Xuân Diệu

Xuân Diệu

Tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại Tuy Phước, tỉnh Bình Định cũ, nơi cha là Ngô Xuân Thọ vào dạy học và kết duyên với mẹ là Nguyễn Thị Hiệp. 

Xuân Diệu sau ra Hà Nội học; 1938-1940 ông và Huy Cận ở gác 40 Hàng Than. Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943. 

Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 1985. 

Xuân Diệu viết nhiều, có khoảng 450 bài thơ. Một số lớn chưa được xuất bản. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Thơ Thơ 1938), Gửi Hương Cho Gió (1945), Ngọn Quốc Kỳ (1945), Một Khối Hồng (1964), Thanh Ca (1982), Tuyển Tập Xuân Diệu (1983); truyện ngắn Phấn Thông Vàng (1939); và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học. 

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới. Ông mang ngọn gió rạo rực, thiết tha, nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. Thơ Xuân Diệu là “vườn mơn trớn”, ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và hương vị trong Thơ Thơ, pha lẫn chút vị đắng cay trong Gửi Hương Cho Gió. Nhiều câu nhiều bài chịu ảnh hưởng từ thi ca lãng mạn Pháp.

                                                                 Trích từ                                                        

http://dactrung.net/tacgia/

o0o

                     Nhà Thơ số Một của Thơ Mới   

                                                                               Vương Trí Nhàn

Đi tìm một cách nói hợp lý

     Xuân Diệu thường nói ông mang trong mình quê hương thống nhất. Cha đàng ngoài má ở đàng trong, — cái lý của ông thật cụ thể.

     Mượn cách nói ấy, khi xem xét sang lĩnh vực thơ, tôi cũng muốn nói rằng ông mang trong mình nền thơ thế kỷ Việt Nam thế kỷ XX.

     Nửa đầu thế kỷ, thơ Việt có chuyển đổi về mặt cơ cấu, từ mô hình kiểu trung đại chuyển sang một mô hình hiện đại. Khi thơ như một cơ cấu đã ổn định, từ sau 1945, cái định hướng rõ nhất là chuyển đổi chức năng để phục vụ xã hội. Trong cả hai cuộc vận động, người ta đều thấy Xuân Diệu là một trong những tên tuổi được nhắc nhở nhiều nhất.      

     Trong phạm vi Thơ mới, ông không có những bài thơ coi là mở đầu như Phan Khôi. Ông không có vai trò người khai phá đầy tài năng như Thế Lữ, không có những tác phẩm chín như Huy Cận. Song nói đến thời đại này là phải nói đến ông. Qua ông, thấy cả sự vận động của Thơ mới.

Tuy cùng nằm trong khuôn khổ hiện đại hóa văn học, song những gì diễn ra trong thơ tiền chiến khác hẳn trong văn xuôi. Với văn xuôi các nhà văn của ta bằng lòng làm người học trò nhỏ của văn học Pháp. Thơ thì khác. Ban đầu người ta không chịu. Phạm Quỳnh từng kể, có những ông đồ tự hỏi: Bên tây cũng  có thơ à?

Quan niệm như vậy, cho nên trong thực tế, đồ thị diễn tả vận động của mỗi thể loại cũng khác nhau. Ở văn xuôi mọi chuyện từ từ, không có đột biến. Thơ cũ, sau một hồi chống chọi, như là xảy ra tình trạng “vỡ trận”. Kết quả là có Thơ mới náo động một thời.

 Có thể tìm thấy bóng dáng cuộc vận động này trong bước đi của Xuân Diệu. Ông đến trong tư thế ào ạt khẳng định. Ban đầu Thơ mới làm cho người ta ngỡ ngàng ư? Thì Xuân Diệu làm cho chúng ta ngỡ ngàng. Rồi cuối cùng chúng ta thấy Thơ mới gần với ta ư? Thì Xuân Diệu đã được cả một thời say đắm. 

Xuân Diệu là tất cả cái hay cái dở của thơ mới. Là sự cởi mở và tham vọng của con người đương thời. Là hào hứng đi ra với thế giới. Nhưng cũng là nông nổi, cạn cợt, là nhanh chóng chán chường và bế tắc.

Nếu cần nói gọn một câu về vai trò của Xuân Diệu trong Thơ mới thì nên nói gì?

Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ở Sài Gòn năm 1967, trong tập Bảng lược đồ của văn học Việt Nam (Ba thế hệ của nền văn học mới ), Thanh Lãng cũng viết một câu tương tự. Tôi vừa đọc lại  hồ sơ cuộc hội thảo kỷ niệm 10 năm nhà thơ Xuân Diệu qua đời. Cho đến nay công thức đó vẫn được nhiều người nhắc lại.

Có lẽ ý kiến đó hình thành một phần là do từ trước, Hàn Mặc Tử còn ít được đọc và được nghiên cứu. Còn ngày nay với sự phổ biến của Hàn Mặc Tử, thì theo tôi, vai trò người mới nhất của Thơ mới phải thuộc về Hàn mới đúng.

 Nhưng sao người ta vẫn thích trích dẫn cái câu của Hoài Thanh?

 Tạm thời có thể diễn giải như thế này: Nếu từ góc độ khoa học của vấn đề, Hàn đã là người đi xa nhất, và do đó mới nhất. Còn nếu xem xét hiệu ứng của thơ trong đời sống thì những ấn tượng Xuân Diệu để lại trong lòng người không ai có thể bì kịp.  

   Thay cho công thức “gương mặt tiêu biểu” đã mòn, tôi muốn nói Xuân Diệu là hiện thân của Thơ mới. Là nhà thơ số một không phải với nghĩa hay nhất, giá trị nhất, đứng cao hơn hết  …, mà  là, nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong thơ mới thôi, thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu.

Giữa các phong cách của Thơ mới, Xuân Diệu là một cái gì vừa phải, hợp lý, ông vốn có cái dễ dàng để đến với đám đông trong văn chương cũng như trong cuộc đời. Thế Lữ hơi cổ. Trong thơ Thế Lữ người ta vẫn cảm thấy một cái gì hơi già, hơi cũ, mắt nhìn về cái mới chứ chân chưa đặt tới cái miền mới mẻ đó. Mong muốn kéo nhà thơ này đi tới nhưng con người ông không theo kịp. Lưu Trọng Lư cũng vậy, mà lại ngả sang mơ mộng xa xôi. Huy Cận chậm rải khoan thai đậm chất văn hóa, và Huy Cận như già trước tuổi nữa. Về độ chín của thơ, Xuân Diệu không bằng Huy Cận. Song sự trẻ trung làm cho Xuân Diệu có sự hấp dẫn hơn, phổ biến hơn nhiều.

Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên ăn nhiều ở sự hướng thượng, suy tư, độc đáo. Các ông có cái gì đó mà người bình thường khó với tới. Họ nhìn theo các ông mà ngại.

  Xét về ảnh hưởng với các thế hệ sau, vai trò của Xuân Diệu cũng rất lớn. Như ở thế hệ những người  sinh khoảng 40 của thế kỷ trước, những Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật. Nếu đặt ra một hàng những Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thì trong sự khác nhau rất rõ, họ vẫn gần với Xuân Diệu hơn cả, số người nằm cùng một trục dọc với Xuân Diệu khá đông đảo.   

Xuân Diệu như hoa hồng trong một vườn hoa loại nào cũng đẹp. Như một thứ cơm tẻ vừa với mọi người. Đi đến một tổng hợp khái quát nhất Hoài Thanh ở cuối bài tổng luận về thơ mới bảo Xuân Diệu là “nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”.

Thêm một ít khía cạnh trong con người Âu hóa và mỹ cảm hiện đại 

Xuân Diệu trước hết đại biểu cho những con người tiếp xúc với văn hóa phương Tây  ngay từ nhà trường, làm nên một thứ nhân tố mới hình thành trong xã hội. Nhiều người đã nói về điều này, mấy ghi nhận dưới đây chỉ là một ít khía cạnh nhỏ.

Ông là con người của ham muốn say đắm muốn sống hết mình. Chỉ cần đọc một câu thơ Anh nhớ tiếng anh nhớ hình anh nhớ ảnh — Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi, cảm nghe hết cái sự nồng nàn của nó …người ta đã biết ngay nó không thể có ở nhà thơ cổ điển, nó phải thuộc bề một nhà thơ hiện đại.

Mặc dù có những bài tuyệt bút, song Xuân Diệu thường vẫn để lại ấn tượng có chỗ sượng, chưa chín, chưa đều tay. Ông là người rất có ý thức mà cũng là  rất nhạy cảm khi bênh vực cho cái dang dở. So sánh ca dao Nam Trung bộ và ca dao miền Bắc, ông nói rằng ca dao miền Bắc quá chau chuốt quá hoàn chỉnh, trong khi ca dao Nam Trung bộ trần trụi thô mộc nên dễ gần. Có lần, nhận xét về một bài thơ, Xuân Diệu bảo khi người ta cảm động quá, người ta có gì đó run rẩy lúng túng. Trong những trường hợp này, Xuân Diệu đã  biện hộ cho mình. Chính ở cái vẻ vội vàng hấp tấp dở dang chưa thành này mà Xuân Diệu gần với con người đương thời.

Nhưng không chỉ có thế. Không chỉ có hồn nhiên tuổi trẻ, mà càng về sau, Xuân Diệu càng tỏ ra  sống hết với cái đã đầy của cuộc sống. Bài Hy mã lạp sơn là một cách ướm thử sự vượt lên cái thông thường, tự làm khác mình đi và đẩy suy nghĩ của mình tới cùng, tới cái tuyệt đối. Nhưng một lần tới rồi thì lộ ngay ra là không bao giờ nên trở lại nữa. Biết điều tội nghiệp run rẩy thiết tha, Xuân Diệu là chính mình hơn trong Lời kỹ nữ.

Sự khác nhau giữa Thơ cũ và Thơ mới bắt đầu từ sự đổi khác của tâm lý con người, của cách xúc động… và điều này đã được nhiều người như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh diễn tả sâu sắc. Mối quan hệ giữa lý trí và cảm xúc là một vấn đề lớn của con người hiện đại. Hồi 1961, nhân tuyển thơ 15 năm sau Cách mạng, Chế Lan Viên nói như một câu buột miệng “Xuân Diệu cần hồn nhiên hơn và Tế Hanh phải bớt tự nhiên đi”. Tôi đọc và tưởng là về già Xuân Diệu mới vậy. Sau đọc lại, thấy cái cách sống và làm việc theo lý trí này có từ Xuân Diệu hồi Thơ mới. Xét trên toàn cục, Xuân Diệu đã là một con người nhất quán, những năm cuối đời chỉ tô đậm những nét cốn có của ông lúc trẻ. Và đó chính là dấu hiệu làm chứng cho sự có mặt của nền văn hóa mà ông tiếp nhận từ nhỏ.

 Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn gần đây nói rằng con người ông có cả văn hóa Việt Nam lẫn văn hóa Mỹ. Trong Xuân Diệu cái yếu tố Mỹ được thay bằng văn hóa Pháp. Cố nhiên là cách kết hợp những yếu tố khác nhau ở  người này không bao giờ giống như ở người khác, nhưng họ đều là hiện tượng đa văn hóa.

Thơ tám chữ, thơ bảy chữ 

       Trên phương diện hình thức nghệ thuật thơ, so với các nhà Thơ mới khác, Xuân Diệu cũng để lại ấn tượng riêng, về một cái gì vừa miệng với số đông, nghĩa là rất phổ biến.

       Sáng tạo của Thơ mới trên phương diện thể thơ gồm hai phần: một là đưa thể tám chữ lên mức hoàn chỉnh và thứ hai là có những cách tân mới đối với các thể cũ như thơ bảy chữ, thơ lục bát.

        Sở dĩ đọc Thế Lữ ta cảm thấy một cái gì cũ cũ, bởi vì ngoài Nhớ rừng, các bài tám chữ khác của ông để lại ấn tượng nặng nề do sự xâm nhập của yếu tố văn xuôi còn thô. Ở các bài như Đi giữa đường thơm, Nhạc sầu của Huy Cận, Nhớ con sông quêhương của Tế Hanh, chúng ta thấy thơ tám chữ tự nhiên như một sản phẩm thuần Việt. Mà cái đó đến sớm với Xuân Diệu. Những  bài như Tương tư chiều,Vội vàng, Hoa đêm của ông cùng với Lời kỹ nữ Hy mã lạp sơn vừa nói ở trên là những sáng tác hoàn thiện. 

     Hoài Thanh bảo thơ tám chữ của Xuân Diệu có nguồn gốc ở ca trù. Cảm giác gần gũi có được là do cái hồn thơ, một cái gì thanh thoát mà lại hơi lẳng lơ tinh nghịch. Mặt khác là hơi thơ, biểu hiện ở độ dài. Tính số câu của một bài thơ, trong khi Tiếng địch sông Ô của Huy Thông làm chúng ta ngợp, thì các bài tám chữ của Xuân Diệu và những bài vừa nhắc trên của Huy Cận, Tế Hanh…cũng gần gũi hơn hẳn.

        Một đóng góp khác của Xuân Diệu trong thể thơ bảy chữ, những bài gồm ba –bốn  khổ, nó là một hơi thơ mạnh đi như một lát dao sắc. 

       Tản Đà không có bài thơ nào sử dụng tứ tuyệt như vậy. Trong số 47 bài của Mấy vần thơ của Thế Lữ, tôi chỉ thấy có một bài mang tên Yêu là cũng gồm ba khổ như thế này. Nhưng đây là một bài thơ rất ít người nhớ.

      Còn với Xuân Diệu chúng ta thấy hàng loạt trường hợp Nguyệt cầm, Nụ cười xuân,Trăng, Huyền Diệu, Gặp gỡ,Yêu, Tình trai, Đây mùa thu tới, Ý thu, Hẹn hò, Đơn sơ.

      Tôi chợt nhớ tới thể sonnet (1) của Pháp, và muốn giả thiết rằng ở những bài thơ nói trên, Xuân Diệu đã làm một cuộc hôn phối giữa thơ Pháp và thơ dân tộc. Ông Việt hóa sonnet từ nền văn hóa mà ông mới tiếp nhận và mang lại cho nó một âm hưởng phương Đông, bằng cách lai tạo nó với thất ngôn tứ tuyệt. Giờ đây loại thơ gồm ba hay bốn khổ tứ tuyệt — 12 hoặc 16 câu bẩy chữ —  đã là một cấu trúc cổ điển. Thơ tình của Xuân  Diệu sau 1945 thường trở lại với thể này Nguyện, Hoa nở sớm, Tình yêu san sẻ, Ngược dòng sông Đuống.Và đây, tạm kể một số bài thơ được nhiều người thuộc của các tác giả về sau :

 Buồn, Xuân, Em về nhà, Vạn lý tình, Gánh xiếc … của Huy Cận

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Cô hái mơ  của Nguyễn Bính

Xuân ý của Hồ Dzếnh

Sầu chung, Chiều loạn ( Chiều loạn mây rồi gió đã lên ) của Trần Huyền Trân

     Từ sau 1945 , tôi muốn nhắc Hoa cỏ may (Cát vắng sông đầy cây ngẩn ngơ) của Xuân Quỳnh, cũng như bài Thanh xuân (2) của Nhã Ca, giữa hai bài của hai thi sĩ có gì như là đồng vọng và cùng âm hưởng. 

Cái mới đến từ hội nhập

 Nhớ lại khi Xuân Diệu mới xuất hiện, Hoài Thanh thú nhận:

 “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần vì ta thấy người  cùng ta tình đồng hương vẫn nặng”   

Cái tình đồng hương nói ở đây gồm hai yếu tố:

Một là những yếu tố thuần Việt. Đã nhiều người nói tới cái phần thi liệu Việt ở Xuân Diệu từ “Đã nghe rét mướt luồn trong gió / Đã vắng người sang những chuyến đò” tới “Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” hoặc “Con cò trên ruộng cánh phân vân”

 Hai là những yếu tố mượn từ đời sống và văn hóa Trung Hoa đã được Việt hóa. Cái yếu tố Tàu này vốn thấy ở nhiều nhà văn tiền chiến, từ những ông già thả thơ đánh thơ ở Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, tới chú khách bán mằn thắn và mấy người khách ở phố Cẩm Giàng của Thạch Lam …

 Bấy lâu ta cứ ngỡ ở Xuân Diệu chỉ có Rimbaud với Verlaine, hóa ra ta nhầm.

Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đọc lại báo Ngày nay 1938 còn dẫn ra cả một đoạn Xuân Diệu ca ngợi mùa thu “mặc dầu ở bên tây vẫn có mùa thu, thiên hạ vẫn cứ thấy mùa thu là ở bên Tàu. Mùa thu cũng đồng một quê quán với Tây Thi, với nàng Tây Thi quá xa nên quá đẹp “

Trong cả Thơ thơ lẫn Gửi hương cho gió, cái chất Trung Hoa này xuất hiện ở nhiều dạng.Trong vốn từ ngữ. Trong cái nhịp thơ tứ tuyệt nói ở trên. Và trong thi liệu : Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi /Tôi yêu Ly Cơ hình mơ màng / Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng / Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi. Có cả một bài mang tên Mơ xưa, nhắc lại những Gió liễu chiều còn nhớ kẻ dương quan. Yếu tố Trung hoa cố điển ở đây là một bộ phận của yếu tố Việt Nam. Nước Việt trong thời gian. Nước Việt với chiều dài lịch sử, với cái vẻ quý tộc tinh thần… Tất cả lại hiện diện. 

      Xin nói tiếp về Nguyệt cầm. Trăng ở đây được gọi là nguyệt, đàn gọi là cầm. Nguyệt và trăng, đàn và cầm cùng tồn tại song song. Cái hồn hiện đại nhập vào cảnh cũ Linh lung ánh sáng bỗng rùng mình. Nhưng trăng và đàn lại là những motip của thơ cổ  phương Đông. Còn chữ linh lung với nghĩa ánh sáng chấp chới thì không biết có phải lấy từ bài Ngọc giai oán của Lý Bạch (khước há thủy tinh liêm  — linh lung vọng thu nguyệt),(3) chỉ biết sau Xuân Diệu, không ai dùng nó nữa, và các từ điển tiếng Việt mới in nửa sau thế kỷ XX chỉ ghi lung linh chứ không còn ghi linh lung

Với  bài viết kinh điển Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã sớm cảm thấy cái mới ở Xuân Diệu nói riêng và Thơ mới nói chung là là đến từ hội nhập.Gần đây nhà thơ Hoàng Hưng (bài Thơ mới và thơ hôm nay) phát hiện thêm. Ông bảo: “thơ Pháp thế kỷ XIX đã thúc đẩy Huy Cận Xuân Diệu tìm ra những ý vị lãng mạn  của thơ Đường mà suốt một  thế kỷ trước đó, các vị túc nho đã không cảm nhận nổi mà chỉ  nhai cái bã niêm luật”. Tức là nhờ hội nhập hôm nay mà ta phát hiện lại thành tựu của hội nhập hôm qua. Ta được làm giàu lên nhiều lần hơn là ta tưởng.

 Hơn thế nữa, hội nhập không phải chỉ có một chiều là  hướng ngoại, hội nhập còn là quay trở về phát hiện lại bản thân và  nhận diện lại những yếu tố nội sinh.  Nói cách khác, nhờ hội nhập mà cốt cách của dân tộc được phát hiện.

 Xuân Diệu đã làm công việc này một cách có ý thức. Ồng có riêng một bài viết mang tên Tính cách An Nam trong văn chương (báo Ngày nay 28-1-1939 ), ở đó ông nói rằng “Trong lòng An Nam của chúng ta vẫn có những phần những ý những cảm giác mà người Tây có. Xưa kia ta không nói là vì ta không ngờ; bây giờ cái não khoa học của Âu Tây đã cho biết rằng ta có, vẫn có đã lâu những của cải  chôn giấu trong lòng thì sao ta không nói”(4)

Lịch sử không lặp lại

    Không phải là thơ Việt Nam sau 1945 không có những đổi mới về hình thức, song một sự thay đổi có tính chất bước ngoặt  như hồi 1932-41 không còn nữa. Nhu cầu của xã hội lúc này là tận dụng sự phát triển đã có từ Thơ mới để hướng thơ vào các hoạt động tuyên truyền giáo dục quần chúng. Ngay ở Sài gòn trước 1975 nơi sự hội nhập với thế giới còn được làm trong lặng lẽ, thì thơ vẫn không tạo được những bước nhảy đáng kể. Tuy xuất phát từ những tình thế khác nhau, song giữa sự tìm tòi của Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca …với  tìm tòi của Nguyễn Đình Thi, Trần Mai Ninh, Trần Dần, Hữu Loan ở miền Bắc suy cho cùng có sự tương tự. Nhìn chung là thưa vắng lót đót và không sao tạo được cao trào hoặc trở thành xu thế bao trùm.

     Nổi lên trên bề mặt thơ sau 1945 vẫn là sáng tác của các nhà thơ mới: Huy Cận, Chế Lan Viên Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, ấy là không kể một lớp nhà thơ trẻ mới hình thành, tất cả mang lại cho thơ mới một sự hồi sinh, một đỉnh cao thứ hai.

    Trên hướng phát triển này, Xuân Diệu tiếp tục vị trí hàng đầu  của mình. Năng lực của ông không còn hướng vào việc tìm tòi cái mới; có cảm tưởng với ông tất cả đã đủ, vấn đề bây giờ chỉ là tìm cách khai thác tận dụng cái đã có. Mà về việc này thì từ bản tính “tay hay làm lụng mắt hay kiếm tìm” ông có cả, từ sự thành thạo, tức thói quen lao động siêng năng tới sự nhạy cảm biết tìm ra những phương án tối ưu trong lao động.

    Thơ Xuân Diệu những năm cuối đời gợi cho ta cảm giác một trái cây không còn được tiếp nhựa sống từ toàn thân mà chỉ tự chín, thời gian chín lại kéo quá dài, nên — nói như dân gian vẫn nói — chín rụ chín rị,  tức có cả cái phần đã đầy, nát, vỡ, lữa ra , là cái phần “suy đồi” xảy ra ở mọi quá trình lão hóa. Nhưng ở chỗ này nữa lại càng thấy tính chất “đại diện toàn quyền” của Xuân Diệu với Thơ mới.

     Người ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở một người. Đặt trên cái nền chung của lịch sử thì vẫn thấy ông đứng sừng sững ở giai đoạn chuyển đổi của nền thơ Việt Nam, như một thách thức và một điểm đối chiếu.

(1)Xin tạm coi đây mới là một giả thiết, bởi chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu vào bản chất của sonnet và tác động  của nó tới các nhà thơ Việt Nam. Chỉ xin lưu ý thêm, sonnet hiện đại thường có 14 câu trong khi tứ tuyệt ba khổ là 12 câu, bốn khổ là 16 câu. 

(2) Nguyên văn toàn bài:

          Thanh xuân

Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây 

 Người đi chưa dạt dấu chân bày

 Bàn tay nằm đó không ngày tháng

 Tình ái xin về với cỏ may

Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần

Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân

Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng

Và nỗi tàn phai gõ một lần

Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài

Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai

Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối

 Tôi mất thời gian lỡ nụ cười

Đời sống ôi buồn như cỏ  khô

 Này anh em cũng tợ sương mù

 Khi về tay nhỏ che trời đất 

 Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ 

Trong Thơ Nhã Ca (S. Nxb Ngôn ngữ, 1965 ). Lưu ý là bài này  như vậy viết ở Sài Gòn những năm sáu mươi thế kỷ XX, còn bài Hoa cỏ may của Xuân Quỳnh viết ở Hà Nội, 1985. Khi thơ Nhã Ca tái bản (S. 1972 ) bài Thanh xuân này  xếp vào phần I, mang tên  thơ viết thời con gái. Nhã Ca còn nhiều bài  khác, có cấu tứ tương tự: Ngày tháng trôi đi, Bước tàn phai, Bàn tay chàng, Vết cắt xuân

(3) Đây cũng là điều Phan Cự Đệ dẫn trong cuốn Phong trào thơ mới , in lần đầu 1966. Nhà nghiên cứu   chỉ không nói rõ do ông tìm ra hay do sự mách bảo của chính Xuân Diệu .

(4)Tìm đọc bài viết của chúng tôi Xuân Diệu và một quan niệm cởi mở về íính dân tộc trong đó có dẫn lại đầy đủ Tính cách An Nam trong văn chương. Có trong nhiều tập “hồ sơ” về Xuân Diệu đã xuất bản.

                                                                   Trích từ                                         

http://www.viet-studies.info/vtnhan/

                                                 o0o

Nguyệt Cầm-Một nốt nhạc buồn của Xuân Diệu

                                                            Nguyễn Khánh Thư


Trong bản giao hưởng rộn ràng kia bỗng xuất hiện một giai âm trầm lắng, dịu hẳn. Nhưng là một giai âm thu hút đến lạ kì. Nó chiếm lĩnh người đọc bằng âm lượng vừa đủ nhẹ nhàng, đủ thanh thoát, đủ khơi sâu, động thấu đến lòng người đọc, thức dậy những trường liên cảm. Nguyệt cầm – cái điệu nhạc khác nhịp ấy – là một bài thơ hay, dễ truyền và gây cảm xúc mạnh mẽ đến độc giả. Rất tự nhiên nó tạo ra một chất kết dính vi huyền giữa nhà thơ và tác giả thứ hai (độc giả).

Nỗi ám ảnh thời gian trở thành niềm khắc khoải khôn nguôi của Xuân Diệu. Một con người ham sống đến say mê, cuồng nhiệt, khao khát được giao cảm với đời đến triệt để, đến tận cùng cho nên ông luôn vội vàng, giục giã, sống cuống quýt, sống để tận hưởng cho hết những dư vị của cuộc đời ngắn ngủi này. Nhịp sống sôi nổi và mạnh mẽ đó trở thành âm hưởng chủ đạo của thơ ông. Nhưng tâm hồn ham hố, vồ vập và luôn rạo rực ấy cũng có lúc cô đơn đến khủng khiếp vì không tìm được sự đồng điệu cảm thông với tâm hồn mình. Cho nên trong cô đơn, Xuân Diệu đã tìm đến với tạo vật để tìm sự giao thoa. Nguyệt cầm đã thể hiện rất rõ cảm quan nghệ sĩ hết sức tinh tế của nhà thơ khi nghe tiếng đàn sầu não trong một đêm trăng thu sáng lạnh. Không hiểu do ánh trăng, tiếng đàn vang vọng đã khơi nguồn cảm hứng hay do tiếng lòng nhà thơ đang tấu lên khúc nhạc dìu dặt này:


Trăng nhập vào dây
cung nguyệt lạnh…
Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê
.


Xuân Diệu nói: “Thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc – đó là một chân lí vĩnh cửu” Quả thực bằng những rung động tinh vi và nhạy bén, Xuân Diệu đã nắm bắt được những biến thái của tự nhiên một cách rất tài tình. Nhà thơ phải mở rộng tâm hồn mình, phải “thức nhọn mọi giác quan” thì mới lắng nhận được vẻ đẹp của tạo vật và cất lên được những vần thơ hay như thế. Bài thơ được tạo ra từ khối cảm xúc của thi nhân được nung chảy. Cả âm nhạc cả màu sắc lan toả không gian. Khung cảnh tràn ngập ánh trăng, tràn ngập tiếng đàn tạo ra một không gian lung linh và huyền ảo. ở đây có sự hoà quyện giữa trăng và đàn. Từ đầu đề Nguyệt cầm đã đủ thể hiện phần nào. Trăng như phổ nhạc cho phím đàn vang ngân trong không gian, truyền đi trong không khí, toả ra và lan rộng.


Trăng nhập vào dây
cung nguyệt lạnh


Tác giả đã sát nhập trăng và cung đàn. Sự tương giao giữa tiếng đàn và ánh trăng đã đồng nhất hoá hai làm một. Không phải là thứ màu sắc vàng ánh, cũng không phải là nhạc điệu nào cụ thể nữa mà cái âm sắc mới này là sự kết chuyển siêu hình. Tác giả đã thổi hồn mình sang cho tạo vật. ánh trăng trở thành một sinh thể có cảm giác, có linh hồn. Tiếng đàn trở thành tiếng vọng của cõi lòng đi tìm sự tri âm, đồng điệu. Cái không gian màu – nhạc ấy ngưng kết lại đóng cứng và tinh khiết tuyệt vời:



– Mây vắng trời trong
đêm thuỷ tinh
Long lanh bóng sáng
bỗng rùng mình
– Thu lạnh càng thêm
nguyệt tỏ ngời
Đàn nghe như nước lạnh trời ơi


Một không gian yên tĩnh, trong suốt và rất mơ hồ nhưng nó khơi gợi ra cái siêu thoát như trong thơ Hàn Mặc Tử. Bài thơ này có thể đi qua chủ nghĩa lãng mạn, bước đến địa hạt tượng trưng. Nhưng dù mơ hồ và huyền ảo đến đâu thì ở cái ranh giới siêu thực này, Xuân Diệu vẫn còn bám vào đời, níu lấy cuộc sống trần thế. Với ông cuộc sống này là tất cả. Cho nên “chơi giữa mùa trăng” Hàn Mặc Tử thấy “kì ảo, thơm thơm” Đó là một đêm “siêu hình và vô lượng”. Trong khi Hàn tan biến vào trăng thì Xuân Diệu vẫn ở trong đời sống thực mà cảm nhận những biến thiên của tạo vật. ông cảm nhận được không gian trong như thuỷ tinh, thấy được cái long lanh của bóng sáng và truyền cảm xúc cho những vật vô tri vô giác ấy trở thành một linh hồn biết rung động, tạo vật và tâm tình phản ánh vào nhau và bộc lộ qua hình tượng thơ. Người ta nói: thơ tiềm ẩn trong rung động. Bài thơ chỉ có thể được hình thành khi có sự truyền lan của rung động ấy. Nguyệt cầm chính là cảm xúc chân thực, nóng hổi của Xuân Diệu khi đối diện với cảnh vật và đối diện với lòng mình. Chỉ có rung động thực sự, Xuân Diệu mới cảm được cái đẹp của tạo hoá và chớp được những tơ rung của lòng mình. Nhịp điệu bài thơ nhẹ nhàng, dìu dịu, đượm một thoáng buồn nhưng vẫn có sự chuyển tấu của âm sắc. Đó là những cung bậc khác nhau của âm nhạc mà Xuân Diệu nghe được bằng chính cái ân tình của mình.


Trăng thương trăng nhớ
Hỡi trăng ngần
Đàn buồn đàn lặng ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.


Khi lòng mình đang cô đơn, trống trải, tạo vật bỗng dưng ngưng đọng những giọt sầu. Tần số giao động của từng tiết tấu trong câu thơ chậm rãi, ngắt nhịp từng đôi một nghe thật buồn. Nhạc đàn hay nhạc lòng nhà thơ… Không rõ nữa. Buồn, thương, nhớ, bằng mấy tính từ chỉ sắc thái biểu cảm ấy gợi cho người đọc một tâm trạng cô đơn, buồn thảm. Có một cái gì đó như là sự day dứt, trở trăn. Trăng và đàn tuy có sự hoà nhập nhưng tác giả vẫn luôn để chúng sóng đôi. Dường như để tâm tình. Tạo vật đã được “nội cảm hoá”, nhà thơ biến cái vô hình trở nên hữu hình. Trăng và đàn trở thành hai sinh thể sống bằng rung cảm và tâm tình của nhà thơ. Từ buồn, thương và nhớ ấy, cảm giác lạnh buốt tê cứ chợt xâm chiếm cảm quan người đọc:


Đàn nghe như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi
vang vang hận


Gam độ của nỗi buồn ngày càng gia tăng. Cả âm nhạc, cả ánh sáng tụ đọng thành từng giọt lạnh lẽo đến xương da. Cái hay của bài thơ chính là sự miêu tả cảm xúc. Cái cảm xúc vô hình kia bỗng trở nên có hình, có khối. Không gian ở đây là không gian của tâm trạng. Dường như ở đây cảm giác thực khuất đi mà chỉ còn lại là ảo giác. Tác giả sống bằng ảo giác. Trăng nhạc nhập nhoà và tiếng đàn đau khổ, não nề vì mệnh bạc của người xưa càng làm cho tác giả cảm thấu được nỗi cô đơn, buồn tẻ của mình. Bốn khổ thơ cuối khắc rõ sự cô đơn tuyệt đối của nhà thơ:


Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh
khuya nín thở
Nghe sầu cảm nhạc
đến sao khuê.


Ở đây, không gian mang màu sắc trừu tượng: thấy rõ nhưng không nắm bắt được. Tác giả dùng hình ảnh trực tiếp đánh mạnh vào các giác quan. Cảnh sắc thu mình lại: “Sương bạc làm thinh”, “khuya nín thở”. Dường như Xuân Diệu chỉ nghe được, thấy được, cảm được cái lạnh lẽo từ mọi phía đang bủa vây lấy mình. Nhà thơ đã khắc chạm nỗi cô đơn của mình vào không gian bằng hình ảnh thơ rất độc đáo: “chiếc đảo hồn tôi”; “chiếc đảo hồn” ấy trở nên bơ vơ lạc lõng giữa không cùng của trời đất. Trước cái rộng lớn của vũ trụ, Xuân Diệu càng cảm thấy cô đơn. Nhưng không phải cái cô đơn như Huy Cận. Huy Cận cô đơn vì ông cảm thấy mình bé nhỏ trước thiên địa vô thủy vô chung. Còn Xuân Diệu, chỉ vì ông không tìm được mối giao hoà nên sự trống trải đã buộc ông ra khỏi cảm xúc thực, đi trong ảo giác.

Cả bài thơ là sự chuyển đổi từ màu sắc sang âm thanh và sự lan truyền từ âm thanh sang màu sắc. Nó thể hiện sự cảm nhận vi diệu của nhà thơ. Chất nhạc thấm đẫm trong từng câu thơ, buồn buồn, chầm chậm, ngưng, nghỉ và đôi lúc yên lặng hoàn toàn. Đó là một nốt nhạc trầm trong cả bản âm thanh ào ạt kia. Phải chăng đó chính là lời độc thoại của Xuân Diệu!…

                                                                          Trích từ                                                                                                                                                                                                         http://vanhoc.xitrum.net/tulieu/

                                     Nguyệt Cầm

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng run mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi …
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người …
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề …
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

                                                                                                Xuân Diệu

        Cảm Xúc


Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.

Đây là quán tha hồ muôn khách đến;
Đây là bình thu hợp trí muôn hương;
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương,
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc…
Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc;
Đôi bờ tai nào ngăn cản thanh âm:
Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm…
Của xanh thắm thấy luôn màu nói sẽ…

Tay ấp ngực dò xem triền máu lệ,
Nghìn trái tim mang trong một trái tim
Để hiểu vào giọng suối với lời chim,
Tiếng mưa khóc, lời reo tia nắng động.

Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng;
Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời:
Trút ngàn năm trong một phút chơi vơi;
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ…

— Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ,
Mà vạn vật là muôn đá nam châm;
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả.

                                                Xuân Diệu