Thi ca và sự huyền bí: Hội ngộ cùng nhà thơ Cung Trầm Tưởng lần thứ 5.
Nguồn gốc của thơ triết học (philo-poésie) có thể được gọi là cái gọi là Presocratics, những nhà tư tưởng ở thời Hy Lạp cổ đại, đã tham gia vào nguồn gốc của triết học và từ giữa thế kỷ thứ năm cho đến thế kỷ thứ tư trước Công nguyên. J. – C., nghĩa là đa số thức giả này hiện diện trước thời Socrates. Parmenides, Heraclitus, Empedocles và Democritus là những đại diện tiêu biểu nhất của hiện tại nơi mà thi ca và triết học không thể tách rời ra. Một mặt thì các nhà tư tưởng khác của thời đại Greco-Roman, nơi mà cho chúng ta thấy rằng thi ca là mối liên kết khá chặt chẽ hoặc trong ý nghĩa trung gian giữa tôn giáo và triết học. Họ chọn câu thơ Homeric, câu chuyện về Hesiod cũng như Horace cao quý trong Odes (Ode xuất phát từ “aeidein” của Hy Lạp, có nghĩa là ca hát hoặc cầu kinh kệ, và thuộc về truyền thống cổ xưa), vốn mang tính đa dạng của thơ trữ tình. Ban đầu Ode được kèm theo phần âm nhạc và khiêu vũ. Đấy là tương quan cho khái niệm thơ triết thuở tiên khởi của philo-poésie.
Theo Cung Trầm Tưởng, đã có nhiều bài thơ mà ông sáng tác gần đây phản ánh bằng cách nào đó và do một ý nghĩ nào đó là hành động rất bí ẩn. Một ý nghĩa khác, thơ “mới” của ông là một cách để gợi lên sự đa dạng của người khác và tất cả các lãnh vực pha trộn giữa Đông và Tây, … Liên quan đến sự đóng góp đầy chất thơ của Rabindranath Tagore, Kahlil Gibran, Charles Baudelaire, JP Sartre (tác giả truyện hư cấu giả tưởng của định mệnh kiếp sau, Les jeux sont faits), … Trong cuộc gặp gỡ tình bạn thân thiện với nhiều thành viên của câu lạc bộ Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, ông đã đồng ý rằng phong cách thơ mới của mình hôm nay mang vẻ bí ẩn về các vấn đề của tình yêu, thiên nhiên, con người, và của tâm linh..
Bàn về thơ Tagore và thơ của Cung Trầm Tưởng.
Thơ Tagore và thơ của Cung Trầm Tưởng có điểm tương đồng về những triết lý thâm
trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Điểm nổi bật thấm
đẫm chất văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người. Triết
học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt
đối với con người. Ông phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ
Ấn với niềm cảm thông sâu sắc, gióng lên tiếng nói đấu tranh đòi tự do và cuộc
sống hạnh phúc cho con người. Có thể nói, với Tagore, được sống trên đời thực
sự là niềm vui cao quý khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con
người, giữa con người với thiên nhiên.
Trong niềm vui để sống, Thượng Đế là đấng quyền năng thần bí xa xôi. Nhưng đối với R.Tagore, thượng đế không ở đâu xa lạ mà là nguồn an ủi cho ta yên vui, T agore sống với sự lạc quan, vì để làm nguồn an ủi, nó là tình yêu thương đã mang lại cho con người khát vọng và niềm vui sống. Trong tổ ấm tình yêu thương của chúng ta hãy lấy sắc màu, âm thanh, hương thơm, ấp ủ linh hồn”, những ý tưởng yêu thương, yêu sống và lạc quan lãng đãng trong 3 thi phẩm gồm Lời dâng (Gitanjali), Tâm tình hiến dâng (The Gardener) và Tặng vật (Lover’s Gift).
Còn về nhà thơ Kahlil Gibran:
Nhiều người còn nhớ câu nói của ông là “Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy,
ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. (To wake at dawn with a winged heart
and give thanks for another day of loving.)
Trong tác phẩm Uyên Ương Gãy Cánh – Broken Wings của nhà văn, nhà thơ, triết
gia, họa sĩ người Mỹ gốc Lebanese – Kahlil Gibran, cốt truyện đại để là:
“Tình yêu là kết quả của mối liên hệ tình yêu thánh thiện, platonic, không
xác thịt, tác giả cho vai người nữ là Selma. Như Cung Trầm Tưởng, sự mộng ảo
Gibran đã mô tả nhan sắc Selma như một nàng tiên nữ kỳ bí, khi ẩn khi hiện. Đôi
tình nhân tuy yêu nhau nhưng phải chấp nhận kết quả cay đắng, họ phải chấp nhận
sự chia lìa nhau, chôn kín mối tình sầu vừa chớm nở nhưng đã trở thành thiên
thu. Selma vâng lời cha đi lấy người mà nàng không yêu, vì hiểu rằng cha nàng phải
làm điều đó để tránh những thảm họa đổ xuống cho gia đình. Mối tình cao đẹp ấy
cuối cùng đã kết thúc bằng cái chết của Selma dù có mang. Chỉ còn lại chàng
trai trẻ khóc than cho số phận trước ngôi mộ của người chàng yêu thương. Người
con gái ấy đã rời bỏ kiếp sống khổ đau hiện tại để mong được tái sinh trong một
cuộc đời khác cùng với đứa con vừa lọt lòng mẹ, mang theo cả tình yêu của đời
nàng. Cùng với cái chết của nàng, Gibran đã chôn vùi luôn cả trái tim của mình.
Một mối tình khởi đầu thật đẹp và kết thúc đầy nước mắt : Đó là mối tình chia
ly tan vỡ, và đã gẫy cánh”.
Nào với Thơ Baudelaire
Bài L’Albatros (Chim hải âu), một trong những bài thơ nổi tiếng của Baudelaire,
kết thúc bằng đoạn thơ sau đây :
“Người thi sĩ như (chim hải âu) bay vương trên chín tầng mây
Chim bay trong bão táp và nhạo cười kẻ dương cung bắn ;
Bị đày xuống mặt đất giữa những tiếng la ó,
Hai cánh khổng lồ ngăn trở bước chân chim.”
Đó là hình ảnh của Baudelaire, cũng là hình ảnh của Cung Trầm Tưởng, vì người thi sĩ bị đày xuống trần thế say yêu và say thơ, họ rất giống nhau. Baudelaire đã sống kiếp lưu đày như thế nào ? Đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ra sao ? Thi phẩm Les Fleurs du Mal của ông có ảnh hưởng nhiều đối với thi ca Pháp và cũng như thi ca Việt Nam, mà Cung thi nhân vốn thích, tôi chia sẻ với ông điểm này.
Xét về thơ tiêu biểu của thi sĩ Cung Trầm Tưởng ghi nhận trong thi tập “Cung Trầm Tưởng: Một hành trình thơ 1948-2018”. Nay tôi xin cô đọng lại chỉ nói về 2 bài thơ tiêu biểu trong loạt “thơ mới” của ông khi nhà thơ từ bỏ lối tình thơ ướt át như loại Chưa Bao Giờ Buồn Thế: Hai bài mà tôi đàm đạo nhiều giờ cùng thi sĩ CTT với khá nhiều chi tiết lý thú là bài: “Núi và Suối Một Huyền Sử”. Đại để nhà thơ quen một bạn đồng tù ở trại Hầm Tân (tức trại trại Z30D, thuộc tỉnh Bình Thuận), gần trại có suối Nước Trong, có rặng núi Mây Tào. Chuyện kỳ tích như thần thoại Hy Lạp cổ xưa của thế kỷ hoàng kim Odysseus, có truyện tình lâm ly bi ai như lọai Romeo và Juliet. Chuyện về người con gái Ngọc Tiên và Cung Thi Nhân được thi vị hóa qua kỳ tích Ulysse gặp Pénélope như CTT đã sáng tác một trường thi dài 5 trang sách.
Bài thi ca thứ #2 mang tên “Phồn Thực Ca”, tựa đề bài thơ dài 3 trang sách nói về yếu tố phồn tức phồn thịnh, phồn sinh, thiên nhiên phì nhiêu, được ưu đãi, ẩm thực dồi dào,… Thi nhân tâm sự ngày còn trẻ ông bay công tác về miền tây tỉnh Phong Dinh Cần Thơ, thi nhân đã gặp một cô giáo,. Cô có nước da trắng tuyệt trần, mũi cao vút, làn tóc dài như sông Cửu,.. Nàng là biểu tượng cho gái miền Nam, vùng đất kết hợp bởi 2 sắc dân, 2 nền văn minh cổ Champa và Khmer (đất Phù Nam, Óc Eo), Hai đế quốc này khi xưa chịu ảnh hưởng các nền văn hóa Brahman (Bà-la-môn) và Bangla (Ấn Bengale). Phải kể Champa (ảnh hưởng hệ phái Muslim Hồi từ gốc Mecca, trong khi Khmer chịu ảnh hưởng Ấn giáo nền văn minh Phật giáo. Vào thế kỷ 14 Chiêm quốc gây rối nước Đại Việt xứ ta vua Trần Thánh Tông (1240 – 1290), đem đại binh dẹp loạn, Chiêm quân vẫn phá phách, gây rối đất ta, Khi vua Chế Bồng Nga bị quân ta sát hại tại mật trận, hai vị vua hai nước Việt Chiêm đời sau là vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), và vua bên Chiêm quốc là Chế Mân (1288 – 1307) được hòa hoãn hơn, sự liên hệ trở nên thân thiện và nồng thấm hơn, bên vua bên ta đem gả ái nữ đẹp tuyệt trần cho Chiêm vương. Chế Mân tôn vinh Huyền Trân công chúa là hoàng hậu Paramecvari. Khi Champa và Đại Việt đã sống yên vui, hòa thuận trong bang giao giữa hai nước. Chế Mân đã nhượng đất đai, dâng hai châu Ô, châu Lý (nay là tỉnh Thừa Thiên-Huế), Đại Việt trước đó được thêm phần đất Thuận Hóa (tỉnh Quảng Bình), xứ ta mở rộng bờ cõi.
Đây là bước tiến mở mang bờ cõi chiến lược mỹ nhân kế. Những dịp lễ hội Đại Việt, vua Chế Mân phái những đoàn vũ nữ apsara với thân hình phồn sinh, nảy nở bẩm sinh, đôi bồng đảo căng tròn nhựa sống, những apsara với cơ ngơi bốc lửa, mê ly như mọng, làn da ngăm sạm bánh mật, cánh mũi thon gọn và thẳng tắp, đôi mắt to tròn sâu thẳm. Tương tự bên văn hóa Khmer cũng có những điệu vũ do Apsara như vậy trong các di tích kiến trúc tại Angkor Thom ngày nay. Các tỉnh như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu Châu Đốc cộng đồng Champa và Khmer Krom vẫn còn nhiều, và lễ lạc apsara vẫn phồn sinh, phồn thực như thơ Cung thi nhân. Chủ đề của nhà thơ ghi dấu huyền tích và nhan sắc, phần gái đẹp miền tây theo phạm vi nhân chủng học, nét đẹp do sự lai căng do tạp chủng (beauté par les races mélangées), vì sự tạp chủng giữa người gốc Champa và người Khmer pha lẫn sắc diện gốc Ả rập Mecca và Ấn Bangla, rồi lai Việt và Tàu, nên những thiếu nữ miệt Lục tỉnh động lòng thi nhân chăng (?), tôi xin hỏi ông nhé.
CTT điểm qua bài thơ #2 “Phồn Thực Ca”. Thi nhân CTT có hỏi tôi có biết gái miền tây đẹp như thế nào không, tôi bảo “Không”. Thi nhân mạn đàm là gái miền Tây đơm hoa kết trái bởi hương thơm mít tố nữ, bởi hương thơm hoa sứ nhà nàng (vì champa có nghĩa là hoa sứ), ôi chao nào những apsara phồn thực, kỳ bí, như những bầu vú sữa tím than, sa pô chê, nhãn lồng, cam mật, mận ngọt, quít đường,.. Với ký ức nay đã vào dĩ vãng với cô giáo Tây Đô, tên Hậu Giang của thuở ngày xưa, Vẻ đẹp nhân hậu khiến Cung thi nhân hình thành bài thơ “Phồn Thực Ca”. Góc dĩ vãng đưa ông trở về với lý luận có mối liên hệ đến lịch sử cũ và ký tích vũ công apsara dù nét xinh đẹp của người con gái hậu giang đó có nguồn gốc tạp chủng ra sao của các nền văn minh cổ Champa hay Khmer, vẫn như nét huyền bí, và thần thoại trong chất thi ca của ông.
Hôm họp mặt hội ngộ thân hữu thi ca văn học với liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian, thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã huyên thuyên, hoạt bát say thơ trên sân khấu, ông đưa cử tọa về một góc trời Paris, có ga Lyon đèn vàng, có vườn Luxembourg. Thi ca huyền bí có Ngọc Tiên một huyền thoại Pénélope của Hy Lạp, rồi có lịch sử hiện về với “Phồn Thực Ca”. Vẻ đẹp Apsara Champa, hay Angkor Thom ẩn chứa nét thi triết vũ trụ, thiên nhiên, văn hóa, tâm linh, con người,… những khía cạnh mà thi ca Rabindranath Tagore, Kahlil Gibran, Charles Baudelaire, JP Sartre,… phản ảnh trong chất thơ. Chất thơ như vậy mang tính chất đồng bộ với thi ca Cung Trầm Tưởng.
Trong quan điểm “La bonne personne au bon endroit au bon moment” vì hầu như Cung thi nhân mang cung mạng Kim Phong Kiếm (Vàng ở Kiếm), vốn là người của danh vọng, của đào hoa, của số đỏ hồng loan chiếu mạng. Nhà thơ xét theo tướng số tử vi, ông Nhâm Thân (1932) được sao văn xương hội tụ cùng cung hóa khoa chiếu bổn thân, khiến bao lộc may văn cung hỗ trợ mệnh chủ tế về diện công danh phú quới, bổn mệnh được tài cao đức trọng nhờ văn chương, thi phú có biểu hiện xuất sắc về mặt tài nghệ thâm sâu văn học.
Như quan điểm trên, tôi suy nghĩ Cung Trầm Tưởng đã đúng với câu nói của người Pháp là: “Một người luôn ở vị thế đúng chỗ, đúng thời”.
Vâng, ông là người của duyên số danh vọng mãn kiếp! (L’homme de gloire kalpa, toujours!).
Trần Việt Hải, Los Angeles.
Cung Trầm Tưởng et “Philo-poesie francaise et mystique” avec un peu de concept francophone en littérature:
————————————————————————————-
Sommaire … Philo-poésie et mysticisme … rencontre le poète Cung Trầm Tưởng …
L’origine de la poésie philosophique peut être référée aux soi-disant présocratiques, des penseurs qui, dans la Grèce antique, ont participé aux origines de la philosophie et étaient du milieu du Ve siècle jusqu’au IVe siècle av. J.-C., c’est-à-dire la majorité avant Socrate. Parménide, Héraclite, Empédocle et Démocrite sont les plus représentatifs de ce courant où la poésie et la philosophie sont indissociables. D’un côté, d’autres penseurs de l’époque gréco-romaine, où il nous montre que la poésie est le lien, ou au sens de la médiation, entre religion et philosophie. Ils choisissent le vers homérique, la scansion de Hésiode ainsi que le noble Horace dans les Odes, ou le fragment, mais aussi l’aphorisme ou le point, toute forme brève et confuse pour exprimer leurs pensées.
Selon Cung Trầm Tưởng, de nombreux poèmes qu’il a récemment composés reflètent en quelque sorte une pensée qui en est l’acte très mystérieux. Un autre sens, sa “nouvelle” poésie est un moyen d’évoquer la diversité de l’autre et tous les domaines de mélange entre Est et Ouest … Reliant la contribution poétique de Rabindranath Tagore, Kahlil Gibran, Charles Baudelaire, JP Sartre (Les jeux sont faits), … Lors de la réunion amicale de bavardage avec de nombreux membres du club NVNT & TTG, il a convenu que son nouveau style de poèmes portait aujourd’hui le mystère des questions de l’amour, de la nature, de … VHLA 20 Novembre 2019.
——————————————————————————
Thơ Tagore và thơ của Cung Trầm Tưởng.
Thơ Tagore và thơ của Cung Trầm Tưởng có điểm tương đồng về những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Điểm nổi bật thấm đẫm chất văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người. Triết học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người. Ông phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ Ấn với niềm cảm thông sâu sắc, gióng lên tiếng nói đấu tranh đòi tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người. Có thể nói, với Tagore, được sống trên đời thực sự là niềm vui cao quý khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.
Trong niềm vui để sống, Thượng Đế là đấng quyền năng thần bí xa xôi. Nhưng đối với R.Tagore, thượng đế không ở đâu xa lạ mà là nguồn an ủi cho ta yên vui, T agore sống với sự lạc quan, vì để làm nguồn an ủi, nó là tình yêu thương đã mang lại cho con người khát vọng và niềm vui sống. Trong tổ ấm tình yêu thương của chúng ta hãy lấy sắc màu, âm thanh, hương thơm, ấp ủ linh hồn.”, những ý tưởng yêu thương, yêu sống và lạc quan lãng đãng trong 3 thi phẩm gồm Lời dâng (Gitanjali), Tâm tình hiến dâng (The Gardener) và Tặng vật (Lover’s Gift).
Kahlil Gibran:
” Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.
“To wake at dawn with a winged heart and give thanks for another day of loving”
Trong tác phẩm Uyên Ương Gãy Cánh – Broken Wings của nhà văn, nhà thơ, triết gia, họa sĩ người Mỹ gốc Lebanese – Kahlil Gibran, cốt truyện đại để là:
Tình yêu là kết quả của mối liên hệ tình yêu thánh thiện, platonic, không xác thịt, tác giả cho vai người nữ là Selma. Như Cung Trầm Tưởng, sự mộng ảo Gibran đã mô tả nhan sắc Selma như một nàng tiên nữ kỳ bí, khi ẩn khi hiện. Đôi tình nhân tuy yêu nhau nhưng phải chấp nhận kết quả cay đắng, họ phải chấp nhận sự chia lìa nhau, chôn kín mối tình sầu vừa chớm nở nhưng đã trở thành thiên thu. Selma vâng lời cha đi lấy người mà nàng không yêu, vì hiểu rằng cha nàng phải làm điều đó để tránh những thảm họa đổ xuống cho gia đình. Mối tình cao đẹp ấy cuối cùng đã kết thúc bằng cái chết của Selma dù có mang. Chỉ còn lại chàng trai trẻ khóc than cho số phận trước ngôi mộ của người chàng yêu thương. Người con gái ấy đã rời bỏ kiếp sống khổ đau hiện tại để mong được tái sinh trong một cuộc đời khác cùng với đứa con vừa lọt lòng mẹ, mang theo cả tình yêu của đời nàng. Cùng với cái chết của nàng, Gibran đã chôn vùi luôn cả trái tim của mình. Một mối tình khởi đầu thật đẹp và kết thúc đầy nước mắt : Đó là mối tình chia ly tan vỡ, và đã gẫy cánh,
Thơ Baudelaire
Bài L’Albatros (Chim hải âu), một trong những bài thơ nổi tiếng của Baudelaire, kết thúc bằng đoạn thơ sau đây :
“Người thi sĩ như (chim hải âu,) bay vương trên chín tầng mây
Chim bay trong bão táp và nhạo cười kẻ dương cung bắn ;
Bị đày xuống mặt đất giữa những tiếng la ó,
Hai cánh khổng lồ ngăn trở bước chân chim.”
Đó là hình ảnh của Baudelaire, cũng là hình ảnh của Cung Trầm Tưởng, vì người thi sĩ bị đày xuống trần thế say yêu và say thơ, họ rất giống nhau. Baudelaire đã sống kiếp lưu đày như thế nào ? Đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ra sao ? Thi phẩm Les Fleurs du Mal của ông có ảnh hưởng nhiều đối với thi ca Pháp và cũng như thi ca Việt Nam, mà Cung thi nhân vốn thích, tôi chia sẻ với ông điểm này.
Conclusion:
Tôi suy nghĩ Cung Trầm Tưởng đã đúng với câu nói của người Pháp là: “Một người luôn ở vị thế đúng chỗ, đúng thời”.
——————————————————————————-
Những ai mến mộ dòng thơ Cung Trầm Tưởng và muốn có một buổi sinh hoạt vui tươi với thi nhân, xin liên lạc với Ban Tổ Chức chúng tôi theo Poster kèm. Một pose hình chụp chung, một dĩa bánh sinh nhật 90 của ông. hay một buổi mạn đàm thơ nhạc lưu niệm với Cung thi nhân về Cali từ nơi băng giá Minnesota..
VHLA
Bơi trong cõi văn chương Cung Trầm Tưởng- :Việt Hải Los Angeles:
https://www.tvvn.org/cung-tram-tuong-viet-hai-los-angeles/
————————————————————————————
Thi sĩ Cung Trầm Tưởng ghi nhận trong thi tập
“Cung Trầm Tưởng: Một hành trình thơ 1948-2018”.
Cách một tháng nhà thơ CTT ngỏ ý muốn tôi nói nhận định về thi tập này, nay tôi xin cô đọng lại chỉ nói về 2 bài thơ tiêu biểu trong loạt “thơ mới” của ông khi nhà thơ từ bỏ lối tình thơ ướt át “loại Chưa Bao Giờ Buồn Thế”: Hai bài mà tôi đàm đạo nhiều giờ cùng thi sĩ CTT với khá nhiều chi tiết lý thú là bài: “Núi và Suối Một Huyền Sử”. Đại để nhà thơ quen một bạn đồng tù ở trại Hầm Tân (tức trại trại Z30D, thuộc tỉnh Bình Thuận), gần trại có suối Nước Trong, có rặng núi Mây Tào. Chuyện kỳ tích như thần thoại Hy Lạp cổ xưa của thế kỷ hoàng kim Odysseus, có truyện tình lâm ly bi ai như lọai Romeo và Juliet. Chuyện về người con gái Ngọc Tiên và Cung Thi Nhân được thi vị hóa qua kỳ tích Ulysse gặp Pénélope như CTT đã sáng tác qua bài thơ #1.
* “Núi và Suối Một Huyền Sử”, thơ trích đoạn…
“Đáy mắt có chiều sâu tráng lệ
Tháp Chàm ảnh ảo ngậm hoàng hôn
Tóc lăn tăn gió cỏ đuôi chồn
Lời vuốt ve ru hồn ngủ võng…
Núi giãi tâm tư, bày ước vọng
Chở chiều vàng lộng nắng rừng buông
Ôm nguyên thanh thoát một vùng hồng
Thụ phấn lòng em tình lẫm liệt”
(trích thơ “Núi và Suối Một Huyền Sử” trong thi tập “Cung Trầm Tưởng: Một Hành Trình Thơ 1948-2018)
Bài thơ #2 mang tên “Phồn Thực Ca”, tựa dề bài thơ nói về phồn tức phồn thịnh, phồn sinh, thiên nhiên phì nhiêu, được ưu đãi, ẩm thực dồi dào. Thi nhân tâm sự ngày còn trẻ ông bay công tác về miền tây tỉnh Phong Dinh Cần Thơ, thi nhân đã gặp một cô giáo Hậu Giang, cô có nước da trắng tuyệt trần, mũi cao vút, làn tóc dài như sông Cửu,.. Nàng là biểu tượng cho gái miền Nam, vùng đất kết hợp bởi 2 sắc dân, 2 nền văn minh cổ Champa và Khmer (đất Phù Nam, Óc Eo), Hai đế quốc này khi xưa chịu ảnh hưởng các nền văn hóa Brahman (Bà-la-môn) và Bangla (Ấn Bengale). Phải kể Champa (ảnh hưởng hệ phái Muslim Hồi từ gốc Mecca, trong khi Khmer chịu ảnh hưởng Ấn giáo nền văn minh Phật giáo. Vào thế kỷ 14 Chiêm quốc gây rối nước Đại Việt xứ ta vua Trần Thánh Tông (1240 – 1290), đem đại binh dẹp loạn, Chiêm quân vẫn phá phách, gây rối đất ta, Khi vua Chế Bồng Nga bị quân ta sát hại tại mật trận, hai vị vua hai nước Việt Chiêm đời sau là vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), và vua bên Chiêm quốc là Chế Mân (1288 – 1307) được hòa hoãn hơn, sự liên hệ trở nên thân thiện và nồng thấm hơn, bên vua bên ta đem gả ái nữ đẹp tuyệt trần cho Chiêm vương. Chế Mân tôn vinh Huyền Trân công chúa là hoàng hậu Paramecvari. Khi Champa và Đại Việt đã sống yên vui, hòa thuận trong bang giao giữa hai nước. Chế Mân đã nhượng đất đai, dâng hai châu Ô, châu Lý (nay là tỉnh Thừa Thiên-Huế), Đại Việt trước đó được thêm phần đất Thuận Hóa (tỉnh Quảng Bình), xứ ta mở rộng bờ cõi.
Đây là bước chiến lược mỹ nhân kế. Những dịp lễ hội Đại Việt, vua Chế Mân phái những đoàn vũ nữ apsara với thân hình phồn sinh, nảy nở bẩm sinh, đôi bồng đảo căng tròn nhựa sống, những apsara với cơ ngơi bốc lửa, mê ly như mọng, làn da ngăm sậm bánh mật, cánh mũi thon gọn và thẳng tắp, đôi mắt to tròn sâu thẳm. Tương tự bên văn hóa Khmer cũng có những điệu vũ do Apsara như vậy trong các di tích kiến trúc tại Angkor Thom ngày nay. Các tỉnh như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu Châu Đốc cộng đồng Champa và Khmer Krom vẫn còn nhiều, và lễ lạc apsara vẫn phồn sinh, phồn thực như thơ Cung thi nhân. Chủ đề của nhà thơ ghi dấu huyền tích và nhan sắc, phần gái dẹp miền tây theo phạm vi nhân chủng học, nét đẹp do sự lai căng do tạp chủng (beauté par les races mélangées), vì sự tạp chủng giữa người gốc Champa và người Khmer pha lẫn sắc diện gốc Ả rập Mecca và Ấn Bangla, rồi lai Việt và Tàu, nên những thiếu nữ miệt Lục tỉnh động lòng thi nhân chăng (?), tôi xin hỏi ông nhé.
Bài thơ #2 “Phồn Thực Ca”, thơ trích đoạn…
Ông viết về quyền lực siêu phàm của người nữ trong thơ Baudelaire, Cung Trầm Tưởng cho loại vầng tụng ca như sau:
Em ướp trầm hương ngan ngát thánh,
Ngồi trong đời cũng ngự ngôi trên.
Em gần gũi cũng thiêng khôn kể,
Dạy dỗ thi ca ý niệm đền.
Là khởi sự cùng là kết thúc,
Đầu nguồn mạch nước, cuối dòng sông.
Em sinh sôi những áng cầu vồng,
Trước Sách Ước đến sau cùng Lịch Sử.
(trích thơ “Phồn thực ca” trong thi tập “Cung Trầm Tưởng: Một Hành Trình Thơ 1948-2018).
CTT qua bài thơ #2 “Phồn Thực Ca”. thi nhân CTT có hỏi tôi có biết gái miền tây đẹp như thế nào không, tôi bảo “Vợ em là gái Bắc Hà thành ra nên em không biết nhiều về các cô gái Cửu Long giang, miền Tây lục tỉnh ra sao”. Thi nhân bảo gái miền Tây đơm hoa kết trái bởi hương thơm mít tố nữ, bởi hương thơm hoa sứ nhà nàng (vì champa có nghĩa là hoa sứ), ôi chao nào những apsara phồn thực, kỳ bí, như những bầu vú sữa tím than, sa pô chê, nhãn lòng, cam mật, mận ngọt, quít đường,.. Với ký ức nay đã vào dĩ vãng với cô giáo Tây Đô ngày xưa, Cung thi nhân hình thành bài thơ “Phồn Thực Ca”, có liên hệ đến ký tích vũ công apsara dù nét xinh đẹp của người con gái có nguồn gốc tạp chủng của các nền văn minh cổ Champa và Khmer.
————————————————————————————-
Cung Trầm Tưởng
Cung Trầm Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 60. Tên tuổi Ông nhanh chóng tràn vào giới thanh niên trí thức thời bấy giờ khi ông từ Pháp trở về Việt Nam cùng không khí lãng mạn của phong trào thơ mới, lúc đó vẫn còn ảnh hưởng nhiều đến thanh niên trí thức Việt Nam.
Mặc Lâm, phóng viên RFA
2010-01-05
Photo: Cung Trầm Tưởng
Ngay cái tên của ông cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng.
“Tôi là Cung Trầm Tưởng vào khoảng 50-51 tôi du học tại Pháp..sau đó tôi thi đỗ vào trường không quân của Pháp học chung với ông Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn Ngọc Loan…Đến năm 1957 tôi trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh chủng không quân cho đến ngày 30/4/1975 tức là được 23 năm.
Trong thời kỳ ở Pháp tôi làm thơ rất nhiều tập trung vào thơ lãng mạn, tình yêu đôi lứa như Mùa Thu Paris, Chưa Bao Giờ Buồn Thế được tôi sáng tác trong khoảng thời gian này. Có những bài thơ tôi chưa từng đăng bất cứ báo nào thì bây giờ nó sẽ được tập trung lại trong toàn tập thơ của tôi trong 60 năm mang tên Cung Trầm Tưởng và Hành Trình Thơ, sẽ được xuất bản trong năm tới.”
Trong thời kỳ ở Pháp tôi làm thơ rất nhiều tập trung vào thơ lãng mạn, tình yêu đôi lứa như: Mùa Thu Paris, Chưa Bao Giờ Buồn Thế… Cung Trầm Tưởng.
Cung Trầm Tưởng vừa sơ lược cho chúng ta biết về đời sống sáng tác của ông mà trong đó phần quan trọng nhất làm nên một Cung Trầm Tưởng từ một bài thơ sống rất lâu trong trí nhớ nhiều người đó là tác phẩm Mùa Thu Paris. Tác phẩm này được đem tới người nghe qua tài năng của Nhạc sĩ Phạm Duy khi ông phổ nó thành thơ và giới thiệu trên đài phát thanh Sài Gòn.
Ngôn ngữ trong bài thơ thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, bài thơ được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó chưa bao giờ xảy ra, đó là:
Một chàng thanh niên Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ. Bài
thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp.
Mùa thu Paris
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt gía từ tâm
Mùa thu nơi đâu ?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Mùa thu Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì
Mùa thu không lời
Son nhạt đôi môi
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời
Mùa thu! mùa thu
Mây trời âm u
Yêu người độ lượng
Trông em tâm tưởng, giam tù
Mùa thu !… Trời ơi ! Tình thu !
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng chia sẻ với chúng ta kỷ niệm về bài thơ này:
“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là có thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút, tất cả về tóc vàng mắt xanh là có thật. Thời đó tôi học ở trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con, đã sẵn có ngôn ngữ Pháp và văn hóa Pháp thấm nhuần trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng nó đánh giá những kỷ niệm đầu đời của mình.”
Tôi làm những bài thơ về Paris đó là có thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút, tất cả về tóc vàng mắt xanh là có thật. Cung Trầm Tưởng.
Kỷ niệm đầu đời cùng các mối tình tóc vàng mắt xanh ấy đã là nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng vào thời mới lớn. Những chiếc ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao cuộc chia tay trước đó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình dị chủng giữa một chàng trai một đất nước bị trị và một cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây.
Từ đây trong hơi thở rẽ chia ấy, bắt đầu một thấm đượm khác nối liền hai bờ đại dương. Và cũng bắt đầu một vói ra ngoài, một trằn trọc mới đối với hàng triệu thanh niên Sài Gòn thời bấy giờ.
Chưa bao giờ buồn thế
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này rồi
Chia tay nhau tức khắc
Khóc đi em. khóc đi em
Hỡi người yêu xóm học
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em…
Ôi đêm nay
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tàu em đi tuyết phủ
Toa anh lạnh gió đầy
Làm sao anh không rét
Cho ấm mộng đêm nay
Và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy !
Trời em mơ có sao
Mình anh đêm ở lại
Trời mùa đông Paris
Không bao giờ có sao
Trời mùa đông Paris
Chưa bao giờ buồn thế !
Cung Trầm Tưởng không phảỉ chỉ làm thơ tình với những khuông mẫu yêu đương trai gái. Dù lãng mạn hay cổ điển thì thơ tình không thể chia sẻ được hết mọi khổ đau của một người bị đày đoạ trong vòng tù ngục. Cung Trầm Tưởng như hàng trăm ngàn người khác sau khi Sài Gòn sụp đổ, đã cùng với đồng đội vào những nhà tù tập trung cải tạo để trả lời cho bài học lịch sử về ý nghĩa cuộc chiến tranh mà ông và đồng đội là những người thua cuộc.
Thơ của Cung Trầm Tưởng từ đây trở thành lạnh lẽo và chai cứng hơn. Chữ nghĩa ông sử dụng trong các bài thơ tù trở nên sắc sảo đến kỳ lạ. Sắc sảo và đớn đau như kim châm vào tim giữa mùa đông miền Bắc:
Áo tù thẫm máu đôi vai
Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa
Ngó tay bỗng thấy già nua
Cứa em thân xác thấy mùa thu qua
Môi cằn má hóp thịt da
Ngô vơi miệng chén canh pha nước bùn
Đêm nằm ruột rỗng vai run
Đầu kề tiếng súng chân đùn bóng đêm…
Bài thơ được làm tại Hoàng Liên Sơn vào mùa thu năm 1977 cách bài Mùa Thu Paris hơn 25 năm. Khoảng cách thời gian không làm bài thơ lạnh hơn mà chính khoảng cách con người làm bài thơ gần như hóa đá.
Ngôn ngữ thơ trong bài này bàn bạc những ẩn ức rất đời thường của người tù và người đọc cảm nhận ngay tính chất cay nghiệt của nó.
Thế nhưng Cung Trầm Tưởng lại có những bài thơ tù thấm đậm chất triết học. Nhà thơ tĩnh tại nhìn ngắm biến thiên của đời sống và thiền định tâm tưởng mình với những câu tuyệt đẹp:
Mưa về gióng lê thê
Nai kêu nguồn đâu đó
Xưa nay tù ngục đỏ
Mấy ai đã trở về
Vỗ, vỗ rơi tàn thuốc
Thả khói vào mông lung
Hư vô đẹp não nùng
Nụ hôn đời khốc liệt
“Nụ hôn khốc liệt” dành cho đời phải chăng là một cách phản ứng thụ động trong thế giới bừng bừng thống nhục mà nhà thơ đang trải nghiệm?
Cõi sầu ta tinh khiết
Thép quắc vầng trán cao
Phong sương dệt chiến bào
Với máu se làm chỉ
Đã đi trăm hùng vĩ
Xông pha lắm đoạn trường
về làm đá hoa cương
Gởi đời sau tạc tượng
Nguồn sống hồi sinh
Cung Trầm Tưởng trở về với cuộc sống sau khi đã nếm trải đầy đủ mọi thứ mùi vị của tù nhân như hàng trăm ngàn người khác.
Trong không khí gia đình, ông có những dòng thơ gợi mở tinh khiết hơn sau nhiều năm tháng thiếu vắng. Tiếng chuông nhà thờ và những nhành huệ trắng đã giúp ông gội rửa tâm tình để tâm hồn ngày một tươi tắn hơn, Ông tìm ra được nguồn suối trong ngay tại nhà mình hay nói đúng hơn, ngay tại lòng mình, một cõi lòng đang chuyển mình cùng với thiên nhiên để tạm quên cõi tục.
Huệ trắng trinh nguyên sau một đêm
Huệ trong thư các huệ ngoài thềm
Sớm nay Chủ Nhật thơm thương quá
Chỉ có Sài Gòn trong dáng em
Chủ Nhật niềm tin màu huệ trắng
Hiền từ xoạt áo như lời kinh
Em đi lễ nhất trời trên ngõ
Dẫy tóc đen mềm ánh sao xanh…
Sài Gòn dưới mắt nhà thơ đã dần dần lấy lại được hình ảnh tinh khôi của nó vào những sớm mai trong trẻo. Người con gái trong thơ ông từ từ sống lại, khác với cô tóc vàng khi xưa, cô gái Sài Gòn bây giờ trắng như huệ và trong như ban mai trinh nguyên của một Sài Gòn ấm áp.
Tuy thế, người yêu thơ Cung Trầm Tưởng không dễ gì quên cô gái tóc vàng bên trời Tây cách đây hơn 50 năm để chia sẻ những cảm nhận của nhà thơ những hình ảnh của các cô gái Sài Gòn ngày nay.
Tiếng còi tàu vẫn chứng tỏ ma lực của nó quyến rũ người đọc thơ đến mức sau bằng ấy năm, hình như mỗi lần nghe lại bản nhạc Tiễn Em do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” của ông, người nghe vẫn cảm thấy hình như đang dấy lên nỗi buồn man mác.
Nỗi buồn không tên nhưng có thật. Và nó vẫn ở đấy trong bất cứ người nào nếu từng thừa nhận rằng sự chia tay nào cũng đều rơi nước mắt…
RFA link: https://www.rfa.org/…/Arts-and-Literature-Magazine-Cung-Tra…
Thi Ca Cung Trầm Tưởng:
https://baotreonline.com/…/gio…/cung-tram-tuo%CC%89ng.baotre
Cung Trầm Tưởng:và tác phẩm, Một hành trình thơ:
https://www.nguoinam.com/phpbb/viewtopic.php?f=144&t=3136
Mùa thu Paris – Cung Trầm Tưởng và Tiễn em – Phạm Duy:
https://bacsiletrungngan.wordpress.com/…/chua-bao-gio-buon…/
Cung Trầm Tưởng và một hành trình thơ 60 năm:
http://www.viendongdaily.com/cung-tram-tuong-va-mot-hanh-tr…
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng và hoàn cảnh sáng tác những bài thơ Paris nổi tiếng: “lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế…”
http://vietmania.blogspot.com/…/nha-tho-cung-tram-tuong-va-