Tin tức

Chung Thảo Bảy bài Đúc Kết Hội nghị Thống Nhất Chính tả Tiếng Việt tại Hải Ngoại

T chức vào hai ngày 11 v 12 tháng Tám năm 2018, tại hội trường Coastline Community College, Garden Grove, Orange County, California Hoa Kỳ.

Cao Văn Hở, Ph.D.,  Trưởng Ban Đúc Kết      8/30/2018

Hội nghị Thống Nhất Chính Tả Tiếng Việt tại Hải Ngoại năm 2018 đã qui tụ trên 100 giáo chức ghi danh gồm những Thầy cô hiện đang giảng dạy tiếng Việt tại các Trung Tâm Việt Ngữ ở Hoa Kỳ, Canada, Nhật, Úc và các nơi khác trên thế giới.

Mục tiêu của Hội nghị là thống nhất chính tả chữ viết tiếng Việt tại hải ngoại, hoàn chỉnh và hệ thống hoá tiếng Việt để phát triển độc lập và tiến bộ.  Bảy đề tài thuyết trình do các diễn giả chọn lọc đã trình bày trước hội nghị.

ĐỀ TÀI Diễn giả Điều Hợp Viên Đúc Kết Viên
1. NHỮNG PHỨC TẠP TRONG CÔNG VIỆC PHÁT TRIỂN TIẾNG VIỆT. NBK Đỗ Thông Minh GS Trần Chấn Trí, Ph.D Phạm Kim Long, Ph.D
2. QUY ƯỚC THỐNG NHẤT CHÍNH TẢ CHỮ VIỆT GS Song Thuận GS Nguyễn Địch Hà GS Lê Anh Dũng
3.  MỘT SỐ ĐIỂM CHÊNH LỆCH GIỮA CHÍNH TẢ VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT GS Trần Chấn Trí, Ph.D Dr. Đỗ Trọng Thái GS Huỳnh Trâm Anh
4.  THỐNG NHẤT CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT VÀ NGỮ ÂM CỦA PHƯƠNG NGỮ BA MIỀN Cao Văn Hở, Ph.D Phạm Kim Long, Ph.D GS Võ Minh Phương
5.  PHỤ ÂM TRONG TIẾNG VIỆT GS Trần Minh Tâm, Ph.D Dr. Đinh Thái Sơn GS Huỳnh Trâm Anh
6.  TÌM HIỂU TỪ NGỮ GỐC “HÁN” GS Trần Ngọc Dụng, Ph.D GS Nguyễn Văn Khoa GS Võ Minh Phương
7.  ĐỌC CHỮ CÁI Phạm Văn Hải, Ph.D Trần Huy Bích, Ph.D Cô Bửu Trâm

Các Thầy cô trong Ban Đúc Kết đã làm việc đầy tâm huyết và hoàn thành bài viết qua một diễn trình đúc kết lớp lang và có hệ thống như sau:

  • Đầu tiên, các Đúc Kết Viên ĐKV hội ý với Điều Hợp Viên về các nét chính tóm lược của đề tài thuyết trình. Có Thầy cô đã sẵn lòng gánh vác cả hai bài đúc kết như GS Huỳnh Trâm Anh— đề tài 3 và 5 và GS Võ Minh Phượng –- đề tài 4 và 6.
  • Trong lúc nghe diễn giả thuyết trình, ĐKV ghi lại những điểm đã được trình bày thêm.
  • Vào ngày thứ hai của Hội nghị – Chủ Nhật 8/12 các ĐKV tường trình từng bài đúc kết trước các tham dự viên.
  • Cuối cùng các ĐKV đã xem lại videos và bổ khuyết cho bài đúc kết chung thảo được ghi trình dưới đây.

Nguyên tắc đúc kết là trung thực, không ghi thêm vào những ý kiến riêng để mọi người, ngoài các tham dự viên, cũng theo dõi được đề tài thuyết trình:  những hội luận đã được thảo luận mổ xẻ, những biểu quyết trong hội nghị, và những gì cần nghiên cứu cho kỳ hội nghị tới.  Diễn trình đúc kết là một công việc chọn lọc những gì đã thuyết trình trực tiếp liên quan đến chủ đề thống nhất chính tả, mặc dù có nhiều chi tiết ngôn ngữ học thâm sâu trong thuyết trình nhưng không thể đem vào đúc kết.

Với tư cách Trưởng Ban Đúc Kết, tôi xin được nêu ra hai rút tỉa có thể hữu ích cho các kỳ hội nghị kế tiếp:

  • Thứ nhất là một cuộc gặp gỡ tiền hội nghị giữa diễn giả với ĐKV để ĐKV được dịp nghe diễn giả nói những gì sắp trình bày. Đó cũng là một hình thức “rehearsal” nhắc nhở khéo chủ đề đang mong đợi diễn giả đóng góp.
  • Thứ hai là cần có quyết tâm của Ban Tổ Chức hội nghị để lấy các biểu quyết của tham dự viên về đề tài tham luận. Đơn cử những Quy Ước Căn Bản trình bày trong Đề tài 1 của GS Song Thuận dù là công trình nghiên cứu công phu vẫn còn là những đề nghị, không hơn không kém vì không có biểu quyết nào đưa các Quy Ước đó thành những biểu quyết được chấp thuận của Hội Nghị Thống Nhất Chính Tả tại Hải Ngoại Năm 2018.

Trong bối cảnh đó, thành quả của Hội nghị năm 2018, qua các thảo luận sôi nổi của hàng trăm tham dự viện trong hai ngày Hội Nghị, Ban Đúc Kết ghi nhận đa số tham dự viên biểu quyết và đồng thuận như sau:

  • Giữ nguyên “Bảng Chữ Cái” tiếng Việt gồm 23 chữ cái (hay 40 chữ kể cả chữ biến âm và phụ âm ghép). Không chấp nhận thêm các chữ F hay chữ J vào bảng chữ cái;
  • Đánh dấu trên âm chính hay chủ âm (đối các vần oa, oe, uy, các chữ a, e, y là âm chính). Cánh đánh dấu này còn gọi là “đánh dấu theo ngữ âm học”;
  • Không chấp nhận sự thay đổi hay huỷ bỏ một trong các chữ “i” và “y” vì cả hai chữ này đều cần thiết để viết chữ Việt; và

4- Sử dụng tiếng Hán Việt (còn gọi là tiếng Việt gốc Hán) sao cho đúng ý nghĩa.

ĐỀ TÀI 1. NHỮNG PHỨC TẠP TRONG CÔNG VIỆC PHÁT TRIỂN TIẾNG VIỆT.     HG Đỗ Thông Minh

Đúc kết viên:  PHẠM KIM LONG,  Ph.D.

***

Tóm Lược:       NBK Đỗ Thông Minh trình bày những chữ mới xuất hiện từ trong nước nhưng lưu ý rằng có những chữ thực ra đã có từ lâu như là bức xúc, và phân biệt từ dùng đúng sai, các đảo ngữ, đặc trưng của tiếng Việt; tổng quát về việc dạy tiếng Việt tại hải ngoại.  Sau cùng diễn giả nói về nhu cầu cần một cơ sở như Hàn Lâm Viện.

Phần thảo luận:  phần lớn các tham  luận viên đều đồng ý rằng: Nên giữ gìn sự trong sáng cúa tiếng Việt truyền thống. Việc sử dụng các từ mới gây hỗn loạn trong ngôn ngữ tiếng Việt.  Phiên họp thảo luận và đồng ý tám điểm như sau:

  1.  “Bức xúc” là chữ đã có từ nhiều năm trước thời việt cộng, nhưng từ thời việt cộng thì được dùng một cách bừa bãi.
  2.  “Vô Hình Trung” thì đúng hơn “Vô Hình Chung” theo ý nghĩa của chữ này.
  3.  “Viện Bảo Tàng” hay “Bảo Tàng Viện” cũng đều dùng được nhưng tùy trường hợp.
  4.  “Úy Kỵ” là lo sợ và e dè.  Kết quả chưa được xác định rõ ràng tại Hội Nghị.
  5.  Chỉ nên viết hoa cho những chữ tên riêng.  Thí dụ “Chùa Từ Đàm” hay “Nhà Thờ Đức Bà” nên viết hoa vì chữ “Chùa” và “Nhà Thờ” trong trường hợp này được xem là một phần của tên riêng của các cơ sở tôn giáo đó.
  6. Không nên phân biệt “Hán Việt” hay “Việt Hán” vì những chữ đó đã được Việt hóa thành Việt ngữ làm cho tiếng Việt trở nên phong phú hơn.
  7.  Những tên địa danh như New York, Washington DC…thì nên dùng chữ nguyên gốc từ ngoại ngữ.
  8.  Nên thống nhất cách dùng các ngoặc đơn, ngoặc kép, ngoặc vuông, dấu chấm than, dấu chấm hỏi, v.v…

ĐỀ TÀI 2.  QUY ƯỚC THỐNG NHẤT CHÍNH TẢ CHỮ VIỆT

GS Nguyễn Song Thuận

Đúc kết viên:  Lê Anh Dũng

                      Tóm Lược:  GS Song Thuận đề nghị phương pháp và mẹo luật được áp dụng cho việc thống nhất chính tả với chủ trương viết chính tả theo ý nghĩa và sự phân biệt, không theo cách phát âm, dùng các mẹo đội nón, mẹo dùng sức, mẹo hỏi ngã:  Cô Huyền mang nặng, ngã đau, Cậu ngang sắc mắc, hỏi sao thế này?  Diễn giả đề cập các vần tiếng Việt đơn, ghép đôi, và ghép ba, cùng 16 vần có bốn chữ cái thông dụng, cách tách vần và ghép vần.  Diễn giả trình bày năm quy ước viết chữ Việt

  1.  Quy ước phát âm phân biệt tên chữ và âm chữ
  2. Quy ước đánh dấu tiếng Việt
  3. Quy ước viết hoa và phiên âm tên người
  4. Quy ước viết y dài, i ngắn
  5. Vị trí các dấu câu

Phần thảo luận:  các tham luận đều đồng ý

  1. nên phân biệt nghĩa lý và từ nguyên của mỗi từ ngữ sao cho dễ hiểu dễ nhớ;
  2. y dài là một nguyên âm khi đứng một mình như y phục, y tế.
  3. Áp dụng mẹo nhớ y dài trong các từ gốc Hán Việt  “Học Mau Lên Kẻo Ta quên” H M L K T Q

Các tham dự viên thảo luận sôi nổi nhưng không đồng ý là cần có biểu quyết về các quy ước vì đó là công việc của một Hàn Lâm Viện.  Mặc dù đã có đề nghị nêu ra nên đúc kết với biểu quyết, nhưng không được đa số tán đồng.

1 – Tham Dự Viên NC Lượng: Y, Nguyên âm thứ 6:   Tham Dự Viên TL: Có thể là nguyên âm hay phụ âm

2 –  I là I mà Y là y chứ không lộn xộn

GS Thuận: Nguyên âm phải có nghĩa – y đứng một mình hay Hán Việt

3 – chữ quý hay quí –

4 Thầy Bích: theo thói quen về y hay I

5 – gốc La-tinh: thư viện Mã Lai, các cha nghe theo âm

6 – 2 lần I thành y

7 –  tách chữ như thế nào để diễn tả được chữ đó

8 – BS Sơn: Nên cho nhiều thí dụ – trả lời: chỉ đề nghị quy ước

9-  Phải cần nhiều năm bàn cãi

10- Tham Dự Viên Yên Sơn TX: Nên đưa ra nguyên tắc chung

11-  Song Thuận: Phương pháp so sánh chung

12- viết hoa – Ngày tháng năm – tên riêng

Biểu quyết:

âm oa – ao – oe đánh dấu ở chữ nào – chữ cuối

ĐỀ TÀI 3.  MỘT SỐ ĐIỂM CHÊNH LỆCH GIỮA CHÍNH TẢ VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT         GS Trần Chấn Trí, Ph.D

Đúc kết viên:  Huỳnh Trâm Anh

          Tóm Lược:  GS TS Trần Chấn Trí nhận xét những điểm chênh lệch giữ chính tả và ngữ âm trong tiếng Việt là một biểu hiện của tính cách tương đối của chính tả tiếng Việt.

  1. Một âm được biểu hiện bằng nhiều chữ cái như là âm /k/ được biểu hiện bầng ba chữ cái “c”, “k” và “q” ví dụ như “c” cá cắn câu co cô cu cư; tác, túc, tốc; như “k” kinh kỳ kẹo kết; như “q” quà, quý, quân;
  2. Một chữ cái được biểu hiện bằng nhiều âm ví dụ như chữ “a” được dùng để biểu hiệu ba âm ví dụ như là nguyên âm /a/ của vần mở ca, la, qua, hoa;  biểu hiện nguyên âm [ɐ], và biểu hiện bán nguyên âm [ə];
  3. Có chữ mà không có âm như âm /g/ được biểu hiện bằng chữ cái “g” trước các phụ âm giữa và sau ga, gân, go, gô … và bằng chứ ghép “gh” trước các phụ âm trước ghe, ghê, ghi
  4. Có âm mà không có chữ như âm /m/ ở cuối vần.

Phần thảo luận:  Bài thuyết trình khá thống nhất với quy định về chính tả và ngữ âm tiếng Việt.  Đúc kết viên Trâm Anh ghi nhận có vài câu hỏi được đặt ra làm sáng tỏ với giảng nghĩa thêm của diễn giả.  Bên cạnh đó, có một số thắc mắc từ tham dự viên, nhưng đều được giải đáp thoả đáng.

Giáo Sư Phm Văn Hải đề nghị Giáo Sư Trần Chấn Chí xem xét lại âm lướt.

Ví dụ: ư — cười , âm “ư “được xem là lướt.

trong chữ “ cười”.

Kết luận chung:  Chữ tiếng Việt không được coi là “ nghe sao viết vậy”, nhưng cần theo quy luật.

ĐỀ TÀI 4.  THỐNG NHẤT CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT VÀ NGỮ ÂM CỦA PHƯƠNG NGỮ BA MIỀN    Cao Văn Hở, Ph.D            hvc_bus@yahoo.com

Đúc Kết Viên:  Võ Minh Phượng

Tóm lược: Trong đề tài này, GS Cao văn Hở nhấn mạnh việc thầy cô là những chiến sĩ văn hóa, bảo vệ và giữ gìn tiếng Việt cho thế hệ sau. 

GS cũng trình bày cặn kẽ về âm tiết. Tiếng Việt là một ngôn ngữ âm tiết tính (nói một hơi thôi). Âm cuối (phụ âm) thay đổi khiến cho ngôn ngữ được thêm phong phú. Chúng ta cần lưu ý và huớng dẫn cho các học trò có thể tìm hiểu sâu rộng cũng như biết đến những người đã và đang nghiên cứu về tiếng Việt, để các em có thể học hỏi thêm từ những vị đã bỏ tâm trí ra để tìm tòi và truyền bá, diễn đạt những âm tiết của tiếng Việt.  GS đưa ra một số dẫn dụ cụ thể trong văn chưong như bài “Thu Điếu” của Nguyễn Khuyến, hay tác phẩm “Hồn Bướm Mơ Tiên” của Khái Hưng, hoặc những công trình soạn thảo công phu cho “Đệ Tam Cộng Hòa”, cho xã hội Việt Nam mai sau khi không còn Cộng Sản như tài liệu “Hiến Pháp Dân Chủ cho Đệ Tam Cộng Hòa” của GS Cao văn Hở.  GS khuyên các Thầy cô nên mở những Sổ Tay Âm tiết sống cho chính mình cũng như huớng dẫn cho các học sinh tập dùng những Sổ Tay Âm tiết để trau dồi, có thêm vốn liếng về âm tiết.  Mọi thảo luận và hướng dẫn cách thiết lập Sổ Tay âm tiết: xin liên lạc qua e-mail  hvc_bus@yahoo.com.

TS Cao Văn Hở mở đầu bài thuyết trình bằng nhận định rằng

1        Ngôn ngữ riêng là một thành trì kiên cố giúp cho dân tộc Việt chống sự đồng hoá của ngoại bang từ phương Bắc.

2        Các Thầy cô đang giảng dạy tiếng Việt cho các con em, đang đảm nhận vai trò của những chiến sĩ văn hoá giữ gìn tiếng Việt cho thế hệ sau.

3        Đặc điểm của Tiếng Việt và chữ viết Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập (isolating language), tức là một ngôn ngữ cách thể, mỗi tiếng mang một âm tiết được phát âm tách rời nhau.  Âm tiết của mỗi tiếng được phát ra với một thanh điệu và tách rời với âm tiết khác.  Tiếng Việt là một ngôn ngữ âm tiết tính. Mỗi âm tiết được phát âm liền một hơi, có thể phân tách là một cấu tạo lắp ghép gồm từng bộ phận.

4        Diễn giả nhấn mạnh về cấu tạo âm tiết tiếng Việt và đề nghị đó là phương cách dễ hiểu để làm quen với cơ cấu tiếng Việt một cách mau chóng.  Biết được cấu tạo âm tiết và 4 loại vần của tiếng Việt – vần đơn, vần ghép đôi, vần trơn và vần cản là có thể nắm vững, hiểu được nền móng căn bản của cách đọc tiếng Việt và viết chữ Việt một cách nhanh chóng.

Hội luận  Phần thảo luận và câu hỏi cùng trả lời của diễn giả:

  1.      Về sắc thái ngữ âm ba miền, diễn giả không chủ trương phải thay đổi cách phát âm của từng miền, nhưng cần viết đúng chính tả.  Đa số tham luận viên tán đồng giải pháp này. Thêm nữa, có một số ý kiến cho rằng khi việc viết đúng chính tả, lâu ngày, sẽ đưa tới sự giảm bớt cách phát âm sai trong phương ngữ.
  2.      Đáp ứng câu hỏi của tham dự viên về thanh điệu hỏi ngã của chữ viết tiếng Việt, diễn giả nêu ra chín (5) quy lệ căn bản cho tiếng Hán Việt và tiếng Nôm thuần Việt, ghi trong Cẩm Nang hội nghị.

ĐỀ TÀI 5.  PHỤ ÂM TRONG TIẾNG VIỆT   –   GS Trần Minh Tâm, Ph.D                

 

Đúc kết viên:  Huỳnh Trâm Anh

Tóm lược: GS Trần Minh Tâm mở đầu bằng định nghĩa phụ âm và tính cách phụ thuộc vào nguyên âm.  Diễn giả phân loại ba loại gồm 17 phụ âm đơn, như là c, n, 10 phụ âm ghép đôi như là ch, ng, và 1 phụ âm ghép ba  ngh.  Về vị trí, phụ âm có thể ở vị trí đầu của một chữ, vị trí cuối của một chữ, và vị trí đầu hay cuối cúa một chữ.

                      Diễn giả đề cập tới vài khả năng thay đổi một vài chữ cái phụ âm trong tiếng Việt với những thuận lợi và bất tiện.

                        Phần thảo luận: chỉ có 1 câu hỏi đặt ra:

Có nên thay đổi “ph—-> f,     gi—-> z”

Sau nhiều tranh luận từ tham dự viên cũng như trao đổi với nhau. Kết quả sau cùng là đại đa số không muốn thay đổi “ ph—-> f, gi——> z”

Như vậy vể chữ cái của tiếng Việt vẫn giữ nguyên 24 chữ cái.