KHI CUỘC CHIẾN CHẤM DỨT
Khánh Lan
Bất kể cuộc chiến nào khi chấm dứt cũng để lại nhiều đau thương, nghiệt ngã cho những người còn sống sót, dù là ngoài xã hội hay trong thế giới văn chương. Sau cuộc chiến năm 1975, tại Việt Nam đã có biết bao quân nhân cán chính, giáo chức và các nhà văn hóa lao vào cảnh tù đầy không hẹn ngày trở về. Những trại tù trá hình “cải tạo” được mọc lên ở miền Bắc trước năm 1954 cũng như tại miền Nam sau năm 1975 đã chôn vùi thân xác của những đứa con trung thành của tổ quốc và những nhân tài của nền văn hóa nước nhà.
Trong bài viết về “Khi Cuộc Chiến Chấm Dứt” người viết xin gởi đến quý độc giả một nhân tài lỗi lạc trong lĩnh vực văn học, một nhà thơ tiền chiến với những vần thơ cô đọng nhiều uẩn khúc của cuộc đời, một Phùng Quán với rất nhiều nhọc nhằn, đau thương và cay đắng xẩy ra cho ông trong quá khứ. Nếu, chúng ta đem Phùng Quán ra để so sánh với Nguyễn Chí Thiện thì chúng ta cũng không thể cho rằng ai là người yêu nước hơn ai? mặc dù cả hai đều là nhà thơ và là nạn nhân hiện hữu trong buổi giao thời ấy, nhưng trong tâm tư của mỗi người đều mang nặng một lý tưởng và một suy nghĩ khác nhau. Trong bài viết này, người viết chỉ xin bàn về nhà thơ Phùng Quán.
Thi sĩ Phùng Quán là một nhà thơ được nhiều Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam về Văn học nghệ thuật nhất trong khoảng thời gian ngắn. Năm 1955, tác phẩm đầu tay của thi sĩ Phùng Quán, Tiểu thuyết Vượt Côn Đảo, được Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam về Văn học nghệ thuật năm 2007. Tập thơ Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (1955), được Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật, năm 2007. Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội (1987), được Giải A văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988, và nhận được Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990. Cùng năm 1990 tác phẩm này được đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn dựng thành phim, Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 2000 và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

“Có những lúc ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.”
Đó là hai câu thơ bất hủ đã nói lên ngàn lời tâm sự của người nghệ sĩ tài ba Phùng Quán, một tài năng độc đáo trên văn đàn từ giữa thế kỷ XX, nhưng định mệnh trớ trêu đã đẩy ông qua nhiều gian nan và thử thách trong cuộc sống. Tên tuổi của Phùng Quán trở nên nổi tiếng rất sớm nhưng cũng xuống dốc khá nhanh “Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian”. Phải chăng cái nhân cách quá ngay thẳng đã đưa cuộc đời của ông vào một số phận bi tráng như thế? Khiến ông sa vào từ thất vọng này đi đến tuyệt vọng kia? Nhưng cái gì đã giúp ông vượt qua chông gai mà số mạng bắt ông gánh chịu. Có phải “Có những lúc ngã lòng. Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”? hay như một nhà thơ người Mỹ gốc Nga, Roman Jakobson, đã nói “Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh”.
Năm 1957, theo soạn giả Tân Linh: Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm với hai bài thơ Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí, hai thi phẩm đã đem rất nhiều tai hoạn lớn cho Phùng Quán (25 tuổi) sau tác phẩm Vượt Côn Đảo. Bài thơ Lời mẹ dặn khiến ông bị khai trừ khỏi Hội nhà văn, bị đuổi ra khỏi quân đội. Phùng Quán rơi vào cảnh “tứ cố vô thân” bởi cha ông đã chết trong tù khi ông mới biết bò, mẹ ông thì sống bên kia giới tuyến (Huế), bạn bè và người thân xa lánh vì sợ liên lụy. Buồn và chán nản, có lúc Phùng Quán có ý định sẽ vào Quảng Bình sinh sống, nhưng cũng có những lúc qúa thất vọng, ông bảo: “Cá sông Nhật Lệ nhiều vô kể, thế nào cũng đủ sống, mà nếu chán quá, không muốn sống nữa thì… thôi”. Và cũng đã có nhiều lần ông nghĩ đến cái chết. Sau đây là bài thơ Lời mẹ dặn (1957).
… Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(Lời mẹ dặn)
Mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi. Phùng Quán đã phải đánh đổi gần như cả cuộc đời mình với 15 năm lao động cải tạo và 32 năm treo bút bởi hai bài thơ đầu tiên trong văn học trỉ trích cách mạng, chống tệ quan liêu lãng phí.
Ta đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:
Tôi đã gặp
Những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa…
….Tôi đã gặp
Chị em công nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xắn quá gối
Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân …
…Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội quân trừ diệt
– Có tôi!
đi trong hàng ngũ tiền phong…
Năm 1988 ông được khôi phục lại chức vị hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Tuy vậy, sau khi được hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nhận lại vào thời kỳ đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản. Hơn 32 năm treo bút, ông phải mượn tên người khác viết “văn chui” và xuất bản một số tác phẩm dưới bút danh khác. Hơn 40 cuốn truyện tranh và khoảng 10 tác phẩm văn xuôi được in trong đó có 3 tập bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Tuổi thơ dữ dội”. Sống trong cảnh nghèo đói, ông đã câu trộm cá ở Hồ Tây để kiếm sống (theo nhà thơ Ngô Minh) và mua chịu ở quan rượu của bà Hai Hanh, làng Nghi Tàm. Vì thế, trong thời kỳ này, bạn bè văn nghệ đặt cho ông một biệt hiệu là: “cá trộm, rượu chịu, văn chui“.
Thơ tôi biết xin ai?
Ai cho?
Thơ với tôi là nước trên sa mạc
Đã từ nhiều năm nay
Tôi sống mà như chết
Cơn khát thơ thiêu đốt trái tim tôi
Tôi đã đi rao cùng thiên hạ:
– Ai-đổi-thơ-lấy-máu!
Không ai đổi
Vì máu tôi không cùng nhóm máu họ
Năm 1998, ông được phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn Việt Nam để rồi chính thức từ đó trở đi, cái tên Phùng Quán lại gắn liền với những tác phẩm nổi tiếng như “Thơ Phùng Quán”, tiểu thuyết “Trăng hoàng cung”, bộ tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội”… trên báo Đảng địa phương.
“Ba mươi năm trước tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ
Nay lại hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang
Chính cây cà quê mùa lao lực
Đã cho tôi dũng khí bền gan”.
Báo QNĐN-Chủ nhật là nơi đã trả lại tên thật cho nhà văn-nhà thơ Phùng Quán sau 30 năm mất tích trên văn đàn Việt Nam. Tạp chí Sông Hương tiếp tục đăng những bài viết của Phùng Quán và để tên thật của ông. Một số tờ báo, tạp chí, NXB cũng lần lượt đăng những sáng tác với bút danh Phùng Quán một cách minh bạch – xóa nạn “in chui” cho ông.
TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC: QUÊ HƯƠNG & GIA ĐÌNH
Phùng Quán được coi như là một người lính dấn thân vì nhân dân, vì đất nước cho dù ông đã trải qua những năm tháng bi thương khốc liệt nhất của đời người. Nhưng ông vẫn sắt son niềm tin vào Đảng, vào sự đổi mới phát triển của đất nước qua lời thơ:
“…Tôi tin sẽ đến ngày tôi được Đảng hiểu”,
“Tôi không nói lời vĩnh biệt. Vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh…”.
Theo Ngô Quy Nhơn, Phùng Quán đã sống và yêu đất nước đất nước đến tận cùng máu thịt cũng như tình yêu với người vợ hiền của ông, đó là một tình yêu đích thực, một tình yêu mà ông dám hy sinh cả cuộc đời của mình.
…”Ngày ra trận, tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về, Đầu đã hoa râm
Sau cuộc trường chinh ba mươi năm…”
Tại sao lại gọi đó là tình yêu quê hương đích thực và đến tận cùng máu thịt? Phùng Quán đã cống hiến cả cuộc đời mình cho một chế độ mà ông tôn thờ bởi ngay từ thiếu thời, (13 tuổi) ông đã dấn thân theo cách mạng, từ một chiến sĩ liên lạc Trung đoàn Trần Cao Vân, đến làm Vệ quốc quân mặt trận khói lửa Bình Trị Thiên. Năm 1953, khi Phùng Quán mới 22 tuổi, là người lính liên lạc trong Vệ quốc đoàn, ông viết tiểu thuyết Vượt Côn Đảo vàgây xúc động cho người đọc qua bao thế hệ. Vượt Côn Đảo là tác phẩm đầu tay của Phùng Quán, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời cầm bút của ông, xuất bản lần đầu năm 1954. Năm 2007, cùng với hai tác phẩm Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo và Tuổi thơ dữ dội ra đời, chứng tỏ ông chẳng những hy sinh cuộc sống, tuổi thanh xuân, và tình yêu cá nhân của mình cho đất nước mà còn tôn thờ tổ quốc trong tư tưởng cũng như trong văn thơ của ông.
Theo soạn giả Tân Linh, chuyện tình của Phùng Quán là một tình yêu đẹp, lãng mạn, đầy sóng gió và xúc động, một mối tình cao quý dược thuật lại như sau: Khi Phùng Quán về làm văn nghệ ở Hà Nội trong Đại hội văn nghệ toàn quân tổ chức sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông đã gặp một cô giáo trẻ, tên Vũ Thị Bội Trâm, giảng dạy tại Trường PTTH Chu Văn An, Hà nội, người Hà Nội, nhà ở phố Hàng Cân đem lòng yêu ông. Bà Bội Trâm kể: “Anh yêu cũng dữ dội lắm: Viết tặng tôi bài thơ anh đã nói rất… liều”:
“Khách tình yêu xưa nay ít lễ độ
Bước vào buồng tim chẳng gõ cửa bao giờ…”.
Phùng Quán bảo mỗi người đều có tình yêu và lý tưởng để tôn thờ, ông viết tặng vợ bài Kinh cầu nguyện buổi sáng như sau:
“Tôi sẽ đi với em
Cho đến mút chót con đường…
… Ngày lấy em tôi đã có lời nguyền
Nếu tôi bỏ em lại bơ vơ dọc đường
Tôi sẽ bị trời tru đất diệt
Em là cây Thập tự của đời tôi
Tôi phải mang vác cho tới ngày chung cuộc…“
Phùng Quan khẳng định rằng đây là bài thơ tình hay nhất của ông. Năm 1960, đi lao động thâm nhập thực tế ở Thái Bình cùng các nhà văn Tô Hoài, Hoàng Trung Thông về, Phùng Quán bị nhiễm lao. Năm 1962, Phùng Quán và Bội Trâm đến đăng ký kết hôn ở ủy ban hành chính xã Quảng An huyện Từ Liêm Hà Nội. Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe cũng là bài thơ viết cho bà Bội Trâm. Trong bổn bài thơ tựa đề chỉ có một chữ: Say, Hôn, bài thơ Hôn được nhắc đến nhiều nhất và được in trong tuyển tập Panorama de la Littérature Vietnamism (do nhà văn hóa Hữu Ngọc dịch) cũng như được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Bài thơ được coi như là tuyên ngôn tình yêu của người lính, âm hưởng diệu vợi, bi tráng và rất thực bởi bắt nguồn từ một tình yêu rất chân thực của một người lính, hay hơn thế nữa, một đồng đội, một người bác của ông: Chiến sĩ cảm tử quân Phùng Huấn. (Theo tác giả Nguyễn Viết Chính).
…”Trời đã sinh ra anh
Ðể yêu em tha thiết…
…Còn anh, anh yêu em
Anh phải ra mặt trận…
…Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Ðôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ”.
(Hôn1956)
VỀ VĂN HỌC:
Phùng Quán đã cho xuất bản nhiều tác phẩm, nhưng ở, người viết xin bàn về hai tác phẩm nổi tiếng của Phùng Quán: Đó là Vượt Côn Đảo và Tuổi thơ dữ dội. Vượt Côn Đảo không những chỉ đề cao tinh thần yêu nước mà còn trân trọng những tâm hồn chân quý của thế hệ trẻ đã hy sinh bản thân, vượt qua mọi hoàn cảnh và xương máu cho hòa bình của đất nước. Nguồn cảm hứng để Phùng Quán viết Vượt Côn Đảo khi ông gặp gỡ những người tù cách mạng trở về từ Côn Đảo sau Hiệp định Genève 1954. Phùng Quán đã có mặt trong cuộc trao đổi tù binh ở Sầm Sơn và nghe những câu chuyện của họ về ý chí bất khuất, quật cường, lòng sắt đá, quả cảm và nghị lực của những chiến sĩ cách mạng với hai lần vượt ngục thất bại. Ông viết: “Người chiến sĩ khi đã quyết định dấn thân thì phải dấn thân đến cùng, không quay đầu lại, không rẽ ngang rẽ tắt, không được thối lui, không được bỏ cuộc, không có sự hèn hạ nào đáng ghê tởm hơn sự hèn hạ bỏ cuộc”.
Xin trích dẫn thêm một trích đoạn trong tác phẩm vượt Côn Đảo:
…”Tất cả tù Côn Đảo đều gọi Côn Đảo là địa ngục, một thứ địa ngục trần gian. Nghe người ta nói ở địa ngục, trên có Diêm Vương hung ác, dưới có bọn quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Để hành hạ người chết, có vạc dầu nấu sôi, sông lúc nhúc mãng xà rắn rết, có chỗ cưa chân xẻ tay, róc thịt chẻ xương. Không biết có địa ngục và địa ngục có những cảnh đó không, nhưng ở Côn Đảo, những cảnh đó không thiếu gì, và còn gấp trăm gấp nghìn thế là khác…”
“Có những lúc ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.”
Đó là hai câu thơ bất hủ đã nói lên ngàn lời tâm sự của người nghệ sĩ tài ba Phùng Quán, một tài năng độc đáo trên văn đàn từ giữa thế kỷ XX, nhưng định mệnh trớ trêu đã đẩy ông qua nhiều gian nan và thử thách trong cuộc sống. Tên tuổi của Phùng Quán trở nên nổi tiếng rất sớm nhưng cũng xuống dốc khá nhanh “Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian”. Phải chăng cái nhân cách quá ngay thẳng đã đưa cuộc đời của ông vào một số phận bi tráng như thế? Khiến ông sa vào từ thất vọng này đi đến tuyệt vọng kia? Nhưng cái gì đã giúp ông vượt qua chông gai mà số mạng bắt ông gánh chịu. Có phải “Có những lúc ngã lòng. Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”? hay như một nhà thơ người Mỹ gốc Nga, Roman Jakobson, đã nói “Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh”.
Năm 1957, theo soạn giả Tân Linh: Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm với hai bài thơ Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí, hai thi phẩm đã đem rất nhiều tai hoạn lớn cho Phùng Quán (25 tuổi) sau tác phẩm Vượt Côn Đảo. Bài thơ Lời mẹ dặn khiến ông bị khai trừ khỏi Hội nhà văn, bị đuổi ra khỏi quân đội. Phùng Quán rơi vào cảnh “tứ cố vô thân” bởi cha ông đã chết trong tù khi ông mới biết bò, mẹ ông thì sống bên kia giới tuyến (Huế), bạn bè và người thân xa lánh vì sợ liên lụy. Buồn và chán nản, có lúc Phùng Quán có ý định sẽ vào Quảng Bình sinh sống, nhưng cũng có những lúc qúa thất vọng, ông bảo: “Cá sông Nhật Lệ nhiều vô kể, thế nào cũng đủ sống, mà nếu chán quá, không muốn sống nữa thì… thôi”. Và cũng đã có nhiều lần ông nghĩ đến cái chết. Sau đây là bài thơ Lời mẹ dặn (1957).
… Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(Lời mẹ dặn)
Mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi. Phùng Quán đã phải đánh đổi gần như cả cuộc đời mình với 15 năm lao động cải tạo và 32 năm treo bút bởi hai bài thơ đầu tiên trong văn học trỉ trích cách mạng, chống tệ quan liêu lãng phí.
Ta đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:
Tôi đã gặp
Những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa…
….Tôi đã gặp
Chị em công nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xắn quá gối
Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân …
…Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội quân trừ diệt
– Có tôi!
đi trong hàng ngũ tiền phong…
Năm 1988 ông được khôi phục lại chức vị hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Tuy vậy, sau khi được hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nhận lại vào thời kỳ đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản. Hơn 32 năm treo bút, ông phải mượn tên người khác viết “văn chui” và xuất bản một số tác phẩm dưới bút danh khác. Hơn 40 cuốn truyện tranh và khoảng 10 tác phẩm văn xuôi được in trong đó có 3 tập bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Tuổi thơ dữ dội”. Sống trong cảnh nghèo đói, ông đã câu trộm cá ở Hồ Tây để kiếm sống (theo nhà thơ Ngô Minh) và mua chịu ở quan rượu của bà Hai Hanh, làng Nghi Tàm. Vì thế, trong thời kỳ này, bạn bè văn nghệ đặt cho ông một biệt hiệu là: “cá trộm, rượu chịu, văn chui“.
Thơ tôi biết xin ai?
Ai cho?
Thơ với tôi là nước trên sa mạc
Đã từ nhiều năm nay
Tôi sống mà như chết
Cơn khát thơ thiêu đốt trái tim tôi
Tôi đã đi rao cùng thiên hạ:
– Ai-đổi-thơ-lấy-máu!
Không ai đổi
Vì máu tôi không cùng nhóm máu họ
Năm 1998, ông được phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn Việt Nam để rồi chính thức từ đó trở đi, cái tên Phùng Quán lại gắn liền với những tác phẩm nổi tiếng như “Thơ Phùng Quán”, tiểu thuyết “Trăng hoàng cung”, bộ tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội”… trên báo Đảng địa phương.
“Ba mươi năm trước tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ
Nay lại hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang
Chính cây cà quê mùa lao lực
Đã cho tôi dũng khí bền gan”.
Báo QNĐN-Chủ nhật là nơi đã trả lại tên thật cho nhà văn-nhà thơ Phùng Quán sau 30 năm mất tích trên văn đàn Việt Nam. Tạp chí Sông Hương tiếp tục đăng những bài viết của Phùng Quán và để tên thật của ông. Một số tờ báo, tạp chí, NXB cũng lần lượt đăng những sáng tác với bút danh Phùng Quán một cách minh bạch – xóa nạn “in chui” cho ông.
TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC: QUÊ HƯƠNG & GIA ĐÌNH
Phùng Quán được coi như là một người lính dấn thân vì nhân dân, vì đất nước cho dù ông đã trải qua những năm tháng bi thương khốc liệt nhất của đời người. Nhưng ông vẫn sắt son niềm tin vào Đảng, vào sự đổi mới phát triển của đất nước qua lời thơ:
“…Tôi tin sẽ đến ngày tôi được Đảng hiểu”,
“Tôi không nói lời vĩnh biệt. Vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh…”.
Theo Ngô Quy Nhơn, Phùng Quán đã sống và yêu đất nước đất nước đến tận cùng máu thịt cũng như tình yêu với người vợ hiền của ông, đó là một tình yêu đích thực, một tình yêu mà ông dám hy sinh cả cuộc đời của mình.
…”Ngày ra trận, tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về, Đầu đã hoa râm
Sau cuộc trường chinh ba mươi năm…”
Tại sao lại gọi đó là tình yêu quê hương đích thực và đến tận cùng máu thịt? Phùng Quán đã cống hiến cả cuộc đời mình cho một chế độ mà ông tôn thờ bởi ngay từ thiếu thời, (13 tuổi) ông đã dấn thân theo cách mạng, từ một chiến sĩ liên lạc Trung đoàn Trần Cao Vân, đến làm Vệ quốc quân mặt trận khói lửa Bình Trị Thiên. Năm 1953, khi Phùng Quán mới 22 tuổi, là người lính liên lạc trong Vệ quốc đoàn, ông viết tiểu thuyết Vượt Côn Đảo vàgây xúc động cho người đọc qua bao thế hệ. Vượt Côn Đảo là tác phẩm đầu tay của Phùng Quán, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời cầm bút của ông, xuất bản lần đầu năm 1954. Năm 2007, cùng với hai tác phẩm Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo và Tuổi thơ dữ dội ra đời, chứng tỏ ông chẳng những hy sinh cuộc sống, tuổi thanh xuân, và tình yêu cá nhân của mình cho đất nước mà còn tôn thờ tổ quốc trong tư tưởng cũng như trong văn thơ của ông.
Theo soạn giả Tân Linh, chuyện tình của Phùng Quán là một tình yêu đẹp, lãng mạn, đầy sóng gió và xúc động, một mối tình cao quý dược thuật lại như sau: Khi Phùng Quán về làm văn nghệ ở Hà Nội trong Đại hội văn nghệ toàn quân tổ chức sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông đã gặp một cô giáo trẻ, tên Vũ Thị Bội Trâm, giảng dạy tại Trường PTTH Chu Văn An, Hà nội, người Hà Nội, nhà ở phố Hàng Cân đem lòng yêu ông. Bà Bội Trâm kể: “Anh yêu cũng dữ dội lắm: Viết tặng tôi bài thơ anh đã nói rất… liều”:
“Khách tình yêu xưa nay ít lễ độ
Bước vào buồng tim chẳng gõ cửa bao giờ…”.
Phùng Quán bảo mỗi người đều có tình yêu và lý tưởng để tôn thờ, ông viết tặng vợ bài Kinh cầu nguyện buổi sáng như sau:
“Tôi sẽ đi với em
Cho đến mút chót con đường…
… Ngày lấy em tôi đã có lời nguyền
Nếu tôi bỏ em lại bơ vơ dọc đường
Tôi sẽ bị trời tru đất diệt
Em là cây Thập tự của đời tôi
Tôi phải mang vác cho tới ngày chung cuộc…“
Phùng Quan khẳng định rằng đây là bài thơ tình hay nhất của ông. Năm 1960, đi lao động thâm nhập thực tế ở Thái Bình cùng các nhà văn Tô Hoài, Hoàng Trung Thông về, Phùng Quán bị nhiễm lao. Năm 1962, Phùng Quán và Bội Trâm đến đăng ký kết hôn ở ủy ban hành chính xã Quảng An huyện Từ Liêm Hà Nội. Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe cũng là bài thơ viết cho bà Bội Trâm. Trong bổn bài thơ tựa đề chỉ có một chữ: Say, Hôn, bài thơ Hôn được nhắc đến nhiều nhất và được in trong tuyển tập Panorama de la Littérature Vietnamism (do nhà văn hóa Hữu Ngọc dịch) cũng như được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Bài thơ được coi như là tuyên ngôn tình yêu của người lính, âm hưởng diệu vợi, bi tráng và rất thực bởi bắt nguồn từ một tình yêu rất chân thực của một người lính, hay hơn thế nữa, một đồng đội, một người bác của ông: Chiến sĩ cảm tử quân Phùng Huấn. (Theo tác giả Nguyễn Viết Chính).
…”Trời đã sinh ra anh
Ðể yêu em tha thiết…
…Còn anh, anh yêu em
Anh phải ra mặt trận…
…Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Ðôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ”.
(Hôn1956)
VỀ VĂN HỌC:
Phùng Quán đã cho xuất bản nhiều tác phẩm, nhưng ở, người viết xin bàn về hai tác phẩm nổi tiếng của Phùng Quán: Đó là Vượt Côn Đảo và Tuổi thơ dữ dội. Vượt Côn Đảo không những chỉ đề cao tinh thần yêu nước mà còn trân trọng những tâm hồn chân quý của thế hệ trẻ đã hy sinh bản thân, vượt qua mọi hoàn cảnh và xương máu cho hòa bình của đất nước. Nguồn cảm hứng để Phùng Quán viết Vượt Côn Đảo khi ông gặp gỡ những người tù cách mạng trở về từ Côn Đảo sau Hiệp định Genève 1954. Phùng Quán đã có mặt trong cuộc trao đổi tù binh ở Sầm Sơn và nghe những câu chuyện của họ về ý chí bất khuất, quật cường, lòng sắt đá, quả cảm và nghị lực của những chiến sĩ cách mạng với hai lần vượt ngục thất bại. Ông viết: “Người chiến sĩ khi đã quyết định dấn thân thì phải dấn thân đến cùng, không quay đầu lại, không rẽ ngang rẽ tắt, không được thối lui, không được bỏ cuộc, không có sự hèn hạ nào đáng ghê tởm hơn sự hèn hạ bỏ cuộc”.
Xin trích dẫn thêm một trích đoạn trong tác phẩm vượt Côn Đảo:
…”Tất cả tù Côn Đảo đều gọi Côn Đảo là địa ngục, một thứ địa ngục trần gian. Nghe người ta nói ở địa ngục, trên có Diêm Vương hung ác, dưới có bọn quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa. Để hành hạ người chết, có vạc dầu nấu sôi, sông lúc nhúc mãng xà rắn rết, có chỗ cưa chân xẻ tay, róc thịt chẻ xương. Không biết có địa ngục và địa ngục có những cảnh đó không, nhưng ở Côn Đảo, những cảnh đó không thiếu gì, và còn gấp trăm gấp nghìn thế là khác…”
Theo tác giả Ngô Minh Thuyên lòng yêu nước trong Phùng Quán rất kiên định cho dù sau 32 năm bị án “nhân văn”, Phùng Quán vẫn cho ra đời Tuổi thơ dữ dội gây xúc động về chính cuộc đời ông và đồng đội mình. “Tuổi thơ dữ dội” là một tác phẩm truyện dài xoay quanh cuộc sống chiến đấu và sự hy sinh của những thiếu niên 13, 14 tuổi trong hàng ngũ Đội thiếu niên trinh sát của trung đoàn Trần Cao Vân.
“… Không thể ôm nhau mà nhìn thần chết đến cướp cùng một lúc. Giờ phút này phải đòi hỏi sự hy sinh. Anh Cả hội ý với Du và cuối cùng quyết định. – Cần năm đồng chí hy sinh để cho thuyền nhẹ bớt. Mười đồng chí giơ tay cùng một lúc. Trong đó có Bằng, Chức, lão Học. Anh Cả nhìn mười đồng chí một lượt, ngồi lặng đi một phút …”


THẾ GIỚI THI CA:
Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn để lại cho đời nhiều bài thơ được hàng triệu người Việt Nam ngưỡng mộ như: Tập thơ Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Báo Phụ nữ Liên Xô dịch và in, năm 1957. Địa Ngục Côn Đảo, một tác phẩm thơ ca ngợi nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu đã trở thành bài ca của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, của những thế hệ người Việt Nam đã chiến đấu quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc.
“Côn Đảo bỗng rùng mình
Ai cất lên tiếng hát?
…Theo tiếng hát chơi vơi
Mọc lên giữa địa ngục
… Người tù sắp xử bắn
Vẫn hát mắt mở to
…Người đang hát: chị Sáu
Một cô gái miền Nam”. |
Thật đúng như nhận định của tác giả Nguyễn Viết Chính, thơ Phùng Quán là thơ có chiều sâu của tâm hồn, một tâm hồn luôn nhạy cảm đã đến từ sự rung động của trái tim, chất chứa những nỗi niềm, như một lời tâm sự và cũng chính những vần thơ ấy, ông đã cứu sống được bao tâm hồn đang trong nỗi tuyệt vọng. Điển hình là nhà thơ Hoàng Cầm sau một tai nạn, ông bị lâm bệnh trầm cảm trong nhiều năm. Một hôm, Phùng Quán đến thăm Hoàng Cầm, mang theo một chai rượu làng Vân, ngồi trước mặt Hoàng, Phùng Quán rót rượu và đọc bài thơ có tựa đề là “Phùng Quán gửi Hoàng Cầm mắc bệnh tâm thần nặng“. Nghe xong bài thơ, nước mắt Hoàng Cầm lăn dài trên gò má hóp, tái xanh. Phùng Quán nâng lên mời bạn và họ ôm nhau, hàn huyên. Sau ngày đó, Hoàng Cầm sống lại và từ đó mở đầu cho một loạt thơ mới. Dưới đây là bài thơ “thần dược” của Phùng Quán:
“Tôi không tin một nhà thơ như Anh
Lại ngã lòng suy sụp
Một nhà thơ đã viết những dòng thơ lẫm liệt
Tiểu đội anh, những ai còn, ai mất?
Không, không ai còn ai mất…
…Tôi tin chắc như đinh đóng cột
Sau khi Anh mất đi
Theo sau linh cữu anh
Ngoài bạn hữu gia đình
Có cả con sông Đuống
Sông Đuống mặc đại tang…”
(Hà Nội tháng 3-1987)
Sau gần 35 năm xa quê hương, Phùng Quán trở về quê, làng Thanh Thủy Thượng, xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, Huế. “Ngày ra đi tóc còn để chỏm, ngày về tóc đã hoa râm”. Ông đã quỳ xuống trước đông đảo bà con đọc to bài thơ “Tạ”:
Con tạ,
Đất làng quê
Thấm đẫm máu bao anh hùng đã khuất
Không ngọn cỏ nào không long lanh nước mắt
Không lá cây nào không mặn chát gian lao
Con tạ, manh chiếu rách con nằm…
Năm 1975 giải phóng miền Nam, Phùng Quán về Huế rồi vào thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 22 tháng 01, 1995 tại Hà Nội, nhưng mãi đến đầu năm 2011, ước nguyện của ông mới trở thành hiện thực. Nhà thơ Ngô Minh quyên góp từ những văn nghệ sỹ, trí thức, học sinh, sinh viên, nông dân, anh xe ôm, xích lô, Việt kiều… đã góp tiền xây dựng mộ cho nhà thơ Phùng Quán. …“Tôi sẽ đào nấm huyệt. Cạnh mồ cha mẹ tôi”…”. Sau khi xây mộ cho hai vợ chồng nhà thơ và do nguyện vọng của dòng họ Phùng, số tiền còn lại được lập “Quỹ khuyến học, khuyến tài” mang tên Phùng Quán, để phát thưởng cho học sinh giỏi hàng năm của xã Thủy Dương quê hương nhà thơ và khuyến khích các nhà văn, nhà thơ ở Thừa Thiên, Huế có những tác phẩm văn học đặc sắc. Sau khi nhà thơ qua đời, Quỹ Phùng Quán đã tổ chức phát thưởng lần đầu tiên cho 41 em học sinh xuất sắc của các trường tiểu học, THCS Thủy Dương gồm một giấy chứng nhận Quỹ Phùng Quán, có ảnh nhà thơ và là 500.000 đồng Việt Nam. Quỹ Phùng Quán còn tặng thưởng cho 3 em học sinh họ Phùng xuất sắc nhất do dòng tộc Phùng ở Thủy Dương xét chọn. Đầu năm 2012, Quỹ Phùng Quán đã giải khuyến tài văn học Phùng Quán cho hai tác phẩm văn học: Tiểu thuyết “Vùng sâu” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, và “Xa Hà Nội” của Nhà Văn Nhất Lâm, giá trị mỗi giải thưởng là 2 triệu đồng Việt Nam. Lễ trao được Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên, Huế tổ chức ngay tại khu lăng mộ của nhà thơ Phùng Quán. Tên của ông cũng được UBND tỉnh Thừa Thiên, Huế quyết định đặt tên cho con đường mang tên Phùng Quán tại Thị xã Hương Thủy, quê hương ông, dài 5,850 km, từ Km 83, Quốc lộ 1A đối diện cổng làng Thanh Thủy Thượng, đi qua lăng mộ Phùng Quán, qua chiến khu Dương Hòa, nơi Phùng Quán đi theo bộ đội Việt Minh từ năm 1946. Trong “Trăng Hoàng Cung” của Phùng Quán viết 26 năm trước. Vâng, Phùng Quán đã ra đi và trở về trên chính con đường mang tên Phùng Quán. (CTV Ngô Minh Thuyên/VOV online) |
…“Nhưng cuối cùng
Quê hương nhận ra
Trái – tim Thơ- trong-sạch
Và gương – mặt – Thơ- bi – thiết – của tôi…”.

Tóm lại, người ta thường cho rằng thực chất của sự thật bao giờ cũng tốt, nên được khuyến khích và áp dụng trong hầu hết mọi lãnh vực. Thế nhưng trên thực tế, ngoài đời cũng như trong văn chương có mấy ai dám nói sự thật hoàn toàn? Ngay trong thế giới văn học tại Việt Nam, chẳng phải chỉ Thi sĩ Phùng Quán hay Nguyễn Chí Thiện bị tẩy chay trong xã hội mà trên thế giới chúng ta đã từng nghe đến những nhà đại văn hào, từng được lãnh Giải thưởng Nobel như Erich Maria Remarque đã bị tước quốc tịch Đức năm 1939 vì bị cho là lời văn của ông có tính cách phỉ báng quân đội Đức. Nhà văn Nga Boris Leodovich Pasternak, tác phẩm của ông cũng bị cấm xuất bản và lưu hành tại Nga vì bị cho là nội dung bôi nhọ chính sách, ông bị buộc từ chối nhận đề cử lãnh Giải thưởng Nobel 1958 với lý do làm giảm uy tín của đảng Liên Xô, cho mãi đến năm 1989, con trai của ông là Yevgenii Borisovich Pasternak được phép đến Stockholm để nhận giải thưởng của cha cậu.
Vậy câu hỏi được đưa ra để tùy độc giả suy nghĩ. Có nên nói hoàn toàn sự thật một cách nồng nhiệt hay không?
Khánh Lan, California, kỷ niệm 50 năm nhìn lại, (1975-2025)
TÀI LIỆU ĐỌC THÊM: TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA THI SĨ PHÙNG QUÁN: Phùng Quán là một nhà văn, nhà thơ và bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông là cháu của Tố Hữu, sinh tháng 1 năm 1932, quê tại xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy (nay là phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy), tỉnh Thừa Thiên – Huế). Chưa học xong Tiểu học, Phùng Quán đã bỏ nhà đi theo cách mạng. Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân ở tuổi 13, và trở thành chiến sĩ trinh sát của Trung đoàn 101, lừng danh ở chiến trường Bình-Trị-Thiên (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó Phùng Quán tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV. Năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam (tiền thân của Tạp chí Văn nghệ Quân đội). Phùng Quán có rất nhiều tác phẩm được xuất bản bắt đầu từ 1955 kéo dài đến 2007, bao gồm nhiều thể loại khác nhau như truyện dài, truyện ngắn, hồi ký, bút ký, v.v…có những tác phẩm được dịch và xuất bản tại Trung Quốc, NXB Thượng Hai dịch và in như: Bút ký (1955), Bên bờ Hiền Lương (1956). Thạch Sanh Cháu Bác Hồ truyện thiếu nhi (1955). Một số truyện thiếu nhi như: Cuộc Đời Một Đôi Dép Cao Su (1956), Như Con Cò Vàng Trong Cổ tích (tác phẩm ký bút danh Vũ Quang Khải, được Giải nhất cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật). Vĩnh Linh, Lịch Sử Văn Hóa (ký tên tác giả là Nguyễn Huy-1982). Dũng Sĩ Chép Còm(1987-với bút danh Trần Vỹ Dạ), Người Du Kích Hói Đầu (1990), Tiếng đàn trong rừng thẳm (1991). Đôi Bạn Tật Nguyền Kỳ Lạ (1991). Thơ Phùng Quán (1995). Bản hùng ca về 17 Vệ quốc Đoàn (1993). Trăng hoàng cung, Tiểu thuyết thơ, Nhà xuất bản Thanh Văn, USA năm 1993. Năm 2007, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh tái bản Trăng hoàng cung & Phùng Quán Viết Trăng Hoàng Cung (tiểu thuyết tình 13 chương của Phùng Quán & Hồi ức của nhà văn Hà Khánh Linh). Phùng Quán, Thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2003. Ba phút sự thật, Ký, (2006, tái bản 2009). Tôi Đã Trở Thành Nhà Văn Như Thế Nào?-Hồi ký (2007). Phùng Quán Còn Đây, Di cảo của Phùng Quán và Hồi ức của bạn bè, (2007-Hồi ký 0. |