Mạn đàm Người Lính Buông Súng,vẫn Ghì Bút mãn kiếp
Trần Việt Hải

Nhà văn Vương Trùng Dương, có tên thật là Trần Ngọc Dưỡng, sanh năm 1944 tại Quảng Nam, tuổi Giáp Thân, mạng Tuyền Trung Thủy. Anh là người thông minh, tinh tế, giỏi chữ nghĩa, có óc lãnh đạo. Có số làm quan nếu sanh ở Á châu, còn nếu sanh ở Âu châu hay Mỹ châu có chức phận cao như lãnh đạo quốc gia. Đối tượng này tiềm ẩn dưới các vì sao Văn Xương và Văn Khúc, thiên phú văn chương một kho chữ nghĩa, lại được vô số các vì sao Hóa Khoa và Hóa Lộc bổ sung cung mạng. Hóa Lộc vì thực lộc bất khuyết, phát triển tài năng thuận lợi hài hòa. Người Hóa Lộc vốn có trực giác bén nhậy, thông minh trí tuệ, có khả năng phát huy, phát triển mọi việc trong gia đình và ngoài xã hội là điểm son của người tài hoa. Hóa Khoa theo khoa chiêm tinh thuyết Âm Dương Ngũ Hành, vì sao Hóa Khoa thuộc hành Thủy, thuộc về mùa Thu ly hương, đối tượng mạng Thủy Faifo gặp đối tượng nữ Khánh Hòa biển cả, nam hầu tước sẽ ly hương mãn kiếp, nước hòa vào nước sẽ không thấy bến bờ đâu cả. Như người có sao Hóa Khoa phù trợ thường liêm chính, thanh liêm, văn chương làm báo mãn kiếp, tính chân chất, du xuề xòa mộc mạc, ngủ garage, café garage, Bastos xánh gấp, chơi với bạn bè một lòng một dạ, khuynh hướng thủy chung trước sau như một. Đối tượng nam tước này còn có vì sao Văn Xương chủ tế về khoa giáp, luôn luôn có những thành tựu to lớn về nghiệp văn chương chữ nghĩa. Sao Hóa Lộc mang sao Văn xương hợp nhất với sao Hóa Khoa đưa tài năng trong máu hợp phạm trù văn nghệ và học thuật graphics đesign càng được bộc lộ rõ nét mỹ thuật mát tay. Sao Văn Khúc ếm mạng tốt nhất suốt đời, gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, con cái khôn ngoan, hiếu hạnh.
Vương Trùng Dương sinh hoạt trong Trung Tâm Văn Bút Nam Cali (một nhiệm lỳ làm Tổng Thư Ký) và Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại (Một NK Ủy viên Thông Tin, 1 NK làm Phó Chủ Tịch Nội Vụ & I NK Tổng Thư Ký). Khoảng mười năm Trưởng Khối Báo Chí cho Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam Cali. Nhưng anh bỏ Văn Bút, tôi cũng bỏ theo bước chân anh. Trong một buổi họp hội đồng huong BT, tôi gặp ông Võ Long Triêu cùng anh ĐS Châu Văn Để và GS. Nguyễn Thanh Liêm, tôi bỗng nhớ ông bạn vàng VTrD một thuở báo chí.
Như vậy Trần Ngọc Dưỡng có gì để nhớ mãi? Thuua có nhiều chứ. Như trong tác phẩm tựa Kim Dung “Võ Lâm Ngũ Bá”, tên “Trùng Dương” do sư phụ Thanh Hư chân nhân đặt, lấy ý ông đã chết rồi còn được cứu sống lại. Cũng trong tác phẩm này, tên hồi nhỏ của ông là “Vương Tiêu Thu”. Xem Ngũ Lâm Võ Bá, thì Hoa Sơn luận kiếm lần thứ nhất, Vương Trùng Dương được bầu làm người võ công cao nhất, biệt hiệu là Trung Thần Thông, được giữ bộ Cửu Âm chân kinh. 4 người còn lại là Đông Tà Hoàng Dược Sư, Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Đoàn Trí Hưng và Bắc Cái Hồng Thất Công.
Riêng Âu Dương Phong (Trương Quốc Vinh) sau khi rời khỏi núi Bạch Đà, đã dừng chân tại một sa mạc, dựng quán và trở thành một kẻ môi giới chuyên giải quyết mọi vấn đề rắc rối của người khác. Những khách hàng lần lượt đến tìm tửu quán của Âu Dương Phong, không chỉ để đưa ra những yêu cầu đặc biệt hay nghỉ ngơi đơn thuần, mà còn để kể về những chuyện tình của họ… Những câu truyện của các nhân vật đan xen suốt nội dung phim, nhưng tất cả có thể chia làm bốn câu truyện chính. Ngòai đời ở Bolsatown, tôi nghe Âu Đông Tà super MAGA sao tôi nhớ Vương Tây Độc VTrD những nhị ba chưởng bang, rồi tôi lại nhớ thầy Bích và thầy Vinh qua chừng nè. Thầy Bích biết tôi chuộng goût Aztec charms, Yucatán mascots, thầy Bich bảo thôi đi, 不做壞事,你會得到祝福, ở hiền gặp lành.
Nhớ VTrD nhớ kỷ niệm gì? Nhớ sách Chiều Cuối Tuần bên “Văn Nhân & Tình Sử”. Tôi ghi nhận như sau:
” Hôm nay chiền thứ sáu cuối tuần ông đưa thư có hàm râu xồm xoàn như lão Fidel Castro bấm chuông trao colis sách. Cuốn sách mới của nhà văn Vương Trùng Dương, sách nóng hổi và dày cộm. Ông đưa thư quay gót đi, tôi “bóc nhãn” xem ngay ông bạn Dương Trần viết gì trong đấy. Nhân nhận được sách mới, cám ơn ông anh văn nghệ vui tính, một thuở làm báo chung, khi Vương Trùng Dương (thường được viết tắt VTrD), ra tờ tuần báo Caliweekly do anh làm chủ nhiệm tự layout báo lấy, Nguyễn Ngọc Chấn làm chủ bút, và tôi giữ “dốp” TTK. Khi ấy có bài vở của Phan Bá Thụy Dương, Vũ Uyên Giang, Phương Triều, Dương Viết Điền, Phan Nhật Nam, Trần Quang Hải, Thiết Trượng, Trạch Gầm, Trần Trung Đạo, Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Quý Đại, Tiểu Tử, Tiểu Thu, Hồ Trường An, Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích, Bùi Ngọc Tuấn, Phan Anh Dũng, Hoàng Thy, Quách Nam Dung, Khiếu Long, Đào Vũ Anh Hùng, Vũ Hối, Hồng Vũ Lan Nhi, Thái Tú Hạp, Trần Hoài Thư, Vũ Đình Trường, Mạc Phương Đình, Viên Luông, Hải Đà Vương Ngọc Long, Thanh Huy,… Nguyên băng l’amour yêu văn học è cổ ra viết bài, chủ nhiệm lo dốp quảng cáo, chủ nhiệm lo đánh đông dẹp bắc cả trăm thứ, chủ nhiệm mỏi mệt kiệt sức, đồng tiền ra nhiều mà vô ít, mà quảng cáo là huê lợi chính, báo mãi rỉ máu, bác sĩ chê bảo chúng tôi đình bản tờ Caliweekly sau gần 2 năm tung hoành.
VTrD yêu văn học, phải nói văn học nằm trong máu của VTrD, anh nhai nằm lòng những Thủy Hử, Tây Du Ký, Đông Châu Liệt Quôc, Tam Quốc Chí, rồi những tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung anh nhai nát cả. Đấy là bên văn chương HD891. Bên văn chương quốc văn phe ta, anh đọc Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chưong, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Mạnh Côn, Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa, Bình Nguyên Lộc, Tự Lực Văn Đoàn, Hồ Biểu Chánh,… VTrD có sự hiểu biết rộng, sức viết khỏe, mỗi trưa thứ ba anh gọi phôn nhắc tuồng “Bài xong chưa bồ tèo?”, hay “Gần lễ noël cho mình bài giáng sinh nhe bạn hiền!”. VTrD đọc Ernest Hemingway, Mark Twain, Charles Dickens, Fyodor Dostoyevsky, Leo Tolstoy, Aleksandr Solzhenitsyn, William Faulkner… Truyện dịch hay nguyên bản Anh ngữ. Thật vậy, anh em chúng tôi thân nhau và còn thở được là do nguồn nhiệt năng ham vui chữ nghĩa văn học tiếp dẫn goût chơi chung.”
Tôi lại nhớ sách “Âm Nhạc: Người Muôn Năm Cũ”. VTrD cho lời ngỏ như sau:
“Trong 3 thập niên qua, trong lãnh vực văn học nghệ thuật với văn, thơ, âm nhạc… tôi đã viết về tác giả, tác phẩm cho các tờ báo cộng tác và đảm trách sau đó được phổ biến trên các website & blogspost… Quyển sách đầu tay với Ngẫm Chuyện Nhân Sinh, một thập niên sau, gom số bài viết đã ấn hành quyển Văn Nhân & Tình Sử năm 2015. Năm 2019, tôi chọn những bài viết liên quan đến Quân Đội, một thời đã dấn thân để thực hiện quyển Người Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ, đang layout dang dở thì bệnh dịch Covid-19 xảy ra, trước thảm họa nầy, tôi nghĩ mọi người bị ảm ảnh cảnh chết chóc, không còn bụng dạ nào để đọc nên bỏ ngang.
Tôi thích âm nhạc từ nhỏ nơi phố cổ, và trở thành người bạn đồng hành trong cuộc sống thăng trầm theo biến thiên của lịch sử. Nếu nhà thơ Phùng Quán cho rằng: “Có những phút ngã lòng. Tôi vịn câu thơ và đứng dậy…” thì những lần tôi lâm vào hoàn cảnh nghiệt ngã, cô đơn… âm nhạc như người bạn tri kỷ chia sẻ, an ủi nỗi buồn cho vơi bớt sự đơn độc, nỗi đau…Quyển sách nầy không mang màu sắc chính trị vì chính trị chỉ là giai đoạn, nghệ thuật mới lâu dài. Nhưng những nhạc sĩ đã được đề cập đã dấn thân cho nghệ thuật, họ phục vụ cho lý tưởng Quốc Gia Dân Tộc và trong quân ngũ là lẽ đương nhiên, phải nhắc đến, đáng trân trọng. Vào thời tiền chiến xảy ra vụ tranh cãi giữa “nghệ thuật vị nghệ thuật & nghệ thuật vị nhân sinh” nhưng với âm nhạc thì cả nghệ thuật và nhân sinh mới in sâu vào tâm hồn giới thưởng ngoạn…”
Vương Trùng Dương cho kết luận:
“Sách dày 324 trang trên giấy vàng nhạt 70lb, gồm các bài viết Lê Trọng Nguyễn, nôi âm nhạc phố cổ – Nguyễn Hiền, những kỷ niệm xa xưa – Lan Đài, đường trần quên lãng – Nguyễn Văn Đông, tình khúc thời chinh chiến – Trầm Tử Thiêng, những dòng chia sẻ – Nhạc Boléro, dòng nhạc bị bức tử được hồi sinh – Trần Thiện Thanh, người viết sử thi – Song Ngọc, dòng nhạc của một thời – Cung Tiến, một thoáng hương xưa – Phạm Đình Chương, ca khúc & định mệnh – Vũ Đức Nghiêm, gọi người yêu dấu – Đan Thọ, sầu trên phím đàn – Nguyễn Đình Toàn, nhạc chủ đề & áo mơ phai – Âm Nhạc & Cuộc Sống – Nhịp & Phách trong nhạc phẩm – Dạ Khúc (Sérénade), hai trăm năm cô đơn.”
Mới gần đây, Ngưởi Lính Già 8 Bó cho ra sách mới còn xao xuyến thơm mùi giấy “Người Lính và Chiến Hữu Văn Nghệ”. “Hơn ba thập niên qua, trong lãnh vực văn học nghệ thuật với văn, thơ, âm nhạc… tôi đã viết về tác giả, tác phẩm cho các tờ báo và sau đó được phổ biến trên các website & blogspost…Sau quyển Văn Nhân & Tình Sử năm 2015. Năm 2019, tôi chọn những bài viết liên quan đến Quân Đội để thực hiện quyển Người Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ, đang layout dang dở thì bệnh dịch Covid-19 xảy ra, trước thảm họa nầy, tôi nghĩ mọi người không còn bụng dạ nào để đọc trong hoàn cảnh tang thương đang gieo rắc thảm họa nên bỏ ngang.
Năm 2024, tôi ấn hành quyển Âm Nhạc & Người Muôn Năm Cũ, với những nhạc sĩ nổi tiếng, có công đóng góp nền tân nhạc ở Miền Nam Việt Nam và sau nầy ở hải ngoại. Ngoài ra, có 3 bài viết về âm nhạc. Với công việc đảm trách cho các tờ báo, hầu hết bài viết đã được đăng báo và sau đó phổ biến trên internet, theo gợi ý của các bạn văn và thân hữu nên gom lại để ấn hành sách để được đọc liên tục.Khi ấn hành quyển sách nào, với các bài viết trước đây đã phổ biến, để thích nghi với thời gian tính nên nhuận sắc lại và bổ túc thêm.
Với quyển Người Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ, trong tình bạn, tình chiến hữu với nhau nên khi tác giả ấn hành tác phẩm, tôi giới thiệu, đề cập qua các bài viết, nay phải gom lại thành bài theo mỗi tác giả. Với 12 tác giả, ngoài nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, nhà thơ Hà Huyền Chi, nhà văn Văn Quang còn 8 tác giả là bạn thân từ ngày bước chân vào “Ngưỡng Cửa Quân Đội” và thời gian sống ở Mỹ. Phan Nhự Thức, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Dương Viết Điền, Thái Tú Hạp, Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, Trạch Gầm, Phạm Tín An Ninh.
Với quyển sách nầy ấn hành năm 2025 để đánh dấu 50 năm mất nước và 70 năm chia đôi đất nước, gây ra cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam nên trai thời loạn phải dấn thân vào Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để bảo vệ quê hương….Xin trich đoạn VTrD viết về: Thanh Tâm Tuyền như kỷ niệm,..”Tập thơ đầu tay là Tôi Không Còn Cô Độc vào năm 1955 đến năm 1964 mới xuất hiện thi phẩm Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy và Thơ Ở Đâu Xa được ấn hành năm 1990 tại Hoa Kỳ. Về văn, Thanh Tâm Tuyền có nhiều tác phẩm như Bếp Lửa (1957), Khuôn Mặt (1964), Dọc Đường (1966), Ba Chị Em (Kịch, 1967), Cát Lầy (1967), Mù Khơi (1970), Tiếng Động (1970), Tạp Ghi (1970)…Thanh Tâm Tuyền được nổi tiếng về thơ hơn văn vì ông là người làm sống lại thơ tự do được hình thành từ những thập niên về trước và mang làn gió gió mới trong thi ca Việt Nam hiện đại.
Ông dạy Việt Văn tại trường trung học Trường Sơn (Nguyễn Sỹ Tế, Hiệu Trưởng), năm 1962 nhập ngũ Khóa 14 Sĩ Quan Thủ Đức. Ông được thuyên chuyển về trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, phụ trách tờ Đa Hiệu và sau đó phụ trách nguyệt san Quốc Phòng. Bắt đầu con đường văn nghệ khá sớm, cùng bạn Doãn Quốc Sỹ, Trần Thanh Hiệp… chủ trương nguyệt san Lửa Việt năm 1954. Một trong những cây bút nòng cốt của nhóm Sáng Tạo từ năm 1956 đến năm 1960. Nhập ngũ năm 62, giải ngũ năm 66, rồi tái ngũ năm 68. Sau 75 bị bắt đi tù “cải tạo” ở Việt Bắc. Sau năm 1975, ông trải qua 7 năm tù. Được định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ trong suốt mười mấy năm qua.Tháng 4 năm 1990, định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO, lúc đầu ở tiểu bang Louisiana, sau định cư ở Roseville, tiểu bang Minnesota. Theo học Điện Toán và làm việc tại St. Paul Technical College đến khi về hưu năm 2001. TTT sống như người ẩn dật, viết rất ít, chỉ khi nào thật sự cần thiết mới viết, như dịp tưởng niệm các bạn ông: Mai Thảo, Ngọc Dũng, tuyên dương Doãn Quốc Sỹ… Theo lời người bạn thân Trần Thanh Hiệp, TTT cho rằng “Nếu không tìm được gì thật mới thì sẽ thôi hẳn không viết nữa”.
Bài viết Nhìn Lại Một Thời của nhà văn Doãn Quốc Sỹ vào tháng 5 năm 2005, đề cập đến giai đoạn hình thành của nhóm Sáng Tạo và sự hiện diện của Thanh Tâm Tuyền: “Năm 1954 hai vợ chồng tôi cùng hai đứa con gái đầu long và cô em gái – năm người cả thảy – ra phi trường di cư vô Nam. Danh từ thời thượng mệnh danh là Bắc Cờ Năm Mươi Tư. Thuở đó tôi còn là sinh viên, gặp Trần Thanh Hiệp – sinh viên Luật Khoa – chúng tôi bèn thành lập đoàn thể Đoàn Sinh Viên Hà Nội Di Cư, Trần Thanh Hiệp đứng ra làm chủ tịch…”
Xin trich đoạn VTrD viết về Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, từ Nhà Giáo Đến Chiến Hữu Cầm Bút. VTrD ghi nhận sau đây,…” Tôi vẫn nhớ mãi, kể từ đêm ấy. Rồi một số được thả về, phần đông là giới Y Dược, trong đó có năm chàng của tổ tôi. Còn lại, rất đông, bị “biên chế” phân tán đi các đội khác, để vài tháng sau được tàu Sông Hương chở ra Bắc giao cho Công An, bắt đầu một cuộc hành trình mới gian nan hơn, khắc nghiệt hơn, dành cho những tù nhân chính trị chánh hiệu…” (Đêm Giáng Sinh Trong Trại Tù Long Giao). Rồi thời gian sau, anh bị lưu đầy sang trại tù ở núi rừng Miền Bắc cũng như nhiều chiến hữu khác. Trong chốn lao tù, anh đã kể lại trong bài thuyết trình ở Pháp để minh chứng những gì xảy ra khi mất nước.
Trải qua 8 năm tù, sau khi thả về anh vượt biên lần thư nhất tại Cần Giuộc bị thất bại, Công An dùng khúc gỗ phang ngang lưng! Và lần thứ hai ở Nha Trang cùng với em gái, tị nạn tại Oregon. Nơi nầy, anh vừa đi “cày” vừa đi học, Hè năm 1990 tốt nghiệp Tiến Sĩ Văn Chương Pháp với luận án La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal (Tù Ngục Trong Tiểu Thuyết Của Stendhal) tại Eastern Washington University và University of Oregon. Theo lời anh chia sẻ thì trước năm 1975 ít người biết đến nhà văn Pháp Stendhal từ thế kỷ XIX hơn nữa những tác phẩm của anh đã in sâu trong tâm trí anh trong thời gian lao tù.
Trong bài viết Tổng Quan Về Sách Dịch Văn Chương Tây Phương Ở Miền Nam Việt Nam của tôi trong năm trong năm 2022. Không có bản dịch nào của nhà văn Pháp Stendhal (1783-1842). Ông là nhà văn nổi tiếng của chủ nghĩa hiện thực phê phán (réalisme) và lãng mạn (romantisme). Điển hình hai tác phẩm Rouge et le Noir, 1830 (Đỏ & Đen), La Chartreuse de Parme, 1839 (Tu Viện Thành Parma). Stendhal trở thành bậc thầy mở đầu cho dòng tiểu thuyết tâm lý ở Pháp, cũng như Dostoevsky ở Nga vào thế kỷ XIX. Cuốn La Chartreuse de Parme mô tả chiến tranh thời Napoléon vì ông là sĩ quan pháo binh trong trận chiến ở Sebastopol như trận đánh Waterloo đã đi vào lịch sử.
Nguyễn Kim Quý chọn nhà văn Stendhal để làm luận án tiến sĩ vì theo anh “Thế giới trong tiểu thuyết của Stendhal, kể cả những truyện về tù ngục, vì thế, ngạt ngào phấn hương nhờ tình yêu, hạnh phúc và hình bóng mỹ nhân. Lúc Stendhal còn sống, không ai đọc sách của ông. Mãi 50 năm sau khi chết, ông mới được nổi tiếng và trở thành một hiện tượng trong văn học sử Pháp”.
Cuối năm 1991, anh xuống Little Saigon thăm bạn bè, nhân dịp này tôi viết hai bài “Bông Hồng” Cho Người Cựu Tù Nhân Chính Trị và Giới Thiệu Luận An Tiến Sĩ Nguyễn Kim Quý (Luận án nầy dày 550 trang khổ 8.5×11 inches bằng tiếng Pháp nên anh nói tổng quát về nội dung để tôi ghi lại) đăng trên nhật báo Người Việt & tuần báo Saigon Times. Trong dịp nầy, anh có ghi “tặng” tôi hai bài và tôi cũng viết về anh một bài trên Đặc San Nha Trang.
Tháng 3, 1992, TS Nguyễn Kim Quý sang Pháp thuyết trình về đề tài Stendhal et mes saisons en enfer Communiste (Stendhal và Những Mùa Của Tôi Dưới Hỏa Ngục Cộng Sản, nhân ngày mất lần thứ 150 của văn sĩ được tổ chức tại Paris, dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Pháp François Mitterrand. Bài của các thuyết trình viên đều được in thành sách bán tại Paris. (Trước khi sang Pháp, anh xuống Little Saigon gặp gỡ thân hữu để chia sẻ với nhau)
Trong phần 3 của bài thuyết trình với cử tọa, nhân cơ hội nầy anh lại nhắc đến miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước: “Chúng ta đang ở vào năm 1975. Nền hòa bình nhục nhã, áp đặt bởi những siêu cường lực trên đất nước chúng tôi ngày 30 tháng 4, chấm dứt một cuộc chiến cũng không kém nhục nhã và khai tử quốc gia VNCH từ nay bị trao vào tay bọn bạo tàn miền Bắc… Chế độ mới, tự gọi là “cách mạng”, đỏ từ đầu đến chân, nhanh chóng tự gắn cho mình một nhiệm vụ “vĩ đại”: lùa tất cả sĩ quan và cán bộ miền Nam vào tù. Tại đó bắt đầu mọi bất hạnh của chúng tôi. Nhưng rồi, lòng tin vào Thượng Đế bỗng nhiên thức dậy trong tôi và sự mê say không phai nhạt đối với Stendhal và những tiểu thuyết của ông thực sự đã cứu vớt tôi, không chỉ thoát khỏi những xấu xí của đời sống mà còn sự tàn nhẫn của cái chết -cái chết mà bây giờ tỏ ra ngàn lần đe dọa hơn trong lúc chiến tranh. Như thế, nhờ ơn Chúa và nhờ Stendhal, tôi đã có thể sống sót sau tám năm giam hãm, đói khát, đau khổ, thiếu thốn, trong những trại tù khác nhau và cuộc đọa đày khủng khiếp xuống dưới hỏa ngục…
… Bọn họ đã ra lệnh cho các sĩ quan phải trình diện những “ủy ban cách mạng nhân dân”, chuẩn bị một khóa học cải tạo mà theo thông cáo chính thức với lối hành văn mơ hồ và bịp bợm sẽ kéo dài chỉ mười ngày hoặc một tháng tùy theo cấp bậc. Lúc ấy vào tháng sáu 1975… Rồi một ngày đẹp trời, bọn họ quyết định chuyển ra núi rừng Miền Bắc khoảng một trăm ngàn “phần tử” bị xét là “phản động” nhất, nghĩa là nguy hiểm nhất… Trong vài chiếc tàu chở than cũ kỹ tịch thu của “ngụy quyền”. Chúng tôi bị còng tay, bị nhốt hàng ngàn người trong các hầm tàu, và như thể súc vật. Chuyến đi kéo dài ba ngày. Ba thế kỷ. Không khí thiếu. Nước cũng thiếu. Thức ăn cho cả ngày là một ảo tưởng: mỗi tù nhân được phát hai phong bánh bích qui mốc của lính made in China, lớn bằng hai hộp diêm, chỉ vừa đủ để khỏi chết đói. Phía trên, không có gì ngoài một vòm tối đen. Chung quanh, những thân xác bất động chất đống cạ vào nhau và mình mẩy dính đầy bụi than. Cái nóng kinh hồn hành hạ tù nhân. Ngay những giờ đầu, bốc lên một mùi hôi thối, làm ngộp thở, đầu độc căn hầm đầy người. Khắp nơi, im lặng như chết…
… Cuộc sống tại các trại Miền Bắc còn hơn là hỏa ngục. Không cách nào đào thoát được. Chúng tôi bị bao vây một cách tuyệt vọng bởi những rặng núi trùng điệp làm thành những tường lũy thiên nhiên kiên cố. Nhưng rồi, ngay cả nếu thoát được, làm sao, ở trên núi, có thể sống sót với cái lạnh, đói khát và sức kiệt! Chúng tôi bị giam trong những túp nhà cũ thấp mái rạ, nằm ngủ trên một thứ giường tập thể làm bằng những tấm gỗ thô, không chiếu, không gối, không đệm, để rồi sáng mai thức dậy mặt mày, mình mẩy rải đầy những vết rệp và muỗi cắn. Ngoài ra, cái lạnh tột độ, làm buốt xương. Về quần áo, người ta chỉ phát cho chúng tôi một bộ đồng phục màu xanh da trời bằng vải thô dùng trong kỳ hạn hai năm và một tấm chăn cũ nát nhỏ xíu bằng len xấu. Không săng đan, không tất vớ, không mũ nón. Những thứ này, chúng tôi phải tự xoay xở lấy, người ta bảo chúng tôi, hoặc là mặc kệ! Vào mùa đông hay mùa mưa, không tài nào ngủ được, vì cái lạnh và ẩm ướt khắc nghiệt, không thể chịu nổi nữa và chúng tôi bị cấm đốt lửa trong nhà!…
… Những người còn sống sót cứ tiếp tục nhai sắn khô bằng thích, tiếp tục đói, tiếp tục đau, và nhất là tiếp tục lao động khổ sai. Cai tù không ngớt lặp đi lặp lại rằng lao động là nguồn gốc mọi vinh quang, rằng khởi thủy, con người đầu tiên, nghĩa là ông tổ của chúng ta, là một con khỉ, rằng con khỉ ấy vì phải trèo lên cây hái trái, xuống ruộng trồng lúa, vào rừng săn thỏ, vắn tắt, lao động vất vả, đã dần dần mất bộ lông dài để trở thành đẹp đẽ, trơn tru như chúng ta hôm nay. Vì thế, người ta hét vào tai chúng tôi, hãy tống cổ những kẻ chây lười lao động, ăn bám, mình còn đầy lông lá, ra khỏi thiên đàng Cộng sản!
… Bấy giờ, tôi bắt đầu cầu nguyện trở lại, ban đêm, và đọc lại với sự say mê của một người tình cũ những tiểu thuyết Stendhal, nhưng bằng trí nhớ, dĩ nhiên. Từ đó, tôi sống một thực tế khác, tự xem mình đã chết đối với cuộc đời, như Octave trong Armance. Tôi quên, cố gắng quên, bọn cai ngục và trại tù, đói và bệnh, quần áo tả tơi và thân xác khô héo – tất cả những điều nhắc tôi không ngừng vẻ xấu xí của địa ngục. Tôi chiến thắng nỗi bất hạnh của tôi bằng cách thôi tưởng nhớ những người đàn bà đẹp mà tôi đã quen biết và có khi yêu thương trong cuộc đời và bây giờ đã trở thành một thực tế còn khó với nắm, còn xa xôi hơn cả chính mộng mơ. Trái lại, tôi chỉ nghĩ đến những nữ nhân vật của Stendhal: Mathilde, Mme de Rênal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, giữa những nàng khác – mà hình bóng trác tuyệt, vĩnh viễn trẻ và đẹp, đã đưa tôi rất nhẹ nhàng ra khỏi thực tế phũ phàng và tầm thường, cái thực tế mà tôi nghĩ tôi không phải sinh ra để ôm lấy, ngay cả thời trước khi vào tù… Cuộc sống của tôi, hay đúng hơn cái chết của tôi, một cách xứng đáng nhất, cho đến ngày 18 tháng Ba năm 1983, thời điểm tôi được thả. Sau tám năm trời!…”
Cuối cùng VTrD cho kết luận như sau:
“Trong vài năm sau nầy chỉ biết tình trạng sức khỏe của anh rất yếu không còn viết lách nữa và không liên lạc nhau vì vậy không biết nhiều về đời sống và sinh hoạt của anh sau nầy. Bỗng nhận được tin buồn: Tiến Sĩ Nguyễn Kim Quý (Kim Thanh, Người Lính Già Oregon) qua đời vào Thứ Tư, ngày 12 tháng Hai năm 2025 tại thành phố Portland, Oregon. Theo Mục Sư Huỳnh Quốc Bình, bà Nguyễn Kim Quý cho biết, lúc sinh tiền đã dặn dò vợ con khi lìa trần, tang lễ của ông phải hết sức đơn giản. Trong tang lễ không có điếu văn, không phủ cờ và không vòng hoa gì cả. Vợ con chỉ cần đưa xác đến nhà quàn để hỏa thiêu, sau đó báo cho anh chị em của anh và vài bạn hữu của anh biết mà thôi vì không muốn làm phiền bất cứ một ai khác trong tang lễ… Với bốn thập niên cư ngụ tại Oregon như quê hương thứ hai của người quá cố nên Thánh Lễ an táng ngày 18/2 được tổ chức long trọng với Giáo Xứ, tang quyến, thân hào nhân sĩ, các cựu SVSQ/ĐH. CTCT…
Khi xem video của Vũ Ngọc Hải, người bạn cùng khóa, tang lễ trân trọng và ấm cúng với sự hiện diện, chia sẻ của quý vị Linh Mục, thân hữu… thể hiện sự thương tiếc, quý mến với người quá cố, tôi rất xúc động. Những bài viết hồi ký của Kim Thanh và NLGO không in thành tác phẩm nào, với anh luận án về Văn Hào Stendhal coi như tác phẩm nhận định về văn học đã được giới thiệu qua hai lần thuyết trình tại Pháp. Trong số bài viết của anh có chút “lửa” cũng như bản tính năng động và máu người lính trong tâm hồn anh.” Xin trich đoạn tiếp khi VTrD viết về tác giả sách Tình Cao Thượn, Nguyễn Mạnh Côn như sự luyến tiêc, cái chết đểbảo toàn danh dự…”Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử.
Theo nhà văn Hoàng Hải Thủy, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử xem như hồi ký của người trong cuộc vào thời điểm đó tham gia trong Tự Vệ Thành với tuổi trẻ khi chứng kiến nạn đói năm Ất Dậu (1945) “Ngót hai triệu người chết năm 1945 từ tháng Giêng đến tháng Tư… Ðó là hoàn cảnh cho phép đấu tranh bộc phát. Ðấu tranh lúc đó quy tụ cả vào mặt trận Việt Minh” do hậu quả của thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Tuổi trẻ dấn thân trong công cuộc giải phóng đòi tự do độc lập cho đất nước. Và, những lá thư đó viết từ Hà Nội đến những nơi khác: Hà Nội, nội thành, Liên Khu 1 ngày 3 tháng 9 năm 1945 (Việt Minh cướp chính quyền hớt tay trên các đảng phái quốc gia. Ngày 26 tháng 12 năm 1946 ở Hà Nội, trong nội ô thành phố, Tự Vệ Thành đã nổ súng đánh Pháp bắt đầu cho cuộc kháng chiến giành độc lập). Hà Ðông ngày 3 tháng 2 năm 1947 (Ðảng Cộng Sản Việt Nam chính thức thành lập và cuộc đảng tranh đẫm máu và gay gắt nhất đã tạo những vết thương đau đớn cho dân tộc). Phú Thọ, Vũ Lao ngày 29 tháng 11 năm 1952 (khởi đầu cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố để thực hiện đấu tranh giai cấp). Hải Phòng ngày 19 tháng 7 năm 1954, những dòng cuối thư vào ngày 1 tháng 8 năm 1954.
Trong bài viết của Nguyễn Mạnh Trinh, trích phần tóm tắt tác phẩm Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Kỳ Hoa Tử:
“Nội dung của Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử là những tâm sự của một chiến sĩ đang tranh đấu trực diện trong công cuộc giải phóng đòi tự do độc lập cho đất nước trong những bức thư viết ở những thời điểm quan trọng của lịch sử Việt Nam. Những không gian và thời gian như Hà Nội ngày 3 tháng 9 năm 1945… Hải phòng ngày 19 tháng 7 năm 1954, là những cột mốc đáng nhớ của một thời đại đầy biến động Việt Nam.
Từ thời điểm ấy, Nguyễn Kiên Trung kể cho bạn đọc nghe về cuộc đời của mình và thế hệ mình theo ngõ đẩy đưa của thời cuộc. Và từ đó như tấm gương phản chiếu thấy được sự bội phản lường lọc của những người Cộng Sản Việt Nam.Với kỹ thuật tranh đấu được huấn luyện từ hệ thống Cộng Sản thế giới, họ áp dụng vào thực tế và đã thành công trong việc nắm giữ chính quyền và thực hiện chính sách vô sản chuyên chính.
Tác giả Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử đã “trút ngay lên mặt giấy một sự cần thiết phaỉ gào thét, phải nức nở cho số phận những người bạn tôi sắp phải chết, ngoài kia, bên trên vỹ tuyến Bắc 17 độ. Nói là bạn, nhưng chỉ có một số nhỏ là bạn của tôi thật, còn nhiều người mới quen biết sơ qua trên con đường kháng chiến, nhiều người chưa hề được gặp mặt, nhiều người tôi đáng tôn lên là bậc thầy, Phan Khôi, Đào Duy Anh,Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, những người ấy sắp bị Việt Cộng mang ra xử án…”
… Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử được viết cách nay nửa thế kỷ và xem ra tới bây giờ, vẫn còn nhiều suy nghĩ đáng chú ý. Lịch sử đã bị chế độ hiện hữu bôi xóa và những bài học để thế hệ sau hiểu biết chứa đầy những giả trá. Từ năm 1945, tới nay không xa, khoảng cách lịch sử vẫn còn gần để nhận thức, thế mà đã có nhiều sai lạc…” Xin trích đoạn VTrD viết về nhà văn Dương Viết Điền, Hành Trình Với Văn Thơ Nhạc, một người bạn thân đồng môn trường Đại Học Chié6n Trasnh Chính Trị, và là dồng khóa I Nguyễn Trãi. Vương Trùng Dương tâm tình như sau,…
“Bước vào tuổi tám mươi, nhà văn Dương Viết Điền sức khỏe rất yếu, không còn ngồi được để thực hiện tiếp những tác phẩm còn dang dở nên nhờ Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời gian giúp anh thực hiện tuyển tập Thơ & Nhạc, ra mắt tác phẩm vào trưa Chủ Nhật 24/11/2024 tại VietLife Club, thành phố Westminster. Trong tuyển tập nầy có 3 bài viết của nhà văn Việt Hải, nhà văn Khánh Lan và tôi. Dương Viết Điền là bạn văn và cũng là bạn cùng khóa (Khóa Nguyễn Trãi I Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Đà Lạt) và cùng định cư tại Hoa Kỳ năm 1990 (Diện H.O). Khi ra trường, anh phục vụ tại Tiểu Đoàn 10 CTCT, sau đó biệt phái sang Phòng Báo Chí (phụ tá Trưởng Phòng), Khối CTCT Quân Đoàn I nên có cơ hội quen biết với giới cầm bút trong thời gian quân ngũ. Trong tình bạn tâm giao cố tri với nhau từ thời ở quân trường nên một số tác phẩm anh gợi ý tôi viết để chia sẻ cùng độc giả.
Trong ba thập niên, anh đã sáng tác hơn hai mươi tác phẩm, và một loạt tác phẩm Nhật Ký Lúc Chiều Tà (tập I năm 2014 đến tập VII năm 2019) ghi lại quãng đời của anh từ thời trai trẻ, trong quân ngũ, trong lao tù và năm tháng tị nạn ở Mỹ. Theo anh, muốn tiếp tục ấn hành với nhật ký nầy đánh dấu nửa thế kỷ mất nước và những tác phẩm khác nhưng vì bệnh tình nên đành dang dở. Tác phẩm đầu tiên với Hồi Ký Trại Ái Tử & Bình Điền ấn hành năm 1993. Đây là một trong những tác phẩm (hồi ký) viết về chốn lao tù sau năm 1975, trước và sau đó có: Đáy Địa Ngục (Tạ Tỵ), Đại Học Máu (Hà Thúc Sinh), Cùm Đỏ (Phạm Quốc Bảo), Tầng Cuối Địa Ngục (Đỗ Văn Phúc), Vùng Đất Ngục Tù (Nguyễn Vạn Hu8ng2), Những Người Tù Cuối Cùng (Phạm Gia Đại), Thép Đen (Đặng Chí Bình), Hối Ký Người Tù Cải Tạo của Đại Tá Nguyễn Huy Hùng, Trại Tập Trung của Duyên Anh, Tù Cải Tạo Hồi Ký (Nguyễn Đức Cung), Một Cuộc Đổi Đời KALE (Lê Anh Kiệt, Hồi Ký 17 năm trong các trại tù cải tạo của Cộng Sản), Vết Nám: Hồi Ký Tù Cải Tạo (Hoàng Long Hải), Đóa Hồng Gai (Nguyễn Thanh Nga), Hồi Ký Cải Tạo & Vượt Biên (Nguyễn Duy Chính), Lao Tù Cải Tạo & Những Phần Đời Của Định Mệnh (Nguyễn Kỳ Dzương, năm 2024)…
Các trại tù thuộc vùng I & II trước kia không bị đày ra Bắc vì cũng hắc ám trong quần đảo ngục tù (tác phẩm Arkhipelag Gulag của văn hào Solzhenitsyn, Quần Đảo Gulag hay Quần Đảo Ngục). Ái Tử vừa là tên làng thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1971 là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 bộ binh. Bình Điền là địa danh thuộc tỉnh Thừa Thiên, căn cứ thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Cộng Sản dùng hai nơi nầy làm trại tù. Dương Viết Điền bị 10 năm tù đã ghi lại năm tháng nơi lao tù.
Năm 2003, anh ấn hành quyển Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân, trong quyển nầy anh liệt kê những vị anh hùng tuẫn tiết trong ngày 30/4/1975, dựa vào các bài viết, hồi ký người tù từ Bắc chí Nam trở thành tài liệu đáng nhớ. (Nhạc sĩ Nguyễn Hiền là người rất thận trọng và khó tính nhưng là người giới thiệu về hai quyển sách nầy. Trong những lần cùng uống cà phê với ông, có vài tác giả đến nhờ ông viết nhưng ông từ chối rất tế nhị).
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền viết Lời Giới Thiệu “… Đương nhiên sau ngày vận nước suy vong đó, chúng ta đã có một dòng văn học gồm những tù nhân chính trị viết lại sinh hoạt của họ trong các trại giam Cộng Sản. Và do vậy những cây bút ấy đã góp phần phong phú hóa cho vườn hoa văn học nghệ thuật hải ngoại thêm nhiều màu sắc. Trong số đó có văn hữu Dương Viết Điền đã viết hồi ký Trại Ái Tử & Bình Biền xuất bản năn 1993 và nay lại tái bản theo yêu cầu của độc giả hải ngoại. Lối văn hồi ký ghi những kỷ niệm trong thời gian đi tù “cải tạo” như kể chuyện đã hấp dẫn người đọc tìm hiểu về tâm tư của tác giả cùng những bạn tù và chế độ các trại giam của Cộng Sản…” Và nhận vât cuối cùng xin đan cử từ sách mới của nhà văn VTrD, Xin trích đoạn VTrD viết về một chiến hữu đồng hương Quảng Đà, Thi sĩ Thái Tú Hạp, Tác giả của Hạt Bụi Nào Bay Qua, và Nhà Thơ Viễn Xứ:
Nặng Tình Với Quê Hương
Vương Trùng Dương
“Ta ở bên này đại dương nhớ
Thời gian nuôi mãi tấm lòng son
Trắng tay phiêu bạt đời hư ảo
Hiu hắt hồn thơ với nước non”
(Thái Tú Hạp)
Hầu hết những bằng hữu của Thái Tú Hạp đều biết tuyển tập thi ca để đới của ông: ‘Suối Nguồn Tâm Thức,’ một đời thơ của Thái Tú Hạp. VTrD nhận xét về tác giả thji ca Thái Tú Hạp như sau:
“* Quê Hương, Lao Tù và Viễn Xứ.
Hầu như các thi phẩm của anh như đã đề cập ở trên đều mang nặng hình ảnh quê hương từ trong nước với tâm hồn người lính trong hoàn cảnh chiến tranh lan tràn nên cầu mong với “xin và cho”:
“Xin ngày cho thấy mặt nhau
Xin chuông chùa thức đêm sầu bi thương
Xin thôi chia nẻo chiến trường
Xin cơn đau đớn xa nguồn từ ly
Xin chiều mắt mẹ từ bi…
Xin em suối ngọc huyên vi
Xin cho thanh tịnh đời phi nghĩa này…”
(Nụ Chào Bao Dung, 1965)
“Cho đêm bừng đóa mặt trời
Cho thân thể mẹ qua rồi đớn đau
Cho em tiếng hát ngọt ngào
Cho vùng suy tưởng chở vào giấc thương
Cho chim hoa bướm mùa xuân
Cho lời kinh kệ tan cơn oán thù
Cho tàn binh lửa đôi bờ
Cho cành dương nước cam lồ vô biên
Cho tiêu tan chuyện ưu phiền
Cho quê hương đẹp trăm miền tinh khôi”
(Lời Buồn Treo Cao, 1966)
Hằng mơ tưởng mùa Xuân về trên quê hương “Để tìm lại bóng dáng của áo lụa Duy Xuyên, rừng quế Tiên Phước, rượu cần trên buôn sóc Trà Mi thưởng thức trà Tiên quế, Cam Đại Bình, bông Vạn Thọ”.
“… Miền quê hương có Ngũ Phụng Tề Phi
Núi Non Nước ngăn trời bão tố
Sông Thu Bồn hiền dịu đổ phù sa”
và:
“Có nơi nào đẹp bằng quê hương ta đó
Bao đời lịch sử liệt oanh
Thăng trầm theo mệnh nước
Nhưng sông núi muôn thuở vẫn kiên trinh
(Từ Quê Hương Trở Về)
Khi anh theo học Khóa Trung Cấp 3 tháng ở TĐH.CTCT Đà Lạt và hình ảnh nơi nầy:
“… Mây Lâm Viên huyễn tích ngàn
Non cao ẩn dụ loài hoang thú về
Từ chim lạc. Thác Đam Mê
Yersin khai lộ qua khe suối Chàm…
… Đệ huynh chung một lời thề
Nghìn năm bia đá không hề phôi pha”
Khi định cư ở Mỹ với tâm thức nhà thơ bị đánh mất quê hương mang nặng nỗi niềm hoài cổ. Ngày xưa, trong bài thơ Lữ Dạ Thư Hoài, thi hào Đỗ Phủ đã bày tỏ:
“Phiêu diêu hà sở tự
Thiên địa nhất đa sầu”
Ngày nay, hình ảnh ấy thoáng hiện nơi người viễn khách Thái Tú Hạp:
“Buổi chiều nơi quán khách
Lửa nến hắt hiu buồn
Ghế đời tri âm khuất
Vạn lý sầu cố hương”
Hoặc:
“Con bên bờ vực thẳm
Ngắm mây sầu ly hương
(Nhớ Mẹ)
Hay:
“Ta biền biệt quê hương
Mang niềm đau bất tử”
(Đêm Ở Quê Người)
Sinh trưởng trong một thành phố cổ với mái ngói âm dương, rêu phong cổ kính, với đền chùa lăng miếu từ thuở xưa…ngoại cảnh đã ảnh hưởng đến tâm hồn thi sĩ. Đọc thơ anh làm nhớ lại những bài cổ phong, thi ca cổ điển… bàng bạc trong âm điệu lời thơ. Nhẹ nhàng và vương vấn nỗi buồn mang mác…Có lẽ cảm hứng từ ý thơ “Cử đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương” trong bài thơ Tĩnh Dạ Từ của Lý Bạch, anh bày tỏ tâm trạng u hoài của con người đánh mất quê hương:
“Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Ta giờ trăng chết ở trong tâm
Cố hương, trăng khuyết đìu hiu nhớ
Dạ lý hoa còn phảng phất hương”
Để rồi:
“Thôi ngẩng đầu chi đêm trăng sáng
Một mình nghe biển động xương khô”
(Trăng Viễn Xứ)
Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du…”
Thôi hiệu đề thi tại thượng đầu!”
Hơn 1200 năm sau, trong bài Cảm Hứng Đường Thi của anh đã gởi gắm vào đó tâm trạng lạc loài của nhà thơ trước hoang tàn của thời gian:
“Thánh thi trên bia mục
Hoàng hạc đã bay rồi
Con trăng đồng trinh khuất
Bên trời ta lẻ loi”
Với bản dịch lục bát tuyệt vời Gác Hoàng Hạc của thi sĩ Tản Đà, thơ Thái Tú Hạp có lẽ cũng sở trường và thành công với dòng thơ lục bát như áng thơ cổ:
“Đời tan rã bụi hư vô
Nhớ quê lòng cũng nao nao muốn về
Lòng ta ngậm mãi thương hoài…
Nắng trôi giạt nắng sông đòi đoạn sông”
(Cõi Chờ Mong)
“Đời như cát bụi đìu hiu
Cơn vui như tiếng sóng triều hư vô
Ngàn xưa sau cõi mịt mờ
Anh con thú vẫn hoài mơ nẻo về…”
(Nẻo Về)
Cũng như nhiều nhà thơ khác trong quân đội viết về chốn lao tù, bài thơ Đêm Trong Trại Tù:
“Không đi tới mặt trời trước mắt
Nỗi buồn cao như núi thẳm vây quanh
Nỗi hờn căm cũng cao ngất rừng xanh
Nuôi hy vọng da người xanh như lá
Người tù binh khát khao nhớ mùa xuân
Nhớ đôi mắt tự do ngoài cổng đợi
Nhớ bóng chim vút cánh qua trời
Không để lại vết tăm nào yêu dấu
Đêm vẫn qua giữa trại tù mọi rợ
Người tù binh vẫn thao thức mong chờ…”
Ngay trong trại tù, ta gặp lại tâm trạng bi đát, đau đớn, u buồn, xót xa như vần thơ trong Tự Tình Khúc:
“Sầu kia ai kẻ xiết lòng
Chiều thôi lại tối, đêm xong lại ngày”
Ở đây, ta lại chứng kiến giữa miền rừng núi Kỳ Sơn:
“Nửa đêm kiểng lạnh lùng khua
Trăng kinh hoàng động rừng khuya vỡ sầu
Đời vi diệu cũng nát nhầu
Trong ta biệt xứ cõi sâu non trùng
Sáng ra mới biết hư không
Một ngày qua nữa lòng mênh mông buồn”
(Trong Tù Nghe Tiếng Chim)
* Tư Tưởng Phật Giáo
Bàng bạc trong các thi phẩm của anh đều nhuốm tư tưởng Phật Giáo. Tiếp thụ tinh thần đó, vì vậy trải qua nhiều thập niên sống ở hải ngoại trong “thế giới Văn Minh trả góp” như ngôn ngữ của Phạm Kinh Vinh, anh cảm thấy có điều gì lạc lõng giữa tâm hồn Đông phương, những tương tàn trong tình cảm bởi lối sống cá nhân, đeo đuổi theo vật chất, những toan tính lọc lừa, những ràng buộc dai dẳng vây quanh cuộc sống, con người tựa hồ chiếc kim đồng hồ… không có phút giây an nhàn, tự tại vì vậy tâm hồn lúc nào cũng vọng về Miền Yêu Dấu Phương Đông và coi như miền đất hứa vẫn là nơi yên nghỉ cuối cùng của cha mẹ, chan chứa tình người:
“Ta hẹn em trở về
Bên đồi lau xanh biếc
Chim rủ nhau quay quít trên ngàn cây
Cuối thôn rụng đầy trái đỏ
(Trở Lại Suối Nguồn)
Nguyên Giác (Phan Tấn Hải) là Phật Tử thuần thành, am tường triết lý Phật Giáo vì vậy trong bài viết Thái Tú Hạp: Làm Thơ Như Chép Kinh: “Tôi đã đứng tim như thế, đã kinh ngạc đọc đi đọc lại các dòng thơ (bài thơ Sao Khuya trong tập thơ Suối Nguồn Tâm Thức). Tôi đã nghiêng đầu, áp tai sát trang giấy để nghe xem tiếng hạc buồn lê thê thế nào. Tôi đã nghiêng trang giấy qua lại để xem có ngôi sao nào rơi ra từ giữa những dòng thơ. Khi đó, tôi đã thắc mắc vì sao có hình ảnh cổng chùa chưa khép trong thơ, có phải vì nhà sư thi sĩ đã đi lạc nơi phố chợ và quên mất lối về…
Chỉ mở trang sách ra để đọc thơ Thái Tú Hạp thôi, cũng y hệt như mùa xuân bay qua để hiện lên những cánh đồng hoa bên đồi. Trong cõi đó, tôi ưa thích nhất, là những dòng thơ rất mực u hoài cổ tích của anh. Không gian thơ này là cái gì rất gần gũi với tôi: những mái chùa ở quê nhà, tiếng chim hót hòa vào lời kinh tụng. Đó là những hình ảnh không dễ tìm được nơi hải ngoại. Đối với Thái Tú Hạp, hình như làm thơ cũng là một pháp tu. Bởi vì có những dòng thơ như dường nhắc tới các pháp ấn. Như bài Một Thoáng Phù Vân ngay nhan đề đã nêu lên pháp ấn vô thường,…” Cá nhân người viết bài này rất chuộng loại thơ nặng tính thiề thi tâm linh của Thi sĩ Thái Tú Hạp, ví dụ như:
Thanh Tịnh Khúc
Mai ta về giữa non cao
Xé mây làm áo lụa đào cho em
Nghiệp từ mấy thuở trần duyên
Nắng thanh xuân đậu ngoài hiên ta bà
Đưa nhau dạo giữa ngân hà
Bỏ nhân gian lại chốn tà huy câm
Mai sau tình vỡ hư không
Có nghe tiếng hót tiền thân chim ngàn
Từ trong thiên cổ tri âm
Tiễn nhau xuống núi cưu mang kiếp sầu
Mai về khép cánh biển dâu
Giở trang vô tự trắng nhòa sắc không
Chờ nhau dưới cội vô thường
Soi tâm tư hiện một vừng trăng xưa.
[Thơ Thái Tú Hạp, Tập san Pháp Luân số 4, PL 2548]

Bài thiền thi trên cũng đã khép bài viết “Mạn đàm Người Lính Buông Súng – Vẫn Ghì Bút Mãn Kiếp.”, đặc biệt về tác phẩm Giới thiệu ‘Người Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ’ của Nhà văn Vương Trùung Dương, đại diện cho lớp hậu nhân, sóng sau Khánh Lan, Kiều My, Thanh Ngọc, Minh Đúc, Việt Hải và Huy Anh xin chia vui cùng tác giả Vương Trùng Dương cho ra văn tập mới này, mong sao Vương văin nhân vẫn mạnh tiến sáng tác thêm nhiêu ân phẩm giá trị khác nữa trong tương laị.
Trần Việt Hải, Nam Cali, 01/07/ 2025.
Tiểu sử Vương Trùng Dương:
https://vietvanmoi.fr/VUONGTRUNGDUONG.html
———————————————————————-
La littérature est un flux intarissable, aidons-la à s’écouler.
NGUYEN QUANG
Văn học là một dòng suối chảy không ngừng, hãy giúp nó luân lưu.
NGUYỄN QUANG
Literature is a never-ending stream, let’s help it flow.
NGUYEN QUANG