phong cách Byzantine. Dưới vương cung thánh đường, hầm mộ được đào thẳng vào đá, được hoàn thành trước vương cung thánh đường. Sự khác biệt về phong cách giữa hầm mộ và vương cung thánh đường: Vương cung thánh đường với lối trang trí rất phong phú và bằng vàng, trong khi hầm mộ và lối trang trí rất trang nhã, không có tranh vẽ hay trang trí vật gì.

    Basilique Notre-Dame-de-la-Garde

    Ngày 2 tháng 10, 2023-Trong chuyến xe lửa trở lại Paris, nhóm chúng tôi gặp lại nhau lúc 2 PM tại Gare Marseille, Saint Charles để cùng nhau về lại Paris. Riêng NV Ngọc Cường cùng vợ là chị Bích Điệp sẽ lấy xe lửa đi Toulouse thăm bạn. Anh chị Vĩnh Cửu & Bạch Kim sẽ tiếp tục chuyến du hành vùng Western Europe từ Gare Marseille Saint Charle. Phần còn lại thì cùng chúng tôi đi xe lửa về Paris. 

    Gare Marseille, Saint Charles

    Sau hơn 3 tiếng, xe lửa đến Gare De Lyon lúc 5:30 chiều. Chúng tôi lại chia tay mỗi người một ngả.  Đến Gare De Lyon, Mạnh Bổng & Khánh Lan lấy taxi về Le Mesnilamecot Hotel. Anh chị Tấn Công & Thanh Vân mướn phòng tại một nhà dòng ở Paris; NV Việt Hải, Lệ Hoa, Hoàng Loan và Thụy Lan sẽ đi thăm bạn ở Paris. Riêng NV Việt Hải và Lệ Hoa sẽ ở lại Paris cho đến tháng 10 ngày 09 để viếng thăm thành phố Bordeaux, một nơi nổi tiếng về rượu vang, trước khi trở về Mỹ. Mạnh Bổng & Khánh Lan sẽ ở khách sạn tại vùng ngoại ô Paris, gần phi trường CDG cho đến ngày 05 tháng 10 thì trở về Mỹ.

    Ngày 3 tháng 10, 2023-XUỐNG PHỐ PARIS

    Sáng nay, Paris mới thật sự vào thu. Bầu trời chuyển qua màu xám nhạt, mang theo những giọt mưa đầu mùa nhè nhẹ nhưng cũng đủ làm ướt mặt đường phố. Một vài nơi, cây đã đổi màu vàng và đỏ. Vì còn ở lại Paris thêm 3 ngày nữa nên sau khi ăn điểm tâm tại hotel, chúng tôi lấy xe bus Mairie de Mautegard đến phi trường CDG. Sau đó, mua vé xe metro đi đến Downtown Paris.

    Xuống trạm xe gần nhà Gare Du Nord khoảng 10:30 sáng, chúng tôi lang thang qua nhiều con đường và rất nhiều khu phố. Tuy đi bộ xa như thế nhưng chúng tôi lại cảm thấy rất thú vị và không cảm thấy mệt vì chúng tôi thường xuyên dừng lại ở vài tiệm bên đường để thưởng thức quà vặt như bánh ngọt, bánh Crâpes nhân chocolate, trái cây & nhâm nhi ly café Cappuccino…

    bánh Crâpes nhân chocolate và Nhâm nhi ly café Cappuccino

    Đến trưa, chúng tôi ghé vào tiệm Bistroi Boétie trên Rue La Boetie. Cả hai đều đói nên chúng tôi gọi 2 đĩa beef steaks, khoảng 40 euros. Tiệm này làm nón Pepper Steak và Red Wine Steak rất ngon.

    Ăn xong, chúng tôi tiếp tục quốc bộ lên tận Avenue Des Champs Élysée,

    Sau đó, chúng tôi tiếp tục đi “window shopping” và ăn tối.

    Ghé vào tiệm Lafayette, ngắm quần áo, phấn son, v.v…

    Lafayette department store on Avenue Des Champs Élysée

    …rồi đến Arc De Triomphe De L’étoile chụp vài tấm hình làm kỷ niệm.

    Arc De Triomphe De L’étoile

    Đến 6 giờ chiều, chúng tôi đón taxi trở về hotel. Paris chẳng khác gì so với Los Angeles, trên đường phố, ngoài xa lộ lúc nào cũng bận rộn. Chúng tôi phải trả tiền taxi khá cao vì là giờ cao điểm. Nếu ai quen với hệ thống metro tại Pháp thì sẽ rẻ hơn rất nhiều.

    Ngày 4 tháng 10, 2023-Ngày cuối ở Paris, chúng tôi đi bộ quanh khu làng của quận Marne gần hotel của chúng tôi. Khi rẽ vào con đường chính Rue De Claye, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy đây là một khu phố cổ kính. Những căn nhà cũ kỹ có lẽ đã được xây cả mấy trăm năm trước. Đường phố chật hẹp, lồi lõm nhiều chỗ, nhiều bức tường đã bị tàn phá theo thời gian, trơ trụi với lớp gạch bên trong. Thông thường, khi nhìn lối kiến trúc, người ta có thể đoán được số tuổi của khu phố, thí dụ ngày xưa khi xây tường, người ta xếp những viên đá hay những viên gạch bể, vụn ghép lên nhau, mái ngói và cửa sổ theo thời cổ đại, v.v…

    Một số công sở, khu đất trống và nhiều villa không được bảo trì hoặc bỏ hoang, nên đã bị chính phủ công hữu hoá tài sản. Tuy nhiên, cũng có một số nhà đang trong tình trạng sửa chữa hoặc các xí nghiệp đang ở trong công trình kiến thiết xây dựng lại.

    Đi cả khu phố, chúng tôi chỉ thấy vỏn vẹn 2 tiệm bán Pizza, một nhà hàng Nhật, một tiệm bánh ngọt, một chợ nhỏ, một trường học cho trẻ em và một nhà thờ. Chúng tôi ăn trưa tại tiệm Pizza tên TOP PIZZA. Tiệm khá đông khách. Giá phải chăng và rất ngon.

    Ăn trưa xong, chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong làng, rồi rẽ qua các con hẻm nhỏ.  Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là càng đi vào sâu trong làng, có rất nhiều những ngôi nhà khang trang và đẹp và cứ khoảng chục căn nhà lại được bao quanh bởi một cái cổng lớn giống như khu “Gated residents” hay apartments hay townhouses ở Mỹ.

    Chúng tôi trở lại hotel lúc 2 giờ chiều để sửa soạn hành trang, chuẩn bị ngày mai lên đường trở về Mỹ. Sau 4 lần đến Pháp, những gì chúng tôi mơ ước được viếng thăm, tìm hiểu có lẽ đã tạm đủ.

    Tạm biệt Paris! Không biết bao giờ sẽ trở lại nhưng chắc hẳn những hình ảnh đẹp của Paris sẽ vương vấn mãi trong tim chúng tôi.

    AU REVOIR PARIS…

    Khánh Lan, Paris 10/04/2023.

    —————————————————————————————————————–

    PARIS ĐẸP LẮM – Tản Mạn – Nhất Hùng

    Chúng tôi đến phi trường Charles De Gaulle Pháp vào một buổi sáng đầu tháng 9, trời se se lạnh, Paris đang vào thu, đã có nhiều lá rụng bên đàng và loang loáng vàng trên các hàng cây khắp phố. Lấy khách sạn ở Quận 7, bên dòng sông Seine, gần tháp Eiffel, check in xong liền đi bộ đến Tháp. Trên đường, tôi háo hức, lăng xăng chụp ảnh, chụp tất cả những gì tôi thấy, chụp kiến trúc, hàng cây, sông nước, phố xá…góc cạnh nào cũng đẹp. Chụp cả các cô đầm Pháp đạp xe thật nhanh, thật vội…có lúc áo đầm bay tung dưới gió, nom lạ mắt lắm. Chương trình đi thăm cảnh 15 ngày, mỗi ngày một nơi, có điểm chúng tôi phải ở lại hai ba ngày. Tôi viết ký sự, ghi vắn tắt những điểm đã viếng kèm hình ảnh nơi đến.

    Các Quận nội đô có nhiều công trình kiến trúc cổ vừa mỹ thuật vừa đồ sộ. Phố lúc nào cũng nhộn nhịp người qua lại, có du khách, có người đi làm. Lúc kiến tạo Paris, các nhà kiến trúc phân lô theo dáng mũi tàu nên tạo ra nhiều ngã năm, ngã bảy…cá biệt có ngã mười hai như các đường chung quanh Khải Hoàn Môn, không như Sài Gòn, nói ngã sáu, ngã bảy ai cũng biết ở đâu, như vậy, SG chỉ có một hai bùng binh nhiều ngã. Cách phân lô này tạo nên nhiều góc phố đẹp, nhộn nhịp. Nhiều con phố gợi nhớ lại các phố Tự Do, Lê Lợi, Nguyễn Huệ…của Sài Gòn ngày trước. Các quận ngoại thành có những công trình cao tầng, chung cư, cơ xưởng, văn phòng làm việc không thua kém bất cứ quốc gia tân tiến nào. Vóc dáng người Pháp có vẻ nhỏ hơn người Bắc Mỹ, đặc biệt các thiếu nữ Paris, đa phần nhỏ nhắn, mình hạc vóc mai thanh mảnh lắm, có lẽ họ đi bộ, đạp xe nhiều. Một tài xế taxi giải thích, họ ăn uống cẩn thận, tập thể dục đều đặn và rất chăm chút vóc dáng để còn diện thời trang. Nhưng khi đi về các tỉnh xa vẫn thấy còn nhiều Bà Đầm “hái nho”, quá khổ, bề thế lắm.

    Trong các quận nội thành Paris, “Café – Restaurant” nhiều, nằm san sát, nhất là những góc phố. Quán nào cũng đông khách. Có vẻ như người Pháp thích ăn uống bên vỉa hè để ngắm phố…ngắm thời trang…ngắm anh đi qua cô đi lại. Mặc dầu hàng quán lấn hè (có phép) nhưng bàn ghế ngăn nắp trật tự, khách ngồi ngay hàng thẳng lối, không lộn xộn, không cản trở khách bộ hành. Chủ quán giữ luật mà khách cũng tôn trọng quy ước này.

    Ở Paris, vợ chồng – tình nhân – trai gái ôm hôn nơi công cộng tự nhiên thoải mái, nom dễ thương và thích lắm. Lúc nghỉ trưa trong vườn Luxembourg, trước cả ngàn con mắt, một cặp tình nhân rất đẹp đến trải khăn rồi nằm bên cạnh chúng tôi, họ nằm lên nhau, ôm hôn, âu yếm… rất bạo cứ như là chốn không người. Máy ảnh của tôi sẵn sàng 24/24 nên có hình ngay, gởi bạn xem để nói có sách mách có chứng. Người Pháp nói chung, các thiếu nữ Pháp nói riêng còn hút thuốc lá nhiều quá…

    Chúng tôi cùng đi bộ lẫn trong dòng du khách nhưng không bận tâm đến những lời cảnh báo về trộm cắp ở Paris vì không mang theo thứ gì quý giá trên người, giấy tờ và một ít tiền tiêu vặt được để vào một túi nhỏ trong quần, trước bụng nên thoải mái lắm. Phố du lịch đông người nên cũng kém vệ sinh nhưng không như lời đồn thổi. Có bảng chỉ dẫn đến toilet, bỏ một đồng, cửa tự động mở, chuyện nhỏ mà…có là tốt rồi. Có những khu phố, khu chợ của người Trung Đông, bề bộn và xô bồ lắm nhưng đó là “văn hóa” của họ. Ở Paris, chúng tôi có đến phố Tàu, phố Việt…nom khang trang, sạch sẽ, có bán đủ món ăn thức uống, tạp hóa, tạp phẩm Á Đông. Phở Việt Nam ở Paris ngon lắm.

    Người Paris tử tế…cứ Bon Jour với họ trước…nếu có bất đồng ngôn ngữ họ vẫn tìm cách giúp đỡ mình.

    Đến xứ lạ, gặp người lạ, có trăm điều để kể nhưng bạn nên sắp xếp đến Paris để trải nghiệm một lần cho biết…thú vị lắm. Chẳng thế mà Paris luôn nằm trong danh sách những điểm du lịch có đông khách nhất trên thế giới.

    Chia sẻ với bạn vài nơi chúng tôi thăm viếng:

    THÁP EIFFEL

    Từ khách sạn đi bộ đến Tháp Eiffel (Tour Eiffel), đây là công trình kiến trúc bằng thép nằm trong công viên Champ de Mars, bên sông Seine do kỹ sư Gustave Eiffel thiết kế, xây dựng từ năm 1887 tới năm 1889. Tháp là biểu tượng của kinh đô ánh sáng Paris và của nước Pháp. Buổi tối, tháp được thắp sáng và cứ thỉnh thoảng lại có đèn nhấp nháy. Du khách đông, nhất là ban đêm, khi tháp lên đèn.

    TU VIỆN MONT SAINT MICHEL

    Từ Paris, chúng tôi lái xe gần 4 tiếng vượt hơn 350 Km, qua nhiều thị trấn nhỏ, đẹp và yên bình để đến Saint Michel. Núi Saint Michel là một đảo ở Normandie. Theo tài liệu, từ thế kỷ 8, có một tu viện mà từ đó đã hình thành lên cái tên Mont-Saint-Michel.  Tu Viện có vị trí độc đáo khi nằm trên một hòn đảo chỉ cách đất liền gần 1km nên dễ dàng cho người hành hương tiếp cận khi thủy triều xuống. Mực thuỷ triều ở Mont Saint Michel có mức lên – xuống đỉnh, lúc lên, cao tới gần 13 m và xuống chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chính sự thay đổi này khiến tu viện khi thì giống một ngọn đồi trên cạn khi lại giống một hòn đảo chơ vơ nổi giữa đại dương. Lại có thời điểm Tu Viện Mont Saint Michel trông giống như một lâu đài lơ lửng trên mây, những lâu đài trong các câu chuyện cổ tích hoặc như một pháo đài trong các phim huyền thoại Hollywood “Chúa Tể Của Những Chiếc Nhẫn”.

    Trên đường lái xe về, chúng tôi chợt nhớ và mở đi mở lại bài “Paris Có Gì Lạ Không Em” – Thơ Nguyên Sa – Nhạc Ngô Thụy Miên – Thái Thanh hát. Bài này chúng tôi đã nghe lắm lần nhưng hôm nay nghe lạ lắm. Nghe hay hơn, cảm xúc hơn, ôi lãng mạn quá.

    OMAHA NORMANDI

    Trên đường lái xe về Paris từ Mont Saint Michel, chúng tôi đến viếng Omaha, một bãi biển dài tám kilomet của vùng Normandie Pháp, đối diện với Eo biển Manche Anh, đây là một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến Dịch Neptune – Chiến Dịch Overlord ngày 6 tháng 6 năm 1944 (Ngày D) trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai. Cuộc đổ bộ vào Omaha được thực hiện bởi Quân đội Hoa Kỳ, Anh, Canada và Pháp Tự Do. Đứng từ ngoài biển nhìn vào bãi, không một chướng ngại che chắn cho quân đổ bộ, tưởng tượng biết bao người lính đã ngã gục trên bãi, cảm giác mạnh lắm, thật xúc động. Tôi thấy bãi cát thắm hồng, không biết đó là hiện tượng thiên nhiên hay máu những người lính Hoa Kỳ đã đổ xuống nhuộm đỏ cả bãi biển Omaha.

    THÀNH PHỐ CẢNG MARSEILLE

    Đi tàu điện cao tốc từ Paris đến Cảng Marseille 800 Km nhưng chỉ mất ba giờ, cảng thơ mộng, đẹp ngoài tưởng tượng. Thành phố nằm bên biển Méditerranée và là thủ phủ của tỉnh Bouches-du-Rhône. Tàu bè trên cảng, lớp ra vào tấp nập, lớp neo đậu san sát nhau, phố xá náo nhiệt và nhộn nhịp khôn tả. Ở cảng Marseille, lúc đi bộ, lúc đi tour bus du lịch dọc theo cảng biển Vieux Port, ngắm nhìn bãi biển xanh ngắt thơ mộng dưới ánh nắng rực rỡ, tận hưởng vẻ mênh mông kỳ vĩ của bờ biển Địa Trung Hải. Chưa thỏa mãn, chúng tôi thuê thuyền dong buồm ra biển để trải nghiệm cách cưỡi thuyền buồm và chiêm nghiệm những vịnh nước sâu, trong vắt, những vách đá trắng mà người Pháp gọi là những “Calanques” và được bơi giữa dòng nước trong, xanh biếc với vô số cá lội chung quanh. Thành phố Marseille được bao quanh bởi nhiều Calanques. Những núi đá trắng ngà kết hợp với biển xanh tạo nên những hình ảnh đẹp hơn tranh vẽ, ai đó cho xem một bức tranh hay một tấm ảnh chụp, tôi cũng không tin đó là thật, chỉ đến khi tận mục quan chiêm, mới biết thiên nhiên diễm ảo, kỳ diệu đến dường nào. Đã thế, khí hậu lại ôn hòa vì ảnh hưởng các dòng nước chảy dưới biển. Là người thích du lịch bạn phải đến đây một lần trong đời, nếu không, bạn sẽ không tưởng tượng hết được vẻ đẹp kỳ vĩ huyền ảo của biển của thiên nhiên. 

    Trên đồi cao có Nhà thờ Notre Dame de la Garde, với lối kiến trúc cổ kính cao gần 162m, leo qua 172 bậc thang mới tới sân nhà thờ. Tại đây bạn có thể ngắm toàn cảnh phố Marseille vô cùng xinh đẹp. 

    ĐỒI MONTMARTRE – NHÀ THỜ SACRÉ COEUR & QUẢNG TRƯỜNG TERTRE

    Đổi khách sạn đến gần Montmartre, chúng tôi leo đồi Montmartre ba lần trong ba ngày mới mong có đủ trải nghiệm nơi này, đồi lớn thuộc Quận 18. Trên đỉnh đồi là nhà thờ Sacré Coeur nổi tiếng ở Paris, xây dựng vào cuối thế kỷ 19. Đến Thánh đường Sacré-Cœur, không chỉ được chiêm ngưỡng một tòa thánh cổ thật đẹp mà còn được ngắm một Paris từ trên cao, nhìn Paris lộng lẫy. Nhà Thờ có quả chuông Savoyarde, lớn nhất  Pháp. Montmartre có khung cảnh nghệ thuật, không khí nghệ sĩ, nhiều nhà hàng, quán cà phê, phòng tranh, cửa hàng đồ lưu niệm… Có thang máy Funiculaire đưa du khách dưới đồi lên đỉnh. Từ trong thang máy, ta ngắm nhìn thành phố Paris, ngắm tháp Eiffel, Nhà thờ Đức Bà Paris, Tháp Montparnasse và nhiều cảnh đẹp khác.

    Cạnh Thánh đường Sacré-Cœur có QUẢNG TRƯỜNG TERTRE (Place du Tertre) nằm trong làng Montmartre. Pháp có câu: “Thế giới thuộc về những người dậy sớm”. Hừng đông là khoảnh khắc đẹp nhất, Quảng trường Tertre cũng vậy, một ngôi làng cổ với không gian tĩnh lặng, thanh bình…trước khi du khách tấp nập đổ về. Khu vực trung tâm quảng trường đầy màu sắc. Vừa nhâm nhi ly cà phê vừa ngắm họa sĩ vẽ tranh trên quảng trường Tertre dưới ánh nắng nhẹ buổi sáng là niềm vui và thư giãn trước khi tiếp tục leo đồi.

    VƯỜN LUXEMBOURG

    Đi bộ loanh quanh ngắm cảnh rồi đến Luxembourg (vườn Lục Xâm Bảo) là khu vườn lớn và nổi tiếng ở Paris. Trong vườn có Viện Bảo Tàng Luxembourg. Đây là khu người dân thành phố, khách du ưa thích và thường vào nghỉ hoặc ăn trưa. Bao quanh vườn là hàng rào sắt nhọn, mũi mạ vàng. Trong vườn có nhiều tượng thần Hy Lạp, nhiều tượng thú trên bãi cỏ, không gian rợp bóng cây xanh được cắt tỉa công phu và thật đẹp. 

    Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu từng học tại Paris đã sáng tác ca khúc nổi tiếng “Mùa thu không trở lại”, trong đó có câu “qua vườn Luxembourg, sương rơi che phố mờ, buồn này ai có mua”. Nhà thơ Cung Trầm Tưởng có bài thơ “Mùa thu Paris” với câu: “Mùa thu âm thầm / Bên vườn Lục-Xâm / Ngồi quen ghế đá / Không em buốt giá từ tâm..” 

    CUNG ĐIỆN VERSAILLES

    Đón Taxi đến Cung điện Versailles, điện nằm phía tây của Paris. Được xây dựng vào năm 1624, là biểu tượng của hoàng gia, kiến trúc theo phong cách cổ điển. Versailles là một trong những cung điện lớn nhất thế giới với hơn 2300 phòng ngủ, nhiều cầu thang, phòng khách, phòng ăn, phòng thư viện, phòng triển lãm và vườn thượng uyển thật lớn gồm nhiều hồ nước, vườn nhỏ và lâu đài…Từng căn phòng, hành lang được chăm chút tỉ mỉ với kiến trúc và nội thất xa hoa. Cầu thang Đại Đế trong điện được xây dựng to lớn từ đá cẩm thạch. Trong Điện trang trí những tác phẩm nghệ thuật, tường và trần được vẽ chân dung các vị hoàng đế và hoàng hậu. Phòng ngủ trang trí đẹp, thiết kế sang trọng lộng lẫy và mê hoặc với các rèm cửa bằng lụa. Nhưng nóng lắm vì không có máy lạnh, còn mùa đông, đã có nhiều lò sưởi lớn nên chắc là đủ ấm. Đứng ngắm mãi phòng ngủ, rèm che, giường gối Hoàng Hậu nằm, tưởng tượng miên man, nghĩ ngợi lung tung, chợt nghĩ, nóng quá, nóng như thế này còn mần ăn gì nữa…chả lẽ có người hầu đứng quạt. Rồi chợt nhớ, vợ chồng tôi ngày trước cũng thế, Sài Gòn nóng như đổ lửa, không máy lạnh, không quạt máy (có quạt thì cũng bị cúp điện triền miên), tối ôm nhau, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà có sao đâu…nghĩ nay rồi lại nghĩ xưa…ôi biết bao kỷ niệm tràn về.

    BẢO TÀNG VIỆN LOUVRE 

    Thuê xe đạp, đạp xe dạo phố rồi đến Viện Bảo Tàng Louvre. Nằm bên hữu ngạn sông Seine ở thủ đô Paris của nước Pháp, Louvre là một trong những bảo tàng nổi tiếng nhất trên thế giới với kiến trúc tráng lệ và là nơi lưu trữ những kiệt tác nghệ thuật vô giá của Pháp. Bảo tàng Louvre đã đi vào lịch sử như là một công trình kiến trúc độc đáo, một biểu tượng của nước Pháp. Được du khách đánh giá là một trong những công trình kiến trúc có nhiều cái nhất: -Là Bảo Tàng Viện lớn nhất thế giới, -Là cung điện của nhiều triều đại nhất, -Là biểu tượng của sức mạnh và sự giàu có nhất, -Là bảo tàng sở hữu nhiều bộ sưu tập khổng lồ nhất, -Là bảo tàng được truy cập trên Web nhiều nhất -Là bảo tàng đón nhiều khách tham quan nhất, -Là bảo tàng có kiến trúc độc đáo nhất, -Là bảo tàng lưu giữ nhiều kiệt tác nghệ thuật vô giá nhất,. -Là bảo tàng có kim tự tháp bằng kính độc đáo nhất, -Là bảo tàng phát sáng nhất.

    NHÀ HÁT OPERA PALAIS GARNIER

    Trong một ngày dạo quanh ngắm phố, chúng tôi có thăm Nhà Hát Opera Palais Garnier, nhà hát lớn nhất Paris. Đây là một trong những di tích lịch sử ấn tượng với phong cách kiến trúc cổ điển cùng những bức tượng điêu khắc nổi tiếng. Hôm chúng tôi đến, không biết lý do gì, mặt trước nhà hát được che lại bằng một bức họa khổng lồ.

    KHẢI HOÀN MÔN

    Mướn xe, ngắm phố, lái đến xem Khải Hoàn Môn, kiến trúc toạ lạc ở đầu phía Tây của đại lộ Champs-Elysées, đại lộ nổi tiếng nhất Paris, Khải Hoàn Môn nằm ngay giữa quảng trường Charles De Gaulle – Étoile, được xây dựng vào năm 1806, dưới thời hoàng đế Napoleon I để tôn vinh quân đội Pháp và kỷ niệm những chiến thắng lẫy lừng. Khải Hoàn Môn nhộn nhịp và sầm uất, thể hiện rõ phong cách sống cũng như những nét văn hoá hiện đại của Paris, khu vực này thu hút rất đông khách du lịch

    DU THUYỀN TRÊN SÔNG SEINE

    Sông Seine nổi tiếng. Có vé đi du thuyền trên sông Seine ngày và đêm. Chúng tôi chọn mua vé đi ban đêm, lúc tháp Eiffel vừa lên đèn. Cảnh vật hai bên bờ như một bức tranh sống động, lộng lẫy và đẹp như tranh bao gồm cảnh quan của thủ đô Paris, thuyền chạy dưới nhiều cây cầu bắc ngang sông. Mỗi cây cầu là một công trình kiến trúc tuyệt vời. Du thuyền trên sông Seine là một trải nghiệm thú vị. Ta có cơ hội ngắm nhìn thành phố từ một góc khác, ngắm các công trình kiến trúc, các danh thắng nổi tiếng của Paris như Nhà thờ Đức Bà Paris, Bảo tàng Louvre, Tháp Eiffel…Ngày đã đẹp, đêm xuống, phố lên đèn càng đẹp hơn.

    PHỐ THỜI TRANG

    Đến Paris, không chỉ khám phá những cảnh quan tuyệt đẹp, thưởng thức những món ăn ngon, mà còn đi xem phố thời trang và mua sắm. Paris là kinh đô của Mỹ phẩm – Thời trang – Nước hoa và các mặt hàng xa xỉ…đi mua sắm cũng là trải nghiệm cuộc sống ở Paris. Cửa hàng thời trang có rải rác khắp nơi, nhưng một số khu vực có mật độ cửa hàng lớn với các trung tâm mua sắm nổi tiếng. Chanel đã và vẫn khẳng định vị thế, đẳng cấp của mình. Khi đến cửa hàng Chanel, đã nhiều khách phải đợi ở ngoài cửa vì bên trong đã đông người, chờ khách ra bớt chúng tôi mới được vào.

    PARIS BY NIGHT

    Paris từng nổi tiếng là Kinh Đô Ánh Sáng. Về đêm khi phố lên đèn, có rất nhiều vị trí khung cảnh chụp ảnh rất đẹp, tối nào có dịp, tôi đều vác máy đi chụp một số ảnh đêm Paris..

    Trên đường ra phi trường, lưu luyến giã từ Paris, trở về Washington DC – Hoa Kỳ, chúng tôi khẽ nghe lại bản nhạc “Để Quên Con Tim”. Lòng chùng xuống, tự hiểu mình… biết khó có dịp trở lại với Paris…chắc chắn là tôi sẽ nhớ Paris thật nhiều.

    Trăm nghe không bằng mắt thấy, phải tận mắt mục thị quan chiêm, bạn mới cảm thấy được hết cái dễ thương, cái diễm kiều, cái đáng yêu của Paris.

    Nhất Hùng

  • ThaiLan

    Sân bay quốc tế O’Hare

    image.png

    HAI CHUYỆN THẬT HAY VÔ CÙNG

    – O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .
    – Al Capone, 1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
    – Easy Eddie là luật sư của Al Capone

    Có rất nhiều quân nhân Mỹ can trường trong Thế chiến thứ hai. Một trong những anh hùng đó là O’Hare – Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch. Trung Tá O’Hare là phi công khu trục phục vụ trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển Nam Thái Bình Dương.

    Câu chuyện thứ nhất

    Một hôm, phi đoàn của O’Hare được giao thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh, liếc nhìn bảng đồng hồ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó đã không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về. Trung tá O’Hare báo với Phi Đoàn Trưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
    Trên đường về, bỗng O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: Dưới thấp xa xa trước mặt ông là một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tiến về hạm đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhiệm vụ và hạm đội không còn bảo vệ. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không đủ thời gian để báo về hạm đội mối nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi, phá tan hoặc chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
    Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ Butch O’Hare.

    Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình phi đoàn oanh tạc cơ Nhật, bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh nhả đạn đỏ rực, ông nhắm bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông đã làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hạm đội Hoa kỳ.
    Cuối cùng, các phi công Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo cáo sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng rõ ràng nhất. Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
    Đó là ngày 20/2/1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ. Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường thành phố Chicago, quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare.

    Câu chuyện thứ hai

    Hơn 15 năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Al Capone. Trong thời gian này, Al Capone hầu như làm chủ thành phố, trở thành ông trùm mafia nổi tiếng nhất Chicago và nước Mỹ thời đó …
    Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi, tài năng của Eddie đã giúp Al Capone nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Để tỏ lòng biết ơn, Al Capone hậu đãi Eddie rất lớn. Không chỉ tiền bạc mà còn tài sản. Gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago.

    Edward Joseph O’Hare hay còn gọi là “Easy Eddie”, sinh ngày 5/9/1893 – 8/11/1939), luật sư ở St. Louis.
    Ông trùm Al Capone (1899-1947) chỉ đạo các băng nhóm tội phạm tại Chicago suốt những năm 1920s.

    Như mọi người cha khác, Eddie có một “nhược điểm”, ông có một con trai và yêu con vô cùng. Cậu bé có một cuộc sống hoàn hảo. Và mặc dù chìm ngập trong thế giới tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dạy con biết thế nào là phải, trái.
    Eddie đã dạy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ là người tốt … Dù giàu có và quyền thế, nhưng vẫn có một thứ Eddie không thể cho con, một thứ mà chính Eddie đã trót bán cho Al Capone: Đó chính là danh dự.
    Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định cố gắng rửa sạch những vết nhơ dưới cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.

    Và cuối cùng, Eddie quyết định ra trước tòa làm nhân chứng, chống lại ông trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Trên hết thảy, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gương và danh dự.
    Eddie đã ra trước tòa làm nhân chứng, trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago.

    Vậy hai câu chuyện này có liên quan gì với nhau?
    O’Hare – Trung tá phi công hải quân Butch chính là con trai của Easy Eddie.

    Tuổi thơ và tấm gương của người cha luôn để lại dấu ấn cực kỳ sâu sắc cho cả cuộc đời này!

    Sưu tầm
    https://en.wikipedia.org/wiki/Edward_O%27Hare

    O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago 

    Thành phố Chicago trông thật nổi bật bên sự êm đềm của dòng sông

    Những thông tin thú vị về Chicago

    1. Vườn thú Lincoln

    Với diện tích 14 ha, Vườn thú Lincoln, nằm ở phía tây của hồ Michigan là một trong số ít các vườn thú trên thế giới cho phép du khách vào cổng miễn phí.

    2. Viện bảo tàng nghệ thuật

    Ngoài bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp; Viện Nghệ thuật Chicago, nằm trên South Michigan Avenue đang lưu giữ bộ sưu tập lớn nhất của những bức tranh ấn tượng nhất.

    3. Sông Chicago

    Đây là con sông duy nhất trên thế giới chảy ngược. Lý do là bởi vì các nguy cơ về sức khỏe của người dân, trong năm 1800 và đầu những năm 1900 người ta đã tiến hành đảo ngược dòng chảy của sông.

    4. Ngân hàng máu đầu tiên

    Năm 1937, Chicago là ngân hàng máu đầu tiên tại Mỹ.

    5. Sự ra đời của dây kéo

    Dây kéo ra đời vào năm 1851, hệ thống làm sạch chân không vào năm 1868 và các bánh xe Ferris vào năm 1893, tất cả đều được phát minh tại Chicago.

    6. Truyền hình màu

    Năm 1956 lần đầu tiên tất cả truyền hình màu xuất hiện lần đầu ở Chicago với WMAQ-TV, một sản phẩm của NBC.

    7. Cửa hàng McDonald đầu tiên

    Ray Kroc đã mở nhà hàng McDonald đầu tiên tại Des Plaines, ngoại ô Chicago, vào ngày 15/4/1955.

    Xem Thêm lịch khởi hành và giá tour du lịch mỹ: tại đây

    8. Cái nôi của Walt Disney

    Walt Disney đã được sinh ra tại Chicago vào ngày 05/12/1901. Ông cũng tham dự trong việc hình thành của Viện Nghệ thuật Chicago.

    9. Thư viện công cộng

    Từ đống tro tàn trong trận hỏa hoạn lớn ở Chicago năm 1871 thư viện công cộng Chicago đã được xây dựng.

    10. Chiếc điện thoại di động đầu tiên

    Martin Cooper, một người gốc Chicago, phát minh ra điện thoại di động đầu tiên. Ngày 03/04/1973, Cooper thực hiện cuộc gọi điện thoại đầu tiên tại thành phố New York.

  • ThaiLan

    Chicago – Thành phố Gió 

    Đây là thành phố lớn thứ 3 ở Mỹ. Chicago là nổi tiếng vì là một trong những thành phố lớn tại Mỹ, độc đáo với kiến trúc chọc trời đầu tiên trên thế giới.

    Chicago nằm ở đông bắc bộ tiểu bang Illinois, trên bờ tây nam của hồ Michigan. Đây là thành phố chính của vùng đô thị Chicago tại Trung Tây Hoa Kỳ và vùng Ngũ Đại Hồ. Chicago nằm trên một đường phân thủy lục địa tại điểm Chuyển tải Chicago, nối lưu vực sông Mississippi và lưu vực Ngũ Đại Hồ. Thành phố nằm bên hồ nước ngọt Michigan rộng lớn, và hai sông là sông Chicago qua trung tâm và sông Calumet chảy qua vùng công nghiệp South Side. Lịch sử và kinh tế của Chicago gắn chặt với hồ Michigan. Phần lớn vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy của khu vực trước đây sử dụng sông Chicago, song hiện nay các tàu to chở hàng trên hồ sử dụng cảng Lake Calumet tại South Side. Hồ Michigan giúp điều hòa khí hậu cho Chicago; khiến cho các khu phố ven hồ có chút ấm hơn vào mùa đông và mát hơn vào mùa hạ.

     Từ hai thập niên cuối của thế kỷ 19, Chicago là điểm đến của các làn sóng nhập cư từ Nam, Trung và Đông Âu, như người Ý, người Do Thái, người Ba Lan, người Bosnia, và người Séc.  Năm 1930, hai phần ba số người Mỹ gốc Phi tại Chicago sống tại các khu vực mà người Da đen chiếm khoảng 90% dân số. South Side của Chicago là nơi tập trung đông người Da đen đô thị thứ nhì tại Hoa Kỳ, sau Harlem tại New York.

      Trên một nửa dân số của tiểu bang Illinois sống tại vùng đô thị Chicago. Chicago là thành phố lớn nhất tại siêu đô thị Ngũ Đại Hồ.

    Hồ Michigan, một trong Ngũ Đại Hồ, bao la như biển

    Nhiều lãnh đạo tôn giáo thế giới từng đến Chicago, bao gồm mẹ Theresa và Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Chicago vào năm 1979 trong chuyến công du đầu tiên của ông tới Hoa Kỳ sau khi được bầu làm giáo hoàng.

    Cách thuật nhớ phổ biến để nhớ lại tên của các hồ là chữ “HOMES”  (tiếng Anh:  “những cái nhà”), tức là Huron, Ontario, Michigan, Erie và Superior, nhưng cách này không có thứ tự đặc biệt nào. Những cách khác, thí dụ như Sister Mary Hates Ecumenical Overtures (“Xơ Maria ghét những ca khúc khởi đầu của nhà thờ”) hay She Made Harry Eat Onions (“Bà ấy bắt Harry phải ăn hành”), xếp các hồ từ phía tây đến phía đông.

    Đi bộ dọc hồ Michigan
    Đi thuyền trên hồ

     Chicago là quê hương của những tòa nhà chọc trời đầu tiên và là một trong những thành phố được xây dựng đẹp nhất trên thế giới. Nếu du khách có dịp du ngoạn đến “thành phố của gió”  , thì đừng quên chiêm ngưỡng những tòa nhà lộng lẫy, nổi tiếng nhất thành phố xinh đẹp này.

    Tháp Willis

    Tháp Willis được công nhận là tòa tháp cao nhất ở Chicago và một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Hoàn thành vào năm 1973, nó đã đạt danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1998. Ngày nay nó vẫn là tòa nhà cao thứ hai tại Hoa Kỳ và trước đây được gọi là Tháp Sears cho đến hết năm 2009.

    Tháp Willis nổi bật giữa thành phố Chicago về đêm

     Chicago là quê hương của những tòa nhà chọc trời đầu tiên và là một trong những thành phố được xây dựng đẹp nhất trên thế giới. Nếu du khách có dịp du ngoạn đến “thành phố của gió”  , thì đừng quên chiêm ngưỡng những tòa nhà lộng lẫy, nổi tiếng nhất thành phố xinh đẹp này.

    Tháp Willis

    Tháp Willis được công nhận là tòa tháp cao nhất ở Chicago và một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Hoàn thành vào năm 1973, nó đã đạt danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1998. Ngày nay nó vẫn là tòa nhà cao thứ hai tại Hoa Kỳ và trước đây được gọi là Tháp Sears cho đến hết năm 2009.

    Chicago : “Thành phố Gió” (WINDY CITY)

    1/- Thành Phố Của Túi Gió
    Một báo cáo chính xác hơn là cái tên này đã được các nhà báo thời đó từ các thành phố khác đặt ra để chỉ Chicago. Một điều cần lưu ý là những phóng viên này không sử dụng tên này như một thuật ngữ thể hiện sự quý mến. Thay vào đó, họ dùng nó với ý nghĩa rằng thành phố đầy rẫy những “túi gió”, tức là những người tham lam chỉ quan tâm đến tiền bạc. Cụ thể hơn, những kẻ túi gió này là những chính trị gia và những người nổi tiếng. Ví dụ, một phóng viên của tờ Chicago Daily Tribune tuyên bố rằng thành phố có một lực lượng cảnh sát vô dụng đang thể hiện sự phù phiếm của mình trong thành phố lộng gió. Một phóng viên khác từ Milwaukee cũng viết điều tương tự và đề cập đến đạo đức thối nát mà Chicago đã so sánh với Milwaukee. Sau khi hai nhà báo này bắt đầu sử dụng cái tên này, nhiều nhà báo cũng thúc đẩy việc sử dụng cái tên này. Đáng chú ý, hầu hết những nhà báo đó đều đến từ thành phố New York do thất bại cay đắng.

    2/- Chicago được gọi là “Thành phố Gió” vì có hai lý do khả thi. Một là do những cơn gió lạnh thổi từ hồ Michigan. Hai là do các thành viên của các thành phố đối thủ đã đặt cho Chicago cái tên này để chế giễu các chính trị gia và cư dân tự mãn của thành phố này. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1856 để chỉ Green Bay, nhưng sau đó được liên kết với Chicago vào năm 1876 do sự cạnh tranh của thành phố này với Cincinnati-

    Sự cạnh tranh với Cincinnati
    Theo đó, rõ ràng là Chicago không tự đặt tên cho mình nhưng đây là cái tên mà thành phố đã học cách áp dụng trong nhiều năm. Như đã nói trước đó, Cincinnati cũng là nơi được sử dụng cái tên này nhiều nhất có thể do sự cạnh tranh giữa hai thành phố. Sự cạnh tranh của họ liên quan đến việc buôn bán thịt đóng gói.

    Bắt đầu từ thập niên 1960, giống như hầu hết thành phố tại Hoa Kỳ, nhiều cư dân da trắng của thành phố chuyển đến vùng ngoại ô, các khu phố biến đổi hoàn toàn về phương diện chủng tộc.[38] Thay đổi kết cấu trong công nghiệp khiến những công nhân tay nghề thấp chịu ảnh hưởng nặng nề. Năm 1966, Martin Luther King, Jr. và Albert Raby lãnh đạo Phong trào Tự do Chicago, phong trào lên đến đỉnh với các hiệp định giữa Thị trưởng và các lãnh đạo phong trào. Các dự án xây dựng lớn được tiến hành trong thời gian nhiệm kỳ của Richard J. Daley, gồm có tháp Sears (nay gọi là Willis Tower), Đại học Illinois ở Chicago, McCormick Place, và Sân bay quốc tế O’Hare.

    Năm 1999, các nhà chức trách Công viên Millennium và một nhóm các nhà sưu tập nghệ thuật, phụ trách bảo tàng và kiến trúc sư đã xem xét những đề xuất thiết kế điêu khắc của 30 nghệ sỹ. Ủy ban này đã chọn dự án điêu khắc của nghệ sỹ quốc tế nổi tiếng Anish Kapoor qua đề nghị của nghệ sỹ Jeff Koons để xây dựng một công trình150-foot (46m) thường trực tại công viên. Hợp đồng với Kapoor cũng nêu rõ rằng tác phẩm nghệ thuật phải được thiết kế để tồn tại khoảng 1000 năm. Phương án đề xuất của ông, sau được gọi là Cloud Gate, được lấy cảm hứng từ thủy ngân lỏng và được thiết kế để phản chiếu chân trời của Chicago. Cloud Gate là công trình công cộng ngoài trời đầu tiên bằng thép không gỉ của nghệ sỹ người Anh Anish Kapoor được dựng tại Mỹ. Tác phẩm ban đầu được dự tính nằm ở góc đông nam của Vườn Lurie, nhưng các quan chức công viên cuối cùng quyết định vị trí đặt ở AT & T Plaza, vị trí hiện tại của tác phẩm điêu khắc này.

    Cấu trúc thiết kế tượng đã nảy ra vô số tình huống phân vân, khó xử. Có những lo ngại rằng nó có thể giữ nhiệt và truyền nhiệt độ nóng, lạnh. Quá nóng để chạm vào nó về mùa hè và lạnh đến nỗi một cái lưỡi có thể dính vào nó vào mùa đông. Cũng đã có những ý kiến cho rằng sự thay đổi nhiệt độ trái ngược cực điểm như vậy có thể làm suy yếu cấu trúc. Rồi thì những graffiti, phân chim và dấu vân tay… cũng là vấn đề nhức nhối, vì chúng sẽ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ của tác phẩm điêu khắc. Vấn đề cấp bách nhất là việc mong muốn tạo ra một cấu trúc liền mạch duy nhất, không hàn. Norman Foster đã tính tới bao nhiêu phương án tưởng như không thể. Một vấn đề khác là tác phẩm điêu khắc ban đầu được ước tính nặng 60 tấn, vì không thể ước tính độ dày của thép tương thích với tạo hình thẩm mỹ mong muốn, nên cuối cùng, hiển nhiên, nó nặng tới 110 tấn và việc dàn dựng chịu lực phải được thực hiện sao cho nâng được nó. May mắn thay, tất cả các vấn đề đã được giải quyết.

    Điêu khắc không thể tiến triển mà không có sự sáng tạo và cảm hứng. Điều thực sự rất khó đối với các nhà điêu khắc là việc đi đến có một ý tưởng hay mà chưa ai có thể tưởng tượng ra. Anish Kapoor chính là một trong số các nghệ sĩ tài năng với Cloud Gate (tạm dịch là Cổng mây), công trình nghệ thuật nổi tiếng của ông.

    Cloud Gate – Khối điêu khắc hình trứng khổng lồ với trọng lượng 110 tấn, được gò tạo từ một loạt đồng nhất những tấm thép không có độ bóng cao. Bên ngoài tác phẩm điêu khắc tựa như tấm gương lớn phản chiếu bầu trời với những nóc nhà nổi tiếng của thành phố và những đám mây. Bên dưới tác phẩm điêu khắc, một vòm cầu cao chừng 3,7 mét, tạo nên “cửa” một buồng lõm, mời gọi du khách tản bộ xung quanh, chạm vào bề mặt như gương của tác phẩm và nhìn thấy muôn vàn hình ảnh phản chiếu biến dạng và kỳ thú của mình từ nhiều góc nhìn. Tác phẩm điêu khắc của Kapoor được dựng lên dựa trên nhiều chủ ý nghệ thuật, mặc dù vậy đối với nhiều khách du lịch chỉ đơn giản là xem tác phẩm điêu khắc với đặc tính phản quang độc đáo của nó là một cơ hội tuyệt vời để chụp ảnh.

    Tác phẩm điêu khắc này lần đầu tiên khi ra mắt được công chúng và các phương tiện truyền thông tên là The Bean (Hạt đậu), nhiều tháng sau nó mới được Anish Kapoor chính thức đặt tên là Cloud Gate. Cái tên đến từ thực tế là ba phần tư bề mặt bên ngoài của tác phẩm điêu khắc phản chiếu bầu trời, và tác phẩm điêu khắc này trông tựa như cái cổng vào bầu trời.

    Cloud Gate đã trở thành biểu tượng của thành phố Chicago. Công chúng đã ngay lập tức yêu thích nó, trìu mến đặt tên là Hạt đậu. Như có một quyền lực to lớn, nó thu hút tất cả những người dân địa phương, khách du lịch cũng như những người hâm mộ nghệ thuật. Đây là một trong những điểm thu hút việc chụp ảnh nhiều nhất trong thành phố, và hình ảnh của nó được sao chép trên các trang web internet và du lịch, các tạp chí nghệ thuật và kiến trúc.

    The American Welding Society (Hiệp hội hàn của Mỹ) đã công nhận Cloud Gate, MTH Industries và PSI như một nhóm liên kết, và quyết định trao cho họ giải thưởng Extraordinary Welding Award. Tác phẩm điêu khắc tại công viên Millennium này được nêu tên là một trong 10 thành tựu kiến trúc đẹp nhất năm 2004.

    Vài dòng về Anish Kapoor

    Anish Kapoor sinh ra tại Bombay vào năm 1954, và hiện đang sống và làm việc tại London. Ông đã học tại Hornsey College of Art (1973-1977) và Trường Nghệ thuật Chelsea, London (1977-1978).

    Kapoor là một trong một thế hệ các nhà điêu khắc người Anh, cũng như các đồng nghiệp điêu khắc Anh Tony Cragg và Richard Deacon, là những người đã đạt được sự công nhận quan trọng trong những năm 1980 và có chung mối quan tâm đến vật liệu sử dụng và hình thức nghệ thuật trừu tượng.

    Trong loạt sáng tác đầu tiên (1989-1990), ông tập trung vào hình hình học và màu sắc, sắp đặt những hình nửa vòng tròn, hình máy bay và các hình dạng khác được thể hiện với bảng màu sáng. Năm 1990, ông đại diện cho nước Anh tại Venice Biennale với “Void Field”, và trong suốt thập kỷ các tác phẩm điêu khắc của ông được đầu tư với nhiều tham vọng hơn, thao tác ngày càng cao cả về hình thức và không gian. Ông đã giành giải Turner năm 1991 và vào năm 2002 đã nhận được hợp đồng đặc biệt bởi Ủy ban Unilever cho hội trường Turbine của Tate Modern ở London.

    Ngoài việc được đặt mua tác phẩm cố định lớn của ông là Cloud Gate (2004) cho công viên Millennium ở Chicago. Trong suốt sự nghiệp của mình nhiều triển lãm cá nhân đã diễn ra tại MAC Grand-Hornu, Bỉ (2004); Museo Archeologico Nazionale, Naples (2004); Kunsthaus Bregenz (2003); Trung tâm Nghệ thuật đương đại Baltic, Gateshead (1999); Piazza del Plebiscito, Naples (1999); Hayward Gallery, London (1998); và Fondazione Prada, Milano (1995). Kapoor được đại diện bởi Gladstone Gallery ở New York-

    yt-icon

    *** Sân bay quốc tế O’Hare-

    image.png

    HAI CHUYỆN THẬT HAY VÔ CÙNG

    – O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .
    – Al Capone, 1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
    – Easy Eddie là luật sư của Al Capone

    Có rất nhiều quân nhân Mỹ can trường trong Thế chiến thứ hai. Một trong những anh hùng đó là O’Hare – Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch. Trung Tá O’Hare là phi công khu trục phục vụ trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển Nam Thái Bình Dương.

    Câu chuyện thứ nhất

    Một hôm, phi đoàn của O’Hare được giao thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh, liếc nhìn bảng đồng hồ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó đã không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về. Trung tá O’Hare báo với Phi Đoàn Trưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
    Trên đường về, bỗng O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: Dưới thấp xa xa trước mặt ông là một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tiến về hạm đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhiệm vụ và hạm đội không còn bảo vệ. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không đủ thời gian để báo về hạm đội mối nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi, phá tan hoặc chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
    Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ Butch O’Hare.

    Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình phi đoàn oanh tạc cơ Nhật, bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh nhả đạn đỏ rực, ông nhắm bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông đã làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hạm đội Hoa kỳ.
    Cuối cùng, các phi công Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo cáo sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng rõ ràng nhất. Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
    Đó là ngày 20/2/1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ. Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường thành phố Chicago, quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare.

    Câu chuyện thứ hai

    Hơn 15 năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Al Capone. Trong thời gian này, Al Capone hầu như làm chủ thành phố, trở thành ông trùm mafia nổi tiếng nhất Chicago và nước Mỹ thời đó …
    Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi, tài năng của Eddie đã giúp Al Capone nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Để tỏ lòng biết ơn, Al Capone hậu đãi Eddie rất lớn. Không chỉ tiền bạc mà còn tài sản. Gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago.

    Edward Joseph O’Hare hay còn gọi là “Easy Eddie”, sinh ngày 5/9/1893 – 8/11/1939), luật sư ở St. Louis.
    Ông trùm Al Capone (1899-1947) chỉ đạo các băng nhóm tội phạm tại Chicago suốt những năm 1920s.

    Như mọi người cha khác, Eddie có một “nhược điểm”, ông có một con trai và yêu con vô cùng. Cậu bé có một cuộc sống hoàn hảo. Và mặc dù chìm ngập trong thế giới tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dạy con biết thế nào là phải, trái.
    Eddie đã dạy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ là người tốt … Dù giàu có và quyền thế, nhưng vẫn có một thứ Eddie không thể cho con, một thứ mà chính Eddie đã trót bán cho Al Capone: Đó chính là danh dự.
    Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định cố gắng rửa sạch những vết nhơ dưới cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.

    Và cuối cùng, Eddie quyết định ra trước tòa làm nhân chứng, chống lại ông trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Trên hết thảy, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gương và danh dự.
    Eddie đã ra trước tòa làm nhân chứng, trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago.

    Vậy hai câu chuyện này có liên quan gì với nhau?
    O’Hare – Trung tá phi công hải quân Butch chính là con trai của Easy Eddie.

    Tuổi thơ và tấm gương của người cha luôn để lại dấu ấn cực kỳ sâu sắc cho cả cuộc đời này!

    Sưu tầm
    https://en.wikipedia.org/wiki/Edward_O%27Hare

    O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago