Âm nhạc,  Vương Trùng Dương

Dạ Khúc (Sérénade)

“Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành đau khổ. nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành tình yêu”. (Franz Schubert)

Nhạc sĩ người Áo Franz Schubert (1797-1828) là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất vào Thời kỳ Cổ Điển (1730-1820) & Thời Kỳ Lãng Mạn (1800-1910) ở Âu Châu. Nhạc sĩ tài danh của nhân loại nhưng lúc sinh thời, ông gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống và tình yêu. Nhạc phẩm Sérénade của Franz Schubert được phổ biến khắp nơi trên thế giới trong hai trăm năm.

Franz Schubert, Ludwig van Beethoven, Franz Liszt là học trò nổi tiếng của nhạc sĩ Ý Antonio Salieri (1750-1825) nhưng tên tuổi của Schubert không được nổi tiếng lúc sinh thời.

Schubert sống lang bạt, nay đây mai đó “Gần như cả cuộc đời, Schubert không có được một mái nhà, lại cũng chẳng có được chiếc dương cầm để bầu bạn. Vì vậy có nhiều sáng tác của chính mình, Schubert chưa bao giờ được nghe qua. Thường xuyên trong cảnh bữa đói, bữa no, sáng tác trong giá rét, Schubert có thói quen soạn nhạc vào buổi sáng, thích đi xem kịch, uống bia với bạn bè…”. Schubert nghèo đến nỗi, hàng ngày ông thường đến nhà bạn mượn piano để sáng tác.

Trong bài viết trước đây, tôi đã đề cập đến nhạc phẩm Sérénade (Khúc Nhạc Chiều, Dạ Khúc). Đây là một trong những tác phẩm âm nhạc cổ điển nổi tiếng nhất, được rất nhiều ca sĩ nổi danh trình bày, và rất nhiều người yêu thích từ xưa đến nay.

Theo ghi nhận, Franz Schubert sáng tác Sérénade vào năm 1826 để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu. Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, thay vì nhạc sĩ Schubert. (Có lẽ chỉ là giai thoại để đánh dấu hoàn ảnh sáng tác nhạc phẩm?).

Gần đây, có tài liệu cho rằng, nhạc phẩm nầy sáng tác vào năm 1823 trong tâm trạng buồn chán, đổ vỡ với mối tình thầm kín trong nỗi bất hạnh của Franz Schubert!

Lied tiếng Đức với nghĩa là bài hát. Lied thường được soạn cho ca sĩ hát solo và piano hoặc violon. Người Đức sử dụng thuật ngữ đặc biệt Kunstlied (Ca Khúc Nghệ Thuật) để chỉ thể loại này. Franz Schubert đã sáng tác khoảng 600 Lieder (số nhiều của Lied).

“Schubert đã không lọt vào mắt xanh của nhà mạnh thường quân nào đó trong giới quý tộc của Áo hay Châu Âu thời bấy giờ. Cả sự nghiệp đồ sộ với trên dưới một ngàn tác phẩm, nhưng vì không có phương tiện, sinh thời chỉ có khoảng 10% những sáng tác của ông được in ấn”.

Vì vậy nhạc phẩm Sérénade được coi như nằm trong Lieder của Schubert mà trong khoảng thời gian đó nhạc sĩ không có tiền để mua giấy bút để chép lại đầy đủ.

Năm 1815 Franz Schubert mới 18 tuổi, gửi sáng tác của ông đến nhà thơ Đức Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832), nhưng buồn thay, chẳng màng đáp lại. Với 70 bài thơ của Goethe được Schubert phổ nhạc nhưng nhà thơ chẳng quan tâm. Có lẽ cây đại thụ của thi ca Đức cho rằng “chàng nhóc ngưới Áo” dựa vào tên tuổi của ông nên lấy thơ phổ nhạc (?).

Mãi đến năm 1830, hai năm sau khi Schubert qua đời, lần đầu tiên nhà thơ Goethe mới thưởng thức bản lied Erlkonig qua tiếng hát của nữ ca sĩ Wilhelmine Schroider-Devrient. Thi nhân ân hận gởi những giọt lệ muộn màng đến một thiên tài đã âm thầm đem lại phép màu để văn thơ của Goethe thêm tỏa sáng.

Trong 16 năm sáng tác, nhạc sĩ thiên tài đoản mệnh Franz Schubert để lại cho đời gần một ngàn tuyệt tác nhưng lúc sinh thời không được ca ngợi… cho đến khi lìa trần!

Trở về với cát bụi, Franz Schubert yên nghỉ tại nghĩa trang Währing, cách không xa ngôi mộ của nhạc sĩ Beethoven (qua đời vào tháng 3/1827). Năm 1888 mộ phần của ông được đưa về nghĩa trang trung tâm của thành Vienne, trong khu vực dành cho các nhạc sĩ nổi tiếng của nước Áo như Gluck, Beethoven, Johannes Brahms, Hugo Wolf…

Thiên tài âm nhạc, nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Mozart (1756-1791) mất ngày 5/2/1791, để lại di sản âm nhạc lừng danh trên thế giới. Nhưng khi lìa đời quá hẩm hiu, đi theo chiếc xe ngựa của đám tang ông, chỉ có một con chó!

Ở đời, biết bao cảnh tượng đau lòng đã xảy ra như vậy với những nhân tài của nhân loại, trong cao dao của ta có câu: “Lúc sống, thời chẳng cho ăn. Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi”.

Như đã đề cập trong bài viết trước đây của tôi: “Với bốn nhạc sĩ tài danh sáng tác bốn ca khúc Sérénade nổi tiếng nhất:

1. Sérénade số 13 của Mozart, thường được gọi là “Eine Kleine Nachtmusik” (tiếng Đức, có nghĩa “Tiểu Dạ Khúc”

2. Sérénade của Schubert thường được biết với tên  “Sérénade de Schubert”

3. Sérénade của Tosti được gọi tắt là “La Serenata”

4. Sérénata của E. Toselli được mang tên Serenata “Rimpianto” (tiếng Ý: Rimpianto có nghĩa là Luyến Tiếc).

Ở Việt Nam hai ca khúc Sérénade của Shubert và Toselli được Phạm Duy chuyển sang lời Việt (Sérénade của Shubert với tựa Dạ Khúc) và (Sérénata của Toselli với tựa là Chiều Tà).

Giống như Sérénade, Nocturne thường gọi là Dạ Khúc (khúc nhạc đêm) xuất hiện khoảng thế kỷ 18. Frédéric Chopin (1810-1849) là nhạc sĩ sáng tác rất nhiều Nocturne (21 bài).

Nocturne in E minor, Op. posth. 72, No. 1 (Nocturne in E minor – Dạ Khúc cung Mi thứ) Chopin sáng tác vào năm 1827, đầu tiên của ông được công bố vào năm 1855.

Nhạc sĩ Franz Liszt (1811-1886) nhận định: “Chỉ duy nhất một thiên tài như Chopin mới đem lại cho thể loại dạ khúc tính chất nhạy cảm tinh tế và tình yêu mãnh liệt nồng cháy đến thế. Các Nocturne thơ mộng của Chopin không chỉ hát lên những bài ca du dương lòng người với những hoài niệm thanh cao dịu ngọt, mà còn lay động đến tâm trí con người những nỗi day dứt hoang mang đến ngộp thở”.

Giữa quãng thời gian Thời Kỳ Cổ Điển (1730-1820) & Thời Kỳ Lãng Mạn (1800-1910) ở Âu Châu đã xuất hiện nhiều thiên tài âm nhạc đã để lại kho táng âm nhạc phong phú nhất trên thế giới.

Nocturne cung Đô thăng thứ (Nocturne in C-sharp minor) do Chopin sáng tác năm 1830 và được công bố năm 1870, là một trong những bản nocturne hay nhất của ông. Bản nhạc này được chọn làm nhạc chính cho phim The Pianist, một bộ phim rất xúc động với bối cảnh là các trại tập trung của Đức Quốc xã.

Ở Việt Nam có các nhạc phẩm Dạ Khúc của Nguyễn My Ca (lời: Hoàng Mai Lưu), Dạ Khúc của Nguyễn Văn Quỳ vào thời tiền chiến. Ở hải ngoại có Dạ Khúc của Phạm Anh Dũng. Trước năm 1975 có Dạ Khúc Cho Tình Nhân của Lê Uyên Phương…

Với Sérénade, Nocturne, Dạ Khúc… (dù không có lời) nhưng với giai điệu, tiết tấu cũng mường tượng hình ảnh cô đơn, mang nỗi buồn man mác xa xôi!

Thông thường những nhạc phẩm với hình ảnh chiều tàn với Giai Điệu (Le Mélodie) nhẹ nhàng với cung bậc trầm/bổng, Tiết Tấu (Le Rythme) khoan thai dễ ru vào lòng người.

Điển hình các khúc với hình ảnh liên quan đến chiều qua các nhạc phẩm của các nhạc sĩ từ thời tiền chiến và trước năm 1975 ở miền Nam VN:

Chiều Vàng của Nguyễn Văn Khánh, Lá Đỗ Muôn Chiều của Đoàn Chuẩn & Từ Linh, Tiếng Chuông Chiều Thu  của Tô Vũ, Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước, Chiều của Dương Thiệu Tước (thơ Hồ Dzếnh), Bóng Chiều  Xưa (Tango) của Dương Thiệu Tước, Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn, Nương Chiều, Chiều Về Trên Sông của Phạm Duy, Chiều Thu Ấy, Chiều Hoang Vắng của Lam Phương, Đò Chiều của Trúc Phương, Chiều Thương Đô Thị của Song Ngọc & Hoài Linh, Ý Nhạc Chiều  của Nguyễn Hiền, Chiều Tím của Đan Thọ (lời Đinh Hùng), Hình Ảnh Một Buổi Chiều của Lâm Tuyền (lời Dạ Chung), Khúc Nhạc Chiều Mơ  của Ngọc Bích, Chiều Cố Đô của Hoàng Thi Thơ, Đà Lạt Hoàng Hôn của Minh Kỳ & Dạ Cầm, Chiều Làng Em (vui vẻ), Chiều Cuối Tuần của Trúc Phương, Tình Khúc Chiều Mưa  của Nguyễn Ánh 9, Nhớ Một Chiều Xuân  của Nguyễn Văn Đông, Sương Lạnh Chiều Đông  của Mạnh Phát, Một Chiều Đông  của Tuấn Khanh…

Với hình ảnh đời lính vẫn thuần túy về nghệt thuật trong những ca khúc trữ tình: Chiều Mưa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông, Chiều Trên Phá Tam Giang của Trần Thiện Thanh (thơ Tô Thuỳ Yên), Chiều Hành Quân của Lam Phương, Chiều Biên Khu của Tuấn Khanh, Chiều Trong Rừng Thẳm của Anh Việt…

Nhưng có khi nhanh, dồn dập khi “Màn đêm xuống dần, muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng…” như Đêm Đô Thị của Y Vân. Đây là ca khúc rất tiệt kiệm lời ca nhất vì trong 3 điệp khúc có 6 câu với “Lá lá lá lá la la, lá lá lá lá la”  cũng thật thú vị.

Nếu so sánh với 4 ca khúc nhạc chiều với các nhạc sĩ lừng danh trên thế giới: Mozart, Schubert, Tosti và  E. Toselli như trên… thì nhạc chiều của các nhạc sĩ Việt Nam rất phong phú.

Trở lại Sérénade của Franz Schubert, qua lời Việt: Dạ Khúc của Phạm Duy:

“Chiều buồn nhẹ xuống đời

Người tình tìm đến người

Thấy run run trong chiều phai.

Vẻ sầu của đoá cười

Tình bền của lứa đôi

Thoáng hương trong chiều rơi.

Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời

Cho người thôi khóc thương ai

Cho niềm yêu đến bên tôi.

Chiều nay lỡ ghé môi trên mi sầu

Ru người qua chốn thương đau

Cho làn nước mắt chìm sâu.

Tình đời toả mát màu

Chiều nay là lúc đầu

Nói cho nhau nghe đời sau.

Nhẹ nhàng người đắm sầu

Kể lể chuyện kiếp nao

Có ai chia lìa nhau.

Một ngày đó tóc mây đã phai mầu

Có chờ ta oán trách đâu

Có vì duyên kiếp không lâu.

Ðời sẽ thấy chúng ta sống không cầu

Cho tình cứ úa phai mau

Cho người cứ mãi phụ nhau.

Dù một ngày đời sẽ vỡ tan rồi

Người về khuất chân trời

Nhớ nuôi cho hương một chiều

Vương vấn đời…!

Cuộc tình vĩnh viễn xa vời

Chỉ còn thương nhớ mà thôi!”

Có nhiều ca sĩ trình bày, với tôi, tiếng hát Thái Thanh trước năm 1975 rất tuyệt, từ xưa đến nay.

Mời nghe lại qua YouTube:

Nếu dựa theo nguồn tin mới về thời điểm nhạc phẩm Sérénade của F. Schubert như vậy thì đến nay tròn hai trăm năm. Hai thế kỷ đã qua của nhạc sĩ tài danh nhưng mệnh bạc!

Triết gia Kierkegaard  cho rằng “Tôi chỉ có một người bạn, và đó là tiếng vọng. Tại sao nó lại là bạn của tôi? Vì tôi yêu nỗi buồn của mình, và tiếng vọng không cướp mất nó. Tôi chỉ có một người bạn tâm tình, và đó là sự im lặng của trong đêm”. Và khi bóng đêm hiện về, trong im lặng, cô tịch thường gợi nhớ nỗi buồn của quá khứ.

Vương Trùng Dương

Little Saigon, April 2023