Hoàng Đạo
Hoàng Đạo, tên thật là Nguyễn Tường Long, là em ruột nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, quê quán Quảng Nam, sinh năm 1906 tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, trước Thạch Lam 5 năm, sau Nhất Linh 1 năm, sau Khái Hưng 10 năm.
Thời bé học tiểu học ở Cẩm Giàng, sau lên Hà Nội học ban trung học, chỉ 2 năm ông đỗ bằng cao tiểu, rồi 2 năm kế đó đậu tú tài vừa mới 17 tuổi. Ông quay ra tìm việc làm, thi đỗ tham tá kho bạc, vừa đi làm vừa đọc sách, vừa học Hán văn, vừa viết văn. Năm 1930, Hoàng Đạo thi vào học Trường Luật Hà Nội. Sau khi đỗ cử nhân Luật khoa, ông được bổ làm tham tá lục sự ở tòa án Đà Nẵng, rồi sau đổi ra Hà Nội, nhưng vẫn tích cực hoạt động cho nghề văn.
Từ năm 1932, ông cộng tác cùng anh là Nhất Linh, với các ông Khái Hưng, Thế Lữ, Tú Mỡ viết báo Phong Hóa, lấy tên là Tứ Ly. Năm 1935, nhóm này lại ra thêm một tờ báo thứ hai nữa là tờ Ngày Nay, chủ trương tiến bộ và mới mẻ hơn. Trong 2 tờ báo này, Hoàng Đạo vẫn là cây bút sắc sảo già dặn, chủ trì những mục bài đã kích phong kiến và thực dân, đã gây nên xúc động mạnh mẽ trong quốc dân, nhất là giới thanh niên và trí thức.
Năm 1937, tờ Phong Hóa bị đình bản chỉ vì một bài phóng sự đặc sắc của Hoàng Đạo về Hoàng Trọng Phu. Từ 1937 trở đi, Hoàng Đạo lần lượt cho ra đời những bài về xã hội, kinh tế, chính trị rất có giá trị, tính cách phản phong (phản phong kiến), phản thực (thực dân) cao : Trước Vành Móng Ngựa, Mười Điều Tâm Niệm, Bùn Lầy Nước Đọng, Vấn Đề Thuộc Địa, Vấn Đề Cần Laọ Ngoài ra, trong mục “Người và Việc” hằng tuần, Hoàng Đạo luôn luôn bênh vực cho người dân quê, mạnh dạng tố cáo bọn tham quan ô lạị. Ông cũng là tác giả một cuốn văn đả kích Bảo Đại và Nam triều; ông thực xứng đáng là một chiến sĩ tiền phong, làm tên tuổi văn sĩ một thời thành danh, làm vẻ vang cho ông, và cho cả nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1939, Hoàng Đạo cho đăng tiểu thuyết Con Đường Sáng, là một truyện dài ông đã cùng viết chung với Nhất Linh.
Năm 1940, Hoàng Đạo, cũng như số đông các nhà văn nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tích cực hoạt động trong đảng Đại Việt Dân Chính của Nhất Linh. Sự việc bại lộ, ông bị Mật thám Pháp bắt đưa đi an trí ở Vụ Bản, Hòa Bình, cho đến năm 1943 thì tha về Hà Nộị
Năm 1945, Hoàng Đạo giúp em là Nguyễn Tường Bách khôi phục tờ báo Ngày Nay, và đeo đuổi công cuộc vận động cứu quốc. Tháng 6/1945, ông đi Việt Trì rồi lên Lào Cay, được Võ Nguyên Giáp mời gia nhập Tổng Bộ Việt Minh. Nhưng vì chính kiến bất đồng, ông bèn từ khước. Sau này, khi Nguyễn Tường Tam giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên Hiệp kháng chiến ngày 14/2/1946, thì Hoàng Đạo bấy giờ thỏa thuận tham gia Hội Liên Việt với tư cách ủy viên, đại diện cho VN Quốc Dân Đảng.
Nhưng từ sau Hội nghị Đà Lạt ngày 17/4/46 thất bại, trong khi Nguyễn Tường Tam âm thầm rút lui ra khỏi chính phủ, thì Hoàng Đạo cũng từ giã Hội Liên Việt giả hiệu mà bôn ba sang hoạt động bên Trung Hoa. Tháng 8/1948, Hoàng Đạo chẳng may lại bị đứt mạch máu chết trên chuyến xe lửa Hongkong – Quảng Châu, khi xe ngang qua trấn Thạch Long, hưởng dương 42 tuổi.
Sự Nghiệp Văn Hóa (1)
Năm 1932, sau khi đã hoàn toàn dẹp xong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng, thống trị Pháp mở một cuộc thuyên chuyển lớn trong hàng ngũ viên chức bổn xứ nhằm gián đoạn liên lạc giữa những người trí thức Việt Nam yêu nước. Nhưng đối với Nguyễn Tường Long, việc đổi từ Sàigòn ra Hà Nội lại là một dịp may để ông cùng với anh em hoạt động. Nghiên cứu những kinh nghiệm mang lại do cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học và tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông cùng với anh ruột là ông Nguyễn Tường Tam và một người bạn là ông Trần Khánh Giư tức Khái Hưng tự vạch ra một con đường chiến đấu trường kỳ đi tới giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Đó là con đường huấn luyện quần chúng bằng báo chí. Năm 1933 bộ ba này nhận lại một tờ báo sắp chết là tờ Phong Hóa của một người bạn là ông Phạm Hữu Ninh. Bằng một kỹ thuật học được của báo chí tiến bộ Âu Châu, bằng một lối hành văn mới và nhất là bằng giọng hài hước, họ đã làm cho tờ Phong Hóa sống lại và truyền bá rất mau. Chủ trương của bộ ba này lúc đầu là dùng nghệ thuật, văn chương để thu hút quần chúng, dùng cái cười làm khí giới để chen vào cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng “theo mới” và “tồn cổ” mà họ đứng hẳn vào khuynh hướng triệt để theo mới. Khi đã thu hút được quần chúng rồi, họ bắt đầu chuyển sang việc truyền bá những tư tưởng cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội nhịp theo trào lưu tiến hóa của thế giới. Thanh thế của tờ báo càng lớn thì những người có tâm huyết có tài năng tìm đến hợp tác mỗi ngày một đông, và nổi bật nhất là Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ tức Nguyễn Thứ Lễ…
Trong báo Phong Hóa, Nguyễn Tường Long lấy bút hiệu là Tứ Ly. Sở dĩ ông chọn bút hiệu này là vì muốn đả phá thói mê tín bốc phệ, ông đã chọn giờ xấu nhất trong ngày là giờ Tứ Ly làm tên hiệu. Thời kỳ này Tứ Ly rất ít khi viết những bài nghị luận chính trị, kinh tế hoặc xã hội mà chỉ chuyên về mặt đả kích. Bằng một lối văn hài hước khi thì nhẹ nhàng thâm thúy kiểu nhà nho, khi thì sâu cay độc địa kiểu những cây bút đả kích Tây phương, Tứ Ly đả kích tất cả những người và những việc mà ông cho là tiêu cực, là hủ bại, là cản đường tiến của xã hội. Bất cứ một chuyện nhỏ hay một chuyện lớn, ảnh hưởng quan trọng hay thoảng qua, tất cả đều có thể là những đầu đề cho Tứ Ly đả kích để đưa chủ trương “theo mới” những tư tưởng tiến bộ của mình ra: một vụ kiện tranh ngôi thứ, một biện pháp hành chính mới của thống trị Pháp, một thay đổi chức vị trong triều đình Huế, một viên quan bị tố cáo ăn hối lộ, một câu văn viết không rõ ý của một tờ báo khác, một tư tưởng nhai lại, thậm chí một nét mặt, một kiểu phục sức như cái mũi đỏ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, cái búi tóc củ hành của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố… tất cả đều bị Tứ Ly đưa lên mặt báo, bóc trần, mổ xẻ để đả kích bằng cả lý luận lẫn giọng cười.
Báo Phong Hóa càng ngày càng có ảnh hưởng càng lớn, Mật thám Pháp dò biết Tứ Ly là linh hồn của cơ quan này nên đã ra lịnh đổi viên tham tá lục sự Nguyễn Tường Long từ Hà Nội vào Đà Nẵng nhằm tách rời ông khỏi bộ tham mưu. Nhưng trở lại miền Trung là Tứ Ly lại có thêm một dịp để đả kích chế độ cai trị cực kỳ khắc nghiệt của thực dân với những tay sai đắc lực của chúng trong hàng ngũ quan lại Nam Triều. Vì thế, thực dân Pháp không còn cách nào khác là hạ lệnh đóng cửa tuần báo Phong Hóa. Lúc đó vào năm 1937.
Nhưng báo Phong Hóa chết, nhóm của ông có sẵn nhà Xuất Bản Đời Nay để làm cầu liên lạc với người đọc qua những tác phẩm văn nghệ đã đăng trong báo đó. Thời kỳ này Tứ Ly không có một văn phẩm nào để xuất bản. Ít lâu sau người anh thứ hai của ông là Nguyễn Tường Cẩm xin được ra một tờ báo khác là tuần báo Ngày Nay. Trong 18 số đầu, tờ Ngày Nay chuyên về hình ảnh và phóng sự với mục đích tránh sự rình rập của thực dân Pháp. Từ số 19, tờ Ngày Nay bắt đầu đổi thể tài, chuyên về văn nghệ và Tứ Ly đổi tên là Hoàng Đạo để thỉnh thoảng viết một vài bài đả kích nhẹ nhàng. Ngược lại với bút hiệu chọn lần trước, với tờ Ngày Nay, Nguyễn Tường Long lấy giờ Hoàng Đạo là giờ tốt nhất trong ngày để thay tên Tứ Ly. Chính trong thời gian bắt đầu xây dựng tờ Ngày Nay, tác giả đã ghi chép một số những vụ xử án điển hình tại tòa Tiểu hình Hà Nội trong khi ông ngồi ghế lục sự tại tòa này và đăng trong mục “TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA”. Dụng ý của ông khi viết mục này là vẽ lại cảnh sống cơ cực, trình độ thấp kém của người dân Việt Nam dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp qua sự xét định của tòa án của Pháp, theo luật lệ của Pháp, thứ luật lệ mà người Pháp vẫn tự hào là nhất thế giới.
Qua nhiều lần thay đổi thể tài, phần nghị luận chính trị /kinh tế/ xã hội được tăng cường tùy theo tình hình chính trị và sự canh chừng của thực dân lúc đó; phần văn nghệ dần dần được giới hạn và đưa từ trang đầu vào trang giữa rồi chuyển về những trang cuối của tờ báo. Cây bút nghị luận Hoàng Đạo càng ngày viết càng nhiều và không ngừng đưa ra những tư tưởng tiến bộ, giới thiệu những khuynh hướng chính trị và cách mạng trên thế giới, khảo cứu thực trạng của xã hội Việt-Nam để dẫn dắt người đọc đi tới con đường cách mạng. Ông đã viết từng loạt bài nối tiếp từ Mười Điều Tâm Niệm mà ông coi như kim chỉ nam cho thanh niên thời ấy, đến Công Dân Giáo Dục để giới thiệu các chế độ chính trị, khuynh hướng dân chủ ở nước ngoài, cùng các chủ nghĩa chính trị, các đảng phái, từ chủ nghĩa vô chính phủ, đến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Cộng-sản. Các vấn đề xã hội trong nước được ông khảo xét một cách minh bạch từ đời sống nông dân sau lũy tre xanh đến những cảnh vật lộn cực khổ của lao động thợ thuyền ở thành thị với những loạt bài “Bùn Lầy Nước Đọng” và “Vấn Đề Cần Lao”. Trong thời kỳ Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, ông đã có hoàn cảnh lên án cực kỳ nghiêm khắc chủ nghĩa thực dân xâm chiếm thuộc địa với loạt bài khảo sát nhan đề “Vấn Đề Thuộc Địa”.
Trong báo Ngày Nay ông cũng có viết một truyện dài nhan đề Con Đường Sáng và một số truyện ngắn, nhưng ông chưa tìm ra được một lối viết truyện thích hợp. Sau này ông có để riêng một thời gian để nghiên cứu kỹ thuật về tiểu thuyết và ông đã xây dựng một số tác phẩm nhưng đều phải bỏ dở vì những hoạt động cách mạng.
Có thể nói rằng sự nghiệp văn chương của Hoàng Đạo ngừng lại cùng với tuần báo Ngày Nay bị đóng cửa năm 1940 sau khi nước Pháp bị Đức chiếm đóng. Và từ đó ông chuyên về các hoạt động cách mạng. Cuối năm 1940 vì tổ chức đảng Đại Việt Dân Chính chủ trương xây dựng lực lượng, lợi dụng các biến cố quốc tế để đánh đuổi thực dân Pháp, lật đổ triều đình Huế xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ; nên ông cùng các đồng chí bị Pháp bắt giam và đưa đi đày tại trại an trí Vụ Bản thuộc châu Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình. Năm 1943 thực dân Pháp giải ông về quản thúc tại Hà Nội. Tháng 6 năm 1946 sau khi lực lượng cách mạng dân tộc bị kiệt quệ trong một cuộc nội chiến chống Việt Minh cộng sản, ông cùng các chiến sĩ Quốc Dân rút sang Trung Quốc. Trú ở Côn Minh rồi sang Quảng Châu, thời gian này ông tập trung nghiên cứu tìm một chính thể và mô hình xã hội thích hợp để áp dụng tại Việt Nam. Ông qua đời đột ngột trên chuyến xe lửa Hương Cảng – Quảng Châu ngày 22 /7/1948, thi hài an táng tại trấn Thạch Long. Sau này dưới thời kỳ cải cách ruộng đất Trung Quốc giải tỏa nghĩa trang làm khu dân sinh và mộ phần của ông bị san bằng không còn dấu vết.
(1) “Hoàng Đạo – Tiểu sử và sự nghiệp văn hóa” của Đặng Thơ Thơ.
Trích từ
“Tự Lực Văn Đoàn: Hoàng Đạo”
o0o
HOÀNG ĐẠO VÀ MỘT VẬN ĐỘNG LỊCH SỬ
Dương Nghiễm Mậu
Bây giờ thì tôi không còn nhớ rõ những bài tập đọc, học thuộc lòng Trong Thư Viện, Dàn Đậu Ván, trích văn của Hoàng Đạo tôi đã gặp là những năm học lớp Nhất trường Hàng Than, hay trong những năm đầu trung học ở Chu Văn An. Nhưng có điều tôi còn nhớ rõ nội dung những bài đó, tôi cũng nhớ, dù mơ hồ, những lời giảng về Hoàng Đạo và sơ lược nội dung những bài tập đọc và học thuộc lòng đó: những ý nghĩa của một thanh niên truỵ lạc khi bước vào trong thư viện, bên những sách vở đó chàng nhìn lại đời sống của mình trong qúa khứ và nhìn vào một tương lai. Nội dung đó cũng còn lại trong bài một buổi sáng đứng dưới dàn đậu ván, nhìn những cành đậu, lá đậu ở bên một cô con gái với những ý nghĩ lành mạnh… Khác với nội dung những bài tập đọc trích văn Thanh Tịnh về ngày khai trường, hay cảnh bất hạnh của Vũ Trọng Phụng về một ngôi sao xấu, cảnh chùa Long Giáng trong buổi hoàng hôn trích văn của Khái Hưng, những bài tập đọc trích văn Hoàng Đạo các vị thầy học của tôi đã mang đến cho chúng tôi những nội dung khác hẳn. Cũng từ đó, qua những lời giảng chúng tôi được dạy dỗ về những gì khác hơn, đó là tránh khỏi đời sống vô ích truỵ lạc mà phải sống có ích cho xã hội, phải sống có lý tưởng. Cũng từ đó trong những ngày tháng đầu đời, làm quen với những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn chúng tôi mơ tưởng về đời sống của Duy trong Con Đường Ánh Sáng, của Dũng trong Đôi Bạn, và vui thích với những phiêu lưu mạo hiểm của những chú dế mèn mà Tô Hoài vẽ ra bên những nhân vật Đoan Hùng, hay những Lý Quỳ, Võ Tùng, Hàn Tín, Hạng Bá Vương trong những pho truyện Tầu…Có điều những gì đã đến trong những ngày thơ ấu đã ở lại trong tôi những kỷ niệm, ấn tượng khó phai. Từ đó đến nay, rời khỏi ghế nhà trường, bước chân vào đời sống, với mười mấy năm phải sống với những biến cố rời đổi không ngừng của xã hội Việt Nam, với bổn phận phải làm, với hoàn cảnh một xứ sở những kêu gào không ngừng với tiếng súng, tiếng bom, đời sống những thay đen đổi trắng, lật lọng, lừa gạt, những điều trong sách vở và thực tế ngoài đời sống đã làm cho tôi và bao nhiêu người khác phải ngỡ ngàng…Với những điều kiện đó, ở sau hàng ba mươi năm ngăn cách bởi bao nhiêu biến đổi chồng chất, với hoàn cảnh như hiện nay đọc lại những tác phẩm của Hoàng Đạo, nhìn lại cuộc đời của ông, chúng ta có thể rút ra được một bài học nào, một kinh nghiệm nào?
Với năm tác phẩm của Hoàng Đạo được in thành sách: Mười Điều Tâm Niệm, Bùn Lầy Nước Đọng, Trước Vành Móng Ngựa, Tiếng Đàn, Con Đường Sáng. Nghĩa là từ những bài báo ngắn được in thành sách tới tiểu thuyết của Hoàng Đạo, điều trước nhất đưa đến cho tôi là trong đó, một phần nào tôi nhìn thấy khung cảnh xã hội Việt Nam trong thời nô lệ thực dân Pháp, nhất là xã hội Việt Nam miền Bắc. Thực trạng xã hội Việt Nam trong thời nô lệ đã được ghi lại trong hầu hết những tác phẩm thời trước 1945, dưới khía cạnh này hay khía cạnh khác do nhiều tác giả của những khuynh hướng khác nhau để lại. Từ Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Lạp, Tô Hoài, tới Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Đoàn Phú Tứ… Với hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, những phản ánh ấy nếu được liên kết với nhau chúng ta có thể có được một cái nhìn tổng quát nhưng chính xác về một thời đại, sự kiện đó cho thấy văn chương dù thế nào đi nữa cũng không thoát khỏi hoàn cảnh xã hội mà tác giả nó sống và tác phẩm được hình thành.
Ngay từ khởi đầu, qua những tác phẩm đã được đọc, tôi nghĩ Hoàng Đạo trong thực tế là lý thuyết gia của Tự lực văn đoàn, một người lãnh đạo về mặt tư tưởng của nhóm. Trách nhiệm của ông ở trong nhóm như vậy hết sức lớn lao, và chủ quan tôi nghĩ chính cái chết của ông sau này đã khiến cho những người như Thế Lữ, Tú Mỡ, Nhất Linh mỗi người phải đi một đường, và từ đó đánh dấu một giai đoạn mới trong đời sống và sự nghiệp của họ.
Khởi đầu Nhất Linh, Hoàng Đạo và các bạn ông làm báo Phong Hoá, công việc làm báo đó không phải xuất phát từ một yếu tố độc nhất là làm văn chương mà nó xuất phát từ những tư tưởng xã hội, làm báo để nói lên một cái gì, để mang lại một cái gì, họ làm báo để tranh đấu cho lý tưởng của họ. Chủ trương của họ có thể tóm tắt phần nào trong câu của Nhất Linh: “Trước vui thích, sau ích lợi.” Ngày nay đọc lại sáu chữ này nói về chủ trương của một tờ báo chắc có người sẽ cho là họ có một quan niệm không có vẻ văn nghệ gì cả, vui thích và ích lợi không còn, không là mục đích của nhiều người viết văn hiện nay. Chủ trương của một tờ báo hiện nay người ta phải nói tới tranh đấu, tới làm mới, vì cái này cái khác. Tôi nghĩ tất nhiên cái mục đích của Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy, nhưng trong hoàn cảnh thời đó không cho phép, họ mượn hình thức bề ngoài không có vẻ gì quan trọng để đạt tới mục đích của họ, và thực tế đã chứng minh điều đó. Từ khởi điểm đó, Hoàng Đạo đã nhìn thấy gì trong xã hội Việt Nam. Hoàn cảnh của một xã hội nô lệ, một đất nước chia làm ba miền với những chế độ cai trị khác nhau.
Trước hết bằng chính kinh nghiệm bản thân trong khi ngồi ghế tham tá lục sự tại các toà án từ năm 1929, nên ngay khi báo Phong Hoá ra đời, Hoàng Đạo đã viết về những gì ông đã thấy trước vành móng ngựa, đó cũng có thể coi như một sân khấu hẹp về xã hội Việt Nam. Không bằng những trình bày dài dòng, bằng những nét chấm phá, nhanh và thật, Hoàng Đạo đã cho ta thấy những nét điển hình của một sinh hoạt, từ đó nói lên tình cảnh thất học, nghèo đói, hủ lậu, những tệ đoan của xã hội ta. Cũng từ đó nói lên sự thật của nền cai trị đầy đàn áp, bất công của thực dân Pháp. Thực dân Pháp thường tuyên bố nhiệm vụ của họ tại các nước thuộc địa là khai hoá cho dân chúng tại các nước chậm tiến lạc hậu. Họ đã cho xây dựng một số trường sở, có ngành học chính với một chương trình giáo dục mới, do đó bãi bỏ thi cử của triều đình. Sự thật nền giáo dục họ thiết lập không khác gì hơn chỉ nhằm đào tạo một số cán bộ cho guồng máy cai trị, đa số nhân dân đều thất học, trong khi đó họ cấm việc mở các lớp học tại nông thôn cho các nhà nho từ trước kia vẫn hoạt động (…).
Phát xuất từ một tinh thần lạc quan, ôn hoà, tin người, ngay thẳng, không những chỉ với đồng bào mình mà còn ngay với cả những kẻ cai trị mình, tất cả những nhà trí thức tiến bộ của ta thời đó đều khởi đầu bằng những việc làm ôn hoà, đòi hỏi những cải cách thích đáng. Không riêng Hoàng Đạo tin ở người Pháp, mà ngay cả những người khác, những người hoạt động chính trị như Phan Tây Hồ, Nguyễn Thái Học…cũng đã hành động như thế, những lá thư thỉnh nguyện, những bài báo hô hào cải cách đều hàm chứa thái độ ôn hoà khởi đầu này.
Bằng phương tiện báo chí, sách vở, Hoàng Đạo và các bạn ông đã mang cả nhiệt tâm của mình ra tranh đấu, không phải chỉ trích nền cai trị, họ còn chỉ trích chính đời sống của dân chúng, vạch ra những tệ trạng, những gì họ cho là hư nát phải cải cách, phải phá bỏ, trong đó bao hàm cả sự giáo dục dân chúng. Như vậy, tất nhiên họ phải dựa trên một cơ sở lý luận, trình bày cho dân chúng thấy con đường phải đi, nhất là đối với thanh niên, hay nói khác đi vai trò của người trí thức mới trong việc hướng dẫn một xã hội.
Rõ ràng, trên phương diện tổng quát, Hoàng Đạo và các bạn ông chống lại ý thức hệ Nho giáo, chống lại nền tảng xã hội cũ và đòi một cuộc Âu hoá triệt để không phải chỉ trên diện tư tưởng, nếp sống mà còn ngay cả phương diện hình thức từ cái ăn cái mặc trở đi. Theo mới, hoàn toàn theo mới không chút do dự. Đó là một trong những khẩu hiện mà Hoàng Đạo đã đưa ra. Theo mới với Hoàng Đạo tức là Âu hoá. Hoàn toàn theo mới, nhưng theo mới như thế nào, đó là ý muốn của tập sách mỏng Mười điều tâm niệm. Ngay ở trang đầu tập sách đã có một lời kêu gọi, có thể coi đó như một bản hiệu triệu gửi cho những người trẻ trên con đường mới: “Hỡi các bạn trẻ!(…)
Khởi đầu từ những lên tiếng với một tinh thần lạc quan mới, tin người khác như tin mình, tin ở cái mới, cái tiến bộ, tự nhận lấy trách nhiệm của người trí thức trong xã hội Âu hoá, ở cương vị một người làm báo, Hoàng Đạo và các bạn ông trước hết nhìn mặt xã hội mình sống, lên tiếng về xã hội đó và đòi hỏi một cuộc cải lương trong xã hội, đỏi hỏi một cuộc cách mạng ôn hoà. Từ những quan điểm đó Hoàng Đạo và các bạn ông tích cực hoạt động trên hai mặt chính: tiếp tục dùng báo chí, văn chương truyền đạt những tư tưởng của mình, đưa ra những mẫu người mới cho một xã hội, cùng đó là tiến tới những tổ chức có hoạt động xã hội một cách cụ thể; phong trào Ánh Sáng. Đi từ công việc làm báo, viết văn tiến tới những hoạt động xã hội cụ thể và tích cực, với con đường ấy tất nhiên họ phải đi tới nữa, họ phải bước tới hành động cách mạng. Bởi vì họ thấy rõ muốn đổi mới, muốn tiến bộ, muốn có một đời sống mới, hành phúc đến với mọi người không thể chỉ kêu gọi không, kêu gọi không không thể đạt được kết quả, những công việc xã hội cũng chẳng thu đoạt được bao nhiêu, muốn có đời sống mới, xã hội mới như họ nghĩ thì phải đoạt lấy quyền chính trị, và chỉ có thể làm đổi mới xã hội khi mình chủ động giành được quyền làm chủ nước mình. Như thế công việc của họ phải là: giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Đó không phải là lựa chọn của riêng Hoàng Đạo hay các bạn ông, mà là lựa chọn của hầu hết những người tâm huyết, tiến bộ, những người không muốn sống trong một xã hội tối tăm, đứng im trong mọi xã hội ở trong mọi thời đại…
Sau cùng Dũng đã từ bỏ đời sống sung sướng trong nhung lụa của mình, từ bỏ cả người mình yêu dấu để lên đường hành động. Khác với Dũng của Nhất Linh, Duy của Hoàng Đạo trong Con Đường Sáng cũng từ bỏ, cũng lên đường. Nhưng không phải từ bỏ và lên đường như Dũng, Duy từ bỏ cuộc đời truỵ lạc, vô ích, bi quan, cuộc đời mà có lúc đã đưa Duy tới gần cái chết trong một sự lựa chọn tuyệt vọng. Duy lên đường, nhưng đó không phải là con đường bôn ba nơi hải ngoai, lên đường tranh đấu cho cách mạng như Dũng, mà Duy lên đường trở về với đồng ruộng, nông dân, trở về với Thơ, người con gái đáng yêu trong lũy tre xanh, với mong ước làm cho đời sống của mình có ý nghĩa, có hạnh phúc cùng với đời sống hạnh phúc của những người khác (…)
Qua những tác phẩm của Hoàng Đạo cũng như của các bạn ông, rõ ràng họ đã dùng văn chương cho một mục đích, tiểu thuyết nhằm trình bày, nói lên một cái gì, tác phẩm của họ gắn liền với xã hội với đời sống. Văn chương trở thành một khí giới và tất nhiên Hoàng Đaọ chống lại cái tinh thần ủ ê sầu muộn trong văn chương. Nhưng ông đã không chỉ bằng những lên tiếng đả kích, điều ấy quá dễ, mà ông và các bạn vừa lên tiếng vừa làm việc. Chống không không bao giờ đủ mà phải đưa ra những tác phẩm mà chính mình cho là lành mạnh, cần thiết với quan niệm mà chính mình cho là tiến bộ.
Từ trước đến nay nhiều nhà phê bình thường chỉ trích, hoặc ít ra không đồng ý với thái độ nhìn xuống của những người trong Tự lực văn đoàn, trong đó có Hoàng Đạo. Theo những tài liệu còn lại chúng ta có thể thấy ngay trong thời hoạt động những chủ trương cùng làm việc của nhóm Tự lực cũng đã từng bị chỉ trích trong đó cũng có phần nào đúng. Như có người cho rằng nhóm Tự lực đã nhìn sai Nho giáo, chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của nó, ngày trong việc bài cổ tục họ cũng trở thành quá khích, có người còn cho rằng nhạo báng xã hội bằng những nhân vật Lý Toét và Xã Xệ là miệt thị nông dân, là mắc mưu thực dân… Tất nhiên những phong trào, nhất là với công việc của những người ở một giai đoạn nào đó, nếu có những việc làm quá độ cần thiết để chống lại một quá độ khác, như lối văn quá độ của Hoàng Tích Chu là để chống lại với lối văn cổ rườm rà, dài dòng và đầy chữ Hán. Nhưng thái độ của những người cấp tiến nếu quá độ là nhiệt thành, hăng hái. Ngay những nhầm lẫn có khi cũng đưa đến những cái tốt khác: làm cho người khác phát huy cái tốt, cái chưa xuất hiện của những mục tiêu chỉ trích. Tại sao không công nhận rằng: chính những chỉ trích của Tự lực văn đoàn đã khiến cho những nhà Nho phát huy cái hay của Nho giáo, những cổ tục nào đó cần phải lưu giữ, nếp sống nào đó cần phải duy trì…? Ở đây tôi không nói những công lao lớn mà Hoàng Đạo và các bạn ông đã làm được đối với xã hội cũng như văn học, bởi nó hiển nhiên hết sức, tôi chỉ muốn nhân nói về ông rút ra những kết luận nào đó cho chính mình.
Đọc lại Hoàng Đạo, điều mà tôi nhận được nơi ông, trước nhất là cái tinh thần cấp tiến, mạnh dạn và dứt khoát, nhất nữa là cái tinh thần đó cách đây 30 năm ông đã có được. Tôi nghĩ chính cái tinh thần này đã đóng góp không ít vào việc võ trang tinh thần cho thanh niên để rồi họ bước vào con đường hành động. Bảo ông nhìn xuống, vậy nói ông phải chọn thái độ như thế nào nhất là với đời sống ông có? Ỏ trong vị trí của ông, với cương vị đó ông hành động, ông viết với chỗ đứng của mình bằng lòng nhiệt thành chân thật. Như thế chính đáng hơn hay bắt ông phải ngụy tạo? Bắt ông phải bỏ chính con người ông để sống làm người khác? Sống giữa một xã hội trì trệ buồn nản, cuối đường cuối của một nền văn hoá một nếp sống chỉ còn lại những hình thức lễ nghi, khuôn sáo, không năng lực, không sức mạnh, lớp trí thức lãnh đạo tinh thần cũ đang suy vi tan rã giữa những lớp trí thức mới chỉ được giáo dục để trở thành tay sai, làm bồi, phần lớn thanh niên thành thị lao đầu vào con đường truỵ lạc thì phải nói rằng Tự lực văn đoàn và một số những trí thức cấp tiến khác chính đã tạo thành một cơn bão tốt. Nó làm thay đổi sinh hoạt, làm mới đời sống, thổi một luồng sinh khí mới vào xã hội ta. Và chúng ta không thể không đồng ý với Hoàng Đạo khi nhận định về chính công việc mình đã đóng góp trong ba năm hoạt động: “Ba năm qua, sự thay đổi của phong tục lễ nghi tuy chưa rõ rệt, nhưng sự thay đổi của linh hồn dân ta đã ngấm ngầm từ tốn mà tiến hành, không có sức mạnh nào ngăn cản lại được nữa. Nhưng lý tưởng, những quan niệm cũ dần dần mất vẻ uy nghi lẫm liệt, tất rồi cũng phải theo thời gian mà phá tan, nhường chỗ cho những quan niệm, những lý tưởng mới…”
Chỉ trích, nhạo báng cười cợt, đả phá những cái đã hư, đã nát đã lạc hậu, cổ võ cho những cái mới, cái tiến bộ, kêu gọi người dân Việt, nhất là thanh niên đóng góp sức mạnh của mình vào công việc xây dựng một đời sống mới, dần dần những người cấp tiến yêu nước đó chuyển sang những mục tiêu chính trị: đả đảo quan trường, óc xôi thịt, chống lại chế độ bù nhìn, tố cáo những bất công trong xã hội, đòi hỏi tự do dân chủ, quyền được sống của người dân. Như thế tất nhiên đưa họ tới hành động cách mạng. Từ văn nghệ sang cách mạng chỉ ngăn cách bởi một sợi tóc, như vậy chúng ta không hề ngạc nhiên trước sự lựa chọn hành động của nhiều nhà văn như Nhất Linh, Hoàng Đạo…(…)
Dũng của Nhất Linh đã lên đường làm cách mạng. Duy của Hoàng Đạo cũng đã lên đường trở về với nông thôn trong một hành trình ôn hoà, làm cho người khác sung sướng hơn. Qua thông điệp tinh thần của những Nhất Linh, Hoàng Đạo…hay của những Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái…chúng ta nghe thấy một lời kêu gọi mà họ đã gửi tới những người cùng thời, và cho cả ngày nay, nhưng có điều chúng ta nhận thấy rằng: đối tượng tranh đấu của thời đó khác hẳn với ngày nay, lúc bấy giờ thanh niên có một đối tượng rất đơn giản và minh bạch: giải phóng dân tộc khỏi nền cai trị của thực dân Pháp, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân. Còn ngày nay đối tượng khác, phức tạp hơn, rộng lớn hơn, nhiều giá trị tinh thần đã tan rã, nhiều niềm tin đã lung lay, chiến tranh tàn phá… Như vậy kinh nghiệm tranh đấu của Hoàng Đạo có giúp được gì cho cuộc vận động lịch sử hiện nay hay không?
Hoàng Đạo đã làm báo, viết văn, hoạt động xã hội, hoạt động cách mạng và ông đã chết trên một chuyến xe lửa tại Quảng Châu bên Trung-Hoa giữa lúc còn hăng say với lý tưởng, ông chết với một mộng tưởng chưa thành cũng như bao nhiêu người khác cùng một thế hệ trên con đường bôn ba. Và cũng có thể nói rằng đến cái chết của ông là kết thúc một giai đoạn lịch sử, kết thúc vai trò của một lớp người…
· Trích dẫn theo Tạp chí Văn, số 107+108, Sài Gòn 1968, trang 103-123.
Trích từ http://archive.damau.org