GIỖ TỔ CẢI LƯƠNG VÀ THẦN BẠCH MI
Hồng Nguyên-San Jose-Tổng hợp sưu tầm
GIỖ TỔ CẢI LƯƠNG
Là ngày để tưởng nhớ và tri ân các vị Tổ nghiệp của ngành sân khấu. Đây là dịp để nhớ đến công ơn của những người đã khai sáng, gìn giữ và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam, bao gồm tuồng, chèo, cải lương, hát bội…
Ngày 12 tháng 8 âm lịch hằng năm là ngày Giỗ Tổ sân khấu. Nghệ sĩ lập bàn thờ, dâng lễ vật và biểu diễn hát để dâng Tổ, trong đó Thần Bạch Mi là nhân vật trung tâm.
khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc.
– Miền Nam: Trong cải lương và hát bội, Thần Bạch Mi được tôn kính đặc biệt.
– Miền Bắc: Trước năm 1975 dường như không có cúng kiếng và ăn uống linh đình vào ngày này (các nghệ sĩ thường tự nhắc nhở nhau để tưởng nhớ mà thôi), có lẽ do điều kiện kinh tế thời chiến tranh còn khó khăn (và không có hình ảnh hay tài liệu nào ghi lại).
TÍN NGƯỠNG TỔ NGHIỆP TRONG SÂN KHẤU VIỆT NAM
Khái niệm Tổ nghiệp
Trong quan niệm tín ngưỡng dân gian Việt Nam, nghề nghiệp nào cũng có những bậc Tổ sư khai sáng và phát triển, những vị ấy được người theo nghề suy tôn và thờ phụng gọi là “ Tổ ”, họ có một ngày chính trong năm để cúng khấn, bái lạy đó là một nghi lễ tôn nghiêm mang tính trọng vọng các bậc tiền hiền.
Tại sao gọi là “ Tổ nghiệp ” mà không phải là “ Tổ nghề ” ?
nghề có thể thay đổi để mưu sinh nhưng nghiệp thì chẳng thể.
Bởi công việc nghệ thuật là niềm đam mê cháy bỏng, dù có sống chết hay dù gian khổ thế nào vẫn cứ phải theo đuổi. Người nghệ sĩ đã trót mang cái “ nghiệp ” cầm ca vào thân thì chẳng thể nào dứt được. Điều đó nói lên không ai gọi là Tổ nghề mà phải gọi là Tổ nghiệp.
Tổ nghiệp là cách gọi chung tất cả những ai có công sáng lập và lưu truyền đặc biệt trong ngành nghệ thuật sân khấu.
Tổ nghiệp là vị tổ sư khai sáng ngành nghề biểu diễn, những người được xem là linh thiêng, luôn phù hộ cho nghệ sĩ được hành nghề thuận lợi, gặp may mắn, giữ được đam mê và đạo đức làm nghề.
Bàn thờ Tổ các nơi thường được đặt:
. Rạp hát.
. Nhà hát chuyên nghiệp.
. Các đoàn cải lương, nhóm nghệ thuật truyền thống.
. Nhà riêng.
Người trong nghề thường nói:
“ Sống nhờ Tổ, chết về với Tổ ”
hay :
“ Có Tổ nghiệp độ, mới được đứng trên sân khấu ”.
Trong hậu trường của các gánh hát, các sân khấu từ xưa đến nay luôn có một bàn thờ gần nơi cánh gà. Nghệ sĩ trước khi bước ra sân khấu đều lễ bái. Trong bàn thờ thường đặt bài vị hoặc cốt tượng của Ông, hai bên thường thấy treo hai bên 2 câu đối:
– “ Tổ truyền thiện nghệ thiên thu thịnh.
Sư giáo tài năng vạn đại xuân. ”
Ngoài ra nghệ sĩ cũng còn thờ thêm “ Thập nhị Công Nghệ “ vì họ luôn tâm niệm một tác phẩm sân khấu được hoàn thành mỹ mãn vẫn cần sự đóng góp của nhiều ngành nghề khác nhau họ trợ giúp sức như: may mặc, hóa trang, da giày, hội họa, điêu khắc, thiết kế, âm thanh, ánh sáng… Các ngành nghề phụ thường chia làm 12 ngành và từ đó nghệ sĩ còn thờ thêm “ Thập nhị Công Nghệ “ để tri ân 12 ngành nghề này.
MÂM CÚNG TỔ NGHIỆP TRUYỀN THỐNG
Lễ mặn
. 1 con heo quay nguyên con (đầu hướng về Tổ, chỉ sự “dâng lên” chứ không “quay lưng” lại với Tổ. Nhằm thể hiện lòng thành kính, sự kính trọng trực tiếp dâng lễ vật lên Tổ tiên, Tổ nghiệp.
. 1 con gà luộc (thường là gà trống, đẹp mã, có cánh chắp)
. 1 đĩa xôi (xôi gấc, xôi đậu xanh hoặc xôi trắng)
. 1 đĩa bánh hỏi
hoặc bánh chưng, bánh tét.
. 3 ly rượu trắng
. 1 chai rượu nếp / rượu trắng
. 1 ấm trà / 3 chén trà
. 1 đĩa trầu cau
. 1 bó nhang và cặp đèn cầy
. 1 bình hoa tươi (thường là hoa cúc, vạn thọ hoặc hoa huệ)
. 1 đĩa trái cây ngũ quả (mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung – tùy theo vùng miền)
Lễ chay kèm theo hoặc thay thế
. Nhang.
. Hoa tươi.
. Trái cây.
. Bánh kẹo.
. Xôi chè (chè trôi
nước, chè đậu,
chè hoa cau…)
Sau khi cúng Tổ xong thường có:
. Biểu diễn dâng Tổ (trích đoạn cải lương, hát bội…)
. Rước Tổ, lạy Tổ : các nghệ sĩ lần lượt lạy Tổ 3 lạy để tỏ lòng tri ân.
. Lộc Tổ: chia phần heo quay, xôi, lộc tượng trưng cho mọi người để cùng được may mắn.
VĂN KHẤN TỔ NGHIỆP – NGHỆ SĨ CẢI LƯƠNG
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Kính lạy:
– Tổ nghiệp sân khấu, Chư vị tiền bối, tiền hiền đã khai sáng nghề hát.
– Các bậc Tổ sư, Thánh tổ cải lương, hát bội, tuồng tích.
Hôm nay là ngày 12 tháng 8 âm lịch, là ngày Giỗ Tổ sân khấu.
Tín chủ con tên là: ………………………………………………
Pháp danh (nếu có): …………………………………………..
Hiện đang hành nghề: …………………………………………..
Ngụ tại: ……………………………………………………………
Hôm nay, con xin lòng thành sắm sửa hương hoa lễ vật, dâng lên trước bàn thờ Tổ nghiệp. Con xin kính cẩn cúi đầu, dâng nén tâm hương tưởng nhớ đến:
Chư vị Tổ Sư, Tổ Nghề, Tiền Hiền, Hậu Hiền, những người khai sáng, truyền dạy nghề nghiệp, dìu dắt hậu thế. Những bậc tiền nhân đã dạy dỗ, soi đường chỉ lối, gìn giữ và phát triển bộ môn nghệ thuật truyền thống quý báu.
Xin Tổ thương xót, chứng giám tấm lòng thành, phù hộ cho chúng con:
– Có sức khỏe vững vàng.
– Giữ tâm sáng với nghề.
– Rèn giũa tài năng ngày càng phát triển.
– Xin được gieo yêu thương qua từng vai diễn.
– Luôn gặp quý nhân trợ giúp, khán giả thương yêu.
– Đồng nghiệp đoàn kết, tổ nghiệp nâng đỡ.
– Danh tiếng, phúc lộc đủ đầy.
– Tránh tiểu nhân hãm hại, tránh tai nạn nghề nghiệp.
Chúng con nguyện:
– Hành nghề chân chính.
– Không vì danh lợi mà quên đạo đức nghệ sĩ.
– Duy trì và phát huy nghệ thuật cải lương – vốn quý của dân tộc Việt Nam.
Xin Tổ từ bi chứng giám, độ trì cho chúng con:
Được vững tâm giữ nghề truyền thống.
Để Sống có đức – diễn có tâm – làm nghề bằng cả trái tim.
– Cầu xin Tổ độ trì, phù hộ độ trì cho con và gia đình thân tâm an lạc, vạn sự hanh thông.
Cúi mong Tổ nghiệp từ bi gia hộ.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
—–
TỔ CẢI LƯƠNG LÀ AI?
Cải lương xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 tại miền Nam Việt Nam. cụ thể là khoảng những năm 1916–1918, tại vùng Nam Bộ.
Cải lương ra đời từ sự kết hợp giữa nhạc lễ, hát bội (tuồng cổ), dân ca Nam Bộ và ảnh hưởng của kịch nói phương Tây. Nó được coi là một sự “ cải tiến ” của hát bội – nhằm làm cho nghệ thuật sân khấu gần gũi, dễ hiểu và phù hợp hơn với đời sống và thị hiếu của công chúng đương thời.
Tên gọi “ cải lương ” nghĩa là “ cải cách để trở nên tốt đẹp hơn ”, phản ánh tinh thần đổi mới nghệ thuật truyền thống.
Thời kỳ phát triển
- 1920–1945: Cải lương nhanh chóng trở nên phổ biến khắp Nam Kỳ, với nhiều đoàn hát lớn như Tân Thịnh, Nam Đồng Ban, Phước Cương…
- 1950–1975: Thời hoàng kim của cải lương, đặc biệt là tại Sài Gòn, với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Út Trà Ôn, Bạch Tuyết, Thanh Nga, Minh Vương, Hùng Cường …
- Sau 1975: Cải lương tiếp tục phát triển, nhưng đối mặt với nhiều khó khăn do thay đổi thị hiếu và cạnh tranh của các loại hình giải trí hiện đại khác nên không còn đông đảo khán giả yêu thích như xưa .
Có thể kể ra đây một vài vở kinh điển như : Lan và Điệp, Tiếng trống Mê Linh, Đời cô Lựu, Nửa đời hương phấn…
Giả thuyết về Tổ cải lương:
1. Thuyết ông Tổ là quan văn Đào Duy Từ.
Ông Đào Duy Từ (1572–1634) là danh sĩ, quân sư, nhà chính trị và nhà Văn Hóa nổi tiếng thời Chúa Nguyễn. Có người cho rằng ông là Tổ của “ Hát Tuồng “ thì đúng hơn, chứ không phải là Tổ cải lương hay Tổ sân khấu nói chung.
2. Thuyết Thần Bạch Mi – Tổ nghiệp sân khấu truyền thống.
Thần Bạch Mi ( còn gọi là “ Ông Tổ râu trắng ” ) là nhân vật huyền thoại được các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tôn thờ như vị Tổ Nghiệp .
Thần được miêu tả thường mặc áo đạo sĩ, có râu dài, tướng mạo đẹp, cưỡi ngựa xách đao, lông mày trắng và mắt đỏ – khá giống tượng Quan Công.
Thần Bạch Mi là hình tượng Tổ nghiệp sân khấu truyền thống được nghệ sĩ cải lương, hát bội tôn thờ. Dù gây tranh cãi bởi không có bằng chứng lịch sử rõ ràng, ông vẫn luôn là nhân vật thiêng liêng trong tín ngưỡng dân gian của giới nghệ sĩ.
Có lẽ đây là “ Tổ nghiệp có đôi lông mày trắng lạ lùng nhất trong các Tổ nghiệp ” Và là một hiện tượng tín ngưỡng đặc biệt trong văn hóa Việt Nam, phản ánh cách người xưa phân loại nghề nghiệp và thể hiện sự tôn trọng sâu sắc của nghệ sĩ đối với Tổ nghiệp.
Những nghề thờ Thần Bạch Mi
– Nghệ thuật sân khấu và ca hát:
. Hát bội, tuồng
. Cải lương
. Đàn ca tài tử
. Ca trù
– Các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống
– Một số nghề khác liên quan đến ca hát, biểu diễn.
– Người hành nghề ăn xin.
Đặc biệt là những người ăn xin có tay nghề ca hát, biết đàn nhạc.
Ngày xưa, người nghèo, khuyết tật được Cha mẹ hay Thầy nhạc dạy ca hát, đàn nhạc để ăn xin có tay nghề. Họ cũng thờ Tổ Bạch Mi, họ cũng biết hát, biết đàn, cũng hơi giống và cùng nghề với nghệ sĩ sân khấu. Ranh giới giữa “ nghệ sĩ đường phố ” và “ người ăn xin biết ca hát ” đôi khi rất mong manh.
– Nghề gái Thanh lâu ( lầu xanh ). Trong văn học thi ca : được đại thi hào Nguyễn Du đề cập và mô tả trong Truyện Kiều.
… Khi Tú bà bắt Kiều quỳ lạy Tổ :
“ Giữa thì hương án hẳn hoi,
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen thói xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư.
Hương hoa hôm sớm phụng thờ
Cô nào xấu vía, có thưa mối hàng.
Cởi xiêm trút áo sỗ sang,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi ”.
Đây chính là Thần Bạch Mi mà các lầu xanh thời xưa thờ.
Thần Bạch Mi đại diện những nghề hạ lưu trong xã hội phong kiến, nên các nhà nho, văn nhân ít khi chịu viết về do đó những hiểu biết về Thần Bạch Mi rất mơ hồ, mang tính giai thoại nhiều hơn và chủ yếu chỉ được lưu truyền qua lời kể của các nghệ sĩ trong các đoàn hát, chứ không có kinh sách hay văn bia chính thức nào .
Thông thường tục thờ thần Bạch Mi không được phổ biến rộng rãi hay nói cách khác chỉ những người trong ” nghề ” mới hiểu biết, am tường.
Truyền thống cúng Tổ
Hằng năm, theo truyền thống lưu truyền từ thời xa xưa, giới sân khấu hát bộ, cải lương đều “ ốp đoàn ”( Off, ngưng diễn ) để tổ chức lễ cúng Tổ rất trang nghiêm, thành kính.
Tính linh thiêng của tín ngưỡng
Nếu xem việc cúng Tổ là một tín ngưỡng thì tín ngưỡng phải cho đúng. Tổ nghiệp rất linh thiêng, không phải ai muốn lập bàn thờ Tổ là lập.
– Khi làm ăn khấm khá thì cúng lớn còn khi eo hẹp thì cúng nhỏ.
– Cứ đến lệ cúng Tổ là đào kép của gánh đang phiêu bạt ở đâu cũng phải về… Mặc đồ, trang điểm, lên sân khấu hát để cúng khấn Tổ nghiệp.
Mỗi dịp cúng như thế, các thế hệ kế thừa có dịp thăm lại người Thầy dìu dắt mình vào nghiệp.
Nghi lễ cúng Tổ
Cách thức tiến hành
Họ thỉnh bàn thờ Tổ ra giữa sân khấu và cử hành lễ giỗ Tổ, sau đó chia lộc Tổ cho cả đoàn. Ngày nay, phong tục này vẫn được giới nghệ sĩ duy trì.
Người tham gia nghi lễ
Khấn trước bàn thờ Tổ là nghi lễ. Ngày xưa, khi cúng Tổ:
– Chỉ có ông bầu hoặc chủ đoàn hát, chủ gánh hát mới được cúng khấn trước.
Sau đó mới đến Đào kép đứng khấn trước bàn thờ.
– Hậu đài và các bộ phận khác chỉ đốt nhang.
Lễ vật dâng Tổ
Bánh trái, hoa quả là lễ vật. Khi đến phần cúng, họ phải lên sân khấu biểu diễn cho Tổ xem.
“ Cúng ” chính là động tác biểu diễn chứ không phải cúng món ăn
– Tổ ở đây là Tổ của đào, kép.
CÁC NGHỀ CÙNG THỜ THẦN BẠCH MI
Nguồn gốc lịch sử
– Nghề trộm cắp (theo một số tài liệu dân gian, ít phổ biến hơn)
Lý do cùng Tổ
Tất cả các nghề này đều liên quan đến “ hành nghề trên đường phố ”, biểu diễn cho người khác xem/nghe, và có yếu tố “ xin ” ( xin tiền, xin khán giả vỗ tay ).
KIÊNG KỴ CHO TIỀN NGƯỜI ĂN XIN
Đây là khía cạnh văn hóa tín ngưỡng nghề nghiệp rất đặc trưng của Việt Nam mà ít người biết. Đây là tâm linh nghề nghiệp gắn với niềm tin vào Tổ nghiệp và vận đỏ sân khấu, đặc biệt được những nghệ sĩ cải lương truyền thống (thế hệ xưa) tôn trọng.
Lý do kiêng kỵ:
– Tâm linh: “ Cho tiền là cho lộc ”
– Tiền bạc nghệ sĩ kiếm được khi biểu diễn là “ lộc Tổ ” ban
– Cho tiền trực tiếp (đặc biệt trước giờ diễn) bị xem là đem lộc Tổ đi cho người khác
– Hậu quả có thể là “ mất lộc ”, “ xui ”, “ ế khách ”, “ hát không ra hồn ” hoặc “ không trúng tuồng, không thuộc bài bản ”
Không muốn bị “ rút vía nghề ”
– Một số nghệ sĩ tin rằng có người ăn xin “ mượn vía ”, “ rút vía ” của người khác để cầu tài
– Cho tiền đúng thời điểm nhạy cảm (trước giờ ra sân khấu) là tự làm suy yếu khí nghề, bị “rút vía”, hát không hay.
Thói quen truyền nghề
– Đây là tập quán nghề nghiệp được truyền từ đời này sang đời khác
– Nghệ sĩ lớn tuổi dạy thế hệ sau những điều kiêng kỵ này như cách gìn giữ sự “linh thiêng” của nghề.
Vì sao nghệ sĩ kỵ cho tiền người ăn xin?
Đây là khía cạnh văn hóa tín ngưỡng nghề nghiệp rất đặc trưng của Việt Nam mà ít người biết. Đây là tâm linh nghề nghiệp gắn với niềm tin vào Tổ nghiệp và vận đỏ sân khấu, đặc biệt được những nghệ sĩ cải lương truyền thống (thế hệ xưa) tôn trọng.
Vì :
– Sợ bị rút vía nghề từ người ăn xin.
– Là tập quán truyền nghề từ các bậc tiền bối.
– Là sự tôn trọng đối với nghề và Tổ nghiệp
– Yếu tố “ kỵ ” – sợ “ nghiệp ” của người ăn xin ảnh hưởng đến sự nghiệp.
– Thể hiện sự nhìn nhận: “ Họ cũng có tay nghề, cũng là đồng nghiệp ”
Không phải tất cả nghệ sĩ cải lương hiện đại đều giữ những điều kiêng kỵ này, nhưng trong giới nghệ sĩ gạo cội, cải lương truyền thống hay sân khấu hát bội, đây vẫn được tôn trọng và tránh phạm phải. Cho tiền nghĩa là cho lộc Tổ, và sợ “ mất lộc ”, “ hát không ra hồn ”
Dù không còn phổ biến ở nghệ sĩ hiện đại, giới nghệ sĩ gạo cội vẫn rất kiêng kỵ điều này.
Ngày nay chắc hẳn đã không còn những giai thoại về điều “đạo nghĩa“ thú vị như xưa :
– Vì cùng chung một ông Tổ nhưng ai cũng biết giới nghệ sĩ cải lương hát bộ truyền thống ( thường là nghệ sĩ trong Nam ) không bao giờ bố thí cho ăn xin ( phạm phải điều kiêng, kỵ ) dù họ sẵn sàng làm từ thiện với số tiền đóng góp rất lớn.
– Ăn cướp, ăn trộm không bao giờ chặn ghe cướp của đoàn hát.
– Dân hát bộ thì không được phép mua dâm (nhưng được phép bán dâm).
– và gái mại dâm thì cũng không được lấy tiền của kép hát.
Hồng Nguyên, San Jose


