Văn Thơ,  Vương Trùng Dương

Rừng Phong, Thu & Kỷ Niệm Xưa

Câu thơ “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du (1766-1820) vào bối cảnh chia tay “Người lên ngựa, kẻ chia bào” giữa Thúc Sinh và Vương Thúy Kiều khi còn học ở lớp Đệ Tứ chỉ hiểu mơ hồ qua lời giảng dạy…

Vào thời điểm đó, ở Việt Nam và Tàu không thấy đề cập đến cây phong, chỉ mường tượng qua Truyện Thúy Kiều của cụ Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim, ấn hành năm 1927 và Truyện Kiều Chú Giải của cụ Lê Văn Hòe, ấn hành năm 1953.

Hình ảnh cây phong dẫn câu thơ trong vở kịch Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ vào cuối thế kỷ XIII bên Tàu về mối tình ngang trái giữa chàng thư sinh Trương Quân Thụy và người đẹp Thôi Oanh Oanh.

Trong đoạn khúc Trường Đình Tống Biệt của Tây Sương Ký:

“Bích vân thiên

hoàng hoa địa

tây phong khẩn

bắc nhạn nam phi

hiểu lai thùy nhiễm sương lâm túy

tổng thị ly nhân lệ”

Nhà văn Nhượng Tống (1906-1949, trong quyển Vương Thực Phủ, Mái Tây (Tây sương ký), ấn hành năm 1944, dịch thành thơ:

“Bầu trời thăm thẳm xanh lơ

Đìu hiu mặt đất lơ thơ hoa vàng

Gió Tây thổi buốt can tràng

Về Nam nhạn Bắc kêu thương lạc loài!

Rừng phong ai nhuộm đỏ tươi

Đều là nước mắt những người biệt ly”.

Hai chữ “sương lâm” là “sương diệp” ám chỉ lá cây phong… Trong bài thơ Đỗ Mục có hai câu mô tả hình ảnh của rừng phong:

“Đình xa tọa ái phong lâm vãn

Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa”

Theo chú giải của cụ Lê Văn Hòe thì phong là một giống cây lá to mọc thành tán, xưa đời Hán hay trồng ở sân nhà vua. Vì thế điện vua gọi là phong đình, phong điện hoặc đền phong. Cây phong ngờ là cây bàng bên ta. (…) Sang mùa thu, thì lá bàng vàng và đổ dần sang màu đỏ sẫm. Màu ấy đặt vào đám rừng cây xanh thì nổi bật lên, rất dễ nhận. (Không hiểu các cụ ngày xưa đã dựa vào đâu để gọi như vậy). Ngay trong Hán Việt Tự Điển của cụ Đào Duy Anh, ấn hành năm 1932, cũng gọi “cây phong = cây bàng”.

Với “màu quan san” không có trong hội họa mà có tính cách tượng hình, “quan san” là cửa ải và núi non, ý chỉ nơi chốn xa xôi, cách trở, màu gây nhớ thương, u hoài trong lòng người…

Khi ở trong quân ngũ mới biết trên Quốc Kỳ của Canada có lá phong, hình ảnh cây phong (maple) để tìm hiểu thêm…

Thời gian trôi qua! Sau thời gian dài 15 năm (1975-1990) không có đầu óc lãng mạn, tháng 8/1990 khi đến phi trường Pattaya, Bangkok, Thái Lan theo diện H.O… và, những ngày tạm trú nơi nầy, tâm hồn lãng mạn bay xa đến phương trời trên xứ sở Cờ Hoa.

Khi biết được định cư ở thành phố Nashville, tiểu bang Tennessee, đây là thành phố được gọi là Country Music, cái nôi của nhạc đồng quê. Mùa thu sắp đến, cũng là nơi lá phong nhuộm màu.

Thế nhưng cuộc sống tha hương ở nơi chốn mà ngày xưa trong bài Cảnh Nhàn của cụ Nguyễn Bỉnh Kiêm cho rằng: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn, người đến chốn lao xao” khi “trao ấn từ quan” để vui thú điền viên… Nhưng với tôi cảm thấy nơi vắng vẻ nầy không thích hợp nên sau hai tháng, từ Đông sang Tây nơi “gió tanh mưa máu” bằng xe bus Greyhound xuyên qua các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ.

Những ngày vào thu ở Nashville đẹp tuyệt vời với những hàng phong nhuộm đó hai ven đường. Đẹp tuyệt vời, đẹp ngây ngây ngây nhưng trong trong tâm hồn kẻ “chân ướt chân ráo” xa xứ, có lẽ đến lúc “màu quan san” chia tay!

Tuy thời gian ngắn ngủi ở nơi đó nhưng tôi gặp được vài người bạn trẻ, tốt bụng và chân tình, thỉnh thoảng vẫn liên lạc với nhau. Nay đã về hưu, vào dịp nầy lạc chốn rừng phong.

Những ngày cuối cùng nơi nầy, anh Cảnh chở tôi đi khắp nơi để nhìn phong cảnh lá phong chuyển màu như một sự chia ly.

Khi ở Little Saigon, tôi ra Home Depot mua chậu phong về trồng để nhớ lại hình ảnh ban đầu nhưng có lẽ nó không thích hợp nên “thấy mà thương”!

Khi làm báo, hàng tuần nhận bài viết của Công Tử Hà Đông (Hoàng Hải Thủy) Viết Ở Rừng Phong… một chút gì gợi nhớ.

Little Saigon vào thu, không còn hình ảnh nơi tôi đã một thời gắn bó với Đà Lạt từ thời quân ngũ đến lúc chia ly:

“Hôm nay trời vào thu,

Đà Lạt lắm sương mù”

(Trong ca khúc Tình Người Hậu Tuyến của Thục Vũ)

Hình ảnh ban đầu nơi xứ người với rừng phong ở Nashville đã 32 năm nhưng vẫn nhớ.

Thấm thoát đã 2 năm rồi, khi tác giả Việt Ở Rừng Phong vĩnh biệt nơi đây, tôi viết bài:

Nhà Văn Hoàng Hải Thủy “Vĩnh Biệt Rừng Phong”! Bài còn trên website Việt Báo:

https://vietbao.com/a306042/nha-van-hoang-hai-thuy-vinh-biet-rung-phong-

Hơn 3 thập niên khi ở trong nơi chốn “bùn lầy nước đọng” được chú Sam “bốc” đi diện H.O mà diện “đầu trọc” gọi là “con bà Phước” nên không biết nơi nào, dù có biết nơi khỉ ho cò gáy nào trên xứ Cờ Huê cũng là ước mơ vì vậy khi ở Thái Lan biết định cư xứ có rừng phong, thành phố của nhạc đồng quê… thế mà chia tay!

Nhà văn Đức Hermann Hesse (1877-1962) với những tác phẩm nổi tiếng của ông khi được giải Nobel Văn Chương năm 1946 nên được dịch ra tiếng Việt, quen thuộc với độc giả ở miền Nam VN. Ông là người uyên bác triết lý Đông Phương qua hai tác phẩm Siddartha (Câu Chuyện Dòng Sông do Phúng Khánh & Phùng Thăng dịch) và Die Morgenlandfahrt (Le Voyage du Matin, dịch sang tiếng Việt là Hành Trình Về Phương Đông), tác phẩm nầy trùng tên bộ sách của nhà văn Mỹ Baird Thomas Spalding, Nguyên Phong dịch Hành Trình Về Phương Đông. Với câu nói của Hermann Hesse: “Bạn phải tìm được giấc mơ của mình… nhưng không giấc mơ nào tồn tại vĩnh viễn, mỗi giấc mơ lại có giấc mơ khác theo sau, và người ta không nên bấu víu lấy một giấc mơ nhất định”. Và với tôi, có giấc mơ nầy cũng mong giấc mơ khác “tha hương ngộ cố tri” cũng là lẽ thường tình của con người tỵ nạn.

Điều ngoài ước mơ khi ở trong nước với “nghiệp báo” thế mà từ lúc “về chốn lao xao” gắn bó đến nay, “nghiệp” chưa trả hết nên không biết khi nào mới “rửa tay gác kiếm” vì “không giấc mơ nào tồn tại vĩnh viễn”!

Little Saigon, Oct 2022

Vương Trùng Dương