PHÍM ĐÀN LÃNG MẠN BEETHOVEN VÀ TÌNH KHÚC “FÜR ELISE”

Für Elise (hay For Elise), theo Đức ngữ có nghĩa là Gửi Elise, là tên của tấu khúc bagatelle, La thứ, 59, một tiểu phẩm cho piano độc tấu do Ludwig van Beethoven sáng tác vào khoảng năm 1810 khi ông 40 tuổi, đã nổi danh tiếng là một trong những nhà soạn nhạc lớn nhất trong mọi thời đại. Für Elise là bản nhạc viết với nét trong sáng và tràn đầy tình cảm, giai điệu dịu dàng, tha thiết. Nhưng không ai biết tại sao nhạc sĩ thiên tài lại đặt tên bản nhạc là ” Für Elise ” và Elise là ai? Đến nay, những nốt nhạc trong Für Elise dùng nhiều thể loại, từ rock, jazz, cho tới chuông điện thoại, một minh chứng cho thấy sự phổ biến của bản nhạc trong đời sống văn hóa đại chúng. Nếu Beethoven còn sống và được nhận tác quyền, nhà soạn nhạc tài hoa này hẳn sẽ là một quý ông giàu có.
Với nguồn cảm xúc dạt dào của tình yêu Für Elise mang lại cho người nghe một sự cuốn hút khó kiềm chế. Bản nhạc không quá phức tạp về mặt kỹ thuật, thậm chí bạn có thể chơi nó bằng một tay trên phím dương cầm. Nhưng để đạt được tình cảm sâu lắng, tinh tế và đặc biệt rất trong sáng của Beethoven thể hiện trong bản nhạc là điều không đơn giản và rất khó khăn. Nhạc sĩ Beethoven đã sáng tác Für Elise, Beethoven đã 40 tuổi và đã bị điếc rồi. Vậy thì Für Elise đã được sáng tác trong cái sự “yên tĩnh” của nhạc sĩ. Có phải “Tình yêu có chiều sâu hơn khi người ta lớn tuổi”. Für Elise mang lại sự sâu sắc như sự chiêm nghiệm của người đàn ông đã trải qua bao thăng trầm, cay đắng nhưng vẫn còn nguyên vẹn một tình yêu mãnh liệt và trong sáng trước một cô gái.
Für Elise như một lời tỏ tình nhẹ nhàng du dương nhưng cháy bỏng. Tôi nghĩ rằng bạn không thể nghe nó một lần. Cũng giống như sự quyến rũ của tình yêu bạn cho phép mình được bay bổng và “phá cách” trong suy nghĩ và hành động để bày tỏ cảm xúc với người tình…Bạn có thể luyện kỹ thuật như: tốc độ cho đúng, hợp lý, âm thanh rõ ràng sau một thời gian tập luyện, nhưng một yêu cầu quan trọng khác không thấy được viết vào bản nhạc, đó là tinh thần, tư tưởng, tình cảm của cuộc đời của Beethoven. Và chính vì vậy đã hàng ngàn nghệ sĩ piano biểu diễn Für Elise vẫn miệt mài tập luyện, vì muốn thể hiện bản nhạc một cách “toàn vẹn”. Để đọa được sự “toàn vẹn” ấy cần rất nhiều thời gian hiểu biết, tích lũy, cảm nhận để làm sao thể hiện những dòng âm thanh trào dâng mà vẫn sâu lắng và đặc biệt là trong sáng một cách kỳ lạ của người đàn ông 40 tuổi trải qua quá nhiều vất vả, bi kịch trong cuộc đời mà vẫn đang yêu đắm say…
ELISE LÀ AI?
Và cái tên “Für Elise” do Beethoven viết trên bản thảo là cho người yêu? Bởi Beethoven đã không lập gia đình. Theo các nhà nghiên cứu thì trong khoảng thời gian Beethoven sáng tác bản nhạc này, ông đã yêu Therese Malfatti. Một tình yêu đơn chiếc vì Therese Malfatti đã từ chối lời cầu hôn của Beethoven. Tuy nhiên, nét chữ của tác giả ký tặng trên bản thảo đã nhàu nát theo thời gian (20 năm). Do vậy, một số học giả đã suy ra cái đầu đề của bản nhạc là do đọc nhầm từ chữ “Therese” thành “Elise” chăng? Vả lại, không một tài liệu, thư từ nào của những người cùng thời với Beethoven nhắc tới cái tên “Elise”, nhưng cũng không hẳn là không có cái tên này trong cuộc đời của nhạc sĩ?
Với chứng bệnh điếc của mình, Beethoven đã dần dần tự mình rút lui ra khỏi đám đông. Tuy vậy, một số thư từ, tài liệu đã được tìm ra sau thời gian nhạc sĩ bị điếc, thì vào năm 1827 có bức thư cho “người tình bất hủ”. Mặc dù vậy, với rất nhiều nghiên cứu và phỏng đoán thì “người tình” này và Elise cũng chưa chưa chắc đã là một người. Và có thể cái tên Elise là một trong những điều bí hiểm ẩn còn phải nghiên cứu trong cuộc đời của Beethoven
Elise, cho dù có là ai chăng nữa cũng không phải là nàng thơ bí ẩn duy nhất xuất hiện trong cuộc đời của Beethoven. Bức thư tình Immortal Beloved (Tình yêu Bất diệt) không có lời đề tặng của ông cũng đã được mang ra bàn luận rất nhiều. Với một chất thơ đầy trữ tình, chứa đựng trong mình những tình cảm sâu lắng và tinh tế của người đàn ông với một cuộc đời trải qua bao thăng trầm, Für Elise có thể được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Für Elise, mặc dù được công nhận trên toàn thế giới, đã trải qua nhiều năm tồn tại; mặc dù, ban đầu không được công nhận và giấu kín. Für Elise cũng là một trong nhiều tác phẩm dang dở của tác giả Beethoven, xét đến vị thế của nó thì đó chính là số phận của kiệt tác Für Elise trong suốt cuộc đời của Beethoven.
Beethoven, một trong những nhà soạn nhạc sung mãn nhất trong lịch sử (1810), đó là thời kỳ Beethoven phải vật lộn với những nghịch cảnh cá nhân, chứng khiếm thính ngày càng trầm trọng, nhưng ông vẫn tiếp tục sáng tác vô số tác phẩm âm nhạc vượt qua những thử thách cá nhân. “Für Elise” ra đời trong giai đoạn sáng tác sung mãn này nhưng không được công nhận ngay lập tức nên nó đã nằm lẫn lộn giữa những giấy tờ cá nhân của Beethoven.
Hơn nửa thế kỷ sau khi Für Elise được sáng tác, thế giới mới biết đến vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó, một khoảng thời gian đáng kể sau khi Beethoven qua đời vào năm 1827. Năm 1867, nhà âm nhạc học Ludwig Nohl đã tình cờ phát hiện ra kiệt tác này khi đang nghiên cứu những bản thảo bị lãng quên từ lâu của Beethoven. Nhận ra tầm quan trọng của những gì mình tìm thấy, Nohl đã tự mình xuất bản Für Elise. Với việc xuất bản, viên ngọc ẩn giấu này cuối cùng đã được hé lộ với thế giới.
Ngay từ khi được khám phá, “Für Elise” đã bắt đầu thu hút khán giả. Mô-típ năm nốt nhạc đặc trưng, vốn là đặc điểm của tác phẩm, đã trở thành biểu tượng như những nốt nhạc mở đầu của Giao hưởng số 5 của Beethoven. Chính sự giản dị và dễ hiểu của tác phẩm đã khiến nó được nhiều người yêu thích, nhưng cũng chính chiều sâu và sự bí ẩn bao trùm khiến nó trở thành một câu đố thú vị, một đối tượng của sự say mê và nghiên cứu bất tận.
HÒA ÂM, CẤU TRÚC VÀ GIAI ĐIỆU
Xét về cấu trúc của tác phẩm “Für Elise”, nó là một tác phẩm ngắn gồm ba phần trong đó có hai phần chính. Phần đầu tiên, dưới dạng chủ đề và biến tấu, đặc trưng bởi giai điệu thanh thoát, du dương, được lặp lại và phát triển theo nhiều cách khác nhau. Phần thứ hai, dưới dạng tam tấu, giới thiệu một giai điệu mới, êm dịu hơn, trầm tư hơn. Tác phẩm kết thúc bằng việc trở lại phần đầu tiên, mang đến một kết thúc viên mãn và hài hòa. Sự giản dị trong cấu trúc của Für Elise không nên bị nhầm lẫn với sự thiếu tinh tế. Beethoven sử dụng các kỹ thuật âm nhạc tinh tế để tạo nên một trải nghiệm cảm xúc phong phú. Những thay đổi về nhịp điệu, sự chuyển điệu hòa âm và những điểm nhấn giai điệu tạo thêm chiều sâu và sự đa dạng cho tác phẩm, khiến nó vừa dễ tiếp cận vừa kích thích.
Thêm một sự dặc biêt khác là có một điều lý thú nữa là giai điệu bản nhạc được bắt đầu là E (mi) – D# (rê thăng) – E (mi), có thể tương tự là E (mi) – Eb (mi giáng) – E (mi). Ba nốt nhạc này ở tiếng Đức được ký hiệu là E – Es – E, và những chữ cái này có trong chữ ThErESE hoặc là EliSE. Nhưng cho dù cái tên “Elise” là do đọc sai, hay là một mối tình bí mật nào đó, hay là một người phụ nữ nào đó đã đem lại nguồn cảm hứng sáng tác cho Beethoven.
Điểm tinh tế của bản nhạc “Für Elise” được viết ở giọng La thứ buồn (A minor – a moll) và còn được goi là bản Bagatelle.Thế nào là giọng La thứ? Đi sâu vào lý thuyết âm nhạc thì hơi rắc rối. Nhưng để phân biệt sự khác nhau giữa các giọng, cơ bản người ta quy định ra 15 loại khác nhau. Đó là từ không có dấu gì ở đầu dòng nhạc đến 7 dấu thăng (#) hoặc dấu giáng (b) (tuy là có 3 cặp khác tên nhưng trùng âm thanh.) Ở đây, giọng La thứ là giọng không có dấu gì ở đầu dòng nhạc và gần như là giống với giọng Đô trưởng (C major – C dur), hay còn gọi là giọng Đô.Bản Bagatelle? Thường là tác phẩm ngắn và nội dung có thể là để thể hiện, mô tả những sự bất thường của thời tiết, sự thay đổi của thiên nhiên.Bắt đầu bản “Für Elise” là nét chuyển động nhẹ nhàng mềm mại. Nhưng sau đó được chia ra làm 2 hướng phát triển khác lạ, không đoán trước được, mà đều bắt nguồn từ nét nhạc đầu tiên của bản nhạc. Và nét nhạc chính thì luôn luôn được vang lên trong toàn bộ tác phẩm. Hình thức (form) của tác phẩm được viết theo hình thức rondo. Một hình thức mà sau khi hết phần giai điệu đầu tiên (A) tiếp theo là phần phát triển (B), sau khi hết phần B thì phần A được nhắc lại, và sau đó là một phần phát triển khác (C), kết thúc là phần A được nhắc lại lần nữa. Có thể viết tắt là A B A C A. Đây là mẫu thường được dùng nhất, nhưng hình thức rondo cũng có thể có thêm nhiều các phần phát triển khác nữa (D, E, F …vân vân), còn tùy thuộc vào ý đồ tác giả.
Về Nhịp độ, mặc dù “Für Elise” thường được biểu diễn ở nhịp độ vừa phải, nhưng các nghệ sĩ piano giàu kinh nghiệm có thể thử nghiệm với những thay đổi nhỏ về tốc độ (rubato) để tăng thêm tính biểu cảm cho màn trình diễn. Kỹ thuật này có thể thổi hồn vào âm nhạc, khiến nó trở nên tự nhiên và cộng hưởng về mặt cảm xúc hơn. Xét về cường độ nhạc, “Für Elise” không cung cấp các dấu hiệu cường độ rõ ràng. Là một người chơi có trình độ cao, bạn có cơ hội thêm vào cách diễn giải và cường độ của riêng mình. Cường độ, hay các biến thể về âm lượng, có thể thêm chiều sâu và cảm xúc cho bản nhạc. Việc bạn quyết định chơi nhẹ nhàng (piano) hay mạnh mẽ (forte) có thể định hình tính cách và cảm xúc của bản nhạc. Crescendos (dần dần to hơn) và diminuendos (dần dần nhỏ hơn) có thể được sử dụng để xây dựng và giải tỏa sự căng thẳng trong âm nhạc.
Như dã đề cập bên trên, tấu khúc gửi Elise là một bản nhạc bagatelle, một thuật ngữ âm nhạc có nghĩa là một bản nhạc ngắn, nhẹ nhàng. Nó được viết ở cung La thứ và sử dụng hình thức rondo tuần tự (A-B-A-C-A). Đoạn La, chủ đề chính, là đoạn nổi tiếng và dễ nhận biết nhất. Nó được đặc trưng bởi giai điệu đơn giản, lặp lại, dễ nhớ và dễ đàn.
Xin thêm ý về rondo trong âm nhạc cổ điển. Rondo, trong âm nhạc, là một hình thức nhạc cụ đặc trưng bởi câu mở đầu và câu phát biểu lại sau đó của một giai điệu hoặc phần cụ thể, các câu phát biểu khác nhau được phân tách bằng cung cách tương phản. Pháp ngữ là rondeau (Anh ngữ rondo) là một hình thức âm nhạc chứa một chủ đề chính (đôi khi được gọi là “điệp khúc”) xen kẽ với một hoặc nhiều chủ đề tương phản (thường được gọi là “tập”, nhưng cũng được gọi là “đoạn lạc đề” hoặc “cặp đôi”). Một số mô hình có thể bao gồm: ABACA, ABACAB, ABACBA hoặc ABACABA (với chữ cái ‘A’ đại diện cho điệp khúc). Hình thức rondo xuất hiện trong thời kỳ Baroque và ngày càng trở nên phổ biến trong thời kỳ Cổ điển. Những ví dụ sớm nhất về các tác phẩm sử dụng hình thức rondo được tìm thấy trong các aria và hợp xướng opera Ý từ những năm đầu thế kỷ 17. Những ví dụ này sử dụng rondo nhiều cặp đôi hoặc “rondo chuỗi” (ABACAD) được gọi là rondo Ý. Hình thức rondo, còn được gọi trong tiếng Anh bằng cách viết tiếng Pháp là rondeau, không nên nhầm lẫn với hình thức không liên quan nhưng có tên gọi tương tự là forme fixe rondeau, một hình thức thơ ca và nhạc chanson của Pháp vào thế kỷ 14 và 15.
“Für Elise” mang cấu trúc chi tiết như dạng của tác phẩm có thể được chia nhỏ như các phân doạn nhạc sau:
Đoạn A (chủ đề chính): Giai điệu mang tính biểu tượng ở cung La thứ.
Đoạn B: Một chủ đề tương phản, nhịp nhàng và năng động hơn.
Đoạn A (trở về): Tái lập chủ đề chính.
Đoạn C: Một chủ đề trữ tình và biểu cảm hơn, thường khó chơi hơn.
Đoạn A (trở về cuối): Sự xuất hiện cuối cùng của chủ đề chính, kết thúc tác phẩm.
Hòa âm của Für Elise tương đối đơn giản, chủ yếu sử dụng các hợp âm La thứ, Mi trưởng và Đô trưởng. Sự đơn giản về hòa âm này góp phần giúp tác phẩm dễ tiếp cận với người mới bắt đầu. Giai điệu, mặc dù đơn giản, nhưng cực kỳ hiệu quả và dễ nhớ. Việc sử dụng các đoạn lặp lại và biến tấu tinh tế giúp duy trì sự hứng thú của người nghe trong suốt tác phẩm. Bản nhạc gồm 103 ô nhịp và kéo dài khoảng 3 phút.
“Thư gửi Elise” (La Lettre à Élise) gồm ba phần: một giai điệu đơn giản, trôi chảy được khi đàn bằng tay phải, một biến tấu của phần đầu được dàn bằng tay trái, và một đoạn lặp lại của phần đầu được chơi bằng tay phải. Đây là tác phẩm piano nổi tiếng nhất thế giới, và cũng là tác phẩm được chơi nhiều nhất bởi những người mới bắt đầu. Thậm chí, những người qua đường đam mê piano thường nghe thấy tác phẩm này được chơi trên đàn piano tại các nhà ga, giống như bản Canon nổi tiếng của Pachelbel. Nhưng nó được sáng tác như thế nào, dành cho ai và tại sao? Chúng tôi sẽ giải đáp tất cả những câu hỏi này thông qua bốn giai thoại ít được biết đến về lịch sử của Bức thư gửi Elise.
ĐÔI NÉT VỀ BEETHOVEN:

Tay đàn điêu luyện, Ludwig Van Beethoven (1770-1827), người Đức, một nhạc sĩ bị điếc. Beethoven được coi là một trong những nhạc sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng ông cũng nổi tiếng về tính cáu bẳn của mình, thật khó mà hình dung nổi những đau khổ vất vả mà người nhạc sĩ vĩ đại này đã từng trải qua trong đời.
Tài năng biểu diễn âm nhạc của Beethoven đã bộc lộ rất sớm từ lúc còn nhỏ, và ông bị người cha ác nghiệt nghiện rượu đã tận dụng tài năng của đứa con để kiếm tiền. Kỹ thuật chơi đàn của Beethoven tiến bộ rất nhanh, nhưng tiền thì đã không kiếm được nhiều như mong muốn. Khi Beethoven 11 tuổi, ông có thể chơi đàn trong cung đình thay cho thầy của mình. Khi Beethoven 17 tuổi, ông đến Vienna. Theo dự định thì ông sẽ học sáng tác với Mozart, nhưng Beethoven lại phải quay về nhà ngay tức thì vì mẹ của ông đang hấp hối và qua đời.
Vài năm sau, Beethoven trở lại Vienna, nhưng ông không còn cơ hội học sáng tác nữa, vì Mozart đã qua đời ở tuổi 35. Bố của nhạc sĩ Beethoven cũng qua đời sau đó và cùng năm ấy, Beethoven quay lại Vienna. Lúc đó, Beethoven ở độ tuổi hai mươi mấy, ông theo học với một số nhạc sĩ nổi tiếng. Trong thời gian này, Beethoven đã sáng tác một số nhạc phẩm, có những tác phẩm sáng tác của ông bắt đầu được chú ý tới với cả khen lẫn chê. Tuy vậy, Beethoven được khẳng định là một trong những người chơi đàn ngẫu hứng giỏi nhất thời đó. Người ta kể lại rằng tay đàn của ông đạt tới trình độ mà nhiều nghệ sĩ đàn piano mơ ước.
Khoảng năm 1800, ông cho xuất bản 2 bản sonata, đó là bản Pathétique và bản Sonata Ánh trăng. Có thể coi cả 2 bản này đã là bước chuyển lớn từ thời kỳ cổ điển sang lãng mạn, cái thời mà các nhạc sĩ bắt đầu viết ra những cảm xúc riêng tư của mình mà không bị bó buộc vào việc sáng tác nhạc cho nhà thờ hoặc cho các cung điện đem đên sự lạc quan cho Beethoven, nhưng những tai ương trong cuộc đời lại đến với Beethoven. Tình trạng sức khỏe của Beethoven gia tang, ông đau yếu thường xuyên, ông bắt đầu cảm nhận khả năng nghe của mình càng ngày càng kém và đi đến tình trạng hoàn toàn điếc. Đây là thời gian thật kinh khủng đối với nhạc sĩ Beethoven và ông đã có lần viết di chúc và có ý định tự tử. Nhưng ông đã vượt qua và tiếp tục sự nghiệp âm nhạc vĩ đại của mình với một sự lạc quan đến diệu kỳ, ông đã viết như sau: “Linh hồn ta sẽ điều khiển cái thân thể yếu đuối của ta”.
Với khả năng thật phi thường, kỹ thuật sáng tác của ông vẫn luôn tiếp tục phát triển, mặc dù ông bị điếc, nhưng một số lượng rất lớn tác phẩm của ông được viết ra trong khi ông không nghe được chút nào. Nhưng tinh thần, tư tưởng và sức sống mãnh liệt của ông thể hiện rất rõ trong từng tác phẩm. Dù rằng con đường âm nhạc của ông đã nổi tiếng khắp châu Âu, nhưng càng ngày ông càng xa lánh mọi người.
Người đời kể lại rằng khi bị điếc Beethoven đã thèm được nghe tiếng đàn piano đến nỗi ông nằm áp tai xuống sàn nhà, và với tay lên đánh mạnh xuống phím đàn, để mong cảm nhận được sự rung động của âm thanh. Tuy tay đàn của ông vẫn hoàn hảo mỗi khi ông chơi đàn một mình, nhưng ông cũng đã không còn có thể biểu diễn cùng dàn nhạc được như trước nữa. Cũng có thể nói, Beethoven là một nhạc sĩ không hề biết mệt mỏi, trong đời ông, ông đã thay đổi địa chỉ đến 50 lần. Ông sống chủ yếu ở Bonn (Đức), là nơi ông sinh ra, và ở Vienna (Áo), thủ đô âm nhạc của thế giới. Ở Bonn, người ta làm một bảo tàng về ông. Không ai biết ngày sinh sủa Beethoven. Nhưng có tài liệu nói là ông được làm lễ rửa tội vào ngày 17 tháng 12. Mà lễ rửa tội thường được làm sau khi ra đời một ngày, cho nên nhiều người cho rằng ông sinh ngày 16. Với bao lần đổ vỡ trong tình yêu, cộng với cái tính nóng như lửa của ông đã làm ông suy sụp. Năm 1827, Beethoven qua đời. Ông đã để lại cho hậu thế những bản nhạc bất hủ và tiếp tục được lưu truyền tới hàng trăm năm sau…
Nhận xét là tác phẩm được viết ở cung La thứ, một cung thường gắn liền với nỗi buồn và sự u sầu. Tuy nhiên, “Thư gửi Elise” không phải là một tác phẩm buồn. Ngược lại, nó thường được mô tả là ngọt ngào, tươi thắm, dịu dàng và lãng mạn.
Phải nói là “Für Elise” vốn như một giai điệu vượt thời gian. Bản nhạc “Für Elise” không chỉ là một giai điệu nổi tiếng. Nó là một hành trình nghệ thuật và cảm xúc được tạo nên bởi một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại. Quá trình sáng tác của nó ẩn chứa một bức màn bí ẩn, giai điệu ám ảnh và khó quên, cùng với ảnh hưởng văn hóa sâu rộng và lan tỏa.Dù đã hơn 200 năm tuổi, tác phẩm âm nhạc này vẫn tiếp tục thu hút khán giả, truyền cảm hứng cho các nhạc sĩ và là cánh cổng dẫn vào thế giới âm nhạc cổ điển cho vô số cá nhân. Âm hưởng của nó là minh chứng cho khả năng phi thường của Beethoven trong việc thấu hiểu thân phận con người, vượt qua mọi rào cản về thời gian, văn hóa và ngôn ngữ.
Bagatelle số 25, “Für Elise“, là minh chứng cho thiên tài của Beethoven và sức mạnh trường tồn của âm nhạc. Giai điệu đơn giản và những cảm xúc phức tạp của nó đã mê hoặc người nghe trong hơn hai thế kỷ, khiến nó trở thành một trong những tác phẩm được yêu thích nhất trong các tiết mục cổ điển. Bí ẩn xung quanh sự ra đời của nó và bản sắc của “Elise” càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của nó, khiến nó trở thành một chủ đề hấp dẫn đối với cả những người yêu âm nhạc và các nhà sử học. Âm nhạc Beethoven mang nétlãng mạn tinh và quyến rũ thính giác, Bài nhạc gửi người yêu dấu hình như là một tác phẩm bắc cầu nối liền giữa thời kỳ cổ điển và hiện đại, “Für Elise” là biểu tượng của nghệ thuật vượt thời gian và ngôn ngữ âm nhạc phổ quát. Câu chuyện của nó, đầy bí ẩn, cảm xúc và vẻ đẹp nghệ thuật rực rỡ, tiếp tục mê hoặc và truyền cảm hứng, khẳng định vị trí của nó trong lịch sử âm nhạc.
Sau Mozart và Haydn, Bethoven là biểu tượng cuối cùng của phong trào mang tên Chủ nghĩa Cổ điển Vienna, và thông qua các sáng tác của mình, ông đã mở đường cho sự ra đời của Chủ nghĩa Lãng mạn. Ông cũng được coi là một trong những nghệ sĩ piano xuất sắc nhất mọi thời đại.
VHLA, 12/07/ 2925.
(Cet arti.cle est envoyé à mes copains qui aiment la musique classique ou semi-classique: Khánh Trang, Diễm Hạnh, Mỹ Hạnh, Khành Lan, Kiêu My, Phạn Hồng Thài, Cao Minh Tâm, Đỗ Bằng Lăng).


