Chiều Thơ Nhạc Dương Thiệu Tước & Dương Hồng Anh
Chiều Thơ Nhạc Dương Thiệu Tước và Dương Hồng Anh được tổ chức trang trọng tại phòng hội văn nghệ NT Studio, Westminster, để tưởng nhớ vị nhạc sĩ tài ba Dương Thiệu Tước, đồng thời để vinh danh và mừng thọ 90 niên kỷ của nữ sĩ Dương Hồng Anh, người em của GS. Dương Thiệu Tước. Cả hai đều thuộc gia tộc danh giá Dương Khuê và Dương Lâm. Nhân dịp này Tiến Sĩ Trần Huy Bích, vị giáo sư cố vấn thi ca văn học cho nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật sẽ giới thiệu thi tập mới toanh thứ 6 của Hồng Anh nữ sĩ, được ra mắt đồng hương tại Nam California. Một hứa hẹn thi ca văn học, với sự góp mặt của ngâm sĩ Bích Ty Chi Bảo, người cộng tác trong chương trình Thi Văn Tao Đàn của Đinh Hùng – Thanh Nam (trước năm 1975) sẽ diễn ngâm thơ mới của Thi sĩ Dương Hồng Anh. Ngoài ra, Nhạc sĩ Võ Tá Hân, nhạc sĩ sáng tác và là một cầm thủ kiệt xuất về Tây Ban Cầm Cổ Điển, cũng là môn đệ “cục cưng” của GS. Dương Thiệu Tước tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn (1962-67); sẽ tâm tình về những kỷ niệm về Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và trình bày ngón đàn Tây Ban Cầm góp vui cho chương trình. Chương trình âm nhạc đặc sắc do nhóm âm nhạc Tiếng Thòi Gian, hướng dẫn bởi Ca nhạc sĩ Christina Lâm Dung giới thiệu những ca khúc vượt thời gian của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ban nhạc phụ trách phần âm nhạc cho chương trình là hai nhạc sĩ Quốc Sĩ – Duy Nhật. Emcees: Bích Trâm, Ngô Thiện Đức và Nhật Uyên.
Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thòi Gian xin kính mời quý đồng hương thân thương hãy đến với Chương trình Chiều Thơ Nhạc Dương Thiệu Tước và Dương Hồng Anh. Vào Cửa Tự Do *.
Trân Trọng Kính Mời.
Ban Tổ Chức: Lâm Dung, Khánh Lan, Mộng
Thủy, Bích Ty. Minh Châu, Mai Hương,
Nhật Uyên, Bích Trâm, Trần Mạnh Chi, Phạm Hồng Thái, Nguyễn
Phước Hồng, Ngô Thiện Đức, Henry CSUF và ThụyVy.
* Có thức ăn nhẹ (light refreshment).
———————————————————————————-
Thi Ca Dương Hồng Anh.
Cô em Minh Châu, tức nhà thơ Vương Ngọc Châu, ghé thăm nữ thi sĩ Dương Hồng Anh. Sau đó tôi mới biết Hồng Anh nữ sĩ có gửi tôi 4 thi tập là Tiếng Thầm, Tình Thu, Vương Vấn Hồn Quê và Sợi Nhớ Sợi Thương. Xem phần tiểu sử của tác giả ở trang bìa sau các sách thì nhà thơ Dương Hồng Anh mang tên tộc là Dương Nguyệt Anh, tên hiệu là Dương Hồng Anh. Điều nổi bật bà chính là cháu nội của thi sĩ nổi tiếng Dương Khuê. Vậy Dương Khuê là ai ?
Tôi xin ghi rõ về cụ Nội tổ của
nhà thơ Dương
Hồng Anh. Vì nhiều
thân hữu
thế hệ sau 1975 có thể cần
chi tiết này. Đây là đôi nét…
Dương Khuê (楊奎, 1839-1902), tự: Giới
Nhu, hiệu Vân Trì, là
quan nhà Nguyễn,
và là nhà thơ Việt
Nam ở thế kỷ 19. Ông là người ở làng Vân Đình, huyện Sơn
Minh, phủ Ứng Hòa, tỉnh
Hà Đông (nay thuộc
thị trấn Vân Đình, huyện Ứng
Hòa, Hà Nội). Xuất
thân trong một
gia đình Nho gia vọng
tộc. Ông là con cả Đô ngự sử Dương
Quang, và là anh ruột của
danh sĩ Dương Lâm (1851–1920). Dương
Lâm làm quan, từng giữ chức Phó Tổng
tài Quốc sử quán nhà
Nguyễn, Chủ bút báo Đồng
Văn… Về sau ông xin cáo quan về mở trường dạy học tại quê nhà. Ông
là người
tao nhã, yêu nước,
có tài văn
chương, và là một nhà giáo rất
giỏi. Trong số các cháu nội của
hai ông (Dương Khuê và Dương
Lâm), có những người nổi
tiếng như: nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Giáo sư-Tiến sĩ Dương
Thiệu Tống, nhà thơ Dương
Tuyết Lan, nhà khoa học Dương
Nguyệt Ánh, nhạc sĩ Dương
Thụ, nhạc sĩ kiêm thi sĩ Dương
Hồng Kỳ, bác sĩ ngành tim mạch
Dương Hồng Tạo,…
oOo
Trở lại với danh tài Dương
Khuê là người văn hay, chữ tốt.
Năm 1864, ông đỗ Cử nhân (cùng
khoa này có Nguyễn
Khuyến đỗ Giải
nguyên). Năm Mậu Thìn (1868), thời
vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Tiến sĩ. Đường hoạn lộ,
thuở ban đầu,
Dương Khuê được bổ làm Tri phủ Bình Giang (Hải Dương),
rồi thăng làm Bố chính. Vào đầu
thập niên bảy mươi của
thế kỷ 19, tay lái buôn Jean Dupuis uy hiếp các quan chức
người Việt ở Bắc Kỳ để tự do
sử dụng sông Hồng,
ông ở
trong nhóm những
sĩ phu cương quyết chống lại. Ông dâng sớ về
triều xin có thái độ
quyết liệt với người Pháp, bị
vua Tự Đức
phê là “bất
thức thời vụ” (không biết
thời cuộc), rồi bị giáng xuống
chức Chính sứ sơn
phòng lo việc
khai hoang. Năm 1873, quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần
thứ nhất. Sau khi thương thuyết,
họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế,
thì Dương
Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng. Năm 1878, nhân lễ
“ngũ tuần khánh thọ
” của mình, vua Tự Đức xuống
chỉ cho ông làm Đốc học
Nam Định.
Sau đó, ông lần lượt
trải các chức vụ
quan hành chính như: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình. Năm 1897, Toàn quyền
Paul Doumer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước
Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guồng máy cai trị của
Chính phủ bảo hộ,
thì Dương
Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng
hàm Thượng
thư bộ Binh.
Khi ông mất
(ngày 6 tháng 3 năm Nhâm Dần,
1902), nghe tin buồn bạn thân ra đi, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn
Khuyến đã làm bài
thơ bất hủ Khóc Bạn
(Khóc Dương
Khuê) khi tang viếng.
Bài thơ được vào văn học sử. Bài thơ có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng
thể thơ song thất lục bát, giọng
thơ réo rắt
thấm đầy lệ lòng, gồm có 38 câu thơ. Mở đầu bài thơ là một tiếng
than thở xót xa bùi ngùi:
Bác Dương
thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng
ta.
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) khóc bạn cũng
là tự khóc mình,
giọng thơ u uẩn thiết tha. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, cô đơn.
Cuộc sống trở nên chán chường,
vô nghĩa:,
nhất là 2 câu sau rất
phổ thông ở các bàn
tiệc sau này:
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải
không tiền
không mua.
Khóc Dương Khuê (1839-1902) cho thấy một tình bạn đẹp và cảm động của giới nho gia thuở trước. Sau hơn một thế kỷ, chúng ta vẫn thấy nỗi bùi ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Ai chẳng biết chán đời là phải”…
Tác phẩm của Dương Khuê để lại có một số bài ca trù, bài văn, câu đối, trướng… Có lẽ nên đề cập bài Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết,… bài ca trù nghe thanh thoát, bông đùa, dí dỏm và hóm hỉnh.
Giới thiệu một bài ca trù dưới đây là bài ca trù tiêu biểu và nổi tiếng của Dương Khuê:
Gặp lại cô đầu cũ
Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!
Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời,
quân thượng
thiếu,
Kim quân hứa
giá, ngã thành ông
Cười cười nói nói thẹn thùng,
Mà bạch
phát với hồng
nhan chừng ái ngại.
Riêng một
thú Thanh Sơn đi lại,
Khéo ngây ngây dại dại với tình.
Đàn ai một tiếng dương tranh…
Hà Nội tức cảnh
Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ,
canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Tiếng chày An Thái, mặt gương
Tây Hồ.
bài thơ này nằm trong cuốn Vân Trì
thi thảo.
Dương Hồng Anh làm thơ ở tuổi rất sớm, bà tập tểnh làm thơ năm 16 tuổi (năm 1947), nhưng cho ra thi tập đầu tay Hương Mùa Chinh Chiến vào năm 1952 tại Hà Nội. Dương tác giả cho thơ ở nhiều đề tài, nhiều phạm vi như thơ về quê hương, tuổi học trò, thơ thiền, xã hội, chiến tranh, về gia đình, tôn giáo, tình yêu, về thiên nhiên,… Xem qua 4 thi tập của bà là Tiếng Thầm, Tình Thu, Vương Vấn Hồn Quê và Sợi Nhớ Sợi Thương thí sách được trình bày rất trang nhã. Thi tập Tiếng Thầm gồm có 67 bài thơ, Tình Thu 81 bài, Vương Vấn Hồn Quê có 84 bài và Sợi Nhớ Sợi Thương gồm 86 bài thơ.
Thi tập Tiếng Thầm ở trang 1, bài sáng tác năm 2013 mang trùng tên
Tiếng Thầm xa quê hương
gần 40 năm nỗi
nhớ quê hương
vẫn vấn vương tâm thức,
tác giả
cho những lời thơ mênh mang nỗi
nhớ thẫn thờ bước chân nơi
quê người…
Chiều về nhớ phố Bolsa
Đi tìm chút nắng
quê nhà năm xưa
…
Thời gian trắng biển sương mù
Hiên khuya gọi
gió về ru
tiếng thầm.
Trong bài điểm thi tập
qua bài viết
Sau Năm Năm, nhà văn Bùi Bích
Hà đã nhận xét về nhà thơ Dương
Hồng Anh và thi ca của Hồng
Anh nữ sĩ, xin trích đoạn như
sau:
“Năm 2012, tôi được bà gửi tặng
cuốn thơ “Chiều Bến Đợi,” thi tập
thứ ba sau tác phẩm đầu tay “Hương
Mùa Chinh Chiến” xuất bản tại Hà Nội năm 1952, viết
chung với ba nhà thơ nữ đương thời;
sau tác phẩm
thứ hai “Từ Phương
Trời Xa,” xuất bản tại
Hoa Kỳ, California, năm
2010, là cuốn mở màn cho chuỗi sáng tác
phong phú, liên tục mỗi năm tiếp theo cho tới
cuốn mới nhất, ra mắt khách yêu thơ mùa Thu năm 2017…. Sau năm năm, nhìn lại nhau, bà đi với bước
chân cẩn
trọng hơn, nhưng dáng dấp và nụ cười
trên môi bà không già thêm. Vẫn ánh nhìn đằm
thắm. Vẫn nụ cười không thành tiếng
mà nghe như có ai khúc khích. Vẫn bàn tay rụt rè muốn nói điều gì nhưng chừng
như e ngại. Bà tặng
tôi cuốn
thơ thứ tám, “Tình
Thu,” gồm
81 bài thơ
nhiều thể loại, dàn trải
trên 134 trang giấy màu ngà
thanh nhã, là món
quà đón Xuân
nhiều ý nghĩa,
nhiều hương vị mà cả người
nhận lẫn người cho cùng chia nhau niềm
vui:
Vui đón Xuân về ta chúc nhau
Thơ còn hẹn mãi với mai sau
Run tay ngọn bút không ngừng
chảy
Có nghĩa là ta sống
rất giàu
…”
Người viết nhớ rằng thi sĩ Hà Huyền
Chi cho là “Thơ là đỉnh
cao nhất của văn chương”.
Còn theo nhà thơ Alfred de Musset
cho rằng thơ là nỗi cảm xúc với luận điểm nổi
tiếng: “Hãy đập vào trái
tim, thiên tài là ở đó!” thì
thi sĩ Paul Valéry lại
cho “Thơ là ngày hội tưng
bừng của trí tuệ”. Những ý kiến khác như thi sĩ Hà Nguyên Du thì: “Thơ là nghệ thuật sắp xếp
ngôn từ phát xuất từ nội tâm”.
Nhà thơ Dương
Tử quan niệm: “Thơ là một hình thức
ngôn ngữ khơi mào do trí tưởng tượng sáng tạo
ra một tác phẩm văn chương”,,… suy luận
qua nhiều trang thơ trong những thi tập của thi nhân Dương
Hồng Anh đã minh chứng
những tư tưởng nêu trên.
Gặp nhau vui vẻ quá
Ta lại về với thơ
Trời xanh, xanh tươi lá
Nghe em kể truyện xưa
…
Những vần thơ chung thủy
Dệt mộng với thời gian
Thơ ơi! hoa vẫn nở
Hoa thơ nở ngút ngàn
(Đôi dòng với thơ, Dương
Hồng Anh, Tiếng Thầm trang 28-29)
Nếu tuyên ngôn về thi ca của người thi sĩ nói rằng thơ là sự tự phát khởi ra từ con tim, ta hãy đọc hai tư tưởng khác của hai nhà thơ Mỹ như sau: “Thi ca là một cách hay để thể hiện nỗi xúc cảm như vui, buồn, giận dữ, lo lắng. Đó cũng là một cách mà chúng tôi chia sẻ với những người khác, để giúp họ với những cảm xúc đó.”. (thi sĩ Mattie Stepanek).
Và ý tưởng nét thẩm mỹ của
thơ được xác định
theo nhà thơ
Edgar Allan Poe: “Tóm lại,
tôi sẽ định nghĩa
thơ ca là sự sáng tạo nhịp
nhàng của Cái đẹp”.
Đọc Dương
Hồng Anh, thi ca của bà dù ở cuối mùa niên kỷ
hay trong thời gian hay không
gian của ánh hoàng hôn
tuổi đời vẫn
cho thi nhân nỗi mộng mơ, trăn trở đắm say như những
dòng thơ
sau minh chứng:
Thơ tôi là những hao gầy
Những đêm trăn trở, những
ngày vẩn vơ
Nhìn đời nửa
thực nửa mơ
Nghiêng tay mực
gió văn thơ cuối mùa.
(bài Thơ Tôi, Tình
Thu trang 78)
Trong thi tập “Sợi Nhớ Sợi Thương” nơi trang 28, bài đoản thơ 4 dòng Ta Còn Để Lại Gì Đây, thơ cho thấy chất triết lý thiền tính nhìn về thiên nhiên hữu cảnh.
Ta còn để lại gì đây
Phù du một
thoáng đong đầy sắc
không
Thuyền từ nhẹ bước thong dong
Hoa Ưu Đàm nở ngát dòng
sông xanh.
Những câu thơ trên cho thấy
nghệ thuật phô diễn
thể sáu tám. Trần
Trọng Kim gọi thơ là nghệ
thuật, là dùng lời nói tao nhã để biểu
diễn tình ý ra cho đẹp, tư tưởng ra cho hay, và có thể ngâm nga được.. Khi nói về thơ, mỗi
thi sĩ thường có những
nhận xét khác nhau. Tuân Tử nói: Thi dĩ ngôn chí, dùng thơ để nói lên cái chí hướng
của mình. Xuân Diệu gọi
thi sĩ nghĩa là ru với
gió, mơ
theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
“Cõi thơ là cõi bồng
phiêu” (Bùi Giáng).
“Thơ là nghệ
thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Roman Jakobson). Và “Làm
thơ là tạo
ra một hành tinh thứ
hai bằng ngôn ngữ”
(Chế Lan Viên ).
Thơ là nghệ
thuật lấy âm thanh hay hình ảnh chất
chứa trong đó. Hãy xét
trường hợp thi ca Dương Hồng Anh, cũng trong thi tập “Sợi
Nhớ Sợi Thương” trang 20, thi nhân
cho thêm một đoản
thi như sau:
Thu đi thả lá đầy sân
Cho hồn tôi cứ bâng khuâng tháng ngày
Tìm về sông núi đâu đây
Bước tha hương trải sầu mây mấy mùa.
Ngôn ngữ thi ca phản ảnh sự phong phú của ngôn ngữ của tác giả khi sử dung thi từ, thật vậy thi ca Dương Hồng Anh khéo léo chắt lọc tinh túy của ngôn ngữ bà chắt chiu từng con chữ sử dụng. Điều này cho thấy sự chắt chiu ý tưởng trong nét sáng tạo thi ca của nhà thơ, và bà đã khám phá và sáng tạo ra những nét bóng bẩy của ngôn ngữ thơ, vườn thi ca nhiều thêm mỗi ngày như vậy của nhiều nhà thơ, từ đó góp phần làm giàu có ngôn ngữ trong văn học và đời sống. Ví dụ ý tưởng “Thu đi thả lá đầy sân” cho ta sự liên tưởng thi ca qua hình ảnh, những biểu tượng của thơ được tạo nên từ thị giác khiến ngôn ngữ thi ca không chỉ kích thích trí tưởng tượng của con người, nó còn khiến con người vững tin rằng ngoài những hình ảnh thế giới thiên nhiên bao la mà mình thấy được, cảm nhận được, còn những hình ảnh mà mình nghiệm thấy trong trí não.
Xin xem bài thi ca khác mà tác giả gửi gấm về quê hương,
bài “Xin Gửi
Quê Hương
Một Tấm Lòng”, trích đoạn
thi ca Dương Hồng Anh:
Xin gửi quê hương
một tấm lòng
Ca li nhớ mãi nắng
Sài Gòn
Tình thơ dào dạt bao đêm vắng
Hoa lá bên trời có biết không
….
Xin gửi quê hương
khúc nhạc
chiều
Bao la tâm sự nhớ quê nghèo
Việt Nam ơi những gì chưa nói
Vương hồn thơ – thương nhớ nhiều.
(thi tập Vương Vấn Hồn Quê, trang 79)
Ngẫm nghĩ về ngôn ngữ thi ca của Dương thi nhân còn nhiều bài hay như ví dụ khuôn mẫu thi ca cho các trường học dạy chữ Việt. Qua những trích dẫn tiêu biểu về ngôn ngữ thi ca Dương Hồng Anh, mong rằng Dương nữ sĩ sẽ tiếp tục cho ra nhiều áng thơ hay trong sự dự định thực hiện nhiều sách in sắp tới. Do vậy thì bài viết này người viết đã có được dịp khám phá ra nét tinh khôi của giá trị của ngôn ngữ thi ca và những ý tưởng về thi ca thật diễm tuyệt của một nữ sĩ có hơn 70 năm sinh hoạt thi ca (1947- 2019). Trong ngôn ngữ của đời sống, thơ là những dòng chữ đi từ con tim đến khối óc. Nếu con tim rung động thì trí óc sắp xếp sự sáng tạo chữ nghĩa, đó là ý tưởng của nhà thơ. Xin vinh hạnh giới thiệu thi sĩ: Dương Hồng Anh.
Trần Việt Hải, Los Angeles, ngày 20 tháng 10, năm 2019.
Links: https://www.facebook.com/namhai.tran.75839/…/408109510089209
Dương Thiệu Tước và… Ngọc
Lan (Quỳnh Giao):
https://thanhthuy.me/…/duong-thieu-tuoc-va-ngoc-lan-quynh-…/
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước: Gửi hồn dân tộc
trên âm điệu
phương Tây:
https://nhacxua.vn/nhac-si-duong-thieu-tuoc-gui-hon-dan-to…/
Nguyệt San Cỏ Thơm: Đôi Nét Về Nhạc Sĩ Dương
Thiệu Tước:
http://cothommagazine.com/index.php…
Những Ca Khúc Vượt
Thời Gian của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước:
https://dotchuoinon.com/…/tan-nhac-vn-ca-khuc-vuot-thoi-gi…/