• ThaiLan

    Chicago – Thành phố Gió 

    Đây là thành phố lớn thứ 3 ở Mỹ. Chicago là nổi tiếng vì là một trong những thành phố lớn tại Mỹ, độc đáo với kiến trúc chọc trời đầu tiên trên thế giới.

    Chicago nằm ở đông bắc bộ tiểu bang Illinois, trên bờ tây nam của hồ Michigan. Đây là thành phố chính của vùng đô thị Chicago tại Trung Tây Hoa Kỳ và vùng Ngũ Đại Hồ. Chicago nằm trên một đường phân thủy lục địa tại điểm Chuyển tải Chicago, nối lưu vực sông Mississippi và lưu vực Ngũ Đại Hồ. Thành phố nằm bên hồ nước ngọt Michigan rộng lớn, và hai sông là sông Chicago qua trung tâm và sông Calumet chảy qua vùng công nghiệp South Side. Lịch sử và kinh tế của Chicago gắn chặt với hồ Michigan. Phần lớn vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy của khu vực trước đây sử dụng sông Chicago, song hiện nay các tàu to chở hàng trên hồ sử dụng cảng Lake Calumet tại South Side. Hồ Michigan giúp điều hòa khí hậu cho Chicago; khiến cho các khu phố ven hồ có chút ấm hơn vào mùa đông và mát hơn vào mùa hạ.

     Từ hai thập niên cuối của thế kỷ 19, Chicago là điểm đến của các làn sóng nhập cư từ Nam, Trung và Đông Âu, như người Ý, người Do Thái, người Ba Lan, người Bosnia, và người Séc.  Năm 1930, hai phần ba số người Mỹ gốc Phi tại Chicago sống tại các khu vực mà người Da đen chiếm khoảng 90% dân số. South Side của Chicago là nơi tập trung đông người Da đen đô thị thứ nhì tại Hoa Kỳ, sau Harlem tại New York.

      Trên một nửa dân số của tiểu bang Illinois sống tại vùng đô thị Chicago. Chicago là thành phố lớn nhất tại siêu đô thị Ngũ Đại Hồ.

    Hồ Michigan, một trong Ngũ Đại Hồ, bao la như biển

    Nhiều lãnh đạo tôn giáo thế giới từng đến Chicago, bao gồm mẹ Theresa và Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Chicago vào năm 1979 trong chuyến công du đầu tiên của ông tới Hoa Kỳ sau khi được bầu làm giáo hoàng.

    Cách thuật nhớ phổ biến để nhớ lại tên của các hồ là chữ “HOMES”  (tiếng Anh:  “những cái nhà”), tức là Huron, Ontario, Michigan, Erie và Superior, nhưng cách này không có thứ tự đặc biệt nào. Những cách khác, thí dụ như Sister Mary Hates Ecumenical Overtures (“Xơ Maria ghét những ca khúc khởi đầu của nhà thờ”) hay She Made Harry Eat Onions (“Bà ấy bắt Harry phải ăn hành”), xếp các hồ từ phía tây đến phía đông.

    Đi bộ dọc hồ Michigan
    Đi thuyền trên hồ

     Chicago là quê hương của những tòa nhà chọc trời đầu tiên và là một trong những thành phố được xây dựng đẹp nhất trên thế giới. Nếu du khách có dịp du ngoạn đến “thành phố của gió”  , thì đừng quên chiêm ngưỡng những tòa nhà lộng lẫy, nổi tiếng nhất thành phố xinh đẹp này.

    Tháp Willis

    Tháp Willis được công nhận là tòa tháp cao nhất ở Chicago và một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Hoàn thành vào năm 1973, nó đã đạt danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1998. Ngày nay nó vẫn là tòa nhà cao thứ hai tại Hoa Kỳ và trước đây được gọi là Tháp Sears cho đến hết năm 2009.

    Tháp Willis nổi bật giữa thành phố Chicago về đêm

     Chicago là quê hương của những tòa nhà chọc trời đầu tiên và là một trong những thành phố được xây dựng đẹp nhất trên thế giới. Nếu du khách có dịp du ngoạn đến “thành phố của gió”  , thì đừng quên chiêm ngưỡng những tòa nhà lộng lẫy, nổi tiếng nhất thành phố xinh đẹp này.

    Tháp Willis

    Tháp Willis được công nhận là tòa tháp cao nhất ở Chicago và một trong những tòa nhà nổi tiếng nhất trên toàn cầu. Hoàn thành vào năm 1973, nó đã đạt danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1998. Ngày nay nó vẫn là tòa nhà cao thứ hai tại Hoa Kỳ và trước đây được gọi là Tháp Sears cho đến hết năm 2009.

    Chicago : “Thành phố Gió” (WINDY CITY)

    1/- Thành Phố Của Túi Gió
    Một báo cáo chính xác hơn là cái tên này đã được các nhà báo thời đó từ các thành phố khác đặt ra để chỉ Chicago. Một điều cần lưu ý là những phóng viên này không sử dụng tên này như một thuật ngữ thể hiện sự quý mến. Thay vào đó, họ dùng nó với ý nghĩa rằng thành phố đầy rẫy những “túi gió”, tức là những người tham lam chỉ quan tâm đến tiền bạc. Cụ thể hơn, những kẻ túi gió này là những chính trị gia và những người nổi tiếng. Ví dụ, một phóng viên của tờ Chicago Daily Tribune tuyên bố rằng thành phố có một lực lượng cảnh sát vô dụng đang thể hiện sự phù phiếm của mình trong thành phố lộng gió. Một phóng viên khác từ Milwaukee cũng viết điều tương tự và đề cập đến đạo đức thối nát mà Chicago đã so sánh với Milwaukee. Sau khi hai nhà báo này bắt đầu sử dụng cái tên này, nhiều nhà báo cũng thúc đẩy việc sử dụng cái tên này. Đáng chú ý, hầu hết những nhà báo đó đều đến từ thành phố New York do thất bại cay đắng.

    2/- Chicago được gọi là “Thành phố Gió” vì có hai lý do khả thi. Một là do những cơn gió lạnh thổi từ hồ Michigan. Hai là do các thành viên của các thành phố đối thủ đã đặt cho Chicago cái tên này để chế giễu các chính trị gia và cư dân tự mãn của thành phố này. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1856 để chỉ Green Bay, nhưng sau đó được liên kết với Chicago vào năm 1876 do sự cạnh tranh của thành phố này với Cincinnati-

    Sự cạnh tranh với Cincinnati
    Theo đó, rõ ràng là Chicago không tự đặt tên cho mình nhưng đây là cái tên mà thành phố đã học cách áp dụng trong nhiều năm. Như đã nói trước đó, Cincinnati cũng là nơi được sử dụng cái tên này nhiều nhất có thể do sự cạnh tranh giữa hai thành phố. Sự cạnh tranh của họ liên quan đến việc buôn bán thịt đóng gói.

    Bắt đầu từ thập niên 1960, giống như hầu hết thành phố tại Hoa Kỳ, nhiều cư dân da trắng của thành phố chuyển đến vùng ngoại ô, các khu phố biến đổi hoàn toàn về phương diện chủng tộc.[38] Thay đổi kết cấu trong công nghiệp khiến những công nhân tay nghề thấp chịu ảnh hưởng nặng nề. Năm 1966, Martin Luther King, Jr. và Albert Raby lãnh đạo Phong trào Tự do Chicago, phong trào lên đến đỉnh với các hiệp định giữa Thị trưởng và các lãnh đạo phong trào. Các dự án xây dựng lớn được tiến hành trong thời gian nhiệm kỳ của Richard J. Daley, gồm có tháp Sears (nay gọi là Willis Tower), Đại học Illinois ở Chicago, McCormick Place, và Sân bay quốc tế O’Hare.

    Năm 1999, các nhà chức trách Công viên Millennium và một nhóm các nhà sưu tập nghệ thuật, phụ trách bảo tàng và kiến trúc sư đã xem xét những đề xuất thiết kế điêu khắc của 30 nghệ sỹ. Ủy ban này đã chọn dự án điêu khắc của nghệ sỹ quốc tế nổi tiếng Anish Kapoor qua đề nghị của nghệ sỹ Jeff Koons để xây dựng một công trình150-foot (46m) thường trực tại công viên. Hợp đồng với Kapoor cũng nêu rõ rằng tác phẩm nghệ thuật phải được thiết kế để tồn tại khoảng 1000 năm. Phương án đề xuất của ông, sau được gọi là Cloud Gate, được lấy cảm hứng từ thủy ngân lỏng và được thiết kế để phản chiếu chân trời của Chicago. Cloud Gate là công trình công cộng ngoài trời đầu tiên bằng thép không gỉ của nghệ sỹ người Anh Anish Kapoor được dựng tại Mỹ. Tác phẩm ban đầu được dự tính nằm ở góc đông nam của Vườn Lurie, nhưng các quan chức công viên cuối cùng quyết định vị trí đặt ở AT & T Plaza, vị trí hiện tại của tác phẩm điêu khắc này.

    Cấu trúc thiết kế tượng đã nảy ra vô số tình huống phân vân, khó xử. Có những lo ngại rằng nó có thể giữ nhiệt và truyền nhiệt độ nóng, lạnh. Quá nóng để chạm vào nó về mùa hè và lạnh đến nỗi một cái lưỡi có thể dính vào nó vào mùa đông. Cũng đã có những ý kiến cho rằng sự thay đổi nhiệt độ trái ngược cực điểm như vậy có thể làm suy yếu cấu trúc. Rồi thì những graffiti, phân chim và dấu vân tay… cũng là vấn đề nhức nhối, vì chúng sẽ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ của tác phẩm điêu khắc. Vấn đề cấp bách nhất là việc mong muốn tạo ra một cấu trúc liền mạch duy nhất, không hàn. Norman Foster đã tính tới bao nhiêu phương án tưởng như không thể. Một vấn đề khác là tác phẩm điêu khắc ban đầu được ước tính nặng 60 tấn, vì không thể ước tính độ dày của thép tương thích với tạo hình thẩm mỹ mong muốn, nên cuối cùng, hiển nhiên, nó nặng tới 110 tấn và việc dàn dựng chịu lực phải được thực hiện sao cho nâng được nó. May mắn thay, tất cả các vấn đề đã được giải quyết.

    Điêu khắc không thể tiến triển mà không có sự sáng tạo và cảm hứng. Điều thực sự rất khó đối với các nhà điêu khắc là việc đi đến có một ý tưởng hay mà chưa ai có thể tưởng tượng ra. Anish Kapoor chính là một trong số các nghệ sĩ tài năng với Cloud Gate (tạm dịch là Cổng mây), công trình nghệ thuật nổi tiếng của ông.

    Cloud Gate – Khối điêu khắc hình trứng khổng lồ với trọng lượng 110 tấn, được gò tạo từ một loạt đồng nhất những tấm thép không có độ bóng cao. Bên ngoài tác phẩm điêu khắc tựa như tấm gương lớn phản chiếu bầu trời với những nóc nhà nổi tiếng của thành phố và những đám mây. Bên dưới tác phẩm điêu khắc, một vòm cầu cao chừng 3,7 mét, tạo nên “cửa” một buồng lõm, mời gọi du khách tản bộ xung quanh, chạm vào bề mặt như gương của tác phẩm và nhìn thấy muôn vàn hình ảnh phản chiếu biến dạng và kỳ thú của mình từ nhiều góc nhìn. Tác phẩm điêu khắc của Kapoor được dựng lên dựa trên nhiều chủ ý nghệ thuật, mặc dù vậy đối với nhiều khách du lịch chỉ đơn giản là xem tác phẩm điêu khắc với đặc tính phản quang độc đáo của nó là một cơ hội tuyệt vời để chụp ảnh.

    Tác phẩm điêu khắc này lần đầu tiên khi ra mắt được công chúng và các phương tiện truyền thông tên là The Bean (Hạt đậu), nhiều tháng sau nó mới được Anish Kapoor chính thức đặt tên là Cloud Gate. Cái tên đến từ thực tế là ba phần tư bề mặt bên ngoài của tác phẩm điêu khắc phản chiếu bầu trời, và tác phẩm điêu khắc này trông tựa như cái cổng vào bầu trời.

    Cloud Gate đã trở thành biểu tượng của thành phố Chicago. Công chúng đã ngay lập tức yêu thích nó, trìu mến đặt tên là Hạt đậu. Như có một quyền lực to lớn, nó thu hút tất cả những người dân địa phương, khách du lịch cũng như những người hâm mộ nghệ thuật. Đây là một trong những điểm thu hút việc chụp ảnh nhiều nhất trong thành phố, và hình ảnh của nó được sao chép trên các trang web internet và du lịch, các tạp chí nghệ thuật và kiến trúc.

    The American Welding Society (Hiệp hội hàn của Mỹ) đã công nhận Cloud Gate, MTH Industries và PSI như một nhóm liên kết, và quyết định trao cho họ giải thưởng Extraordinary Welding Award. Tác phẩm điêu khắc tại công viên Millennium này được nêu tên là một trong 10 thành tựu kiến trúc đẹp nhất năm 2004.

    Vài dòng về Anish Kapoor

    Anish Kapoor sinh ra tại Bombay vào năm 1954, và hiện đang sống và làm việc tại London. Ông đã học tại Hornsey College of Art (1973-1977) và Trường Nghệ thuật Chelsea, London (1977-1978).

    Kapoor là một trong một thế hệ các nhà điêu khắc người Anh, cũng như các đồng nghiệp điêu khắc Anh Tony Cragg và Richard Deacon, là những người đã đạt được sự công nhận quan trọng trong những năm 1980 và có chung mối quan tâm đến vật liệu sử dụng và hình thức nghệ thuật trừu tượng.

    Trong loạt sáng tác đầu tiên (1989-1990), ông tập trung vào hình hình học và màu sắc, sắp đặt những hình nửa vòng tròn, hình máy bay và các hình dạng khác được thể hiện với bảng màu sáng. Năm 1990, ông đại diện cho nước Anh tại Venice Biennale với “Void Field”, và trong suốt thập kỷ các tác phẩm điêu khắc của ông được đầu tư với nhiều tham vọng hơn, thao tác ngày càng cao cả về hình thức và không gian. Ông đã giành giải Turner năm 1991 và vào năm 2002 đã nhận được hợp đồng đặc biệt bởi Ủy ban Unilever cho hội trường Turbine của Tate Modern ở London.

    Ngoài việc được đặt mua tác phẩm cố định lớn của ông là Cloud Gate (2004) cho công viên Millennium ở Chicago. Trong suốt sự nghiệp của mình nhiều triển lãm cá nhân đã diễn ra tại MAC Grand-Hornu, Bỉ (2004); Museo Archeologico Nazionale, Naples (2004); Kunsthaus Bregenz (2003); Trung tâm Nghệ thuật đương đại Baltic, Gateshead (1999); Piazza del Plebiscito, Naples (1999); Hayward Gallery, London (1998); và Fondazione Prada, Milano (1995). Kapoor được đại diện bởi Gladstone Gallery ở New York-

    yt-icon

    *** Sân bay quốc tế O’Hare-

    image.png

    HAI CHUYỆN THẬT HAY VÔ CÙNG

    – O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .
    – Al Capone, 1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
    – Easy Eddie là luật sư của Al Capone

    Có rất nhiều quân nhân Mỹ can trường trong Thế chiến thứ hai. Một trong những anh hùng đó là O’Hare – Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch. Trung Tá O’Hare là phi công khu trục phục vụ trên hàng không mẫu hạm Lexington trong vùng biển Nam Thái Bình Dương.

    Câu chuyện thứ nhất

    Một hôm, phi đoàn của O’Hare được giao thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh, liếc nhìn bảng đồng hồ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó đã không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về. Trung tá O’Hare báo với Phi Đoàn Trưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
    Trên đường về, bỗng O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: Dưới thấp xa xa trước mặt ông là một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tiến về hạm đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhiệm vụ và hạm đội không còn bảo vệ. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không đủ thời gian để báo về hạm đội mối nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi, phá tan hoặc chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
    Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ Butch O’Hare.

    Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình phi đoàn oanh tạc cơ Nhật, bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh nhả đạn đỏ rực, ông nhắm bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông đã làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hạm đội Hoa kỳ.
    Cuối cùng, các phi công Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo cáo sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng rõ ràng nhất. Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
    Đó là ngày 20/2/1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ. Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường thành phố Chicago, quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare.

    Câu chuyện thứ hai

    Hơn 15 năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Al Capone. Trong thời gian này, Al Capone hầu như làm chủ thành phố, trở thành ông trùm mafia nổi tiếng nhất Chicago và nước Mỹ thời đó …
    Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi, tài năng của Eddie đã giúp Al Capone nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Để tỏ lòng biết ơn, Al Capone hậu đãi Eddie rất lớn. Không chỉ tiền bạc mà còn tài sản. Gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago.

    Edward Joseph O’Hare hay còn gọi là “Easy Eddie”, sinh ngày 5/9/1893 – 8/11/1939), luật sư ở St. Louis.
    Ông trùm Al Capone (1899-1947) chỉ đạo các băng nhóm tội phạm tại Chicago suốt những năm 1920s.

    Như mọi người cha khác, Eddie có một “nhược điểm”, ông có một con trai và yêu con vô cùng. Cậu bé có một cuộc sống hoàn hảo. Và mặc dù chìm ngập trong thế giới tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dạy con biết thế nào là phải, trái.
    Eddie đã dạy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽ là người tốt … Dù giàu có và quyền thế, nhưng vẫn có một thứ Eddie không thể cho con, một thứ mà chính Eddie đã trót bán cho Al Capone: Đó chính là danh dự.
    Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định cố gắng rửa sạch những vết nhơ dưới cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.

    Và cuối cùng, Eddie quyết định ra trước tòa làm nhân chứng, chống lại ông trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Trên hết thảy, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gương và danh dự.
    Eddie đã ra trước tòa làm nhân chứng, trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago.

    Vậy hai câu chuyện này có liên quan gì với nhau?
    O’Hare – Trung tá phi công hải quân Butch chính là con trai của Easy Eddie.

    Tuổi thơ và tấm gương của người cha luôn để lại dấu ấn cực kỳ sâu sắc cho cả cuộc đời này!

    Sưu tầm
    https://en.wikipedia.org/wiki/Edward_O%27Hare

    O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago 

  • ThaiLan

    Dưới bóng cây tần bì –

     Henry Gréville (ThaiLan dịch)

    Hai người đang đi chầm chậm trên lối đi hẹp bằng đất thỉnh thoảng có những con đường mòn xanh mơn mởn cắt ngang, mà cứ hai năm một lần những xe đẩy chở cỏ khô hoặc lúa mì lại ùa vào những đám hoa cúc và cỏ. Những cơn mưa gần đây đã tạo thành từng vũng ao nhỏ ở những đoạn lồi lõm; nhưng ở phần giữa đường, đầy bụi bặm và rải rác có dấu vết móng ngựa, thì khúc đường cũng khá rộng để hai người có thể sánh đôi.

        – Vậy là nàng không đồng ý phải không? 

        Anh thanh niên hỏi một cách gượng gạo, đôi mắt nhìn xuống đất và ngón tay quay quay một cọng yến mạch dại. Cô gái vẫn im lặng. Ôi, sao anh ấy có thể tàn nhẫn khi nói rằng chính cô là người không muốn! Tại sao trong những ngày tháng dài như thế mà anh không đoán được chính anh là người mà nàng yêu? 

        Cô cúi đầu xuống và cầm góc tạp dề màu xanh lên, mân mê, cuộn tròn rồi lại thả ra trong đôi tay run rẩy của mình để tỏ ra không lúng túng, cũng giống như anh xoay vòng cọng cỏ của mình để có thái độ vững vàng.

        – Có thật là nàng không muốn? Nàng có nhớ không, chúng ta đã cùng nhau Rước Lễ Lần Đầu, nàng không còn nhớ gì sao?

        Cô liếc nhìn tháp chuông nhỏ nhô lên trên hàng rào rồi lại nhìn con đường, bây giờ đám bụi dày đặc đã tạo thành một tấm thảm nhung.

        – Thời đó nàng đã yêu tôi rất nhiều,  – anh tiếp tục nói một cách cay đắng – nhưng trái tim em đã thay đổi: lúc đó em nói là không thể sống mà không có tôi bên cạnh; rồi sau đó, em đã không còn thích thú khi nhìn thấy tôi nữa.

        Cô không nói gì; đôi má cô bỗng ửng hồng thêm lên; anh nghĩ cô sẽ nói điều gì, nhưng cô vẫn im lặng, và tiếp tục đi bên cạnh anh.

        Con đường trở nên hẹp hơn, những nhánh cây tần bì và những cây cỏ đang giăng qua đầu họ. Một ngày ảm đạm, êm dịu, thật ngậm ngùi đang đến với họ, len lỏi qua những tán lá, và những tia nắng mặt trời vừa mới nhảy múa dưới chân họ trên con đường được lót bằng thảm cỏ hoang, ở đó  hầu như không còn nhìn thấy những con đường mòn nữa. 

        Anh tiến lại gần hơn và nắm lấy góc tạp dề mà không chạm vào bàn tay run rẩy của cô gái.

        – Vâng, tôi nghĩ rằng em đã yêu tôi; tôi đã nghĩ rằng hai chúng ta sẽ dành cả cuộc đời bên nhau; gia đình em không giàu có, tôi cũng chẳng khá hơn; điều này chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta cả, đúng không nàng? Dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn hạnh phúc bên nhau, chỉ cần trong gia đình ta có tình yêu là đủ? Nhưng em đầy tham vọng,  tôi hiểu rồi, em chỉ muốn giàu có và trở nên nghiệp chủ,  chắc hẳn là thế; em rất sợ phải sống trong nghèo khó… Ôi! Nếu tôi suy nghĩ như em, về phần tôi, giờ này tôi đã kết hôn, đã có một cô vợ bên tôi rồi! Nhưng rồi tôi tự nhủ: Ta sẽ chỉ kết hôn với người ta yêu, và tôi đã tự hứa với mình như thế, không sai vào đâu được! Còn em, trái tim của em muốn tìm kiếm một nơi khá hơn, có địa vị hơn, phải không? Em muốn vươn lên khỏi vị trí hiện tại của em, đúng không?

        Anh buông góc tạp dề ra và bực bội nhìn cô. Những người nông dân gặt lúa đang mài lưỡi hái của họ ở cánh đồng cỏ bên dưới; ta có thể nghe thấy tiếng cối xay đang xoay đều đặn trên dòng sông nhỏ. Một điệp khúc của một đoạn hát vượt qua không gian đang mơn man trên đầu họ, và tan nhanh trong bầu khí tháng sáu nóng rực…

        – Ôi chàng của em! – cô gái thốt lên, vừa đặt cả hai tay lên vai chàng, và nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm, đẫm lệ – em vẫn luôn yêu anh, nhưng anh chưa bao giờ nói lời nào, và sáng nay cha đã hứa gả em cho một người khác, chàng ơi chàng!

        Cô buông lơi hai bàn tay một cách chậm chạp, chán chường xuống chiếc yếm… Trên kia những tia nắng óng ánh đổi màu đang nhảy múa qua những chiếc lá, và họ đứng đó, bất động, chỉ biết nhìn nhau, lòng mang một nỗi tuyệt vọng khôn cùng; và ở một nơi xa xăm, một gã nào đó vô cùng hạnh phúc đang hân hoan ngân lên bài ca thánh thót, xuyên qua cỏ cây núi rừng, vang rền, bay bổng trên đầu hai người đau khổ.

    – Henry Gréville

    (ThaiLan dịch)