Khánh Lan,  KIẾN THỨC TỔNG QUÁT

UYÊN ƯƠNG GÃY CÁNH (The Broken Wings)

Khánh Lan sưu tập

Kahlil Gibran là tác giả của tác phẩm Uyên Ương Gãy Cánh hay The Broken Wings, ông là thi sĩ có số lượng độc giả đông nhất trong thế kỷ 20, những tác phẩm của ông bán chạy và xếp hàng thứ ba trong mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Ký họa và tranh màu của ông được triển lãm ở nhiều nơi trên thế giới. Về mặt triết học, ông được xem như một triết gia đại chúng và là điểm hội tụ của tư tưởng Đông-Tây.

Tác phẩm của Gibran là những nguồn tư tưởng của Kitô giáo nhuốm màu sắc đông phương bí nhiệm bởi ông là con người tôn giáo kiên định với lòng mộ đạo sâu xa, ông kính ngưỡng Đức Giêsu như một tấm gương dũng cảm và hy sinh, nhân ái và lạc quan. Ông tin rằng lòng tử tế trong con người là chiếc bóng của Thượng đế, ông tin vào sự hiệp nhất của các tôn giáo. Ông kêu gọi xóa bỏ bản tính ngược đãi và lạm dụng tôn giáo thể hiện rõ trong cuốn Đám rước, ông viế :

“Đối với con người, tôn giáo giống như cánh đồng,

được gieo trồng với hy vọng, được canh tác bởi lòng ngoan đạo,

được chăm sóc bởi trí óc mông muội sợ lửa hỏa ngục.”

Do đó, ta có thể cho rằng : Văn chương của Gibran viết theo thể điệu và kiểu mẫu Kinh thánh, đặc biệt giống như sách của các ngôn sứ và Thánh vịnh trộn lẫn giữa thơ và văn xuôi. Trong các tác phẩm của Gibran, ông kịch liệt lên án những thảm họa của đất nước, những dịch bệnh khô kiệt tinh thần và gieo khốn khó vật chất trên quê hương của ông, ông hăm dọa toàn thể loài người đã gây nên tội ác. Một thứ kiến thức pha trộn cái đẹp và lòng mộ đạo mà về sau ông được biết tới như là trường phái Gibran (Gibranism).

TÓM LƯỢC CÂU CHUYỆN UYÊN ƯƠNG GẪY CÁNH

Trong tiểu thuyết thơUyên Ương Gẫy Cánh (The Broken Wings), Kahlil Gibran đưa độc giả vào hành trình qua tình yêu, sự mất mát và sự thức tỉnh tâm linh. Lấy bối cảnh ở Lebanon vào đầu thế kỷ 20, câu chuyện vượt thời gian này khám phá sự phức tạp của các mối quan hệ giữa con người và hành trình tìm kiếm sự viên mãn đích thực. Đây là một câu chuyện tình bi thảm kể về cuộc đời của một họa sĩ trẻ tên là Khalil. Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Beirut, Lebanon, vào đầu những năm 1900 khi đất nước này nằm dưới sự cai trị của Ottoman. Khalil đem lòng yêu một cô gái trẻ tên là Selma Karamy, người có vẻ đẹp quyến rũ anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Khalil và Selma đã phải vượt qua những thách thức của tình yêu, bị cấm đoán, bị ràng buộc bởi kỳ vọng của xã hội và nghĩa vụ gia đình. Dù bất chấp mọi khó khăn, họ vẫn cố gắng giữ cho tình yêu của mình luôn tươi đẹp, nhưng số phận đã an bài cho họ một hoàn cảnh của “đôi uyên ương gẫy cánh”.

Trong đó tình yêu và sự hy sinh mà con người thực hiện vì tình yêu đã thể hiệm qua mối tình yêu đích thực của Khalil và Selma, họ đã trải qua bao thử thách bởi các chuẩn mực xã hội, kỳ vọng của gia đình và sự khác biệt về tôn giáo. Cả hai đều phải đối mặt với những quyết định khó khăn và phải lựa chọn giữa tình yêu và nghĩa vụ của mình. Cuốn tiểu thuyết cũng đi sâu vào chủ đề tự do và áp bức, đặc biệt là trong bối cảnh Lebanon dưới sự cai trị của Ottoman. Trong tác phẩm The Broken Wings, cái mong muốn tự do cá nhân và nghệ thuật của Khalil bị xung đột với những ràng buộc do xã hội và sự áp đạt của gia đình Khalil. Tâm linh và sự thức tỉnh của Khalil trong “The Broken Wings” không chỉ là một câu chuyện tình yêu mà còn là sự thức tỉnh về mặt tâm linh. Qua những đấu tranh và đau khổ, Khalil bắt đầu đặt câu hỏi về bản chất của tình yêu, ý nghĩa của cuộc sống và sự tồn tại của một thế lực cao hơn.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Ước, người đã dịch cuốn Uyên Ương Gãy Cánh chia sẻ: Với những trang sách chan chứa tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên ương gãy cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai “Được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa.”

Uyên Ương Gãy Cánh được xếp vào loại sách Triết lý – Tư tưởng, thuộc dự án Tủ sách Đời người của Omega Plus. Đặc biệt là phiên bản này có bút tích đề tặng viết tay kèm chữ ký của Gibran bằng tiếng Ả Rập, một bản in đầu tiên bằng tiếng Ả Rập năm 1912, sử dụng bộ tranh của chính Gibran.

KAHLIL GIBRAN(1883-1931)

CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM

Kahlil Gibran là một tiểu thuyết gia, họa sĩ, thi sĩ tâm linh với cung giọng ngôn sứ và triết gia theo chủ nghĩa hiện sinh hữu thần. Ông sinh ngày 06 tháng 01, năm 1883 tại làng Bsharri, thuộc vùng núi Miền Bắc Lebanon. Vào thời ấy, xứ sở ấy Lebanon là một phần của Syria, chịu sự đô hộ khắc nghiệt của Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Nằm sát phía bắc vùng hoạt động chính của Đức Giêsu là Ga-li-lê.

Duyệt qua lịch sử gia đình của Gibran đã giải thích cho chúng ta hiểu về bản chất và con người của ông. Thân mẫu Gibran, bà Kamila Rameh, là con của một linh mục thuộc Giáo hội Maronite. Đây là một hội thánh Kitô giáo Đông phương chiếm đa số dân chúng tại Li-băng (Lebanon). Phát nguyên từ Syria vào thế kỷ thứ bảy và tuyên bố có nguồn gốc từ Thánh Maron (qua đời năm 407). Giáo hội Maronite lưu giữ truyền thuyết và nghi lễ cổ đại, sử dụng tiếng Aram trong phụng vụ. Sau những biệt đãi của các đoàn quân Thập tự chinh, Giáo hội Maronite hiệp nhất với Giáo hội Công giáo La Mã kể từ năm 1182 nhưng được quyền tự bổ nhiệm hàng giáo phẩm. Vì nghèo và trường học ở xa, việc học của Gibran chỉ dựa vào những chuyến viếng thăm đều đặn của các linh mục. Họ dạy ông về tôn giáo, tiếng Aram là ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng và thịnh hành trong thời Tân ước, tiếng A Rập, tiếng Syria và mở mắt cho Gibran về lịch sử và khoa học. Chính vì vậy mà ông đã bị ảnh hưởng rất nhiều về sự giáo dục của giáo hội Maronite.

Ngày 25 tháng Sáu năm 1895, năm mẹ con Gibran cập bến Hoa Kỳ. Họ định cư tại nam thành phố Boston trong một khu vực có cộng đồng người Syria và Li-băng đông vào hàng thứ hai sau New York. Vài tháng sau khi tới Mỹ, Gibran được tới trường, theo học lớp Anh ngữ dành cho trẻ em di dân. Nhờ tham gia sinh hoạt chung, khả năng vẽ và các bức ký họa của Gibran lọt vào mắt một tác viên xã hội tại trung tâm cộng đồng của khu phố, Gibran được giới thiệu cho Fred Holland Day, một họa sĩ và nhiếp ảnh gia cấp tiến của Boston. Fred Holland Day dùng Gibran làm người mẫu và bắt đầu hướng dẫn cậu về hội họa, văn học. Tại cơ sở của Fred Holland Day, Gibran cũng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng, ông được học nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương.

Năm 1898, Gibran trở lại Li-băng để theo học đọc và viết tiếng Ả Rập và hoàn tất chương trình căn bản giáo dục A Rập bốn năm tại Minh triết Học đường (College of Al-Hikmah) của Giáo hội Maronite. Năm 1902 Gibran trở về Hoa Kỳ nhưng cô em gái Sultana đã qua đời bốn tuần trước đó. Qua năm sau, tới lượt mẹ và người anh Peter của ông cũng lần lượt qua đời vì cả ba đều không thoát khỏi bệnh lao phổi, đó cũng là căn bệnh đeo đuổi Gibran lúc cuối đời.

Thiên hướng nghệ thuật dẫn dắt Gibran vào cuộc sống văn hóa của Boston, tỏ cho ông thấy thế giới phong phú của kịch trường, nhà hát và các cuộc triển lãm nghệ thuật. Năm 1904, vào ngày cuối cuộc triển lãm tranh lần thứ nhất của mình, Gibran gặp Mary Elizabeth Haskell, hiệu trưởng một trường nữ cấp tiến tại Boston và trở thành người bảo trợ mọi mặt cho Gibran trong suốt hai mươi năm về sau và là người duyệt các bản thảo tiếng Anh cho ông.

Hai năm ở Paris, Gibran học tập hội họa tại Viện Julien (Académie Julien) và Trường Mỹ thuật Paris (Ecole des Beaux Arts de Paris). Tại Paris, ông được sự chỉ bảo của nhà điêu khắc thiên tài Pháp Auguste Rodin (1840-1917. Năm 1911 Gibran về lại Boston, tới năm sau ông dọn New York và dành trọn thì giờ cho việc vẽ và viết. Từ năm 1903, Gibran bắt đầu viết các tiểu phẩm đầu tiên bằng tiếng A Rập trong đó có cuốn sách mỏng về âm nhạc Nubthah fi Fan Al-Musiqa (1905) và tập truyện ngắn Linh hồn nổi loạn (1908). Từ năm 1918 trở đi, hầu hết sách xuất bản của ông đều viết bằng tiếng An, chúng góp phần vào nỗ lực cách mạng hóa ngôn ngữ thi ca và làm ông trở thành một khuôn mặt nổi tiếng thế giới.

Năm 1920, Gibran là Chủ tịch sáng lập Văn đoàn Arrabitah, một hội văn bút tại New York gồm khoảng 12 thành viên trong đó có các văn thi sĩ A Rập như Mikhail Naimy (1889-1988), Iliya Abu Madi (1889-1957), Naseeb Arida (1887-1946), Nada Haddad (1881-1950) và Ilyas Abu Sabaka (1903-47), v.v. Họ dần dà nổi tiếng khắp thế giới Ả Rập vì các nỗ lực cách tân văn chương bảo thủ Ả Rập. Diễn đàn chính của văn đoàn này là tạp chí Al-Mahajar (Người di dân), tờ báo đầu tiên bằng tiếng Ả Rập tại New York. Những sáng tác phẩm và bài phê bình văn học của họ trên tạp chí này và các tạp chí khác tại Trung Đông đã dọn đường cho một tự do mới trong diễn đạt thi ca.

Lúc Gibran còn sống, tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn hai chục ngôn ngữ. Tại Hoa Kỳ, sách của Gibran bắt đầu tạo ảnh hưởng đặc biệt lên văn hóa đại chúng ở Bắc Mỹ kể từ thập niên 1960. Ký họa và tranh màu của Gibran, vốn được Auguste Rodin so sánh với thi sĩ và họa sĩ thần bí người Anh William Blake (1757-1827), được triển lãm khắp thế giới. Trong tác phẩm văn học của Gibran thường đề cập tới tinh thần siêu việt, nhưng chủ đề chính trong họa phẩm của ông là những hình người khỏa thân, có khuynh hướng quấn quít nhau. Là người sáng tác dồi dào thơ văn, Gibran tự tay minh họa tác phẩm bằng ký họa biểu thị cho niềm hứng khởi sâu xa của tâm hồn, tâm trí và tâm linh con người, đầy tinh thần nhân văn và tôn giáo.

Haskell cũng tặng bộ sưu tập cá nhân hơn 100 bức họa của Gibran cho Nhà Bảo tàng Nghệ thuật Telfair tại Georgia. Đó là bộ sưu tập lớn nhất của ông tại Hoa Kỳ, gồm tranh sơn dầu, màu nước, ký họa và các bản thảo viết tay. Các bài thơ và văn của Gibran, bằng tiếng Ả Rập và tiếng Anh, được nhiều học giả hợp tuyển thành hàng chục cuốn sách có nhan đề khác nhau về tình yêu, tôn giáo, tư tưởng, tâm linh ngôn sứ, v.v. Số sách viết về tiểu sử và tư tưởng của Gibran cũng lên tới hàng chục cuốn.

Công trạng của Kahlil Gibran được ghi nhận ở nhiều nơi.

  • Năm 1971, Bộ trưởng Bưu điện và Viễn thông Li-băng cho phát hành con tem mang hình Kahlil Gibran.
  • Nhà Bảo tàng Gibran được dựng lên ở Bsharri, Li-băng.
  • Vườn Kahlil Gibran được khánh thành tại Beirut, Li-băng.
  • Ngày 27 tháng Chín năm 2008, nhân dịp 125 năm ngày sinh của Kahlil Gibran, tai Quebec Canada, mở con đường mang tên Kahlil Gibran
  • Khu Trượt băng An dưỡng Bách hương (The Cedars Resort Ski) ở Li-băng mở đường trượt băng Gibran Khalil Gibran.
  • Năm 1990, Vườn Tưởng niệm Gibran được khánh thành ở Thủ đô Washington, Hoa Kỳ.
  • Tháng Chín năm 2007, tại Brooklyn, New York, khánh thành Quốc tế Học đường Kahlil Gibran (Khalil Gibran International Academy).
  • Kahlil Gibran được vinh danh ở Bucharest, Romania.
  • Một tượng đài Kahlil Gibran được dựng lên bằng đá cẩm thạch tại Cuntiba, Brazil.

Tại Việt Nam, tác phẩm của Kahlil Gibran được dịch rải rác tứ thập niên 1970 tới nay với các dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, Đỗ Đình Đồng, Trần Văn Điền, Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Yến Anh, Trùng Dương, Giả Nghiệm, Trần Văn Phương, Châu Diên, Đỗ Tư Nghĩa, Đăng Quang, v.v. và được độc giả trung niên cũng như thanh niên thuộc nhiều tôn giáo khác nhau đón nhận nồng nhiệt. Bộ sách Kalil Gibran gồm 25 cuốn, một số do Gibran viết bằng tiếng Anh, một số do các dịch giả chuyển ngữ từ tiếng A Rập sang tiếng Anh, tiếng việt. Ngoài ra, cuốn Thơ xuôi (Prose Poems) do Andrew Ghareed dịch với sự hợp tác và Lời nói đầu của Barbara Young được xuất bản sau khi Gibran qua đời. Vì khi còn sống, Kahlil Gibran tỏ ra không thích các bản dịch ấy. Bản chuyển ngữ của Anthony R. Ferris được dịch ra Việt ngữ với nhan đề gốc trong tiếng Anh có nghĩa là Các nữ thần thung lũng. Riêng cuốn Gãy cánh uyên ương (The Broken Wings), của dịch giả Nguyễn Ngọc Minh (Nxb Nguồn Sáng, Sàigòn, 1970). (Nguyễn Ước)

Kahlil Gibran và những tác phẩm nổi tiếng như Ngôn sứ, Uyên ương gãy cánh, Tâm linh toàn mãn, Nhã ca tình yêu, Mật khải, v.v…Trong bài này, người viết chỉ xin đề cập đến hai tác phẩm: Ngôn Sứ (The Prophet) Uyên ương gãy cánh (The Broken Wings).

The Broken Wings : (Uyên ương gãy cánh) trong Tủ sách Triết lý – Tư tưởng, thuộc dự án Tủ sách Đời người. Phiên bản này có bút tích đề tặng viết tay kèm chữ ký của Gibran bằng tiếng Ả Rập, sử dụng theo bản in đầu tiên bằng tiếng Ả Rập năm 1912. Sử dụng bộ tranh của chính Gibran. Theo tác giả Nguyễn Ước thì tác phẩm Ngôn sứ (The Prophet) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Gibran. Cuốn ấy về phong cách, chịu ảnh hưởng của cuốn Thus Sparke Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế) của Nietzsche. Nhưng đối cực với Zarathustra, Almustafa của Gibran là một nhân vật tôn giáo, tin vào con người và Thượng đế đồng thời lạc quan trong cuộc sống và tương lai của nhân loại. Ngôn sứ gồm 26 bài thơ xuôi, phát biểu về các vấn đề nhân sinh nhưng với tâm tình của một thi sĩ triết gia hiện sinh hữu thần. Cuốn Ngôn Sứ được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ và bán được trên 100 triệu ấn bản. Từ thập niên 1960. Cuốn Ngôn sứ được xem như một loại kinh thánh hay sách thủ bản cho phong trào phản văn hoá (counter-cultural movement) của giới trẻ Hoa Kỳ và trào lưu Thời đại mới (The New Age). Thậm chí có giáo sĩ Kitô giáo dùng nó trong thánh lễ hôn phối. Cuốn sách này bán chạy và được ưa chuộng vào những năm 1930 và đặc biệt là trong trào lưu phản văn hóa những năm 1960.

Gibran qua tác phẩm The Broken Wings để nhớ tới những người dân đang sống trong tinh thần và túng thiếu vật chất, cũng như phê phán quyết liệt lòng tham và sức mạnh thế tục của một số chức sắc tôn giáo, một tệ trạng kéo dài hàng trăm năm tại Liban. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ước, người đã dịch cuốn Uyên ương gãy cánh cho rằng đó là “những trang sách chan chứa tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên ương gãy cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt.”

Cũng theo dịch giả Nguyễn Ngọc Minh, ông cho là người Đông phương chúng ta đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt.

Nhưng con chim Uyên của Gibran vốn cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời…. Câu truyện tình yêu này nói lên sự thuỷ chung, sống cho trọn tình nghĩa.

The Prophet: (Ngôn Sứ) Kahlil Gibran nổi tiếng nhất với tập thơ “The Prophet,” một tác phẩm về phong cách, một tiểu thuyết truyền cảm hứng cho hàng loạt các bài tiểu luận triết học và đã được dịch sang hơn 100 ngôn ngữ khác nhau. Phong văn của Kahlil Gibran hòa quyện giữa các truyền thống từ Đông sang Tây, từ Hồi giáo đến Kitô giáo và từ các tư tưởng cổ điển đến các luồng tư duy hiện đại. “The Prophet” gồm 26 đáp từ bằng lối nói đầy chất thơ chuyên chở những cái nhìn thấu suốt, ứng xử với các chủ đề lớn của cuộc đời trên nền tảng chân thiện mỹ, như hạnh phúc và đau khổ, tình yêu và cái chết, lao động và của cải, hôn nhân và con cái, tình bằng hữu và luật pháp, thiện ác và tôn giáo, ăn mặc và cầu nguyện, v.v.

The Prophet” kể về Almustafa, một giáo viên sống ở thành phố Orphalese trong 12 năm. Khi ông chuẩn bị lên tàu trở về quê hương, người dân thành phố tụ tập lại để chào tạm biệt ông và xin những lời khuyên cuối cùng của ông. Cuốn sách được cấu trúc với 26 bài thơ văn xuôi, mỗi bài đề cập đến một khía cạnh khác nhau dựa trên kinh nghiệm con người. Almustafa trả lời các câu hỏi của dân làng về các chủ đề như tình yêu & hôn nhân, niềm vui & nỗi buồn, tội ác & hình phạt và cái chết. Nội dung của The Prophet có vẻ nghiêng về tâm linh và triết học, chủ đề chính trong “The Prophet” là mối liên hệ cơ bản giữa mọi khía cạnh của cuộc sống. Gibran cho rằng những khái niệm có vẻ đối lập nhưng thực chất lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Ví dụ, trong chương về Niềm vui và Nỗi buồn, ông viết:

Niềm vui của bạn chính là nỗi buồn được phơi bày.

Và chính tiếng cười của bạn trào ra thường chứa đầy nước mắt của bạn.”

Triết lý của Gibran thúc đẩy quan điểm toàn diện về cuộc sống, thúc giục tìm kiếm sự cân bằng và chấp nhận trong mọi tình huống. Bản chất của tình yêu Khám phá của Gibran về tình yêu trong “The Prophet” rất đa dạng, đề cập đến tình yêu lãng mạn, tình yêu bản thân và tình yêu phổ quát. Ông trình bày tình yêu như một sức mạnh biến đổi vừa thách thức vừa nuôi dưỡng sự phát triển cá nhân. Trong chương về Tình yêu, Almustafa khuyên: “Hãy yêu thương nhau, nhưng đừng tạo ra mối ràng buộc của tình yêu: Hãy để nó là một vùng biển chuyển động giữa bờ tâm hồn bạn.” Ẩn dụ này chính là quan điểm của Gibran về tình yêu như một sức mạnh năng động, luôn thay đổi, cho phép tự do cá nhân và sự phát triển trong các mối quan hệ tình cảm. Quan điểm của tác giả về tình yêu khuyến khích người đọc vun đắp những mối liên hệ sâu sắc trong khi vẫn duy trì ý thức về bản thân.

Ở Ả Rập, Gibran được coi là một nhà văn mới, nghiêng về lĩnh vực chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là trọng tâm của thời kỳ phục hưng trong văn học Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, thoát khỏi trường phái cổ điển. Gibran được muôn triệu người trên thế giới đánh giá là thiên tài bất tử, một tác giả tôn giáo và bí nhiệm, được đại chúng đọc nhiều nhất và được thảo luận rộng rãi nhất trong thế kỷ 20 cũng như sang thế kỷ 21. Ở Liban, ông vẫn được ca ngợi là một anh hùng văn học, được biết đến trên thế giới với cuốn sách The Prophet xuất bản năm 1923, một tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng văn xuôi tiếng Anh đầy chất thơ.

Khi còn sống, ước nguyện của Gibran là được vĩnh viễn trở về Bsharri nơi chào đời của mình mà nay đã thành một thị trấn. Cô em Mariana và người bạn tri kỷ Mary Haskell hoàn thành di nguyện ấy bằng cách mua lại Tu viện Mar-Sarkis để an táng ông. Nơi đó hiện nay còn có Nhà Bảo tàng Kahlil Gibran, và trở thành một địa điểm hành hương cho những kẻ ngưỡng mộ Gibran. Gibran cũng để lại tất cả tiền tác quyền của mình trong vòng 28 năm cho thị trấn Bsharri dùng vào sinh hoạt công ích. Bên phần mộ ông, người ta thấy có khắc dòng chữ :

“Tôi đang sống giống như bạn, và tôi đang đứng cạnh bạn. Hãy nhắm mắt lại và nhìn quanh, bạn sẽ thấy tôi trước mặt bạn . . .”

Theo di chúc, Gibran để lại cho Mary Haskell tất cả những gì đang có trong xưởng vẽ của ông ở New York. Trong những vật thu thập được, bà khám phá ra các lá thư mình đã gởi cho ông trong suốt hai mươi ba năm. Bỏ qua ý định ban đầu là chấp nhận đốt chúng thể theo lời đề nghị của Barbara Young nhằm thần thánh hóa Kahlil Gibran, bà kết hợp 600 bức thư của đôi bên cùng nhật ký của mình, làm thành cuốn sách viết về con người Kahlil Gibran, có nhan đề Ngôn sứ yêu dấu (The Beloved Prophet) được xuất bản năm 1972. Sau đó, bà trao tất cả di sản của Gibran cho Đại học North Carolina.

Gibran qua đời năm 1931 tại New York vì bệnh xơ gan và lao phổi thời kỳ đầu. Buổi tiễn biệt ông trên bến tàu New York có đủ đại diện của các tôn giáo như Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo, Hồi giáo, v.v. Lễ tang ông tại Boston được tổ chức trang trọng và cảm động theo nghi thức Công giáo ở thánh đường tại Tyler Street. Sau đó, thi hài Gibran đưa về Li-băng, được chính quyền và dân chúng tổ chức liên hoan đón rước. Linh cửu được mang vào Nhà thờ Chánh toà St. George của Giáo hội Maronite tại Beirut với nghi lễ tiếp nhận do Đức Tổng giám mục Ignatius Mobarak chủ tế; sau đó, đem về Bsharri.

KẾT LUẬN

Kahlil Gibran được xem như một trong các đạo sư vĩ đại của thế kỷ 20, tên tuổi của ông được nhắc đến khi nói về triết học và văn chương. “The Broken Wings” và “The Prophet  là những tác phẩm được viết về chiều sâu của tình yêu và tinh thần con người. Văn xuôi đầy chất thơ và cách kể chuyện sống động của Gibran đưa người đọc đến Lebanon đầu thế kỷ 20 về câu chuyện tình yêu, mất mát và tự khám phá. Các chủ đề về tình yêu, sự hy sinh và theo đuổi tự do gây được tiếng vang với độc giả, khiến cuốn sách này trở thành tác phẩm kinh điển vượt thời gian. “The Broken Wings”” và “The Prophet của Kahlil Gibran là hai cuốn sách hấp dẫn và khơi gợi suy nghĩ, đi sâu vào sự phức tạp của tình yêu và trải nghiệm của con người. Thông qua câu chuyện của 2 tác phẩm, Gibran đưa ra những hiểu biết sâu sắc về bản chất của các mối quan hệ, việc theo đuổi tự do cá nhân và sức mạnh của tâm linh. Đây là một tác phẩm tình yêu và tình trạng của con người một cách đầy chất thơ và nội tâm.

Tất cả các phẩm của Kahlil Gibran không chỉ là những dòng thơ mà còn là những lời khuyên, những bài học về cuộc sống, tình yêu, tự do và tâm hồn. Mỗi câu chuyện là một dụ ngôn trình bày những chân lý cao siêu, Kahlil Gibran được ví như một cầu nối giữa vũ trụ tinh thần và thế giới vật chất, giữa cái linh thiêng và cái phàm tục. 19 bài học trí tuệ là sự kết hợp tuyệt vời, ca tụng những vẻ đẹp hữu hình cũng như vô hình, chứa đựng thông điệp cao cả, vượt thời gian về một thế giới đại đồng, tôn giáo hòa đồng, loài người huynh đệ và một tình yêu hằng cửu nối kết con người với nhau trong tình yêu Thượng Đế, giữa một trần gian hiệp nhất với không gian.

Thật vậy, dòng chữ để đời đã nói lên con người của Kahlil Gibran, một Gibran sống mãi trong lòng mọi người:

“Tôi đang sống giống như bạn, và tôi đang đứng cạnh bạn.

Hãy nhắm mắt lại và nhìn quanh, bạn sẽ thấy tôi trước mặt bạn . . .”

Khánh Lan, April 30, 2025