TỪ ĐINH HÙNG ĐẾN VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Khánh Lan
Với khuôn mặt lẫy lừng trong thi ca Việt Nam từ thời tiền chiến đến hai thập niên ở miền Nam Việt Nam đã có nhiều tài liệu viết về hai nhà thơ Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng. Hôm nay, người viết lại được vinh hạnh viết về hai vị tiền bối đã được rất nhiều người ngưỡng mộ trong thế giới thi ca: Đó là Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương, những thiên tài bạc mệnh của đất Sài Gòn, một thời nổi danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Một điều thật lạ lùng là khi duyệt sau khi duyệt qua tiểu sử và cuộc đời của hai thi nhân này, người viết nhận thấy hai vị tiền bối có nhiều điểm trùng hợp từ thân phận, chí khí, tài hoa đến văn chương và cuộc đời lại gặp quá nhiều nghiệt ngã, đau thương, bất công và bạc mệnh. Hình như có một sự kết nối mật thiết giữa cuộc đời của họ. Họ như bị ràng buộc từ trong một mối tương quan gia đình khi nhà thơ họ Vũ kết hôn với bà Đinh Thị Thục Oanh, chị ruột của Đinh Hùng. Họ là bạn chí thân từ khi còn sinh sống tại miền Bắc. Thuở thiếu thời, họ yêu văn, thích làm thơ, sáng tác thơ và trở thành nổi tiếng trong lĩnh vực thi ca. Họ là những thiên tài bạc mệnh, lãnh chịu một cuộc đời với nhiều gian nan, nghiệt ngã và nghèo túng. Tuy họ đã gặp nhiều sóng gió trong cuộc sống nhưng họ vẫn không rời xa nhau! Có lẽ, định mệnh đã an bài cho họ là phải như thế!
Dưới đây là những điểm tương đồng:
- Trong lĩnh vực khoa bảng: Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nghê sĩ tài hoa, học cao hiểu rộng với bản tính rất ngang bướng, gan dạ, phóng túng, “thích gì làm nấy”. Họ không khuất phục trước gian nan, bất công và sẵn sàng đương đầu với khó khăn, nghiệt ngã trong cuộc sống nhưng lại đa sầu đa cảm và mềm lòng trong đường tình ái.
- Trong lãnh vực văn chương thi phú: Hai thi nhân đi vào lĩnh vực văn học ở tuổi rất còn trẻ. Tác phẩm văn xuôi Đám Ma Tôi của Đinh Hùng viết trong năm 1943 ở tuổi 23 thì Tuổi học trò, 17 bài thơ đầu tay của Vũ Hoàng Chương viết vào năm 1936-1939 khi ông 21 tuổi.
- Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng từ thời phong trào Thơ Mới thời tiền chiến. Trong khi Đinh Hùng (1920-1967) nổi tiếng với hai tập thơ Mê Hồn Ca (1954) và Đường Vào Tình Sử (1961), thì Vũ Hoàng Chương (1915-1976) với những tác phẩm nổi tiếng đi vào lòng người, đó là tập thơ Hoa Đăng (1959) và 2 tập Thơ Say và Mây (sau in chung vào một tập mang tên Mây).
- Năm 1959, Vũ Hoàng Chương đã nhận được giải thưởng Văn học Nghệ thuật toàn quốc về thi ca với tập thơ Hoa Đăng, một tập thơ được đánh giá rất cao, ông cũng là một trong 100 tác giả tên tuổi được đề cử giải Nobel Văn Chương năm 1972. Năm 1961, thi phẩm Đường vào tình sử của Đinh Hùng được trao giải thưởng Văn chương về thi ca năm 1962.
- Sau khi mất hai thi nhân đều có tác phẩm xuất bản sau khi mất. Đinh Hùng với Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10, 1967, ngoài ra còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sử giả (tùy bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ: Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt. Về phần Vũ Hoàng Chương tập hồi ký Ta Đã Làm Chi Đời Ta doNXB Trương vĩnh Ký, Saigon năm 1970 được NXB Hội Nhà Văn tái bản năm 1993 tại TPHCM. Thi tấp Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm, NXB An Tiêm, Sài Gòn (1970) in 2 lần và được Tái bản lại tại California, Mỹ sau năm 1975.
- Trong cuốn Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn (1970) của họa sĩ Tạ Tỵ, người bạn văn nghệ chí thân của thi sĩ Vũ Hoàng Chương gọi thơ Vũ Hoàng Chương là “tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc”, vì nhiều bài thơ của ông nói lên thân phận của kiếp người trên quê hương. Trong Từ điển Văn học có nhận xét về ông như sau: “Đinh Hùng là người tài hoa, có khả năng hội họa, biết chơi vĩ cầm, thích thú với môn thư pháp bằng chữ quốc ngữ… và sống phóng túng, có khi như một lãng tử”. Một lãng tử, có lẽ đúng bởi cái cuộc sống “Bất cần đời” của ông, chẳng tha thiết với danh vọng, hờ hững với vật chất xa hoa.
- Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương đều chết trẻ. Đinh Hùng mất năm 47 tuổi và Vũ Hoàng Chương mất mất ở tuổi 61.
THẾ GIỚI THI CA ĐINH HÙNG

THI SĨ ĐINH HÙNG–(1920-1967)
“Trời cuối thu rồi em ở đâu
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu …”
Chúng ta có thể nói Đinh Hùng là nhà “khảo cổ thi ca” đầu tiên đi ngược dòng lịch sử của những mảnh hồn nhân loại bị quên lãng theo thời gian. Thơ Đinh Hùng nói lên vẻ đẹp siêu thực tế, một tình yêu linh thiêng, một thế giới mới dựa trên linh thị của siêu cảm và trực giác. Thơ Đinh Hùng xóa mờ bức tường ranh giới giữa không gian và thời gian, hòa nhập con người với cõi vô thường, với những cảm xúc dữ dội và khốc liệt, tư duy và sự khuấy đảo đến kinh hoàng của hình tượng qua những vần thơ. Để hiểu rõ về người nghệ sĩ đa tài Đinh Hùng, thiết tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu xem yếu tố nào đã khiến cho ông giải bày niềm cảm xúc qua trang giấy một cách mãnh liệt như thế.
TIỂU SỬ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Đinh Hùng là nhà thơ tiền chiến, bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết. Ông sinh ngày 3 tháng 7, 1920 tại làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông. Thuở nhỏ ông theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, trung học tại trường Bưởi. Theo thi sĩ Vũ Hoàng Chương, sau khi thi đậu “cao đẳng tiểu học“, hạng bình thứ, Đinh Hùng được học bổng và trong khi đang theo học ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì ông bỏ ngang đi viết văn và làm thơ.
“Ta ném bút dẫm lên sầu một buổi
Xa vở bài, mở rộng sách ham mê
Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn”
(Khi Mới Nhớn)
Tuy nhiên, tuổi thơ của Đinh Hùng là chuỗi ngày sầu thảm, sự mất mát liên tục của những người thân trong gia đình đã để lại nhiều vết thương trong lòng ông. Năm 1931, người chị thứ ba của ông tên Tuyết Hồng đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng chết khi còn rất trẻ và sau hết là cái chết của người bạn gái yểu mệnh tên Bích Liên. Đó là những biến động kinh hoàng trong cuộc đời xảy ra cho một con người.
Dưới ngòi bút thiên phú, Đinh Hùng trở nên nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” được nhà văn Thế Lữ chọn in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh của ông, một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết kinh dị, lãng mạn, rùng rợn nhưng cũng đầy chất thơ do NXB Đời Nay in ấn năm 1941. Năm 1943, Đinh Hùng đang sống với người chị là Thục Oanh tại Hà Nội thì tập văn xuôi đầu tiên ra đời: Đám ma tôi được đăng trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, một Giai phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn…
Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết
Ôi cám dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rộn xuân tình lên bộ ngực thanh tân…”
(Kỳ nữ)
Năm 1944, Vũ Hoàng Chương cưới Thục Oanh rồi về Nam Định, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài với sự cộng tác của Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch…Cũng trong năm ấy, Đinh Hùng tản cư theo tờ báo Cứu Quốc nhưng sau đó, ông về Thái Bình dạy học cùng người vợ mới cưới là Nguyễn Thị Thanh. Năm 1949, Đinh Hùng cùng vợ con trở lại Hà Nội, tại đây, ông cho ấn hành giai phẩm Kinh Đô Văn Nghệ (1952) và tập thơ Mê Hồn Ca (1954).
Tháng 8, 1954, Đinh Hùng cùng vợ con vào Sài Gòn cùng với gia dình của Vũ Hoàng Chương. Trong thời gian đầu, ông nhận viết báo, viết tiểu thuyết dài từng kỳ cho các nhật báo Sài Gòn như “Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La”, v.v… và bình thơ tại Đài phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra ông còn vẽ tranh vui và giữ luôn mục thơ trào phúng “Đàn ngang cung” với bút hiệu Thần Đăng. Sau đó ông lập ra tờ nhật báo Tự Do, cộng tác cùng với Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong…Năm 1955, nhật báo Tự Do đình bản, ông cộng tác với Đài phát thanh Sài Gòn, giữ mục Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết tiểu thuyết dã sử Cô gái gò Ôn khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận. Năm 1961, ông cho in tập Đường Vào Tình Sử, tác phẩm này được trao giải thưởng Văn chương về thi ca năm 1962.
Phải chăng “Nhân tài thường hay chết yểu” hay bởi Đinh Hùng luôn bị ám ảnh bởi sự chết, hay là vì nhân chứng của nhiều cái chết, nên dưới ngòi bút tài hoa sẵn có, ông đã phác họa một cáo phó về cái chết của mình qua bài thơ Cung Đàn Tưởng Niệm, và được coi như là một di chúc viết cho chính bản thân ông. Ngay cả trong tác phẩm văn xuôi đầu tay của ông, ông đã chọn tựa đề rất lạ lùng: Đám Ma Tôi, được nhà xuất bản Tân Việt in năm 1943, lúc ấy ông mới có 23 tuổi.
…”Khi anh chết, các em về đây nhé
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ
Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ …”
Tháng 08 năm 1967, Đinh Hùng qua đời vì bệnh ung thư gan tại bệnh viện Bình Dân, ông được an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Một điều kỳ diệu đã xảy ra là lời ước nguyện của ông khi còn sinh tiền đã biến thành hiện thực: “…Khi anh chết, các em về đây nhé… Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ …”. Thật vậy, bạn bè của Đinh Hùng kể lại là trong đám tang của ông người ta thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xõa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ sắp hàng đi theo linh cữu. Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ.
Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao điểm cho phát hành tác phẩm Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10, 1967. Ngoài những tác phẩm trên, Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sử giả (tùy bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ: Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt.
NHẬN ĐỊNH VỀ THẾ GIỚI THI CA CỦA ĐINH HÙNG
Nói đến những bài thơ làm nên tên tuổi của Đinh Hùng, chúng ta không thể nào không nhắc đến tác phẩm đầu tay của thi sĩ do nhà xuất bản Tiếng Phương Ðông ấn hành tại Hà Nội năm 1954: Mê Hồn Ca. Dựa theo bài viết của Thủy Nguyệt, Mê Hồn Ca gồm 40 bài thơ ca ngợi tình yêu cuồng nhiệt của một tâm hồn lạc lõng, bơ vơ muốn tìm về một thế giới hư vô. Qua phong cách diễn tả độc đáo của tác giả, chúng ta nhận thấy trong ý thơ của ông vừa có vị nồng nàn, tha thiết, đau khổ chen lẫn mê hoặc, mà trong đó chất chứa một vũ trụ hoang sơ, rừng rú. Ở phần đầu Mê Hồn Ca, thơ ông bộc lộ một cảm giác từ cô độc đến bi thiết qua những bài thơ: Bài ca man rợ, Những hướng sao rơi, Người con gái thiên nhiên… Ở phần hai với tiêu đề Thần tượng, chứa đựng những vần thơ tôn giáo hóa tình yêu: Kỳ nữ, Hoa sử, Hương trinh bạch…. Một khía cạnh khác mà chúng ta tìm thấy trong thơ Đinh Hùng là sự ám ảnh của thế giới bên kia như trong Gửi người dưới mộ, Tìm bóng tử thần. Bài thơ Cầu hồn là điển hình cho sự ám ảnh trong ý thơ.
Hồn ơi! Hồn tỉnh giấc thần,
Đêm nay lạc xuống dương trần mà vui.
Nghìn yêu ma che bước cõi Luân Hồi,
Nhìn nghiêng mặt đất thấy trời hiển linh.
Giữa đêm đời sẽ hồi sinh.
Nhân gian hát khúc vong tình lên non.
Đôi ta vào hội oan hồn,
Âm dương tái hợp …
Có những lúc chúng ta tự hỏi: Trong thế giới thi ca, hỏi mấy ai có thể tạo dựng một nghĩa trang huyền ảo như trong văn thơ của thi sĩ Đinh Hùng? Phải chăng cái chết và sự sống, thường bị chia cắt và giới hạn bởi không gian vật lý? Phải chăng trong cõi tâm linh của Đinh Hùng khát vọng sự giao hòa, ao ước rằng con người có thể vượt qua mọi ranh giới để hướng đến khoảng cách vô tận ấy? Ai có thể hiểu được vì sao Đinh Hùng đã viết lên những vần thơ đi vào cõi chết? Có phải đó là kết quả của nhiều đau thương mất mát trong gia đình liên tục xảy đến với ông, hay chính ông đã nhìn thấy sự chết cho chính mình, và ở đâu đây, lưỡi hái tử thần đang chờ đón ông?
Mặc dù Mê Hồn Ca xuất hiện trên thi đàn giữa thời loạn ly, khi đất nước chia đôi nhưng đã lôi cuốn rất nhiều độc giả bởi hình ảnh liêu trai, bởi sự sống đầy mộng mị của trần gian và sự hoang lạnh của chốn âm cảnh, qua trí tưởng tượng phong phú đầy sáng tạo của thi sĩ Đình Hùng và trong thế giới mê hoặc, mờ ảo với những ảo giác hư thực của tiền kiếp đã trở thành một tuyệt tác dưới ngòi bút của Đinh Hùng.
Nàng năm mộng suốt đêm hè dưới nguyệt,
Nụ cười buồn lay động ánh trăng sao.
Xa nấm mộ, chúng ta cuồng dại hết,
Để yêu tà về khóc dưới non cao.
Hồn Vệ Nữ lạc loài bên cửa huyệt,
Xuân bi thương – ôi má thắm, môi đào!
Bốn mùa trăng vào một hội chiêm bao,
Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ.
(Tìm bóng tử thần)
Cái bi kịch của tình yêu, của gia đình với những ràng buộc khắt khe của tạo hóa đã đưa người nghê sĩ tài hoa Đinh Hùng lạc lõng trong xã hội loài người, bị ám ảnh bởi cái chết đã đi vào tư tưởng của ông rồi bộc lộ qua thi ca. Bài Gửi Người Dưới Mộ đã cho chúng ta một cảm nhận rờn rợn trong hồn:
“…Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu…“
(Gửi người dưới mộ)
Thơ của ông có nhiều sắc thái khác nhau, khi là sự hiện hình của một thực tại huyễn tưởng, một ngôn ngữ đầy ma mị, đầy hư ảo, khi thì bộc lộ sự cô độc, thảm thiết gần như muốn tìm vào cõi chết, thể hiện qua những bài thơ: Mê Hồn Ca, Bài Ca Man Rợ, Những Hướng Sao Rơi. Lại có những bài thơ nghiêng về tôn giáo, tâm linh, đôi lúc ông thi vị hóa tình yêu như trong bài Kỳ Nữ, Hoa Sử, Hương Trinh Bạch. Ở một khía cạnh khác, chúng ta thấy thơ của Đinh Hùng, hình như bị ám ảnh bởi thế giới bên kia, nhập tâm tìm kiếm một ngõ ngách giao hòa cùng người thiên cổ, thể hiện qua bài: Cầu Hồn, Gửi Người Dưới Mộ, Tìm Bóng Tử Thần….
…”Trong mộng trần duyên
Của người thiên cổ….”
…”Trời ơi, đây nguyệt vô biên
Trong lòng người đẹp nằm quên dưới mồ”.
(Tìm Bóng Tử Thần)
Đọc bài thơ Liên Tưởng, chúng ta có cảm tưởng đây là những vần thơ mà Đinh Hùng đã viết cho một người con gái xinh đẹp yểu mệnh tên Bích Liên mà ông đã yêu say đắm trong ngây ngất. Một mối tình tinh khiết nhưng mãnh liệt, kỳ ảo nhưng huyền hoặc. Phải chăng chính mối tình ấy đã tạo nên một ảnh hưởng sâu đậm trong tâm khảm của nhà thơ và đã đi theo ông trong suốt cuộc đời.
… Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta
Yểu điệu phương đông lướt dưới đèn,
Ta nằm mộng đẹp đêm thần tiên.
Dáng xuân nghiêng mặt cười không tiếng,
Lửa hạ lên rồi … Ôi Ý Liên!”
(Liên Tưởng – ĐVTS)
Đinh Hùng và Bích Liên yêu nhau trong tuyệt vọng, khi Bích Liên qua đời vì bệnh lao, Đinh Hùng mới 20 tuổi, cái tuổi chập chững bước vào đời với khát vọng yêu đương, với cuồng phong bão tố của mối tình đầu. Cái chết của Bích Liên, cũng là sự mất mát rất lớn trong đời ông và đã biến con người ông trở nên như điên dại, nỗi đau đớn ấy khiến ông sáng tác một loạt thơ mới: Thơ Chiêu Niệm, Liên Tưởng và Gửi Người Dưới Mộ đã đưa ông hướng sâu vào cõi chết, phải chăng, theo ông chết là giải thoát những khổ đau.
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ,
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn.
Em hãy cười lên vang cõi âm.
Khi trăng thu lạnh bước đi thầm.
Những hồn phiêu bạt bao năm trước.
Nay đã vào chung một chỗ nằm.
Theo tác giả Đỗ Tường, khi Bích Liên chết, Đinh Hùng xin đến nhìn mặt người yêu lần cuối, đứng trước xác người yêu, ông đã làm một cử chỉ khiến tất cả mọi người phải kinh hoàng bởi ông điềm nhiên lật tấm vải liệm phù mặt cô gái ra, rồi cuối xuống hôn một cách say đắm.
Qua xứ ma sầu, ta mất trí
thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền
trời ơi! trời ơi! làn tử khí
lạc lõng hương thầm đoá Bạch Liên
(Cầu hồn)
Phải chăng sự ám ảnh với những nỗi đau và cái chết khiến thơ của ông đã vượt quá giới hạn, vượt quá sự tưởng tượng của con người. Với ông cái chết là sự cuồng si, là cái đẹp, nó không chỉ đẹp trong thơ mà còn đẹp trong cả tiềm thức của người nghệ sĩ với nỗi đau và sự rung động của trái tim qua bài thơ Gửi Người Dưới Mộ.
Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu.
Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu,
Đấy màu hương khói là màu mắt xưa.
Trong bài viết “Đinh Hùng, người kiến trúc chiêm bao”, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy cho rằng biểu tượng mạnh mẽ nhất của Đinh Hùng là cái chết với “mặt trời máu”, với “nấm mồ”, “tử thần”, “hồn ma” … Quả nhiên, trong hai phần “Chiêu niệm”, “Mê hồn” và cả bài trường thi “Thần tụng” cũng tràn ngập không khí của cõi chết. Nhưng cái chết trong thơ Đinh Hùng không phải sự tàn lụi và đau thương mà cái chết trong thơ Đinh Hùng rạo rực xuân tình, đầy sức sống:
Cười lên em!
Khóc lên em!
Đâu trăng tình sử,
Nép áo trần duyên?
… Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?”
(Gửi người dưới mộ)
… Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình,
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm.
Em có vui thêm?
Em có buồn thêm?
Ngồi bên cửa mộ,
Kể cho ta biết nỗi niềm.
Sau khi Bích Liên mất, thi sĩ Đinh Hùng sống một cuộc sống “Lăng bạt kỳ hồ“, khi thì ông đi dạy học ở Hà Đông, khi thì gia nhập một ban nhạc tài tử ở vùng Bắc cạn, ông như người quẫn trí, ông khóc như điên dại, bỏ Hà Nội, đi Hải Dương, vượt sông Hồng Hà, ông bỏ lại tất cả và chỉ ôm ấp bên mình, bức di ảnh của Bích Liên.
… “Thần chết cười trong bộ ngực điên,
Ta nghe em thở tiếng ưu phiền.
Nỗi lòng xưa dậy tan Thanh Vắng.
Hơi đất mê người – Trăng hiện lên.”
…”Qua xứ ma sầu ta mất trí
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền
Trời ơi! Trời ơi! Làn tử khí …”
Những cái chết trong gia đình, nhất là cái chết của Bích Liên, thi sĩ Đinh Hùng cho rằng định mệnh quá cay nghiệt với ông, ông muốn xuất trần, rút mình vào một thế giới siêu tưởng, tránh sầu bi? Phải chăng, ông đã vượt ra ngoài vòng vũ trụ, nhìn xuống dương trần với đôi mắt dửng dưng và tìm đến cái thế giới riêng cho ông, thế giới vô hình. (Thi Vũ 1993). Có thể điều này đã giải thích được phần nào những văn thơ huyền bí của ông. Trong thế giới siêu tưởng, Đinh Hùng mâu thuẫn với chính ông, khi hiền thì thật là hiền, nhưng có lúc thì trở nên dữ tợn. Trong cái thế giới tình yêu giả tưởng, lãng mạn và tình tứ ấy, thi sĩ Đinh Hùng đã tìm ra chân lý của mình.
…“Trong im lặng, tôi rung mình nín thở,
Cầm tay em, nâng từng ngón tay hoa.
Tình yêu tràn trong thớ thịt, làn da,
Tình yêu rợn tự đầu mày chân tóc…”
(Giáp Mặt Phù Dung)
Ngược lại, trong bài “bài Ca Man Rợ” ông rất dữ tợn:
…”Ta về đây, lạ hết các người rồi,
Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống.
Trong bỡ ngỡ duy long còn chút mộng,
Ta đi tìm người thiếu nữ ngày xưa.
Nàng không mong, ta đi đến không ngờ,
Giây phút ấy thực mắt nhìn tận mắt,
Ta mỉm cười bỗng thấy nàng che mặt
Ta giơ tay, nàng khiếp sợ lùi xa…”
(Bài Ca Man Rợ)
Theo tài liệu Wikipedia, hai thi phẩm nổi bật của Đinh Hùng là Đường Vào Tình Sử và Mê Hồn Ca. Nhà nghiên cứu Phạm Việt Tuyền nhận định về thi phẩm Mê Hồn Ca như sau: “Đây là loại thơ nói ít hiểu nhiều, thi sĩ Đinh Hùng đã sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên những mảnh thực tại tản mát. Có thể nói là thi sĩ Đinh Hùng chịu ảnh hưởng không ít thì nhiều nơi các nhà thơ tượng trưng của Pháp như Baudelaire và Rimbaud“. Thơ của Đinh Hùng nghiêng về tâm linh, siêu hình, bí ẩn và có chiều hướng thoát ly ra khỏi thực tế.
…”Khi miếu đường kia phá bỏ rồi
Ta đi về những hướng sao rơi
Lạc loài theo hướng chân cầm thú
Từng vệt dương sa mọc khắp nơi…
… Rồi những đêm sâu bỗng hiện về
Vượn lâm tuyền, khóc rợn trăng khuya
Đâu đây u uất hồn sơ cổ
Từng bước ma rừng theo bước đi”……
(Bài Ca Man Rợ)
Tình yêu trong thơ Đinh Hùng không phải là những cảm xúc bình thường, mà là sự kết hợp của những mê dại nghiêng về tâm linh, huyền bí của thế giới kỳ diệu ái tình, một vũ trụ nhập nhòe giữa thực và ảo, chính là vũ trụ của một biển tình da diết trong thế giới âm dương.
…“Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên em, ôi biển sắc rừng hương!
Em rực rỡ như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự thiên đường.
(Kỳ Nữ)
“Kỳ Nữ” trong thơ của Đinh Hùng đã đưa chúng ta vào một không gian thần thoại với vẻ kỳ vĩ của trăng sao, của núi rừng. “Kỳ Nữ” với Đinh Hùng giống như nàng Galatae với chàng Pygmalion, nàng đại diện cho lý tưởng, cho cõi mơ, cho sự hoàn hảo mà người nghệ sĩ luôn tưởng đến.
“Khi sùng bái, ta quỳ nâng nếp áo
Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm
Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm
Chưa tội lỗi đã thấy tràn hối hận”
Khi bài Kỳ Nữ ra đời được nhà thơ Thế Lữ giới thiệu trong truyện Trại Bồ Tùng Linh, đã đưa tên tuổi của thi sĩ Đinh Hùng lên đỉnh cao nhất trong làng thi văn, và khẳng định rằng ông là một thi sĩ tài hoa với thi ngôn và thi từ đầy ma lực, điều này đã được thể hiện rõ rệt trong thi tập Mê Hồn Ca. Tuy nhiên, Đường Vào Tình Sử của Đinh Hùng là thế giới của say mê, hoang sơ man dại, chết chóc, huyền bí, nhiệm mầu, của tình yêu tha thiết, mãnh liệt và kinh khủng của lứa đôi.
Anh sẽ tìm em, chiều nào tận thế
Khi những sầu thương cất cánh xa bay
Khi những giận hờn, khi những mê say
Khi tất cả hiện nguyên hình ảo mộng:
Giọt lệ hoa niên, cung đàn hoài vọng
Và những hương thơm tình ái trao duyên
Những không gian thăm thẳm mắt u huyền
Những vạt áo bỗng trở màu sông biển
(Đường Vào Tình Sử)
Ngoài những bài thơ huyền bí, thi sĩ Đinh Hùng sáng tác một số bài thơ ca ngợi tình yêu, nhưng khi đọc Kỹ, chúng ta thấy phảng phất lời văn hoang tưởng và xa vời thực tế. Nổi bật trong thể loại thơ này là bài thơ Tình Tự Dưới Hoa và Xuôi Dòng Ảo Mộng với lời thơ trong sáng, ca tụng tình yêu đôi lứa, được nhạc sĩ Phạm đình Chương góp nhặt, trau chuốt, viết bằng cảm xúc xúc thành nhạc phẩm Mộng dưới hoa.
…”Chưa gặp em, tôi đã nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Tóc xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng…”
…”Ôi, hoa kề vai hương ngát mái đầu
Đêm nằm nghe giấc mộng trôi mau
Gió ơi, gởi gió lời tâm niệm
Và nguyện muôn chiều ta có nhau…”
(Nhạc phẩm Mộng Dưới Hoa)
Tình Tự Dưới Hoa và Xuôi Dòng Ảo Mộng là hai bài thơ trong thi tập Đường vào từng sử, một tập thơ đầy nhạc tính. Trong hai bài thơ trên, Đinh Hùng muốn nói cuộc đời không phải lúc nào cũng là con đường đầy chông gai, tang thương, buồn thảm. Con đường ấy có khi cũng phủ đầy hoa gấm, mộng mị, yêu thương, dù là trong mộng tưởng.
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối
(Xuôi dòng ảo mộng)
… ‘Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ,
Nắng trong hoa, với gió bên hồ
Dành riêng em đấy khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa…”
(Tự Tình Dưới Hoa)
Nhà văn Việt Haỉ viết “Mộng dưới hoa của Đinh Hùng và nhạc Phạm Đình Chương như hiểu nhau ở một độ nồng của thơ và một độ cao của nhạc. Thơ, nhạc bay bổng, câu liền câu, ý liền ý đến nỗi nếu không thuộc thơ Đinh Hùng thì nhạc của Phạm Đình Chương sẽ làm ta thuộc thơ Đinh Hùng, những nốt nhạc ấy là một bài thơ trọn vẹn của một thi sĩ”. Nhà văn Việt Haỉ nhận định: “Nhạc phổ thơ như thế mới nói được hết cái tài hoa của cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ”.
…”Tóc xanh là bóng dừa hoang dại,
Âu yếm nhìn tôi không nói năng…”
Trong bốn câu thơ dưới đây diễn tả một khoảnh khắc thời gian như dừng lại cho cặp tình nhân gặp nhau trong mộng.
…”Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát long anh
Ta đi vào tận rừ xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối…”
Trong câu: Ta đưa nhau vào tận rừng xanh, vớt cánh rong vàng bên suối.
“Cánh rong vàng” tượng trưng cho một hạnh phúc mong manh. Hỏi ai có
vớt được “cánh rong vàng”? hay đó chỉ là trong giấc mộng thôi.
…“Bước khẽ cho long nói nhỏ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta xây thành mộng nghìn thu
Núi biếc song dài ghi nhớ.
Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề
Mây hồng giăng tám ngả sơn khê
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê…”
Theo Võ Tấn Cường nhận định về thơ của thi si Đinh Hùng: “Đinh Hùng – một hồn thơ kỳ ảo với vũ trụ thơ thuần khiết, song hành với thực tại là hiện tượng thi ca đầy phức tạp và bí ẩn. Số phận cuộc đời của Đinh Hùng và thi ca của ông chịu nhiều oan trái, bị chìm khuất dưới những dòng xoáy của thời cuộc cùng với những định kiến và quan niệm hẹp hòi về nghệ thuật” … Theo tôi, cái đẹp trong thơ Đinh Hùng huyền ảo, mầu nhiệm và gợn sắc màu sử thi như trong các bản trường ca Iliat và Ôđixê của Hôme dưới thời kỳ lịch sử Hi Lạp từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX TCN (vì trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của người Hi Lạp trong giai đoạn này được phản ánh rõ nét trong 2 tập sử thi Iliát và Ôđixê, tương truyền là sáng tác của nhà thơ Hôme ở Tiểu Á. (Nguồn: https://bienniensu.com/thegioi/lich-su-hi-lap-thoi-ky-home/). Cái đẹp trong thơ Đinh Hùng mang bóng dáng và tinh thần nhân đạo của hình tượng người anh Hùng sử thi:
…“Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dày xéo lên song núi đô kỳ
Bên thành quách ta ra tay tàn phá…”
(Bài ca man rợ)
Dưới ánh mắt của Đinh Hùng cái đẹp là một thế giới đầy cám dỗ, huyền ảo, nhiệm màu và siêu thoát, ông tôn thờ tình yêu và xem nó như một thứ tôn giáo, ông đặt sắc đẹp lên ngôi, xem nó là một thứ quyền năng chi phối tâm linh, sự sống và sự chết, nó ảo hóa với muôn sắc thái và ma mị nên dễ gây ấn tượng rờn rợn khi ta được nghe hay đọc nó.
…“Hỡi kỳ nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần – ôi sắc đẹp yêu ma
Lúc cuồng si nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết
Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn
Ta hái trong em lấy đóa hoa hồn…”
(Kỳ Nữ)
Thơ tình yêu của Đinh Hùng vượt qua nỗi khát khao dâng hiến, hướng về thế giới tâm linh huyền bí, siêu hình của tôn giáo, sự linh thiêng của cõi vô hình đã phủ lên thế giới tâm linh, hư ảo, huyễn hoặc trong thơ của ông qua vẻ đẹp lung linh, huyền bí trong thơ của Đinh Hùng:
…“Ta hát bài kinh, thoảng dã hương
Từng đêm chiêu niệm bắt hồn nàng
Lời ra cửa biển tìm sao rụng
Rỏ xuống mộ em giọt lệ thương…”
Cái gì đã đưa Đinh Hùng đến với ám ảnh về cái chết, về bóng ma? Trong đời sống tôn giáo tâm linh, quan trọng nhất là đời sống sau khi chết, là đời sống thực của linh hồn. Linh hồn con người thoát khỏi thể xác và khám phá thế giới cõi âm. Điều này được ghi lại trong các thư tịch của Tây Tạng, Ai Cập, Trung Quốc và báo chí phương Tây. Trong cơn hấp hối, trong trạng thái mơ màng, con người tiếp xúc với thế giới âm, gặp gỡ những linh hồn của người lạ hoặc người quen trong quá khứ. Krishnamurti, một bậc thầy tâm linh đương đại nổi tiếng được sự kính ngưỡng của cả giới tôn giáo và giới khoa học thế kỷ 20, cũng đã thường xuyên có trải nghiệm này. Trong những biến đổi mãnh liệt nhất về tâm linh, khi ở giữa ý thức và vô ý thức, ông nhìn thấy bóng ma người mẹ quá cố của mình cùng với nhiều linh hồn của các bậc chứng ngộ khác. Ở trường hợp Đinh Hùng, nhà thơ đã trải nghiệm sự việc này khi mơ màng trong màu sương khói của mây mù thuốc phiện:
“Từng đêm tôi nguyện tôi cầu
Đấy màu hương khói là màu mắt xưa”
(Gửi người dưới mộ)
Này Biển Giác: mây trời nghiêng nét mặt
cây Từ Bi hiện đóa Ác Hoa đầu
(Tìm bóng tử thần)
Ta hằng nghe rõ
tiếng buồn trong sương
hằng thấy trên tường
hình ma bóng nhớ
chỗ em ngồi cũ
lên màu khói hương
(Màu sương linh giác)
Và chính Đinh Hùng cũng thừa nhận đó là một trạng thái mộng mị, tức là cõi ảo dưới con mắt người thường, có điều trong cõi ảo ấy, tất cả đều rất thật, rất đắm say, tới mức muốn vứt bỏ cả xác trần:
“đôi ta vào hội oan hồn
âm dương tái hợp –
ồ! đây là cuộc tân hôn dị kỳ
nguyệt hoa mặc áo huyền vi
màu nghê thường đó – trời ơi! xiêm y biến hình
tôi van lơn bầy nhạc nữ đồng trinh
đừng cao giọng hát – hồn các em lạc tinh anh bốn trời!
đừng cho thể chất phục hồi
đừng cho tôi khóc, tôi cười vì điên!”
(“Cầu hồn”)
Tóm lại, phân tích về thế giới thi ca cũa Đinh Hùng tùy thuộc vào cái nhìn của từng cá nhân, dù rằng nó có thể hoàn toàn khác với mọi người. Đôi lúc, người ta cho rằng nhận định của chúng ta là hoang tưởng, nhưng một khi đã bước vào cõi hư ảo, dù theo cách này hay cách khác, tức là đã từng trải nghiệm đời sống linh hồn, thì khó có thể nhìn vạn sự bằng nhãn quan của thế giới hữu hình. Theo người viết, “thơ Đinh Hùng là một thế giới mang đầy mê cung kỳ ảo” và vẫn còn trong sự huyền bí chờ đợi sự giải bày của những khối óc quan tâm đến vận mệnh thi ca của dân tộc.
VŨ HOÀNG CHƯƠNG

VŨ HOÀNG CHƯƠNG-(1915-1976)
Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.
Trong một sự tình cờ, ngày 03 tháng 11 năm 2024 người viết đã gởi đến quý độc giả một hồi ký với tựa đề “Sinh Lầm Thế Kỷ”, một câu chuyện chân thực về cuộc sống ở Việt Nam sau năm 1975. Tác phẩm kể về một người Việt xa xứ, hồi tưởng lại những ký ức đau thương về chiến tranh và nỗi khổ đau của những người ở lại cũng như những nạn nhân phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm tự do. Tưởng cũng xin giải thích rõ là tại sao người viết lại cho đó là một sự tình cờ? Xin thưa: Lúc chọn tựa đề cho quyển hồi ký “Sinh Lầm Thế Kỷ” người viết không hề biết thi nhân Vũ Hoàng Chương đã sáng tác bài thơ Phương Xa mà trong ấy cũng có câu “đầu thai lầm thế kỷ”.
Lũ chúng ta, lạc loài, dăm bẩy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh,
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.
Dưới đây người viết xin lướt qua về:
TIỂU SỬ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Vũ Hoàng Chương sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh–Na Sầm.
Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập “Ban kịch Hà Nội” cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy học. Đến 1950, hồi cư về Hà Nội dạy văn cho đến 1975.
Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam ở Sài Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học ở các trường trung học và Đại học Văn khoa Sài Gòn. Năm 1959 ông đoạt “Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc” của Việt Nam Cộng hòa với tập thơ Hoa đăng. Trong năm này ông sang Âu châu tham dự Hội nghị Thi ca Quốc tế tại Bỉ. Năm 1964 ông tham dự Hội nghị Văn bút Á châu họp tại Bangkok; năm 1965 tham dự Hội nghị Văn bút Quốc tế họp tại Bled, Nam Tư. Năm 1967, ông tham dự Hội nghị Văn bút Quốc tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d’Ivoire.
Thời gian 1969-1973 Vũ Hoàng Chương là Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam. Năm 1972 ông đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc lần thứ hai, lúc này tên tuổi của ông nổi bật trong phong trào Thơ Mới (1932-1945) và được gọi “Thi Bá Vũ Hoàng Chương”. Năm 1972, Vũ Hoàng Chương trong danh sách 100 tác giả được đề cử giải Nobel Văn Chương (The Nobel Prize in Literature), sự kiện này chỉ được Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố ngày 11 tháng 02 năm 2023. (vì theo quy định thì sau 50 năm kể từ khi trao giải, Viện Hàn lâm Thụy Điển mới công bố danh sách những người được đề cử Giải Nobel văn học của năm đó). Giải Nobel năm 1972 được trao cho cho nhà thơ Heinrich Böll của Đức, (Heinrich Böll đã từng được đề cử liên tục từ năm 1960 và mãi đến năm 1972 mới đoạt được giải).
Ngày 13 tháng 4 năm 1976, bị Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt giam tại khám Chí Hòa. Theo Nhà văn Mai Thảo… Buổi sáng ngày 13 tháng 4 năm 1976 (theo lời chị Vũ Hoàng Chương thuật lại. Bốn chiếc Jeep đến từ phía Sài Gòn, chở đầy an ninh áo vàng mang súng ống, phóng thẳng tới phường Cây Bàng và ngừng lại trước con ngõ nhỏ dẫn vào căn gác của gia đình Vũ Hoàng Chương (Gác Bút). Khoảng 20 công an, nhẩy xuống xe, xô cửa ập vào đánh thức thi sĩ khỏi giấc ngủ chập chờn. Vũ Hoàng Chương gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào người, ngồi thật thẳng giữa chiếu, bất động, chờ đợi… Ông không kinh hãi, không phẫn nộ, không bất ngờ, cũng chẳng ngạc nhiên. Ông ngồi thẳng, mắt nhắm lại… Suốt thời gian này, thi sĩ không nói một lời nào khi ông nghe bản cáo trạng và lệnh bắt giữ, ông chỉ nhún vai rồi ngồi yên như cũ. Lý do bị bắt là phản động, làm thơ chống phá cách mạng phổ biến khắp Sài Gòn những bài thơ chống phá chế độ. Sau cuộc lục soát xong và tịch thu sách và bản thảo, hai công an xốc nách thi sĩ đứng lên, kèm ông xuống cầu thang và đưa thẳng ông vào khám lớn Chí Hòa…
… Hơn 4 tháng nằm trong ngục tối, không ai có tin tức của Vũ Hoàng Chương, ông được thả về khi trở bệnh nặng trong tù. Trở về Gác Bút, thể chất trút thoát dần dần những tinh khí cuối cùng, nhưng thần trí của ông vẫn minh mẫn sáng suốt. Điều tuyệt đối là ông không nói một lời nào về bốn tháng bị giam trong Chí Hòa. Ngày thứ hai của năm ngày chót ông mê đi. Buổi chiều ngày thứ ba, ông quằn quại trong đau đớn và ngày thứ năm, ngày 17 tháng 9, 1976, thì ông mất tại Sài Gòn. Năm 1986, mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp.
Dưới đây là bài thơ cuối cùng của Vũ Hoàng Chương làm trong Khám Chí Hòa năm 1976:
Thấm thoắt vào đây tháng đã tròn,
Lông hồng gieo xuống nhẹ như non.
Một manh chiếu nát, thân tơi tả,
Nửa bát cơm hôi, xác mỏi mòn.
Ngày đến bữa ăn thường nhớ vợ,
Đêm về giấc ngủ lại thương con.
Dẫu bao nước chảy qua cầu nữa,
Hồ dễ gì phai được tấc son!”
Vũ Hoàng Chương có nhiều sáng tác để đời, được giới phê bình văn học đánh giá cao, và từng được xưng tụng là “Ngôi sao Bắc Ðẩu” của thi ca Việt Nam. 1975:
Hơn bốn thập niên sau, thi ca Vũ Hoàng Chương không còn đề cập ở trong nước, một đời thơ của ông bị lãng quân, chôn vùi theo thân xác. Và ngay cả trong những tác phẩm đề cập đến những áng thơ hay trong Thi Ca Việt Nam cũng “quên” nhắc đến dòng thơ thi bá Vũ Hoàng Chương. (Vương Trùng Dương)
NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG & THI CA
Dựa theo tài liệu trên Internet, đã có rất nhiều bài bình luận nhận định về sự nghiệp văn chương & thi phú của nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Họ cho rằng: Văn phong và phong cách của thi nhân được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc và chứa đựng sắc thái Đông phương. Vũ Hoàng Chương làm thơ rất sớm khi ông mới 25 tuổi (1940) và đã cho xuất bản rất nhiều thi tập.
Tháng 10, 1936 ông xuất bản tập Die Achtundzwanzig Sterne, thơ dịch ra Đức ngữ, do nhà Hoffmann Und Campe, tỉnh Hamburg, Đức. Dịch giả là thi sĩ Áo Kosmas Ziegler. Trước 1945, ông có hai thi phẩm nổi tiếng vào thời tiền chiến là Thơ Say (1940) và Mây (1943). Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam đã nhận xét: “Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á: cái nghiệp say nhưng “say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc”.
Tập thơ đầu tay Thơ say gồm 32 bài thơ do tác giả tự xuất bản, nhà in Cộng Lực ấn loát và phát hành. Năm 1971, NXB Nguyễn Đình Vượng tái bản tập Thơ Say tại Sài Gòn, tập thơ chia làm nhiều phần như: Say, Mùa, Yêu, Cưới, Lỡ Làng, Lại Say. Bài thơ Say đi em, Phương xa, Chén rượu đôi đường, Mùa thu đã về và Quên là những bài thơ được nhiều người đọc và yêu thích nhất. Năm 1960, tại Sài Gòn Vũ Hoàng Chương tự tái bản 2 tập thơ Say gồm32 bài thơ và Mây gồm 25 bài thơ, in chung vào 1 tập mang tên Mây, Sài Gòn 1960. Người viết xin trích dẫn vài đoạn tiêu biểu:
…“Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn,
Cho cung bực ngả nghiêng
Cho điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa!
Và quên quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả mầu trôi…
(Say đi em-1940)
Và lại say nữa để mà quên.
Đã hẹn với Em rồi, không tưởng tiếc
Quãng đời xưa, không than khóc gì đâu!
Hãy buông lại gần đây làn tóc biếc,
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi nâu.
Hãy buông lại gần đây làn tóc rối,
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên.
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,
Đưa hồn say về tận cuối trời Quên.
(Quên-1947)
Năm 1948, Vũ Hoàng Chương xuất bản tập Thơ Lửa cùng với Đoàn Văn Cừ tại Thái Nguyên do cơ quan Kháng chiến Liên khu 3 đảm trách. Năm 1959, khi Vũ Hoàng Chương Tham dự Hội Nghị Thi Ca Quốc Tế, gặp gỡ nhà thơ nữ Ysabel Baes mới 15 tuổi đã có một thi tập được được Maison du Poète tại thủ đô Bruxelles xuất bản năm 1959. Bài thơ Công Chúa Mười Lăm, dài với 40 phân đoạn, mỗi đoạn 4 câu thơ thất ngôn. Toàn bài có 160 câu. Bài thơ “Công Chúa Mười Lăm” của Vũ Hoàng Chương tặng YSA không chỉ là một câu chuyện tình yêu mà còn là một hành trình vươn tới cái đẹp vĩnh hằng, là hình ảnh của một tình yêu và nghệ thuật. Tình yêu ấy là hành trình, là những cảm xúc, những giấc mơ và những hy vọng. Mối quan hệ giữa người thi sĩ và Công Chúa Mười Lăm là sự giao thoa giữa hai thế giới: thế giới của “thơ” và thế giới của “mộng”.
Công Chúa Mười Lăm, nàng ở đâu?
Tìm nàng, thôi đã nát Âu châu
Ba Lê, Nhã Điển hay La Mã
Đâu cũng rêu in lệnh Miễn Chầu…
…Đê mê nhịp thở phút huyền ngưng
Đôi lứa chìm sâu đáy Tượng trưng
Ta nhủ: “Kìa em! Thơ mở lối
Còn sâu hơn cả trái tim Rừng!”…
Trong thời gian từ năm 1962 trở đi, Vũ Hoàng Chương đã cho xuất bản nhiều thi tập và tùy bút tại Sài Gòn gồm: Rừng Phong. 1970: Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm, Tân Thi, Loạn Trung Bút, Ngồi Quán, Tâm sự phố phường, Tuổi Xanh, Ba Kiếp Lang Thang,Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai, Lửa Thiêng (Phần I: Tuổi học trò, 17 bài thơ đầu tay 1936-1939), Ánh Trăng Đạo, Tập Bút Nở Hoa Đàm, Nhị Thập Bát Tú I & Tập II, Cành Mai Trắng Mộng. Đáng kể nhất là năm 1962, tập thơ Trời Một Phương trong đó có bài thơ Lửa Từ Bi ca ngợi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào tháng 07, do nhóm Thanh Tăng xuất bản vào tháng 12, 1962. Bài thơ Lửa Từ Bi Kính dâng lên BỒ-TÁT QUẢNG-ĐỨC đã được Hà Lan Phương và Nguyễn Hải phổ nhạc.
Lửa! Lửa cháy ngất Toà Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên…
1974: Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau, NXB Rừng Trúc, Paris; Theo ông Hoàng Tấn, nhà thơ Vũ Hoàng Chương làm bài thơ “Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau” tặng nghệ nhân Quách Thị Hồ, người hát ca trù hay nhất Việtnam (danh hiệu NSND), xưa từng là bạn cố tri của nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Hát ca trù cần có “đàn đáy”, do đó nội dung bài thơ sau đây đầy ắp những từ hát cô đầu, âm thanh vang tiếng “sênh, đàn, phách”.
… Chúng ta mất hết cả rồi sao?
Cả đến âm thanh một thuở nào!
Da trống tơ đàn ôi trúc phách
Đều khổ như khúc hát gầy hao
Đàn mang tiếng đáy mà không đáy
Mất hết rồi sao sợi nhớ thương
Tay phách từ lâu nay lạc phách
Không còn đựng mãi bến Tầm Dương…
Bài Vịnh Tranh Gà Lợn của nhà thơ Vũ Hoàng Chương mà tác giả đã viết vào mùa xuân Bính Thìn (1976), cái tết cuối cùng của một đời thi bá.
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
Gà lợn, om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có hoạ,
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng,
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn,
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Ngoài ra Vũ Hoàng Chương còn có một số tác phẩm được dịch qua Anh ngữ và Pháp ngữ như tập thơ Cảm Thông (nhan đề Anh ngữ là Communion); gồm 6 bài thơ mới sáng tác sau cuộc Âu du và 9 bài cũ lựa chọn lấy tính cách tiêu biểu; do Nguyễn Khang phiên dịch và xuất bản. Tập thơ Tâm Tình Người Đẹp (nhan đề Pháp ngữ là Les 28 Etoiles); gồm 42 bài thơ Nhị thập bát cú, kèm theo bản dịch của nữ thi sĩ Bỉ Simone Kuhnen de La Coeuillerie; Nguyễn Khang. Năm 1963, xuất bản tập Thi Tuyển (nhan đề Pháp ngữ là Poemes Choisis) kèm theo bản dịch của Simone Kuhnen de la Coeuillerie: do nhà xuất bản Nguyễn Khang vào tháng 03, 1963. Vũ Hoàng Chương đã dịch nhiều thơ chữ Hán từ nhiều tác gia Việt Nam và Trung quốc, khoảng 100 bài.
Dưới đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ Hoa đăng. Bài thơ Trả ta sông núi cho chúng ta cảm nhận tấm lòng yêu nước của con người dân Việt. Những bài thơ trong tập thơ Hoa Đăng rất dài nên người viết chỉ xin trích vài đoạn trong một số bài thơ của ông mà thôi.
…Trả ta sông núi từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:
Không đòi, ai trả núi sông ta…
…Trả ta sông núi! câu hùng tráng
Là súng là gươm giữ đất đai
Trông lên cao ngất phương trời
Hồn thiêng liệt sĩ bừng tươi sắc cờ.
Bài thơ Đời Vắng Em Rồi của Vũ Hoàng Chương sau được đổi thành Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai. Tên này sau cũng được ông dùng đặt cho một tập thơ khác.
Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu,
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu.
Thôi rồi, tay nắm tay lần cuối,
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.
Gặp gỡ chừng như truyện Liểu Trai.
Ra đi chẳng hứa một ngày mai.
Em ơi! lửa tắt, bình khô rượu,
Đời vắng em rồi, say với ai?
Yêu Mà Chẳng Biết là một trong những bài thơ mang tính thơ lãng mạng.
Lâu rồi không nhớ bao nhiêu năm,
Từ độ trông nhau hết lạ lùng,
Từ hôm bên nhau thôi ngượng ngùng,
Từ buổi xa nhau mà nhớ nhung.
Em đã nao lòng, anh mê man!
Đuôi mắt đầu môi tình chứa chan,
Đêm thường mơ đêm, ngày đợi ngày.
Nhưng không hề nói cho nhau hay.
Bài thơ Giận Hờn là những cay đắng nhưng là bài thơ đặc biệt cho ta cảm giác nhẹ nhàng Của những điệp khúc tình yêu.
Em đến hôm nào như hoa bay.
Tình không độc dược mà đắng cay
Mùa thu tàn nhẫn từ đôi mắt
Mùi hương sát nhân từng ngón tay
Hay trong bài thơ Hờn Dỗi:
… Anh vẫn nghe tiếng khóc
Trong vạt áo len hồng.
Anh vẫn nghe tiếng nấc.
Dồn dập trên cgối nhung
Sao em khóc vì đâu hờn dỗi
Em buồn có phải lỗi anh không
Hỏi em em chẳng nói
Mặc anh xô cửa phòng…
Một bài thơ Tình si.
Vì ai làm một bài thơ
Từ bao giờ đến bây giờ mới xong.
Đầu trang vằng vặc gương trong
Nhạc lơi cánh bướm hương phong nụ đào
Cuối trang vần điệu xôn xao
Lửa si mê bỗng cháy vào làn môi…
Đền nhau một chiếc hôn rồi
Mười lăm năm biết có nguôi giận hờn?…
Cuối năm 1949, khi hai gia đình đang ở vùng Đống Năm, Thái Bình. Quân Pháp tràn tới, Việt Minh rút chạy. Hai gia đình Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng cũng chạy từ làng nọ tới làng kia. Cuối tháng 8 năm 1954, gia đình Vũ Hoàng Chương và gia đình thi sĩ Đinh Hùng di cư vào miền Nam, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng. Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh Hùng. Đất khách quê người, hai thi nhân sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo túng, họ tạm gác bút. Chán nản, họ vướng vào con đường nghiện hút (thuốc phiện). Lý tưởng tàn lụi, Vũ Hoàng Chương đã gởi niềm tâm sự vào trang giấy: Bài thơ Lý Tưởng.
…Chàng họa sĩ hôm nay vừa ném bút.
Bởi vì mơ và thực chẳng đi đôi.
Nét hư Huyền thấp thoáng ở hồn thôi.
Tài non kém chẳng đem vào lụa được…
…Nhạc sĩ với thi nhân đều thế cả
Dứt hết dây vò nát mấy mươi trang
Xấu xa trong vần điệu ý huy hoàng
Sai lạc nữa lúc phổ vào cung bậc…
…Hồn nghệ sĩ vốn từ xưa nông nổi.
Yêu thiết tha nhưng chẳng chịu thầm yêu.
Kiếm hoài công bày giải ý cao siêu.
Bằng gỗ lụa trơ trơ bằng thép rắn…
NHẬN ĐỊNH VỀ LÃNH VỰC KỊCH NGHỆ
Vũ Hoàng Chương đã xuất bản nhiều tập kịch thơ, 3 vở đầu tiên là Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp trong năm 1944, NXB Anh Hoa, Hà Nội. Tại Sài Gòn năm 1960, NXB Nguyễn Đình Vượng lại cho tái bản ba kịch bản này. Kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần, NXB Lửa Thiêng tại Sài Gòn cho ấn hành lần đầu năm 1951 và tái xuất bản năm 1961 ngay sau Cách mạng tháng 8. Năm 1946, Vũ Hoàng Chương tản cư về vùng duyên hải Nam Định (Khu Ba) nhưng đến năm 1950, ông cư về Hà nội để chuẩn bị cho diễn vở kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần năm 1951. Năm 1952, trinh diễn vở kịch thơ Thằng Cuội và năm 1953 ông cho đăng báo kịch thơ Cô Gái Ma.
Tác phẩm Vân muội: Theo tác giả Phương Nghi, Vũ Hoàng Chương khi còn đang dạy học tại Hải Phòng và vào dịp rằm tháng bảy, ông cùng nhà thơ Đỗ Huy Nhiệm, Lê Trọng Quỹ và Thế Lữ cùng đi nghe hát quan họ ở Kinh Bắc. Vũ Hoàng Chương đã từng làm xếp ga Bắc Ninh và có người yêu tên là Vân ở làng Dương Ổ. Vân chính là nàng thơ để Vũ Hoàng Chương viết kịch thơ “Vân muội” và ra tập thơ “Mây” năm 1943. Năm 1942, Vũ Hoàng Chương định lên thăm “nàng thơ”, nhưng khi đến ga Đầu Cầu thì gặp Tô Hoài và Nguyễn Bính và họ rủ nhau cùng đi lên Bắc Giang ghé thăm nhà thơ Bàng Bá Lân. Ba ông dự định khi gặp Bàng Bá Lân, họ sẽ rủ nhau di xem hát ả đào. Nhưng Bàng Bá Lân vốn tính tình hiền lành hiền việc đi xem hát ả dào đành phải bỏ và họ quyết định cùng nhau họa thơ.
Duyên nợ không thành, Vũ Hoàng Chương phải chia tay “nàng thơ” xứ Quan Họ bởi vì nàng đã được gia đình gả chồng từ năm 12 tuổi. Kịch thơ “Vân muội” và tập thơ “Mây” ra đời là kết quả của cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa Huy Cận và Vũ Hoàng Chương ở Hàng Lược. Vừa gặp nhau, Huy Cận đã ngẫu hứng đọc hai câu lục bát:
“Đã lên gặp lại chàng sa.
Lửa thiêng xin đốt chờ Mây xuống trần”.
Nghe xong, Vũ Hoàng Chương đối lại:
“Mây kia chẳng chịu xuống trần.
Lửa ơi! Theo khói lên gần với mây”.
KẾT LUẬN:
Trong thế giới thi ca đã có những bài thơ nổi tiếng đã thu hút nhiền độc giả yêu thơ với những áng thơ nhẹ nhàng và tinh khiết như của Hồ dzếnh, Quang Dũng; những vần thơ tình tứ, lãng mạn như của Xuân Diệu, Nguyễn Bính; hay những lời thơ triết lý cao siêu của Cao Tiêu, Tô Đông Pha; cũng như những ý thơ nặng chất tuyệt vọng, cay đắng, khổ đau của TTKH, Hàn Mạc Tử… Nhưng chúng ta phải công nhận rằng, đọc thơ của Thi Nhân Đinh Hùng, chúng ta như bị lôi cuốn vào những vần thơ huyền bí của ông, những vần thơ khi thi biểu hiện lời êm ái, mộng mị, yêu thương lúc lại chen lẫn những vẻ liêu trai, ma quái và kinh dị. Và khi thưởng thức dòng thơ của Vũ Hoàng Chương chúng ta cảm nhận được hương vị đắng cay, bất mãn chen lẫn sự khinh miệt, chán chường của một nhân tài sống trong xã hội bất công.
Đinh hùng không chỉ là nhà thơ lớn của dân tộc mà còn là một nghệ sĩ đa tài đích thực trên cả lĩnh vực âm nhạc và hội họa. 47 năm của cuộc đời trên 20 tác phẩm với nhiều thể loại từ thơ ca văn xuôi tiểu thuyết ký và phê bình văn học. Đám ma tôi là thi tập đầu của ông và thi tập cuối là Tiếng ca bộ lạc, nhưng hai thi tập Mê hồn Ca và Đường vào tỉnh sử mới thực sự làm nên tên tuổi của người nghệ sĩ tài năng Đinh Hùng. Cho đến nay thơ của Đinh Hùng vẫn còn trong vòng bí ẩn như con người của ông, một con người gặp quá nhiều oan trái và hình như cái Định mệnh khất khe, nghiệt ngã luôn buộc chặt vào cuộc đời của ông.
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn với những tác phẩm nổi tiếng đi vào lòng người, ông có nhiều tập thơ nổi tiếng và được yêu thích, trong đó phải kể đến tập thơ Hoa Đăng do Văn Hữu Á Châu xuất bản tại Sài Gòn năm 1959. Đây là một tập thơ được đánh giá cao và đã nhận được giải thưởng Văn học Nghệ thuật toàn quốc về thi ca. Hai tập Thơ Say và Mây in chung vào một tập mang tên Mây là những tác phẩm đã làm nên tên tuổi của ông. Tiếc thay, thời cuộc đảo điên, nhà thay chủ đã đưa người nghệ sĩ tài hoa Vũ Hoàng Chương đi vào con đường tuyệt vọng. (Tạp Chí Văn Nghệ.)
Sau bao năm vắng bóng trên thi đàn thơ nhạc của dân tộc Việt, nhưng dư âm và danh tiếng của hai thi nhân Đinh Hùng & Vũ Hoàng chương vẫn sống mãi trong lòng độc giả yêu thơ.
Khánh Lan, tháng 4, 2025
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tạp chí Văn Học, Sài Gòn, số 97, 1969.
- Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 150, 3/1970.
- Lê Huy Oanh, Giai Phẩm Văn, Sài Gòn, 20/8/1974.
- Phan Xuân Sanh. Tạp chí Đại Học, số 9, 1959, Huế.
- Đoàn Thêm, Báo Văn Hóa Nguyệt san, Sài Gòn, 1964.
- Tạ Tỵ, Mười gương mặt văn nghệ, nxb Kim Lai, 1970 Sài Gòn.
- Bàng Bá Lân : Kỷ niệm văn thi sĩ hiện đại, 1962, Sài Gòn.
- Mai Thảo, Chân dung 15 nhà văn nhà thơ, Văn Khoa, 1985 California.
- Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, Thơ, nxb Văn nghệ, 1999 California.
- Đỗ lai Thúy, Con Mắt thơ, nxb Lao Động, 1992, Hà Nội.
- Chế lan Viên, Phê bình văn học, nxb Văn Học, 1962, Hà Nội.
- Đặng Tiến, Từ điển văn học, tạp chí Thế Kỷ 21, 6/2005, California