Dương Viết Điền,  Tin tức

BIỆT LY QUA THI CA VIỆT NAM

Nói đến biệt ly là nói đến xa cách không gặp nhau nữa, là nói đến chia ly mỗi người một ngã. Nhiều khi sau một thời gian sẽ gặp nhau lại, nhưng cũng có thể xa nhau nghìn năm hay vĩnh biệt nghìn đời.

Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, chưa bao giờ ta nghe nói đến cuộc biệt ly nào vui cả. Đã nói đến biệt ly là nói đến xa nhau, xa nhau thường hay nhớ nhau mà nhớ nhau thì lòng luôn luôn buồn vời vợi. Khi thì khắc khoải sầu thương giữa đêm khuya thanh vắng, khi thì nức nở lệ sầu lúc tiễn nhau đi.

Chính sự biệt ly thường đem đến khổ đau cho con người nên các thi nhân Việt Nam đã từng than mây khóc gió mỗi khi gặp sự ly biệt. Biết rằng khổ đau là điều cay đắng, đau thương là những quằn quại trong tâm hồn. Thế mà nhiều thi nhân lại thích đắng cay và quằn quại để dệt nên những dòng thơ ly biệt bất hủ ngàn năm.

Chính những quằn quại và cay đắng đó đã làm cho nhiều thi nhân thích thú nên mới có bài “Thú đau thương” xuất hiện trong thi ca Việt Nam. Nếu ngày xưa ở bên xứ sương mù Anh Quốc, thi sĩ Lord Byron đã rên rỉ về sự biệt ly qua bài “When we two parted”:

“When we two parted

In silence and tears

Half broken hearted

To sever for years”.

mà một thi sĩ nào đó đã dịch là:

“Giờ phút chia ly đã điểm rồi

Nghẹn ngào lặng nuốt lệ thầm rơi

Mang mang nửa cõi lòng tan tác

Ly biệt xui chi tủi trọn đời”.

Thì tại Việt Nam, các thi nhân cũng rên rỉ về sự ly biệt còn ai oán lâm ly hơn nhiều. Sự biệt ly ta thấy nghẹn ngào nhất là sự ly biệt của người vợ tiễn chồng ra ngoài mặt trận vào “thưở trời đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên” trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn. Không ai mà không rơi lệ trước cảnh người vợ đưa tiễn chồng ra ngoài mặt trận vì biết rằng ngày về của chồng chỉ độ đào bông và lắm lúc cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Chính vì xưa nay mấy khi đi đánh giặc mà trở lại nhà, nên người vợ cảm thấy quá khổ đau như có linh tính là sẽ vĩnh biệt chồng ngàn năm. Thảo nào mỗi bước đi là một bước sầu tê tái, tâm hồn như choáng váng, lý trí không điều khiển được con tim khiến người vợ quá xúc động nên sắp xỉu phải vin vào áo chàng:

“Ngoài đầu cầu nước trong như lọc

Đường bên cầu cỏ mọc còn non

Đưa chàng lòng dặc dặc buồn

Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền

Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa

Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên

Nhủ rồi tay lại trao liền

Bước đi một bước lại vin áo chàng”.

                               (Đặng Trần Côn)

Thật đúng là “Ôi! cảnh biệt ly sao mà buồn vậy”. Chàng ra đi không hẹn ngày về khiến nàng đêm đêm trằn trọc bên chiếc gối, nhìn trăng không tài nào ngủ được vì cứ miên man suy nghĩ hoài về “Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vừng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”.

                                          (Nguyễn Du)

Sự biệt ly giữa người vợ và người chồng khi tiễn chồng ra ngoài mặt trận là sự biệt ly khổ đau nhất trong thi ca Việt Nam vì người về chiếc bóng năm canh, vó câu muôn dặm sơn khê mịt mù. Để rồi từng đêm, từng đêm, người vợ hiền thao thức nghĩ về người chồng và biết đâu một ngàn năm, một vạn năm không bao giờ thấy chồng trở lại quê nhà nữa.

Sau sự biệt ly của người vợ tiễn chồng ra mặt trận là sự ly biệt khổ đau của đôi tình nhân vừa mới yêu nhau đành phải tạm thời xa nhau vì hoàn cảnh.

Ở đất khách quê người bên dòng sông Seine tuyệt đẹp, chàng mới yêu nàng chưa được bao lâu thì nàng lại muốn về thăm quê mẹ, khiến chàng cảm thấy lòng buồn vời vợi đến nỗi mùa đông ở Paris suốt đời là cả một cuộc biệt ly, khi chàng tiễn người yêu về thăm quê mẹ:

“Lên xe tiễn em đi

Chưa bao giờ buồn thế

Trời mùa đông Paris

Suốt đời làm chia ly

Tiễn em về xứ mẹ

Anh nói bằng tiếng hôn

Không còn gì lâu hơn

Một trăm ngày xa cách

Ga Lyon đèn vàng

Tuyết buông cuồng mênh mang

Cầm tay em muốn khóc

Nói chi cũng muộn màng”.

                    (Cung Trầm Tưởng)

Đây là sự biệt ly của đôi tình nhân tại ga xe lửa. Nhưng nhiều người cũng tại ga xe lửa, không phải họ đến để tiễn biệt người yêu, mà để xem sự biệt ly của kẻ đi người ở. Ở đây không phải nơi đất khách quê người mà ngay tại nơi quê nhà yêu dấu, chàng thường đón những chuyến tàu đi đến những ga xe lửa để đứng bơ vơ xem tiễn biệt, rồi tâm hồn cảm thấy ngẩn ngơ và nhớ thương lan xa mấy dặm trường:

“Những ngày nghỉ học tôi thường tới

Đón chuyến tàu đi đến những ga

Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt

Lòng buồn đau xót nỗi chia xa

… …

Người về không nói bước vương vương

Thương nhớ lan xa mấy dặm trường

Lẽo đẽo tôi về theo bước họ

Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương”.

                                                (Tế Hanh)

Tuy nhiên, hầu hết những đôi tình nhân đến ga xe lửa thường là để tiễn nhau đi và luôn luôn ước mơ sẽ gặp nhau lại trong một thời gian rất gần. Nhưng nếu lúc biệt ly, chàng biết chắc chắn rằng sẽ không bao giờ gặp lại người yêu nữa, nên chàng khuyên nàng đừng quay lại nhìn chàng nữa:

“Anh biết em đi chẳng trở về

Dặm ngàn liễu khuất với sương che

Em đừng quay lại nhìn anh nữa

Anh biết em đi chẳng trở về”.

                                      (Thái Can)

Nói đến ly biệt là nói đến buồn bã, là nói ảo não sầu thương. Thế mà lúc biệt ly lại gặp mưa rơi gió thổi thì cảnh ly biệt càng thêm đau khổ nghẹn ngào.

Nếu cổ thi có câu: “Hoàng điệp hoàng hoa cổ thành lộ. Thu phong thu vũ biệt ly nhân”. “Hoa vàng lá úa thành xưa. Nẻo đường ly biệt gió đưa tiễn người”, thì ngày nay, các thi nhân cũng đưa mây gió vào thơ để làm cho sự ly biệt thêm não nùng; để rồi “nước” và “trời” cả hai đều đượm màu hương sắc của sự biệt ly:

“Đương lúc hoàng hôn xuống

Là giờ viễn khách đi

Nước đượm màu ly biệt

Trời vương hương biệt ly

Mây lạc hình xa xôi

Gió than niềm trách móc

Mây ôi và gió ôi

Chớ nên làm họ khóc

Buổi chiều ra cửa sổ

Bóng chụp cả trời tôi

Ôm mặt khóc rưng rức

Ra đi là hết rồi”.

                  (Xuân Diệu)

Thật thế, nhiều khi “ra đi là hết rồi”, biệt ly lắm lúc là ngàn đời vĩnh biệt. Sự ly biệt làm cho lòng người tê tái vì kẻ ở người đi nên nhiều lúc cả hai đều khóc nức nở như mưa rơi:

“Thùng thùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”.

Chính sự lưu luyến càng làm thêm đau khổ cho người ra đi và cũng tạo nên những khổ đau quằn quại cho người ở lại. Bởi vì khi nghĩ đến tương lai, ai nấy đều cảm thấy nhớ nhung đau buồn, cô đơn và hiu quạnh. Vì thế, giây phút bịn rịn lúc chia tay là phút giây gần nhau nhất mà kẻ ở người đi không ai muốn rời nhau, không muốn nghĩ đến ngày mai vì “ngày mai chàng ruổi xa, mặc kẻ nước mắt sa”. Nhà thơ Phan Văn Dật đã cho ta thấy rõ những sự khổ đau quằn quại đó lúc chia tay:

“Đừng nghĩ đến ngày mai

Hôm nay biết hôm nay

Thiếp đây mà chàng đó

Chừng ấy là đủ rồi

Ngày mai chàng ruổi xa

Mặc kẻ nước mắt sa

Yên ngựa rong đường thẳng

Thức dậy lúc canh gà”.

                             (Tiễn Đưa)

Vì biệt ly là u buồn, vì xa nhau thường nhung nhớ rồi đưa đến sự khổ đau triền miên qua những năm tháng dài lê thê trong hiu quạnh. Vì thế mà các thi nhân cũng như các nhạc sĩ đã dệt những tình khúc biệt ly thật lâm ly bi đát như “nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười” hay “Biệt ly, nhớ nhung từ đây” hoặc là “Bến cũ, ngày xưa, người đi vấn vương biệt ly. Gió cuốn, muôn phương, về đây. Bến ấy, người về hay chăng”.

Chính vì sự biệt ly là đau buồn chua xót, là thê thảm não nùng. Chính vì sự biệt ly là khổ đau để rồi nức nở quằn quại bên nhau khiến nhiều người không dám nhắc lại sự ly biệt, vì nếu khơi lại chuyện lòng xa nhau ấy sẽ thêm buồn đau cho cuộc đời.

Ta hãy nghe nhà thơ T.T. KH diễn tả ý nghĩ ấy qua những vần thơ bảy chữ thật buồn:

“Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly

Càng khơi càng thấy lụy từng khi

Trách ai mang cánh ‘tigôn’ ấy

Mà viết tình em được ích gì”.

Tóm lại, qua thi ca Việt Nam, ta thấy các thi nhân đã sáng tác rất nhiều bài thơ liên quan đến sự biệt ly và chính sự ly biệt đã làm cho các nhà thơ đau buồn rồi xúc động mà dệt nên những dòng thơ lâm ly não nuột nghìn năm.

Dương Viết Điền