-
GIỚI THIỆU BAN NHẠC TRẺ ANGEL BAND
Nhạc sĩ Huy Phước cùng ban nhạc Angel Band tổ chức buổi lễ mừng Labor Day 2023. Bước vào music studio trang trí hệ thống đèn màu (multicolor helicopter lighting) đẹp mắt. Angel Band mở đầu party với nhạc phẩm “Oye Como Va”. Đây là ca khúc do nhạc sĩ Latin jazz và mambo Tito Puente sáng tác vào năm 1962. Bản hát lại của ban nhạc rock Santana đã đưa ca khúc này trở nên nổi tiếng với vị trí số 13 tại Billboard Hot 100, số 11 tại Billboard Easy Listening và số 32 tại Hot R&B/Hip-Hop Songs. Nhan đề ca khúc được lấy từ câu hát chủ đề “Oye Como Va”, có nghĩa là “Có khỏe không?”, tuy nhiên khi đứng cùng cả câu hát “Oye como va, ma ritmo” thì lại có nghĩa “Giai điệu của tôi có hay không?”
Phu nhân của anh Huy Sinh (Lead Guitar), Huy Sinh (Guitar), Huy Tùng (Keyboard), Huy Đồng (Bass), Mạnh Bổng, Huy Dũng (Drum), Huy Phước (Accord) & Drum)
Ca khúc được sáng tác theo nhịp cha-cha-cha với nhiều nét tương đồng với “Chanchullo” của Israel “Cachao” López. Tạp chí Latin Beat từng viết vào năm 1967: “Ca khúc kinh điển “Rareza de Melitón” (sau này đổi tên thành “Chanchullo”) do Cachao sáng tác vào năm 1937 đã là nguồn cảm hứng cho Tito Puente viết nên ‘Oye Como Va’ “. Ấn bản gốc do ca sĩ Santitos Colon trong ban nhạc của Puente thời điểm đó trình bày. Cachao cũng chơi violoncelle trong một số lần trình diễn trực tiếp của “Oye Como Va”. Bài ca Oye Como Va điệu cha-cha-cha thường được chơi trong những dịp bal des amis hay matinée boom.
Angel Band là ban nhạc trẻ, dĩ nhiên sở trường chơi nhạc trẻ rất khá, dưới sự điều khiển của nhạc sĩ Huy Phước. Tay trống xuất sắc là Huy Vũ, Huy Sinh lead guitar, Huy Tùng keyboard, Huy Đồng bass, Huy Dũng trống và Huy Phước đảm nhiệm cả hai vai trò lead solo (hay accord) và vocalist. Đây là một professional fullband mà chúng tôi được thưởng thức suốt một đêm dài của Labor Day 2023.
Trần Việt Hải
ÂM NHẠC TRONG ĐỜI SỐNG
Bài Viết Của Kiều My
Mừng lễ Labor Day 2023 vừa qua, gia đình chị Tâm An đã tổ chức một buổi văn nghệ hầu chiêu đãi bạn bè. Với lòng hiếu khách và hào hiệp, chị đã mời bạn bè và nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian tham dự buổi ca nhạc tại tư gia…vô cùng ấn tượng. Đặc biệt, mọi người được thưởng thức một đêm văn nghệ độc đáo với ban nhạc sống của nhạc sĩ Huy Phước, phu quân của chị Tâm An. Đây là khoảnh khắc chắc chắn sẽ ghi lại dấu ấn như một kỷ niệm khó quên trong lòng người.
Hình trên cùng: Minh Thư (Mặc áo & đội mũ đỏ) Hình giữa: Phạm Gia Đại, Vương Trùng Dương, Lê Nguyễn Nga, Mạnh Bổng, Lệ Hoa, Việt Hải, Khánh Lan, Ngọc Châu. Hình dưới cùng: Bà xã của anh Huy Sinh (Lead Guitar), Huy Sinh (Guitar), Huy Tùng (Keyboard), Huy Đồng (Bass), Mạnh Bổng, Huy Dũng (Drum) & Bà Xã, Huy Phước (Accord) & Drum) và phu nhân Tâm An, Lệ Hoa, Chị….và Anh…
Âm nhạc là một môn nghệ thuật mà Kiều My yêu thích từ tấm bé. Có thể nói: âm nhạc là một loại thần dược vô hình, mang đến nhiều lợi ích cho tinh thần và sức khỏe của con người. Hầu hết mọi người chúng ta đều thích âm nhạc, vì tính chất kỳ diệu của nó là nối kết con người lại với nhau một cách tự nhiên. Mang đến sự giao thoa thật tốt đẹp giữa tình đồng loại; giúp mọi người hòa đồng và cởi mở trong tình bạn hữu.
Âm nhạc có nhiều thể loại và chuyên chở nhiều ngôn ngữ khác nhau. Riêng người Việt Nam, ngoài nhạc Việt mà ta yêu thích đã đành, chúng ta còn thích cả nhạc Pháp, nhạc Anh, Mỹ v.v…
Kho tàng âm nhạc Việt Nam cũng rất phong phú. Nhiều nhạc sĩ tài ba đã sáng tác những nhạc phẩm từ thời tiền chiến, đến thời chiến…thật trữ tình, đầy tình người, đi sâu vào lòng người và mãi không phôi pha theo thời gian. Chẳng hạn như nhạc sĩ Văn Cao (Suối Mơ), Đoàn Chuẩn (Lá Đổ Muôn Chiều), Dương Thiệu Tước ( Tiếng Xưa), Phạm Duy (Bên Cầu Biên Giới), Lam Phương (Tình Anh Lính Chiến), Trần Thiện Thanh (Người Ở Lại Charlie) Ngô Thụy Miên (Mùa Thu Cho Em), Từ Công Phụng (Bây Giờ Tháng Mấy) Nguyễn Ánh 9 (Cô Đơn) v.v… Còn rất nhiều ca khúc có giá trị do nhiều nhạc sĩ sáng tác, đã đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam.
Nói đến nhạc Pháp, người Việt rất say mê vì âm điệu lãng mạn, nhẹ nhàng, sang trọng…rất gần gũi bản chất người Việt. Ngoài ra, người Việt có vẻ rất quen thuộc với nhạc Pháp vì đất nước chúng ta chịu ảnh hưởng nền văn hóa Pháp, thời Pháp thuộc gần 100 năm. Trong những bản nhạc Pháp ( La Chanson Francaise ) rất nổi tiếng vào những thập niên 1940, 50, 60, 70…qua tiếng hát của những danh ca Pháp thời bấy giờ như:
Edith Piaf – La Vie En Rose, Sous Les Ciel De Paris, Non Je Ne Regrette Rien…
Dalida – Bambino, Histoire d’un Amour, Bang Bang….
Sylvie Vartan – La Plus Belle Pour Aller Dancer, Quand Le Film Est Triste…
Mireille Mathieu – La Paloma, Une Femme Amoureuse, La Derniere Valse.
Vicky Leandros – Apres Toi, L’ Amour Est Bleu…
Christophe – Aline, Oh Mon Amour, Main Dans La Main….
Còn rất nhiều những bản tình ca Pháp rất hay đã đốt cháy lòng người, mà chúng ta được thưởng lãm qua nhiều thập kỷ.
Vào những năm đầu của thập niên 1970, giới yêu nhạc Pháp ở Saigon vô cùng thích thú khi được nghe bản nhạc PAROLES, qua hai tiếng hát hàng đầu của Pháp là Dalida và Alain Delon.
Những bản nhạc Pháp tiêu biểu này đã đi sâu vào lòng người và thật khó quên. Giới yêu nhạc Pháp rất say mê những bản nhạc tình lãng mạn từ ngày ấy cho đến bây giờ. Đặc biệt, những bản nhạc tình cảm Pháp vẫn tồn tại mãi với thời gian và ảnh hưởng sâu rộng khắp thế giới. Người Việt biết thưởng thức nhạc Pháp có thể nói: đây là sự lựa chọn những tinh hoa bậc nhất của âm nhạc vậy.
Kiều My nhớ và viết lại phần nào về phong trào nhạc rock du nhập vào Việt Nam ra sao, như thế nào nhé. Khi quân đội Hoa Kỳ sang chiến đấu tại Việt Nam vào cuối thập niên 1960 và đồng thời mang nhạc rock Mỹ vào nước ta. Vì các club nhạc mở ra để cho người Mỹ có nguồn giải trí. Thời bấy giờ ở Sài Gòn, tầng lớp học sinh, sinh viên ảnh hưởng văn hóa Pháp tiếp tục nghe nhạc Pháp, như là hiện tượng để chống trả lại sự thâm nhập văn hóa Mỹ đang ngày càng bành trướng. Nhưng dần dần những người chơi nhạc nhận ra nét độc đáo của nhạc pop/rock của Anh và Mỹ. Và rồi từ thủ đô Sài Gòn đến các thành phố lớn như: Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa, Vũng Tàu, Cần Thơ… cùng nhiều nơi khác chấp nhận loại nhạc rock, dù nguyên gốc hay được Việt hóa trong đời sống văn hóa của lớp người trẻ thời bấy giờ.
Cũng vào đầu thập niên 1970, giới yêu nhạc lại có dịp thưởng thức một sắc thái mới của âm nhạc nổi lên rầm rộ, đó là nhạc Anh , Mỹ…do những ban nhạc đang làm mưa gió trong những buổi ca nhạc trên thế giới. Chẳng hạn như:
Ban nhạc The Beatles nổi tiếng về nhạc Pop – Rock, đã lôi cuốn người nghe trong những buổi trình diễn như: Let It Be, Hey Juge, Imagine v.v…
Ban nhạc ABBA nổi tiếng với bản: Dancing Queen, Mamma Mia, I have A Dream, Fernando, Chiquitita,…
Ban nhạc Boney M. Lừng danh trong ca khúc “Rivers of Babylon”, “Bahama Mama”, Daddy Cool, “Rasputin”…
Carpenters – Một giọng hát rất đặc biệt qua những ca khúc như: Yesterday Once More, Top OF The World, Please Mister Postman…
Elvis Presley – Người ca sĩ rất nổi tiếng qua nhiều ca khúc như : Can’t Help Falling In Love, It’s Now or Never, Are You Lonesome Tonight v.v…
Celine Dion – Cô ca sĩ có giọng hát cao vút người Quebec, Canada đã đưa tên tuổi cô lên hàng danh ca qua những bài hát: My Hearth Will Go On, The Power of Love, Because You Love me v.v…
Whitney Houston – Nổi tiếng qua những ca khúc I Will Always Love You trong phim The Bod Guard; Greatest Love of All, I Have Nothing v.v….
Suốt nhiều thập kỷ qua, nhạc Anh Mỹ đã tràn ngập thế giới, mang đến cho người yêu âm nhạc cả rừng nhạc. Trong số đó, có nhiều ca khúc đã chiếm giải Oscar, Hoa Kỳ.
Nói đến nhạc Mỹ, Kiều My cũng có một kỷ niệm khó quên trong lớp Anh văn bậc trung học, ngày còn ở trong nước. Giáo sư Anh văn của lớp hát cho chúng tôi nghe bản nhạc Release Me, do nhạc sĩ Eddie Miller viết 1949; một bản nhạc tình mà ông thầy rất thích khi đi du học ở London. Âm điệu bản nhạc Release Me tha thiết du dương, rất truyền cảm…khiến chúng tôi ngồi thinh lặng nghe thầy hát. Và bản này đã trở thành bản nhạc Mỹ mà KM thích nhất trong số những bài hát hay Anh Mỹ, cũng không thua kém nhạc Pháp.
Trong những bài hát bất hủ của thế giới âm nhạc, chúng ta không thể không nói tới bản La Paloma, được dịch qua lời Pháp từ gốc Tây Ban Nha do nhạc sĩ Sebastián Iradier sáng tác vào khoảng năm 1860. Giai điệu của bản La Paloma rất tuyệt vời, đã chạm đến trái tim của hàng triệu người trên thế giới, trong đó có KM. Bản nhạc này trải qua trên một thế kỷ, nhưng nó vẫn sống mãi với thời gian.
Ca khúc bất hủ Le Beau Danube Bleu ( Dòng Sông Xanh) sáng tác bởi nhạc sĩ trứ danh người Áo Johann Strauss II (1825-1899). Bản nhạc này nổi tiếng vào năm 1867, khi điệu luân vũ của bản nhạc nổi lên do chính tác giả điều khiển tại một hí trường ở Paris, khán giả đã “bis” đến 20 lần. Kể từ đêm đó, Le Beau Danube Bleu không chỉ là tài sản nghệ thuật của nước Áo, mà đã bay đi khắp thế giới, được giới yêu nhạc hâm mộ và thưởng thức cuồng nhiệt. Ca khúc luân vũ này cũng là biểu tượng của “ Hy Vọng và Hòa Bình”, và cũng là tiêu biểu của thủ đô Vienne, Áo quốc. Bản nhạc lừng danh thế giới này được sáng tác trong tình yêu tuyệt vời của người tình dành cho tác giả… đã khiến những nốt nhạc được thăng hoa đỉnh điểm…
Le Beau Danube Bleu cũng đã được ban đại hòa tấu André Rieu, một tay vĩ cầm lừng danh người Dutch trình diễn khắp thế giới. Khán giả hoan hô nhiệt liệt trong tiếng réo rắc của vỹ cầm, lả lướt theo điệu nhạc luân vũ như dòng chảy của con sông thơ mộng Danube, giữa thủ đô Vienne Áo quốc.
Bản Le Beau Danube Bleu cũng đã được cố nhạc sĩ Phạm Duy soạn lời Việt với tên Dòng Sông Xanh. Đã được nhiều ca sĩ Việt hát rất xuất sắc qua giọng ca Thái Thanh, Ngọc Mai, Ngọc Hạ vv…
Bên cạnh đó, bản nhạc với giai điệu Boston du dương qua những buổi hòa nhạc, đó là ca khúc tuyệt vời Sérénade do nhạc sĩ lừng danh Frank Schubert người Áo (1797- 1828) sáng tác. Bản này cũng được liệt kê vào hàng nhạc bất hủ thế giới, sẽ sống mãi với thời gian vì giá trị cao của nó.
Trong cuộc sống hàng ngày, âm nhạc được ví như món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đời sống con người, là ngôn ngữ đại đồng chung cho nhân loại. Nếu cuộc sống mà thiếu âm nhạc thì chẳng khác gì thiếu ánh sáng mặt trời, thiếu không khí trên mặt đất này. Bởi thế cho nên triết gia Friedrich Nietzsche đánh giá cao về âm nhạc: “Không có âm nhạc thì cuộc sống sẽ là một điều sai lầm”. Hay như sự cần thiết mà thi hào William Shakespeare quan niệm: “Nếu ta yêu âm nhạc thì hãy vặn nó lên”… Còn cố ca sĩ Sony Bono đã từng nói: “Âm nhạc có thể thay đổi thế giới bởi vì nó có thể thay đổi được con người”.
Vai trò âm nhạc ảnh hưởng đối với đời sống của chúng ta rất nhiều, chính nó tạo ra những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn chúng ta. Âm nhạc làm cho cuộc sống chúng ta thăng hoa, trở nên tốt hơn. Điều đó được hiểu qua ý tưởng của người xưa, như quan điểm của triết gia Plato người Hy Lạp, học trò của đại triết gia lừng danh Socrates: “Âm nhạc là sự chuyển động của âm thanh, để linh hồn con người đạt đến sự giáo dục đạo đức của chính nó”.
Phải chăng nhạc thánh ca, nhạc đạo, nhạc về lòng yêu thương quê hương, nhạc về lòng mẹ hay tình cha… linh nghiệm đúng như vậy. Do đó, âm nhạc ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người, con người là loài vật duy nhất có thể cảm nhận thông suốt, hiểu biết bởi trí tuệ và thưởng thức với tâm hồn say mê yêu thích âm nhạc. Chung quy, thì phạm vi âm nhạc có hai loại chính khi biểu hiện: bằng giọng người tức thanh nhạc; nếu trình bày bằng các loại nhạc cụ là khí nhạc.
Ngoài ra, âm nhạc là nguồn hạnh phúc cho tất cả mọi người chúng ta sống trên trái đất. Không có âm nhạc thế giới thực sự sẽ rất buồn tẻ. Chính vì có âm nhạc trong sự chuyển động âm thanh của thiên nhiên như: gió, sóng biển, thác, suối, mưa, bão… cũng như sự chuyển động của cây cối; âm nhạc trong tiếng hót của các loài chim muông… Âm nhạc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hạnh phúc của con người. Âm nhạc xua tan đi nỗi sầu khổ của con người và rót đầy tâm tưởng chúng ta niềm vui sướng hân hoan. Bật lên những bài nhạc yêu thích và lắng nghe mà không cần làm điều gì khác, lắng nghe và lắng nghe trong sự thích thú. Chúng ta cảm thấy cuộc đời này có giá trị và đáng sống biết bao! Sự thật là như thế!. Ngẫm nghĩ về câu nói “La musique fait écho aux sentiments humains”, quả thật âm nhạc có thể xoa dịu những nỗi lo âu, khắc khoải trong cuộc sống. Âm nhạc là phương tiện chuyển tải cảm xúc trọn vẹn nhất của tâm hồn. Nhạc sĩ đại tài Beethoven cho rằng: “Âm nhạc làm trái tim của người nam sôi sục và khóe mắt của người nữ đẫm lệ”. Âm nhạc cũng có thể là ngôn ngữ của tâm hồn xao xuyến bớt đi cô đơn, hay khiến cho con tim ta khao khát yêu thương.
Âm nhạc có thể đưa tâm hồn ta cất cánh bay cao như cánh diều gặp gió; hay chìm lắng như trăng lặn dưới đáy hồ… theo dòng nhạc. Quả thật! Âm nhạc là một trong những nghệ thuật kỳ diệu của nhân loại!
Kiều My
-
Đại Hội Trần Lục 65 Năm Kỷ Niệm Niên Khóa 1958.
VHLA tường trình
Đại Hội Trần Lục 65 Năm Kỷ Niệm Niên Khóa 1958 được tổ chức vào sáng Chủ Nhật 20 Tháng 8 năm 2023 vừa qua tại nhà hàng Golden Sea, thành phố Anaheim, Quận Cam, Nam California. Anh “Đại Gia”, nói trại của ông “ngục sĩ cuối bảng” Người Tù Cuối Cùng Phạm Gia Đại. Theo tin báo Cali Weekly Vương Trùng Dương cho tin rush ngục sĩ Gulag Papillon Gia Đại xơi cơm thố veecees chán quá ông đóng bè vượt biên sông Thái Bình Dương được tàu dầu Mỹ đưa vào Sing-Ga-Po. Papillon Gia Đại vốn là chuyên viên dịch tin highly classified mà quý ông Graham Martin hay Ellsworth Bunker đọc sau ông ngục sĩ Gulag Papillon 17 niên. Papillon Gia Đại được Tướng quân trùm HO program John William Vessey Jr. hối hả đưa ngay Papillon sang xứ Bolsaland, đất lành chim đậu. Nhỡ để ông Gulag Papillon 17 niên lêu bêu bên Sing-Ga-Po, mí cha Đỗ Mười hay Mai Chí Thọ cho bọn biệt động truy sát tình báo của Tổng cục Tình báo (Tổng cục II), cum Papillon 17 phe ta quy nguyên về cố cuốc như cas cha Trịnh Xuân Thanh cho xơi cơm thố gulag tiếp, bỏ mẹ trời đất.
Hàng đứng, từ trái: Lâm Dung, Ngọc Quỳnh, CS Vân Khanh, Minh Khai, Minh Châu, Thụy Lan. Hàng ngồi, từ trái: Lệ Hoa, NV Việt Hải, NS Dương Hồng Anh.
Ba ngày trước Đại Hội Trần Lục 65 Năm Kỷ Niệm Niên Khóa 1958 được bọn báo chí, truyền thông cánh tả chơi Gulag Papillon 17 niên, vì Gulag Papillon 17 niên là thành viên cực hữu VACA MAGA của bác Đô-nan Trump (thay mặt BTC, uncle Phạm Gia Đại’s Signatures. Phạm Gia Ðại – Liên Minh Bảo Thủ Mỹ Gốc Việt… (Vietnamese American Conservative Alliance).
Từ trái: Minh Khai, Ái Liên, Lâm Dung, Ngọc Quỳnh
Từ trái: Thụy Lan, Lâm Dung, Ngọc Quỳnh, Lệ Hoa
Bão Hilary hù doạ thổi bay show hát Gulag Papillon 17 niên, ngục sĩ ta teo teo, bèn cầu cứu sừ Giời, ngục sĩ ta cúng vái ông Địa con vịt quay hiệu Bolsa BBQ, 2 nải chuối cau nhãn Chiquita. Sừ Giời xơi no nê xong text ngay urgent command cho sừ Thiên Lôi, God of Thunder ra tay ngưng ngay Hilary Storm, chận luôn những hậu bão Obama Storm, Kamala storm, Pelosi storm, Joey storm, … Sừ Giời ban cho phe ta clear sky, quan khách vô chật rạp Golden Sea. Viva Sừ Giời!!! Bravo God of Thunder!!!
Người ta mục kích ban tam ca Omega 3 chơi bài “cabinet song” Ô Mê Ly, ngục sĩ Papillon 17 niên ca “bài tủ ca” đã ca suốt 2 thế kỷ La Chanson d’Orphée (aka Manhã de Carnaval, tức A Day In The Life Of A Fool, tên Anglais). Ca sĩ Phạm Bảo Ngọc, Trần Lục San Jose chơi liền tù tì double songs Tiếng Hát Nửa Vời (Nhạc Trần Trịnh) và Dạ khúc Serenade (Composer Frank Schubert – Lời việt Pham Duy). Đôi song ca chị em sinh đôi Thuỵ Lan và Lệ Hoa cất giọng ca bài Bên Nhau Ngày Vui (Quốc Dũng) mà hai cô hát nhão bao John Tạ’s CDs. Cô Thụỵ Lan bonus song bài “Million Scarlet Roses” (Mільйон червоних троянд, Milʹyon Chervonykh troyand, Миллион алых роз, Million alykh roz, written by composer Andrei Voznesensky), Thụỵ Lan ca xong 3 sừ Chris Trần Mạnh Chi, Vladimir Putin và Volodymyr Zelenskyy đồng thanh cho cảm nghĩ: “Tụi moa mà hiểu cho chết liền đi thôi!!!”…
Cô Thụỵ Lan bonus song bài “Million Scarlet Roses”
http://www.ninh-hoa.com/VietHai-TiecLienHoanCountDownCuoiNam.htm
Sáng hôm sau, 08/21/23, cụ bà U92 Dương Hồng Anh gọi phôn cho cảm nghĩ:
“Tôi thành thực cám ơn anh Việt Hải và quý anh chị em tốt với tôi quá, lo cho tôi các thứ. Đi tiệc anh Đại tôi vui lắm. “Cô Minh Châu kéo tôi ra nhảy, tôi biết gì đâu, chỉ nhún nhún cho vui thôi”.
NV Việt Hải và Nữ Sĩ Dương Hồng Anh
Quả thực, ACE Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian “cưng” cụ bà U92 Dương Hồng Anh như cưng trứng mỏng. Minh Châu chạy uber đưa rước cụ bà U92 round trip, Thuỵ Lan dìu cụ bà U92 đi restroom round trip, babysit suốt buổi, sừ Trần Mạnh Chi và bà Lệ Hoa lo gắp thức ăn liên miên. Bà Khánh Lan và sừ Phạm Hồng Thái soạn thi tập mới cho cụ bà U92 khá đẹp. Cụ bà U92 cho biết song: “Từ ngày vô nhóm tôi vui, tôi yêu đời nên có những hôm tôi làm 3, 4 bài thơ, ý thơ cứ ra hoài.”
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Tôi góp ý cụ bà U92: “Khi nào cô vui hãy cứ vui như nhạc của ông Võ Tá Hân… Còn Gặp Nhau… Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương”:
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi,
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương
Tình người muôn thuở vẫn còn vương,
Chắt chiu một chút tình thương ấy
Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi
Bao nhiêu thú vị ở trên đời,
Vui chơi trong ý tình cao nhã
Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ cười
Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi
Cho hương thêm ngát, đời thêm vị
Cho đẹp thêm tất cả mọi người.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chào
Giữa miền đất rộng với trời cao,
Vui câu nhân nghĩa, tròn sau trước
Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.
Còn gặp nhau thì hãy cứ say
Say tình, say nghĩa bấy lâu nay
Say thơ, say bạn nhạc, say bè
Quên cả không gian lẫn tháng ngày.
Còn gặp nhau thì hãy cứ đi
Đi tìm chân lý – lẽ huyền vi
An nhiên tự tại – lòng thanh thản
Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.
Link: https://www.youtube.com/watch?v=16SRQdtFtNY
Tôi nhớ hôm Trần Lục 65, sừ divo Trần Mạnh Chi đốt sân khấu với bài techno “Dancing all night” …
Cụ bà U92 vui tươi vui, cụ 92 yêu đời, sẽ sống dai nhách như chewing gum Wrigley’s, cụ U92 tiễn đưa bọn trẻ như VHLA, Jean Michael Jackson, Hùng Ngọc, Đặng Mão, Dương Việt Điền, Trần Mạnh Chi… về chốn an bình “nine springs”, cụ U92 marathon vượt mức milestone U100 plus plus… Cụ U92 hãy cứ vui, chuyện đời như bước nhảy techno… Cụ U92 hãy cứ say, say tình, say xỉn bấy lâu nay.
Say người, say nhạc Chachacha Havana… quên cả không gian lẫn tháng ngày… Santana – Oye Como Va…https://www.youtube.com/watch?v=DoIqXz2AIFs
Và Cụ U92 hãy lắc twist, an vui tự tại – let’s twist again, twist twist again like we did last summer…. yeah, let’s twist again.https://www.youtube.com/watch?v=MG7cummRirs
Gần 3PM máu nhót quan kháqch dâng trào tsunamis, ngục sĩ Papillon 17 niên mời ca sĩ Chris Chi của sân khấu Feu Saigon Pearl at Irvine Spectrum Center lên ca kết thúc chương trình, Chris Chi đốt cháy sân khấu như wildfires Lahaina, bên Maui. Ba con túa ra
Bên Nhau Đêm Nay (Dancing All Night) – Techno dance:
Cụ bà Dương Hồng Anh U92 niên kỷ cùng 3 bạn tam ca Omega 3 Quỳnh Liên Dung và 2 chị em sinh đôi Thuỵ Lan và Lệ Hoa nhót techno…
Bên Nhau Đêm Nay – Lưu Ánh Loan- Techno dance:
Ngục sĩ Papillon 17 niên nhót bebop cùng cô 7 Minh Khai, Chris Chi cùng Minh Châu nhót Chachacha fast-paced in tempo. Chris Chi và Minh Châu fantasized bước nhảy trong thao tác kung fu như Bruce Lee và Jackie Chan trong cinema Enter the Dragon hay Kung Fu Hustle, khi đôi chân đá song phi 4 hướng, tôi nhìn Cụ bà Dương Hồng Anh U92 nhịp nhàng uyển chuyển bước nhảy Chachacha Havana. Tôi ước ao phải chi Sừ Giời không cho Hilary wild storm, để Trần Lục Party có thêm Kiều My, Mộng Thuỷ, Khánh Lan, Minh Thư, Ngoại Gina Nga, Thầy Sum, Thầy Bích,… tất cả vui enjoy “bal de famille” hay say bước rong đêm dài “boum des copains” cho những pha ngoạn mục Dancing All Night, với tempo Chachacha Havana, swing xoay người, rồi đá kung fu techno…. Merci bien Chris Chi, Ngục sĩ Papillon 17 niên et al… Enfin, merci à tous !!!
VHLA
———————————————————————
Đại Hội Trần Lục May Mắn Thành Công Ngoài Dự Tính
Phạm Gia Đại
Đại Hội trường Trung Học Công Lập Trần Lục và Kỷ Niệm 65 Năm Niên Khóa 1958 đã may mắn thành công ngoài mong ước của ban tổ chức (BTC) vào sáng Chủ Nhật 20 Tháng 8 năm 2023 vừa qua tại nhà hàng Golden Sea, thành phố Anaheim, Quận Cam, nam California, Hoa Kỳ.
Năm năm trước đại hội lần thứ nhất cũng được tổ chức tại nhà hàng Golden Sea này vào năm 2018 kỷ niệm 60 năm của niên khóa 1958, và đã để lại nhiều lưu luyến cho nên BTC đã được các bạn đồng môn thương mến yêu cầu tiếp tục tổ chức nữa để có dịp gặp nhau- kẻo chiều hôm tối rồi.
Năm nay đại hội lần thứ nhì ngày 20-8-2023 bị đe dọa nghiêm trọng bởi cơn bão Hillary với sức tàn phá lên tới cấp 4 được loan báo vào ngày Thứ Bảy và đang ở ngoài khơi sắp đổ bộ vào miền nam California. BTC quyết định vẫn tổ chức và cầu nguyện cho Trời quang mây tạnh để buổi họp mặt lần này cũng là buổi họp mặt cuối cùng của niên khóa 1958 được như ý nguyện, vì tất cả các bạn đồng môn nay đều đã luống tuổi và sức khỏe hao mòn.
Thế rồi như một phép lạ, chiều tối ngày Thứ Bảy 19-20-2023 đột nhiên cơn bão chuyển hướng và cường độ hạ xuống thấp chỉ còn cấp 2 và cấp 1, và sáng Chủ Nhật 20-8-2023 tuy trời vẫn còn mưa nhưng cơn bão đã đi qua. Đến 10:30am, BTC không khỏi lo lắng vì chỉ lác đác vài bàn đã đến, và BTC quyết định dời giờ khai mạc lại nửa tiếng, và quả Trời không phụ lòng người đến 11:30 am khi khai mạc đại hội thì quan khách đã đến đông đủ. Anh Việt Hải, con chim đầu đàn của nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian (NVNT & TTG) cho biết chị Lệ Hoa đã lái xe chở anh đi trong trời mưa trắng xóa đường phố từ Los Angeles xuống, khi đến Quận Cam, trời mới ngớt mưa, nhưng vẫn xông mưa gió mà đến.
Năm nay thầy Doãn Quốc Sỹ vừa tròn 100 tuổi vào tháng Giêng, đã yếu nhiều nên cô con gái cho biết rất tiếc thầy không đến tham dự được như 5 năm trước. Một số thầy cô cũng không đến được hay không liên lạc được, nhưng thầy cô Đỗ Kim Bảng đã đến đại diện cho thầy cô trường Trần Lục năm xưa.
Tiết mục đặc biệt của chương trình là thầy Đỗ Kim Bảng được mời lên sân khấu với các học trò cũ ngày xưa, với các thân hữu các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Bá Tòng, Petrus Ký, nhóm NVNT & TTG, và quý anh chị trong Hội Sư Đoàn 5 Bộ Binh VNCH, v.v… đồng ca bài hát nổi tiếng một thời tại Sài Gòn trước năm 1975 là bài hát “Mùa Thi” sáng tác của chính thầy Đỗ Kim Bảng. Một bài đồng ca nữa cũng nổi tiếng tại Sài Gòn năm xưa cũng được khán giả tán thưởng là “Con Đường Vui” do Trần Lục nam Cali và thân hữu trình diễn.
Một đặc điểm của chương trình đại hội kỳ 2 lần này là quan khách đã được thưởng thức những món ăn ngon nhất của nhà hàng, và chương trình văn nghệ thật đặc sắc với những giọng hát được chọn lọc trong các hội đoàn bạn và trong các đồng môn Trần Lục ngày trước. Ca sĩ Bảo Ngọc và các bạn từ San Jose xuống, Tam ca ngọc Quỳnh-Lâm Dung-Ái Liên, song ca Thụy Lan-Lệ Hoa, đơn ca Chris Trần của nhóm NVNT & TTG; Tường Vân, Tường Vy, Đồng Sĩ Ba, Thái Hùng, Định của SĐ 5 BB VNCH; Kim Loan của Lê Văn Duyệt; Đỗ Trọng Thái của Petrus Ký; Diệp Trần của Văn Hóa Quân Đội, Trần Ngọc Đắc, PGĐ của Trần Lục nam Cali; đã đưa khán giả về những khung trời thật thơ mộng đầy kỷ niệm của Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông năm nào này không còn nữa.
Hai MC của chương trình là Vũ Quốc Phong và Phạm Gia Đại đã điều hợp thành công đại hội kỳ hai này. Chương trình kết thúc đúng 3 giờ chiều cùng ngày, nhưng mọi người còn lưu luyến ở lại chụp thêm vài tấm hình. Chị Thy Dung bà xã Trần Lục Cao Sinh Cường cười nói BTC nên tổ chức mỗi năm đi cho vui.
Chúng tôi đưa tiễn thầy cô Đỗ Kim Bảng ra về, và bắt tay cám ơn người bạn đồng môn Trần Lục ở xa nhất từ Úc Châu đã lặn lội bay qua tận đây để tham dự Đại Hội. Thật tiếc lần này một số thầy cô, một số Trần Lục cũng vì sức khỏe đã không đến được vào phút cuối. Trong lần họp mặt kỷ niệm của niên khóa 1958 lần này cũng vắng bóng một số Trần Lục đã không còn ở với chúng ta nữa. Nhìn lại những hình ảnh 5 năm trước thật nhớ những người bạn hiền nay đã khuất bóng.
Tôi ở lại cùng thủ quỹ Thái Đại thanh toán tiền chi phí với nhà hàng, và sau khi kết toàn, điều không ngờ là BTC đã không bị thua lỗ mà còn dư ra được một chút đỉnh. Tôi nói với Thái Đại hôm nào BTC sẽ đi ăn mừng thoát nạn giông bão, và cám ơn Trời Phật và Ơn Trên. Tôi xách các banner vật dụng ra xe, trời vẫn còn mưa nhưng nhẹ hạt, những hạt nước mưa mát lạnh bay bay trong gió nhẹ như giúp cho tôi tỉnh lại sau gần bốn giờ đứng trên sân khấu. Quả là vất vả và nhiều lo âu sau những tháng ngày tổ chức, nhưng những nụ cười, những khuôn mặt rạng rỡ gặp lại nhau, những lời cám ơn từ quan khách, bạn bè, như đã xóa tan đi những âu lo mệt mỏi. Chiều đang xuống dần trên con đường Katella, trời vẫn còn mưa rải rác trong không gian se se lạnh của cuối Hè sắp sang Thu. Tôi kéo cao cổ áo Jacket, ừ thì xong việc rồi mình lái xe về nhà thôi./.
———————————————————————–
Bão Hilary lướt qua, Orange County trở lại bình thường
August 21, 2023.
SANTA ANA, California (NV) – Các thành phố ở Orange County đã chuẩn bị tốt khi đối phó với bão Hilary tràn qua Nam California vào hôm Chủ Nhật, và hầu như tất cả mọi hoạt động đều trở lại bình thường vào sáng Thứ Hai, 21 Tháng Tám, theo nhật báo Orange County Register.
Ở Irvine, chỉ còn sót lại một số cành và cây đổ do hậu quả của cơn bão nhiệt đới. Các đội bảo trì của thành phố sẽ dọn sạch lá và mảnh vụn trên đường trong vài ngày tới và bảo đảm các khu vực xung quanh cống thoát nước mưa thông thoáng.
Vào hôm Thứ Hai, các trường học của Học Khu Irvine vẫn mở cửa.
Thị Trưởng Farrah Khan cho biết thành phố Irvine ngay từ đầu đã tích cực chuẩn bị đối phó bão: “Các đội an toàn công cộng thành phố đã đi khắp nơi trong thành phố để bảo đảm rằng các trung tâm điều hành khẩn cấp trong tình trạng sẵn sàng.”
Thành phố Anaheim cũng không bị thiệt hại nặng nề khi bão Hilary đi qua và đổ mưa khoảng 2 inch.
Các đội an toàn thành phố đã dọn sạch 15 cây đổ và một số trường hợp mất điện đã được báo cáo. Việc quét dọn đường phố vào Thứ Hai chủ yếu tập trung vào khu vực trung tâm thành phố và sẽ bắt đầu việc ghi phạt những vi phạm trên đường phố từ Thứ Ba. Các mảnh vụn trên đường sẽ được dọn sạch trong vài ngày tới.
Học Khu Trung Học Anaheim và Học Khu Tiểu Học Anaheim vì lý do thận trọng đều đóng cửa các trường học vào Thứ Hai.
Ông Michael Matsuda, giám đốc học khu trung học, cho biết giới chức “hy vọng” sẽ mở cửa các lớp học vào Thứ Ba.
Thành phố Mission Viejo đã phân phát khoảng 3,500 bao cát cho người dân để ngăn chặn lũ lụt có thể xảy ra, theo lời bà Kelly Tokarski cho biết trước cơn bão.
Ở Newport Beach, các giới chức thành phố đã chuẩn bị cho cơn bão nhiệt đới Hilary như thể đó là một cơn bão mùa đông. Vào Chủ Nhật, thành phố chứng kiến nhiều khu vực nước ngập và một số nơi có mảnh vụn cây cối rớt trên đường phố nhưng mọi thứ đã được dọn dẹp vào Thứ Hai.
Ở Dana Point, câu chuyện cũng tương tự, nhân viên thành phố đã chuẩn bị và để mắt đến các khu vực như vách đá ở bãi biển Capistrano Beach, nơi thường xuyên xảy ra lũ lụt và một số khu vực bề mặt ở vùng Lantern District, nơi lũ lụt từng xảy ra. Ông Matthew Sinacori, giám đốc công trình công cộng và kỹ sư thành phố cho biết.
“Khi gặp một cơn bão lớn, chúng tôi đã sẵn sàng. Chuẩn bị sẵn xe tải để đóng đường Pacific Coast Highway và theo dõi các điểm dễ xảy ra lụt. Khi gió ập đến, mọi người đều có mặt ở đây để giải quyết các cành cây bị đổ. Chúng tôi chuẩn bị hơi quá mức nhưng thà chuẩn bị quá kỹ lưỡng còn hơn.”
Phi trường John Wayne hoạt động trở lại bình thường, sau khi có 89 chuyến bay bị huỷ trong ngày Chủ Nhật, theo lời ông Don Wagner, chủ tịch Hội Đồng Giám Sát Orange County, cho biết.
“Tất nhiên, những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, như thường lệ, sẽ là những khu hẻm núi. Nhưng ngay cả ở đó, chúng tôi không có báo cáo nào về việc đường bị đóng, không có báo cáo nào về bất kỳ thiệt hại đáng kể nào. Tạ ơn Chúa là không ai bị thương hay tệ hơn là thiệt mạng,” ông Wagner nói.
“Có một vài nơi mất điện theo Southern California Edison báo cáo, nhưng ngoài ra không có tác động nào đến nước, khí đốt hoặc đường xá.”
Các điểm mưa nhiều nhất vào cuối tuần qua là ở chân đồi của Orange County, theo dữ liệu do OC Public Works thu thập tại 58 địa điểm trên toàn địa hạt vào lúc 8 giờ sáng Thứ Hai. Ba điểm mưa nhiều nhất là Upper Harding Canyon ( 4.65 inch), Santiago Peak Standpipe (4.49 inch) và Upper Silverado Canyon (4.17 inch).
Ngoài ra, Chủ Tịch Wagner tỏ ý rất tự hào về phản ứng nhanh chóng các đội ứng phó khẩn cấp khi thực hiện các nhiệm vụ chuẩn bị được thực hiện trước khi cơn bão đến Orange County.
“Đội công tác công cộng của Orange County đã kiểm soát các kênh thoát lũ và ra ngoài các hẻm núi, lạch và suối để đảm bảo không tắc nghẽn.”
Ông Wagner nói thêm: “Chúng tôi có cơ quan dịch vụ xã hội và cơ quan chăm sóc người vô gia cư thông báo cho tất cả những người sống trên đường phố nơi nào họ có thể đến tìm nơi trú ẩn trong trường hợp bão tàn phá nguy hiểm.” (MPL)
———————————————————————–
Bão Hilary vào Nam California: Mưa lớn, lũ lụt, thống đốc tuyên bố tình trạng khẩn cấp.
August 20, 2023. Mai Phi Long/Người Việt (tổng hợp)
SAN DIEGO, California (NV) – Bão nhiệt đới Hilary từ bán đảo Baja California, Mexico, đổ vào San Diego County hôm Chủ Nhật, 20 Tháng Tám, gây mưa mưa lớn và lũ lụt ở các vùng trũng thấp trên khắp miền Nam California, ngay cả ở các khu vực Los Angeles County và Orange County cũng bị ảnh hưởng nặng, theo nhật báo Orange County Register. Giới thẩm quyền đưa ra cảnh báo lũ có hiệu lực từ trưa Chủ Nhật cho đến 7 giờ 45 phút tối trên các khu vực Long Beach, Malibu, Hollywood, Beverly Hills, Universal City, trung tâm thành phố Los Angeles, Griffith Park, Culver City, Inglewood, Burbank, North Hollywood, Venice, Santa Monica, Van Nuys, Encino, Manhattan Beach, Alhambra và Hermosa Beach.
Cơ quan thời tiết dự báo tình trạng lũ lụt có thể xảy ra riêng rẻ ở nhiều khu vực, mưa rải rác và giông bão tiếp tục diễn ra trong ngày Chủ Nhật trước khi có mưa nhẹ hơn vào sáng Thứ Hai. Mưa khoảng 1.5 inch đến 3 inch và gió với tốc độ 15 đến 30 dặm/giờ được dự báo sẽ đến các khu vực ven biển và thung lũng ở Los Angeles County. Diễn biến bão Hilary trong ngày Chủ Nhật
Bão nhiệt đới Hilary từ phía bán đảo Baja California ở Mexico tiến vào San Diego County, miền Nam California, miền Tây Nam nước Mỹ, khiến chính quyền đưa ra cảnh báo tình trạng thời tiết khắc nghiệt. Trung Tâm Bão Quốc Gia (National Hurricane Center) đưa ra cảnh báo về khả năng xảy ra “lũ lụt dữ dội và đe dọa tính mạng con người.”
Tính đến 11 giờ sáng, giờ California, bão Hilary có tốc độ gió 65 dặm/giờ, di chuyển theo hướng Bắc-Tây Bắc với vận tốc khoảng 25 dặm/giờ.
Cơn bão Hilary đã suy yếu từ bão cấp 1 thành mưa giông nhiệt đới, nhưng tác động vẫn còn đáng kể. Một người ở Mexico thiệt mạng vì cơn bão khi chiếc xe của nạn nhân bị cuốn trôi gần Santa Rosalía dọc theo bán đảo Baja California. Các tác động dự đoán của bão Hilary, được đánh dấu bằng lượng mưa lớn và gió mạnh, đã đạt đỉnh điểm vào chiều Chủ Nhật và kéo dài sang Thứ Hai.
Các cảnh báo đề phòng: Hơn chín triệu người, bao gồm cả dân số ở trung tâm thành phố Los Angeles, được đặt trong tình trạng cảnh báo lũ quét, vì các vùng cao ở miền Nam California chứng kiến lượng mưa hơn 2 inch. Trung Tâm Bão Quốc Gia cảnh báo lượng mưa lịch sử có thể xảy ra khiến gây ra lũ lụt đe dọa đến tính mạng, với lượng mưa dự kiến từ 3 đến 6 inch và thậm chí lên đến 10 inch ở một số khu vực nhất định. Cư dân những khu vực bị cháy rừng trong thời gian qua đặc biệt được cảnh báo tình trạng lũ dữ tràn qua các sườn đồi và vùng cao, không còn cây để giữ nước, gây thiệt hại nhân mạng và tài sản.
Chuẩn bị của chính quyền: Thống Đốc Gavin Newsom tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại Nam California để tăng cường các nỗ lực phục hồi và ứng phó với bão. Bà Nancy Ward, giám đốc phòng Quản Trị Dịch Vụ Khẩn Cấp trực thuộc thống đốc California, bày tỏ lo ngại rằng cơn bão Hilary có thể là một trong những cơn bão nghiêm trọng nhất tấn công California trong hơn một thập niên. Lực lượng cấp cứu được lệnh túc trực để phản ứng nhanh chóng và thực hiện giải cứu từ các khu vực bị ngập lụt, thông cáo từ văn phòng của Thống Đốc Newsom cho biết, với sự điều động “hơn 7,500 nhân viên cấp cứu” trong tình trạng sẵn sàng. Ông Grace Garner, thị trưởng Palm Springs, trên đài CBS hôm Chủ Nhật kêu gọi cư dân nên ở trong nhà, và cho biết chính quyền đã đóng cửa trước ba trong số những con đường chính thường xuyên bị ngập lụt.
“Bên ngoài trời đang mưa phùn và nếu trời chỉ mưa phùn rất nhẹ thế này, chúng ta chắc chắn sẽ ổn. Nhưng chúng ta biết rằng sẽ có lũ lụt, bởi vì như tôi đã nói, ngay cả một hoặc hai inch mưa trên sa mạc cũng có thể gây ra thiệt hại,” thị trưởng Garner nhấn mạnh. Bà Karen Bass, thị trưởng Los Angeles, xuất hiện trên đài truyền hình CBS, nhắc nhở người dân nên ở trong nhà và nếu ở bên ngoài vì bất kỳ lý do gì và nhìn thấy cây đổ hoặc đường dây điện, phải nên tránh xa và gọi cho chính quyền thành phố. Sở Điện Lực và Thuỷ Cục Los Angeles chuẩn bị đầy đủ nhân viên sẵn sàng làm việc để khôi phục lại nguồn điện và dọn sạch cây hoặc đường dây điện bị đổ. Các hồ chứa của thành phố có “đủ công suất” để giải quyết bất kỳ lưu lượng gia tăng do lũ lụt. Công ty điện lực Southern California Edison, hôm Thứ Năm, cho biết cơn bão Hilary có thể tác động đến phần lớn cư dân trong khu vực mà họ cung cấp cho khoảng 15 triệu cư dân.
Cơn bão Hilary dẫn đến sự gián đoạn nhiều hoạt động trên khắp tiểu bang California. Tất cả các bãi biển của tiểu bang ở các địa hạt Orange County và San Diego County bị đóng cửa; Hải Quân Mỹ đang tạm thời di dời các tàu và tàu ngầm có trụ sở tại San Diego; Los Angeles County đóng cửa các công viên, bãi biển, sân chơi, nhà vệ sinh và đường mòn leo núi; Giải bóng chày Major League đã thay đổi lịch trình cuối tuần; và nhiều buổi hòa nhạc bị hoãn…
————————————————————————
Động đất 5.1 độ phía Bắc Los Angeles, Little Saigon rung chuyển nhẹ. August 20, 2023
OJAI, Calif. (KABC) – Người dân khu vực Little Saigon, miền Nam California, đều cảm nhận được sự rung chuyển nhẹ từ trận động đất vào lúc 2 giờ 41 phút chiều ngày Chủ Nhật, 20 Tháng Tám.
Trận động đất mạnh 5.1 độ Richter làm rung chuyển khu vực Ojai, thuộc Ventura County, cách thủ đô của người Việt tị nan khoảng 110 dặm về phía Bắc, theo đài CBS Los Angeles. Theo Cơ Quan Địa Chấn Quốc Gia (USGS) tâm chấn nằm cách thành phố Ojai khoảng bốn dặm về phía Nam, dưới độ sâu khoảng 9 dặm. Tiếp sau trận động đất 5.1 độ Richter là một loạt hậu chấn, trận lớn nhất có cường độ 3.6 độ Richter. Không có báo cáo ngay lập tức về thương tích hoặc thiệt hại, nhưng trên truyền thông mạng xã hội, vụ động đất được cảm nhận trên khắp Los Angeles County, Orange County và Riverside County. (MPL).
———————————————————————
Đại Hội Trần Lục Kỷ Niệm 65 Năm Niên Khóa 1958 vẫn Tổ Chức 11am sáng mai Chủ Nhật 20-8-2023 tại Golden Sea.
From Dai Pham
To: Dai Pham, Hoai Huong,
Sat, Aug 19 at 9:30 AM
Đại Hội Trần Lục Kỷ Niệm 65 Năm Niên Khóa 1958 vẫn Tổ Chức 11am sáng mai Chủ Nhật 20-8-2023 tại Golden Sea
Xin thông báo với quý thầy cô, quý bạn đồng môn, quý thân hữu các trường bạn, và quan khách, Đại Hội Trần Lục Kỷ Niệm 65 Năm Niên Khóa 1958 vẫn được Tổ Chức vào lúc 11am sáng mai Chủ Nhật 20-8-2023 tại nhà hàng Golden Sea, nam California theo chương trình đã định. Xin mời quý vị đến sớm để chương trình sẽ được bắt đầu lúc 11 giờ.
Với tấm lòng quý mến quý vị, BTC đã chọn thực đơn ngon nhất của nhà hàng để quý vị sẽ có được một buổi họp mặt vui tươi, và thưởng thức một chương trình văn nghệ đặc sắc trong không khí thân mật tình thân hữu ấm cúng.
From: Dai Pham
To: VietHai Tran
Cc: Doris Thuy Lan, Melinda Luu, Jacqueline Le, Christina Lam, NQ Nguyen, and 5 more…
Sat, Aug 19 at 11:03 PM
Cám ơn anh Việt Hải,
Đã gửi những tấm ảnh kỷ niệm Trần Lục 5 năm trước.
Nhìn lại thấy nhớ quá.
Phạm Gia Đại
Cám ơn anh Việt Hải và các ACE trong nhóm NVNT & TTG rất nhiều,
Tôi vừa gửi Thông Báo vẫn tiếp tục tổ chức như dự định vào 11am sáng mai Chủ Nhật 20-8-2023 tại nhà hàng Golden Sea. Các bài hát của nhóm như đơn ca của Kiều My, song ca Thụy Lan-Lệ Hoa, tam ca Ngọc Quỳnh-Lâm Dung-Ái Liên, đơn ca Chris Trần đã được đưa vào chương trình hội đoàn. Bản đơn ca của Thụy Lan sẽ được bỏ vào phần sau. Không biết có thiếu ca sĩ nào không, xin cho biết.
Trân Trọng,
Phạm Gia Đại
Hide original message
On Sat, Aug 19, 2023 at 12:07 AM VietHai Tran wrote:
It will be heavily raining and strongly windy on 08/20. So folks, be preparing of the harsh weather. We’ll be there as planned. But it’s kind of teo-teo pour moa….
Sun 20 | Day
82°
100%
NNE20 mph
Showery rains will be accompanied by very heavy downpours and strong gusty winds at times, especially in the afternoon. Potential for flooding rains. High 82F. NNE winds at 5 to 10 mph, increasing to 20 to 30 mph. Chance of rain 100%.
Humidity
73%
UV Index
4 of 11
Sunrise
6:16 am
Sunset
7:32 pm
Sun 20 | Night
70°
100%
SSE16 mph
Periods of rain. Potential for flooding rains. Low around 70F. Winds SSE at 10 to 20 mph. Chance of rain 100%. Rainfall may reach one inch.
Humidity
84%
Thân Mời Tham Dự Đại Hội Trần Lục August 20th, 2023 tại Nam California, Hoa Kỳ
Kính mời quý giáo sư,
Thân mời quý bạn đồng môn trường Trung Học Trần Lục,
Thân mời quý thân hữu các Trường Trung Học Việt Nam Cộng Hòa,
*Đến tham dự Đại Hội Trần Lục họp mặt tất cả các niên khóa, và nhân dịp kỷ niệm 65 năm của
niên khóa 1958 (1958-2023) được tổ chức tại:
Nhà Hàng Golden Sea, thành phố Anaheim, CA
Từ 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều ngày Chủ Nhật 20 Tháng 8, năm 2023
Bích Chương Đại Hội Trần Lục 20-8-2023
Đây là buổi họp mặt trường Trần Lục và niên khóa 1958 lần thứ nhì, và cũng có thể là lần chót.
Lần trước cũng tổ chức tại nhà hàng Golden Sea vào năm 2018, nhân kỷ niệm 60 năm của niên khóa 1958.
BTC và đại diện Nam Bắc California tham dự Đại Hội kỳ 1 năm 2018
CHƯƠNG TRÌNH Đại Hội kỳ 2 Chủ Nhật 20-8-2023:
*Sau nghi lễ Chào Cờ và Phút Mặc Niệm là phần hàn huyên tâm sự của các cựu học sinh Trần Lục.
*Văn Nghệ: Bắc Cali, Nam Cali, và các trường Trung Học VNCH. Thân mời các trường Trung Học VNCH tham gia chương trình văn nghệ này với đơn ca, song ca, tam ca, hay hợp ca các bài hát thời học trò hay các bài về quê hương, về người lính VNCH…Mỗi trường sẽ trình diễn ít nhất một tiết mục. Được biết Bắc Cali với bạn Phạm Bảo Ngọc sẽ trình diễn 5 tiết mục.
*Xen kẽ là chương trình Đố Vui Có Thưởng.
-Trân trọng kính mời quý giáo sư, quý bạn cựu học sinh Trần Lục và Nguyễn Du, và các trường bạn đến tham dự cho đông vui.
-Xin quý bạn Trần Lục phổ biến Thư Mời này của BTC đến các bạn Trần Lục và thân hữu xa gần.
*Ghi Chú: Mua vé ủng hộ xin text, Zelle cho bạn Nguyễn Thái Đại (thủ quỹ) số cell: (310) 349-6597
Và vé sẽ được gửi ngay qua bưu điện đến nhà quý vị.
Trân trọng cám ơn,
T/M BTC
Phạm Gia Đại
Phạm Gia Ðại – Liên Minh Bảo Thủ Mỹ Gốc Việt
(Vietnamese American Conservative Alliance)
Trang chủ: https://freedom-vaca.org/
Trang của PGD: https://freedom-vaca.org/pham-gia-dai-video/
From: Dai Pham
To: Chris Tran
Cc: Viet Hai Tran; Doris Thuy Lan, Jacqueline Le; Do Mong Thuy; NQ Nguyen; Christina Lam; Ailien Nguyen; Hoa Tang; Bay MinhKhTong;
Sent: Thursday, August 17, 2023 at 08:05:20 AM PDT
Subject: Re: Các Bài hát trong Chương Trình Trần Lục August 20th, 2023 tại Golden Sea.
OK anh Chris Tran,
Phạm Gia Đại
On Thu, Aug 17, 2023 at 5:04 AM Chris Tran wrote:
Hi anh Đại,
Nếu chương trình văn nghệ còn chỗ và để nhớ lại những kỷ niệm của một thời cắp sách đến trường thì TMChi sẽ hát bài “Hoa Học Trò” (điệu Rumba, tone Cm, nhịp 79.) nhé.
Trần Mạnh Chi
On Wed, Aug 16, 2023 at 10:48 PM, VietHai Tran wrote:
Cám ơn anh Đại
Ban tam ca Dung Quỳnh Liên ca bài ????
Anh Chris Chi … ???
Ban tứ ca Lan Hoa Minh Châu (bài Ngày Hạnh Phúc – Lam Phương)
On Wednesday, August 16, 2023 at 09:37:09 PM PDT, Dai Pham wrote:
Thân gửi anh Việt Hải,
Xin các anh chị em trong nhóm tham gia vào văn nghệ của Đại Hội Trần Lục, xin cho biết các bài hát đơn ca, song ca, tam ca, hợp ca để tôi đưa vào chương trình.
Nói chung nhóm NVNT & TTG sẽ có ba tiết mục (hình như Kiều My đã ghi bài hát Besame Mucho)
Nếu còn thời gian sẽ mời lên thêm nhe.
Cám ơn nhiều, bàn của nhóm NVNT & TTG là bàn số 4 (10 người) và một người sẽ ngồi qua bàn số 5., 2023 nhe.
Hẹn gặp quý ACE trước 11am Chủ Nhật August 20th
Phạm Gia Đại
Đã chơi thì không ngại, nếu ngại thì đừng ham chơi… VHLA
Link: https://www.nguoi-viet.com/…/bao-hilary-ca-mien-nam…/
Subject: Thư Cảm Tạ.
Thay mặt BTC chúng tôi chân thành cám ơn quý hội đoàn Lê Văn Duyệt, Trưng Vương, Gia Long, Nguyễn Bá Tòng, Trường Văn Hóa Quân Đội, Petrus Ký, Bưởi-CVANC, cám ơn Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, Hội Sư Đoàn 5 BB VNCH, quý bạn đồng môn Trần Lục các niên khóa, các bạn thân hữu xa gần, v.v… bất chấp mưa gió, đã từ khắp nơi đổ về Nam California để tham dự Đại Hội Trần Lục- Kỷ Niệm 65 Năm Niên Khóa 1958 ngày Chủ Nhật 20-8-2023 vừa qua tại nhà hàng Golden Sea. Nhờ vậy mà Đại Hội Trần Lục đã thành công thật may mắn, và thật đông vui.
*Tấm chân tình đó chúng tôi không bao giờ quên được.
*Xin gửi quý bạn, nhất là ở xa không về tham dự được, vài tấm ảnh kỷ niệm.
*Nếu có thiếu tên ai, xin quý anh trong BTC và quý vị FW dùm vì không có hết đầy đủ email address. Cám ơn.
Trân Trọng,
Phạm Gia Đại Trưởng BTC
Đồng ca bài “Mùa Thi” với Thầy Đỗ Kim Bảng
-
Đọc Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới
Trần Việt Hải
Cầm trên tay sách mới còn thơm mùi giấy, giấy dầy, in đẹp, 330 trang, bìa trước họa sĩ vẽ ký giả Du Miiên cầm bút “chạy show” săn tin tên phố Bolsa, bìa sau là hình và tiểu sử của 2 tác giả, đôi uyên ương đồng nghiêp lâu năm trong làng báo giới hải ngoại. Tôi lẩm bẩm về tựa đề “Việt Eden”, tức “Địa Đàng Hạ Giới”. “Hạ Giới” nghĩa là “thế giới ta bà chúng sinh”, đôi khi theo cụ Tố Như – Thanh Hiên ngôn thơ “Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, sách mới tác giả đề cập về sự hình thành Sài Gòn Nhỏ theo cái nhìn tích cực, khía cạnh “stink wind, bloody rain” là phạm vi tiêu cực. Tôi đồng ý.
Suy nghĩ về 2 chữ “địa đàng”, theo tôn giáo ý nghĩa như “Địa Đàng theo Thiên Chúa”.
Theo Thiên Chúa trong vườn địa đàng, người phụ nữ được Adam yêu thương, cưng chiều hết mực. Người phụ nữ ấy hẳn là hạnh phúc nhất khi bên cạnh có một người chồng tử tế. Ông luôn dành cho người vợ những lời yêu thương ngọt ngào. Ngày ngày Thiên Chúa thấy hai người tay trong tay dạo quanh vườn địa đàng. Họ kể cho nhau những kế hoạch tốt đẹp. Họ mơ ước về căn nhà đẹp và những đứa trẻ xinh. Bầu không khí bên ngoài, khung cảnh thơ mộng của vườn địa đàng cũng muốn tô điểm thêm nét đẹp mối tình giữa hai người. Đó là một đôi uyên ương được Thiên Chúa se duyên nên nghĩa vợ chồng. Đấy lá ý nghĩa tôn giáo, ươc mơ tâm linh.
Còn xét về 2 chữ “địa đàng”, theo văn học ý nghĩa như “Địa Đàng ở Phương Đông”
Một luận điểm văn học khác theo tác phẩm nổi tiếng của nhà văn kiêm bác sĩ người Anh là Stephen Oppenheimer và sách Eden in the East (Địa Đàng ở Phương Đông). Sách Địa Đàng của Oppenheimer cho ta tìm hiểu cội nguồn văn minh và văn hóa dân tộc hiện đang là một đề tài thời sự nóng trên thế giới, bởi vì trong xã hội hiện đại và thế kỷ 21, văn hóa sẽ là một yếu tố nhận dạng của một dân tộc. Ở nước Việt, sách vở và các công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa dù đã có đấy, nhưng nói chung vẫn còn khiêm tốn. Trong bối cảnh đó, bạn đọc nên xem qua cuốn sách này vốn quan trọng về lịch sử văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là một công trình nghiên cứu văn minh và văn hóa thời tiền sử, và có liên quan mật thiết đến Việt Nam. Oppenheimer chọn đề tài bao la về địa lý Đông Nam Á là một vùng nước đọng quan trọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh đặc thù Đông Nam Á.
Như vậy “Địa Đàng” theo Thiên Chúa hay theo Oppenheimer vẫn khác với Địa Đàng Hạ Giới của Ngọc Hà – Du Miên, vì bên tâm linh là Địa Đàng thiêng liêng, hay bên sách văn học Anh là vùng địa dư phương Đông bao la. Sách Việt ta giới hạn ở Quận Cam Nam Cali mà thôi.
Theo nhà văn Vương Trùng Dương:
Với tựa đề “Việt Eden, Địa Đàng Hạ Giới”, nội dung trong quyển sách nầy là tài liệu quý báu về Little Saigon, trở thành “thủ đô tị nạn” từ ngày được hình thành đến “cái nôi” của cộng đồng người Việt tị nạn trong mọi sinh hoạt. Tác phẩm dày 330 trang, hình màu gồm 3 Chương: Chương I (trang 13 đến trang 81), khái quát về Bolsa Ngày Ấy đến Chợ Xuân Chiến Sĩ Cộng Hòa. Chương II (trang 83 đến trang 170) sự phát triển của Little Saigon từ năm 1980 đến năm 1999. Chương III: (trang 171 đến trang 224) tiếp nối sự phát triển của Little Saigon từ năm 1999 đến nay. Phần Phụ Lục (trang 225 đến trang 330).
Trong số những người biết rõ nhất về nguồn gốc và sự ra đời của Little Saigon phải nói đến nhà báo Du Miên, ông Khanh Nguyễn, ông Phùng Minh Tiến, anh Ba Thành Mỹ, anh chị Thạnh – Hoàng Yến (chủ nhân nhà sách Tú Quỳnh) và nhiều người khác nữa. Theo những người hiểu lai lịch khu phố Việt này đều công nhận người có công khai sinh ra tên “Little Saigon” chính là nhà báo Du Miên.
Tôi nhớ vào năm 1979 khu thương mại Mini Mall trên đường Bolsa chỉ có vài ba cửa tiệm. Ðối diện Tú Quỳnh là nhà hàng Thiên Cung sau đổi là Thành Mỹ cho tới nay. Sau đó lần lượt các cửa tiệm khác ra đời như: tiệm bán băng nhạc của nhạc sĩ Trường Hải, nhà in của Du Miên, văn phòng bán bảo hiểm của Luật sư Nguyễn Xuân Phước, dịch vụ gửi hàng của ông Thuận, bán vé máy bay của ông Vượng, bán hàng nội thất của ông Ðề và chợ Ái Hoa của ông Bói. Quán cà phê Lục Huyền Cầm của cặp nghệ sĩ Lê Uyên Phương sau này cũng có mặt, khiến nơi này trở nên một chốn kinh doanh đa dạng. Xem hình sách Việt Eden, các trang 20-21, 54-55, 59, và 104-105.
Đặt tên Little Saigon
Năm 1980, ký giả Du Miên và một số thân hữu trong đó có ông Khanh Nguyễn, (Chủ tịch Little Saigon Foundation), khởi xướng cuộc vận động thành lập khu phố Việt Nam tại Quận Cam. Sau khi bỏ thì giờ đi đến tất cả các cơ sở thương mại, tôn giáo trong vùng, ký giả Du Miên vẽ tấm bản đồ ghi rõ địa chỉ từng cơ sở thương mại do người Việt làm chủ và đặt tên là “Phố Saigon” trên đất Mỹ, để nhớ về một thủ đô Saigon của Việt Nam Cộng Hòa đã không còn nữa. Tấm bản đồ này đã được đăng nhiều lần trên tuần báo Saigon suốt năm 1980. Theo một buổi phỏng vấn ký giả Du Miên, ký giả nhật báo Register Rosa Kwong đã dịch “Phố Sàigòn” thành “Little bit of Sàigòn” và đăng lại tấm bản đồ của ký giả Du Miên. Bắt đầu từ đó, danh xưng Little Sàigòn đã được báo chí Hoa Kỳ dùng để gọi khu thương mại Việt Nam trên đại lộ Bolsa. Từ năm 1985 đến 1988, qua nhiều vận động của cộng đồng, danh xưng Little Sàigòn được chính thức công nhận bởi thành phố Westminster và tiểu bang California (ngày 17 tháng 6 năm 1988). Xem hình sách Việt Eden, các trang 72-73, 88-89. Hình bản đồ “Phố Sàigòn” nguyên thủy trên tuần báo Sàigòn. Bản đồ “Phố Sàigòn” được đăng lại trên nhật báo Register số ngày 1 tháng 2 năm 1981. Danh xưng “Little Sàigòn” lần đầu tiên xuất hiện trong bài viết của nữ ký giả Rosa Kwong. Đính kèm bài viết này là phóng ảnh của bản đồ Little Sàigòn lúc khởi thủy và báo Register nhân dịp Tết nguyên đán 1981 nói trên. Để tìm hiểu thêm về danh xưng này, Rosa Kwong đã trực tiếp phỏng vấn ký giả Du Miên, khi ấy vốn là chủ nhiệm, chủ bút tuần báo Thời Báo, xuất bản tại Little Sàigòn. Rosa hỏi xin ông cho biết sơ lược về giai đoạn hình thành tấm bản đồ Little Sàigòn này.
Ký giả Du Miên trả lời vào năm 1980, sau khi hỏi ý tất cả mọi chủ tiệm (khoảng vài ba chục tiệm), ai nấy cũng muốn hình thành một cái gì đó để nương tựa, bênh vực nhau, tôi bàn với các anh chị trong tòa soạn báo Sàigòn gồm các anh Vũ Tài Lục, Tống Hoằng, Lê Khắc Thuận, Trần Đức Tuấn và cô Dạ Yến, mở chiến dịch vận động hình thành khu phố Việt Nam. Tôi khởi sự vẽ bản đồ khu phố và gọi đó là “Phố Sàigòn”. Bản đồ này đăng nhiều lần trên tuần báo Sàigòn vào cuối năm 1980.
Danh Xưng Little Saigon được chính thức công nhận
Ngày 9-2-1988, qua sự vận động ráo riết của Ủy Ban Phát Triển Little Saigon, dân Biểu Longshore, và nghị viên Frank Fry, Hội Đồng Thành Phố Westminster đã biểu quyết với đa số tuyệt đối thông qua Quyết Nghị số 58, công nhận khu phố của người Việt trên đại lộ Bolsa là “Little Saigon,” và thành phố cũng thành lập ủy ban với tên là “Little Saigon Community Development Advisory Committee” để giúp đẩy mạnh việc phát triển khu này thành một khu thương mại và du lịch sầm uất.
Xem hình sách Việt Eden, các trang 143 và 145.
Đọc Việt Eden trang 154-161 cùng bài viết về “Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại & Đại Hội Truyền Thông”, bài Vương Trùng Dương:
Danh xưng Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại (HKGVNHN) do Du Miên và các đồng nghiệp hình thành từ năm 1994 trong tinh thần tương thân tương trợ với nhau trong công việc. Nhiệm Kỳ 2002-2004, Chủ Tịch: Đỗ Sơn, Tổng thư Ký: Du Miên & 12 thành viên. Văn phòng tại Câu Lạc Bộ Báo Chí, 15351 Euclid St # 1H, Garden Grove, (trong khu business đường Euclid, giữa Westminster & Bolsa). Đây là bước ngoặc của nhiệm kỳ này vì tổ chức được Đại Hội Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại (ĐHTTVNHN) đã từ lâu HKGVNHN mong ước.
Nói đến tác giả biên khảo Du Miên Lê Thanh Hoa phải nói đến công trình nghiên cứu để hình thành tác phẩm “Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông”. Sách kể rõ sự việc kiến trúc sư Việt Nam là người vẽ kiểu và chỉ huy hơn 100 ngàn nhân công xây dựng thành Bắc Kinh nổi tiếng khắp năm châu với Tử Cấm Thành, Thiên An Môn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Sách quý Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông được đánh giá là cuốn sách đã ấn hành đúng thời điểm vì nội dung của cuốn sách đưa ra nhiều chứng liệu để củng cố niềm tin và tự hào dân tộc. Du Miên Lê Thanh Hoa phải sưu khảo để chứng minh “niềm tự hào dân tộc” và “hãnh diện là người Việt Nam” qua tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông…Nhà văn Du Miên và cũng là nhà nghiên cứu cổ sử Lê Thanh Hoa đã làm một chuyện vô cùng hữu ích về sử liệu cho ngàn sau. Trong tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông, hai chữ “suối nguồn” như cội nguồn sự kiện. Suối nguồn là tác giả muốn nói rằng văn minh phương Ðông bắt nguồn từ Việt và cái nguồn ấy mạnh mẽ tuôn trào và tuôn trào mãi. Đây là tác phẩm trưng dẫn bằng chứng, sử liệu Việt, Tàu và Âu Mỹ liên quan đến việc đức Khổng Tử dùng văn hóa Việt dạy cho người Tàu, tổ của nhà Chu (trị vì Tàu 800 năm) cho 2 hoàng tử lớn qua đất Việt để du học. Đặc biệt tài liệu liên quan đến kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu và xây thành Bắc Kinh từ thời nhà Minh cũng như tài liệu Mỹ xác nhận dân Việt là tổ trồng lúa đầu tiên trên thế giới.
Thư Viện/Bảo Tàng Viện Việt Nam do tác giả văn học Du Miên, một nhà văn hóa yêu sách vở và bằng hữu của ông thành lập và điều hành. (Xem Việt Eden trang 172-175)
Xem Việt Eden trang 183-184 … như sau:
Tượng Đài Chiến sĩ Việt Mỹ ở TP Westminter là hình ảnh biểu tượng, tượng trưng quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ, được dựng tại số 14180 đường All American Way, Westminster, CA 92684, trong công viên Sid Goldstein Freedom Park, rộng 1.4 acre (gần 61,000 sqft), được bao quanh bởi một đài phun nước bằng đá cẩm thạch đen và những lá cờ Hoa Kỳ và cờ VNCH. Dưới lá cờ Hoa Kỳ là lá cờ đen tượng trưng cho những quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Chiếc lư hương lớn có lửa cháy suốt ngày đêm, như một ngọn đuốc, được đặt chính giữa công viên của tượng đài, trên một hồ nước nhỏ. Ngọn lửa này không bao giờ tắt, vì được thiết kế công tắc mồi tự động, nên dù giông bão, mưa to gió lớn, mồi lửa tự động cũng sẽ thắp sáng trở lại. Công tác đúc tượng khởi sự năm 1998 cho đến năm 2002 thì hoàn tất với bức tượng đồng hai chiến sĩ, một Việt Nam một Hoa Kỳ vai kề vai cao khỏang ba mét, đứng trên bệ đài làm bằng đá cẩm thạch cao một mét rưỡi. Tượng đài được chính thức đặt tên là Việt nam War Memorial in Westminster.
Xem Việt Eden trang 209-211 như sau:
Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam như Tượng đài Nạn Nhân CS cũng chỉ là hình ảnh biểu tượng, trượng trưng cho hăm mấy sắc dân nạn nhân của chủ nghĩa CS trên thế giới. Những nơi này trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhưng không phải là chứng tích lịch sử như Bia Đá Đen ở Washington DC có khắc ghi ghi họ tên của quân nhân Mỹ tử trận ở VN, như những bia mồ mà người Việt hải ngoại đã trùng tu trên các hải đảo của Nam Dương và Mã Lai…. Nhà Thơ Thái Tú Hạp, người sáng lập Đài Tưởng Niệm thay mặt Ủy Ban Thực Hiện Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam, trong bài diễn văn khai mạc, sau khi ngỏ lời chia sẻ khi nhấn mạnh đến dự án mang tính cách Tâm Linh và Lịch Sử nầy mà ước mơ của ông và nhiều người khác từ hơn 10 năm, nay mới đạt ước mơ đó. Sau hơn 30 năm nhìn lại, để Tưởng Niệm và Tri Ân đến những Thuyền Nhân, Bộ Nhân vì không có sự hy sinh cao quý đó chắc chắn những Thuyền Nhân như chúng ta sẽ không hiện diện ngày hôm nay, và để lưu truyền những chứng tích cụ thể cho các thế hệ mai sau hiểu biết nguyên nhân người Việt đến định cư tại xứ sở Hiệp Chủng Quốc này..Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân hôm nay đánh dấu sự thành công và nơi này cũng là vị trí lý tưởng đặt Đài tưởng Niệm tại khuôn viên Westminster Memorial Park, gần khu Tiểu Saigon, nơi có đông đảo người Việt định cư, buôn bán tạo nên sự phồn vinh cho Thành Phố Westminster. Tin thêm, Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân VN (Viêtnamese Boat People Meomrial) mà tượng đồng đúc ở ngoài nước Mỹ đã đưa về Little Saigon (Quận Cam). Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân ngoài việc có thể trở thành một danh lam thắng cảnh mới cho Little Saigon, chắc chắn sẽ là một chứng tích lịch sử như Bia Đá Đen ở Washington, như bia mộ của những người vượt biên đã chết trên đường tìm tự do, trên các hải đảo. Bia mộ ở đảo CS Hà nội có thể áp lực hai nước Nam Dương và Mã Lai phá dẹp bỏ, nhưng ở Little Saigon của Mỹ thì không vì có người Mỹ gốc Việt của một cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất thế giới bảo vệ.
Lời cuối, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian cùng thân hữu xin chúc mừng nhị vị tác giả Ngọc Hà và Du Miên. Chúc mừng buổi ra mắt sách thành công viên mãn.
Xin mượn lời trong bài viết của ký giả Thanh Phong điểm sách “Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới” để chấm dứt nơi đây.
Trần Việt Hải, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian
“Người viết đã đọc từ trang đầu đến trang cuối và cảm nhận cả một công trình, vừa moi óc vừa tìm tòi nhiều tư liệu, hình ảnh để hoàn thành sách Việt Eden – Địa Đàng Hạ Giới mà từ trước đến nay chưa ai viết đầy đủ hơn về Little Saigon. Đây sẽ là một trang sử oai hùng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại; một cuốn sách đáng để cho cư dân Little Saigon hãnh diện và làm món quà tặng cho bạn bè, người thân ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt qua câu trả lời của ký giả Du Miên, Chủ Bút tuần báo Saigon cũng là người vẽ bản đồ khu phố Saigon đăng trên báo Saigon, ông trả lời nữ ký giả Rosa Kwong, gốc Hồng Kông khi cô hỏi: Tại sao ông gọi là Phố Mới, Phố Saigon? Chủ bút Du Miên trả lời, “Ở quê nhà Việt Nam, Cộng Sản đổi tên thủ đô Saigon của chúng tôi rồi. Chúng tôi lập khu phố nhỏ, phố mới gọi là Phố Saigon. Saigon thủ đô của nước tôi lớn và hoa lệ, là “Hòn Ngọc Viễn Đông”… Còn ở Westminster đây, bất quá chúng tôi gom nhau lại thành một khu phố nhỏ, một góc chút xíu của Saigon hoa lệ ngày xưa”. Cô ký giả gốc Hồng Kông lặng yên một lúc khi thấy Chủ Bút báo Saigon rơm rớm nước mắt khi nhắc đến Saigon. Cô gật đầu chào mọi người, lặng lẽ bước đi. Vài ngày sau, trong bài tường thuật ngày 1 tháng 2 năm 1981, cô gọi khu phố bé tí, phố Saigon của tuần báo Saigon nói trên là “Little bit of Saigon”. Sau này người ta lần lượt bỏ bớt hai chữ “bit of” còn lại Little Saigon. Và danh xưng Little Saigon có từ đó, từ ngày 1 tháng 2 năm 1981.”
-
MỜI VÀO NGHE NHẠC CỦA LIÊN NHÓM NVNT & TTG
Mưa Chiều Nhớ Ai
Thơ: Trần Việt Hải
Nhạc: Phan Đình Minh
Hòa âm: Phạm Hồng Thái
Như Lá Cỏ Tàn
Thơ: Kiều My
Nhạc: Phan Đình Minh
Hòa âm: Phạm Hồng Thái
Giọt Tình Sầu
Thơ: Khánh Lan
Nhạc: Phan Đình Minh
Hòa âm: Phạm Hồng Thái
Tình Tuyệt Vọng
Thơ: Khái Hưng
Nhạc: Phan Đình Minh
Hòa âm: Phạm Hồng Thái
-
Khai Bút Đầu Xuân Quý Mão:
Kính quý giáo sư, quý niên trưởng và anh chị em Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian,
Năm Nhâm Dần đã đi qua để chúng ta cùng đón mừng năm mới QUÝ MÃO trước cổng nhà. Mùng Một Tết Nguyên Đán, khai bút và đón lộc đầu năm, ôn lại chuyện xưa kể từ năm 2015, khi tôi từ bỏ một nơi sinh hoạt cũ, để thành lập Liên nhóm gồm 2 phạm vi văn học và âm nhạc, sinh hoạt mang tính sáng tạo như sáng tác văn học và âm nhạc. 5 người đồng sáng lập tiên khởi bỏ tôi ra đi như “những dòng sông nhỏ” …
Anh Lý Tòng Tôn đã mất, Lưu Anh Tuấn có vấn đề sức khoẻ, Trần Mạnh Chi cần lo việc gia dình, Ngô Thiện Đức bận phát triển công việc kinh doanh. Vì thế, có nhiều bạn bè từ các nơi cùng chung tay gây dựng, duy trì Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, để được vững chãi như ngày hôm nay, một tổ chức nhỏ (khoảng 40 hội viên sinh hoạt thường trực).
Thời gian sẽ qua đi và nhiều hội viên cao niên cũng như trung niên đương dầu với vấn đề sức khoẻ. Tôi cầu mong sao mọi người chúng ta bình yên. Các bạn bè trong nhóm như Kiều My, Khánh Lan, Thuỵ Lan, Lâm Dung, Ngọc Quỳnh, John Tạ, Ngọc Cường, Bích Điệp, Kiều Mỹ Duyên, Dương Viết Điền, Nguyển Quang, Minh Trí, Phan Đình Minh, Phạm Thái, Hồng Anh,… thường lo về vấn đề sức khoẻ của tôi như hôm tôi bị chứng “điếc tai” và “điếc tay“, nên không bắt phone.
Anh Phan Đình Minh, gọi 2 số phone nhà và cell để bàn về việc soạn nhạc mới, tôi không nghe được tiếng reo của phone nên không bắt máy. Anh text sang, nhưng tôi lại ít khi xài text, Phan Đình Minh tưởng tôi bị hospitalized rồi. Cô Hồng Anh gọi tôi cũng không được, bèn gọi my darling landlord, bà chủ nhà cục cưng cho cô biết tôi bị điếc tai. Cô bảo “Anh VH nếu có bị gì thì nhóm sẽ ra sao?”, tôi thưa là một khi nhóm đã vào quy cũ (thu xếp như thộng lệ) bạn bè cứ tiếp tục. Cô mong nhóm có những buổi họp thêm (nhiều buổi reunions). Tôi muốn mời cô đi Caribbean cruise chơi vào tháng 7, 2023. Thật tâm, tôi rất quý các vị cao niên và bạn bè nhất là khi đau yếu, bạn bè cần sự hỗ trợ tinh thần trong niềm vui giữa bạn bè.
Trong những buội hội ý, có rất nhiều thân hữu chia sẻ và góp ý rằng Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian nên tiếp tục đường hướng phát huy văn học, âm nhạc, và hãy cùng nhau chung vui tham dự những chuyến du ngoạn lành mạnh do nhóm tổ chức. Hôm qua, Ngọc Quỳnh kể chuyện và tỏ ý tiếc là đã không tham gia chuyến cruise sang Cabo San Lucas, Mazatlan và Puerto Vallarta (Mexico). Mặc dù, Ngọc Quỳnh rất muốn đi, nhưng kẹt chuyện gia đình.
Ngọc Quỳnh hy vọng rằng cô có thể thu xếp để tham dự chuyến nghĩ mát mùa hè này tại Florida (Tampa, Fort Myers, Miami) và Caribbean Cruise (Bahamas). Kiều My và Khánh Lan sẽ cố gắng thu xếp để tham gia. Nếu chuyến du lịch Florida suôn sẻ, trôi chảy vui vẻ. Chúng ta cùng đi Âu châu, rồi kế nữa chuyến New Zealand + Australia. Có đi chơi chung với nhau bạn bè tạo ra nhiều kỷ niệm trong cuộc sống..
Đầu Năm Quý Mão 2023 và Tiệc Tân-Niên chung vui Xuân Đoàn-Kết, Tết Thịnh-Vượng, Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, sẽ họp mặt vào ngày thứ Bảy, ngày 04 tháng 02 tại Dianond Seafood I. Địa chỉ: 8058 Lampson Ave., Garden Grove, Ca 92841. Điện thoại: 714-891-5347.
Thân hữu, hội viên tham dự xin liên lạc với Mộng Thủy: (714) 417-7472 hay Thụy Lan: (626) 371- 6843.
Mừng xuân Quý Mão, xin kính chúc quý cụ cao niên trưởng thượng và mến chúc quý anh chị em Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian Một năm mới Quý Mão an khang thịnh vượng, sức khỏe dồi dào và muôn sự sở cầu như ý, hành thông tốt đẹp.
Việt Hải
-
Thiền Tông Võ Đạo và Văn Hoá Việt Tộc
Thiền Tông Võ Đạo (GS. Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền):
Về Võ Lâm Việt Nam Chính Tông và Võ sư Đoàn Tâm Ảnh, pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư:
– Năm 1900 – 2008: Võ sư Đoàn Tâm Ảnh, pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư, phương danh Nguyễn Văn Sáu (Sáu Nhỏ) hiện nay 2008 ông dã qua đời tại Việt Nam. Ông sanh tại Bạc Liêu, nam Việt Nam. Năm 1911, ôn theo thầy Mộc Đức Thiền Sư học đạo Thiền Tông và võ lâm cổ truyền, tại chùa Phi Lai Tự (miền Bắc Trung Hoa). Năm 1930, trở về Việt Nam, ông sáng lập môn phái võ lâm Việt Nam Chính Tông. Lần lượt, mở các võ đường tại các tỉnh miền Nam Việt Nam như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Cần Thơ, Bến Tre, Long Xuyên, Vĩnh Long, Rạch Giá… Rồi, bí mật thành lập đảng Sao Trắng, kết nạp các nghĩa sĩ để chống Pháp, và đã một thời oanh liệt, đảng Sao Trắng của ông đã làm điên đảo, bối rối cho các tay cường hào ác bá cùng chính quyền Pháp ở miền lục tỉnh (Hậu Giang, miền Nam). Về sau ông lên Sài Gòn mở các lớp dạy võ lâm. Trong suốt cuộc đời truyền dạy võ lâm, ông đã đào tạo rất đông đảo huấn luyện viên và võ sư rải rác từ Sài Gòn đến các tình miền nam, Việt Nam. Trong số các cao đồ đắc ý nhất của ông, và đã làm rạng rỡ cho môn phái võ lâm đáng kể đến như: Giáo sư Hàng Thanh (Phan Chấn Thanh), giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền), giáo sư Hùng Phong (Huỳnh Ninh Sơn), giáo sư Nam Phong (Nguyễn Thiên Tài), giáo sư Lạc Hà (Nguyễn Văn Bé), giáo sư Từ Võ Hạnh, giáo sư Lư Công Khanh, võ sư Long và võ sư Châu (ở Cần Thơ) …
– Đến năm 1970, ông chánh thức chấm định giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền) là người được ủy nhiệm thừa kế chức vụ Chưởng Môn võ phái, để thay thế ông trong việc phát triển môn phái Võ Lâm Việt Nam Chính Tông. Sau đó, để tìm nguồn an lạc tại chốn thiền môn, ông đã trụ trì tại chùa Pháp Hoa (Sài Gòn).
– Từ năm 1970 đến 4/1975, giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền) đã thành lập Trung Tâm Huấn Luyện Võ Lâm Việt Nam Chính Tông tại địa điểm: Chi Thanh Niên Quận Sáu, Chợ Lớn (140 Lê Quang Hiền, Chợ Lớn). Trong thời gian tại Việt Nam, giáo sư Vũ Đức đã đào tạo được một số đông đảo võ sinh. Những Đai Đen Huấn Luyện Viên đáng kể như: Hồng Long, Châu Việt Hùng, Trần Văn Quang, Lê Văn Phước, Lê Kiến Sanh, Trần Văn Hoàng, Nguyễn Văn Bình, Trương Sắc Hào…
– Sau 4/1975, môn phái Võ Lâm Việt Nam Chính Tông đã được chánh thức sửa tên gọi là Võ Lâm Đạo Việt Nam, với sự chuẩn nhận của sáng tổ Thiện Tâm Đoàn Tâm Ảnh và Chưởng Môn giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền).
– Để thống nhất đường lối hoạt động của các võ đường chi nhánh Võ Lân Đạo ở trong nước Việt Nam và hải ngoại, võ phái còn được sự chỉ đạo trung ương của Tổng Hội Thế giới Võ Lâm Đạo Việt Nam (VoLamDao Vietnam Kungfu World Federation), chủ tịch hội đồng do Chưởng Môn Giáo Sư Vũ Đức phụ trách, trụ sở đặt tại miền nam California, Hoa Kỳ (hộp thư liên lạc: PO Box 6204, Rosemead, CALIF. 91770 – 1634, USA). Tổng Hội Thế Giới Võ Lâm Đạo Việt Nam đã được giáo sư Vũ Đức chánh thức thành lập, với giấy phép của chính quyền tiểu bang California, USA, cấp ngày 07/07/1982.
Xem tiếp link sau:
Lịch sử Võ học Việt Nam, Giáo Sư Vũ Đức :http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsuvohocvn.htm
Bồ Đề Đạt Ma chu du càn khôn thiên hạ.
Sách Thiền Tông Võ Đạo đưa dẫn người đọc đi từ cội nguồn Phật giáo Thiền Tông Thiếu Lâm Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma qua đến Võ Lâm Việt Nam Chính Tông và Võ sư Đoàn Tâm Ảnh, pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư. Theo truyền thuyết của Phật giáo Thiền Tông Thiếu Lâm Trung Hoa, sau khi từ biệt Lương Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) trên một ngọn cỏ lau (cước đạp lô diệp quá giang) đi đến chùa Thiếu Lâm và trụ trì ở đó. Ngày nay ở Thiếu Lâm tự vẫn còn bức tượng “cước đạp lô diệp quá giang” miêu tả tích này. Tại ngôi chùa này, ông đã thực hành thiền định trong chín năm liền quay mặt vào vách núi (cửu niên diện bích).Thiếu Lâm Võ Phái được khai sáng bởi Đạt Ma Sư Tổ đến từ Tây Trúc được xem là đại diện cho “Võ Lâm Chính phái”.
Đại Tôn Sư Thiếu Lâm Đoàn Tâm Ảnh.
Thiền sư – Đại Tôn Sư Đoàn Tâm Ảnh (Tô Văn 1900-2008)
Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh (tên thật là Tô Văn), biệt danh Sáu nhỏ sinh năm 1900 tại Chợ Lớn Sài Gòn.Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh là con trai út trong 1 gia đình đông con gồm 6 chị em, cha của ông là cụ Tô Nghiêm, người gốc Trung Quốc, mẹ là bà La Thị Muối, người Nghệ An, Việt Nam.Do thể chất nhỏ bé và thường hay bị bệnh tật nên cha mẹ đã gửi ông cho Mộc Đức Thiền Sư, một người Hoa lưu lạc ở Việt Nam, thâu nhận làm đệ tử với mong muốn ông được rèn luyện võ nghệ, tăng cường sức khỏe. Thấy Tô Văn nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn, tháo vát lại có năng khiếu về võ thuật, Mộc Đức Thiền Sư hết lòng quý mến truyền dạy võ nghệ cho cậu. Năm 1913, được sự đồng ý của gia đình, 2 chú cháu khăn gói sang Trung Quốc. Từ đây, cậu bé Tô Văn được các hòa thượng trong chùa Phi Lai Tự thâu nhận. Họ dạy cho ông cách Thiền định và võ học của Bắc phái như: Côn Luân, Cửu Ngũ Tam Vương, Xà Quyền.Ngoài ra ông được thầy Trường Giang Mạnh Vũ truyền dạy cho Thiếu lâm Nam phái.
Sau 11 năm ông quay trở lại quê hương, đổi tên hiệu thành Thiện Tâm Thiền Sư Đoàn Tâm Ảnh. Từ bộ căn bản “Thất Thập Nhị Huyền Công” (72 thế căn bản tuyệt diệu nhất của Thiếu Lâm Tự), “Thập Bát La Hán Thế” bao gồm 18 chiêu thức chiến đấu (18 thế này đã được đúc thành 18 pho tượng ở Chùa Thiếu Lâm; “La Hán Thần Công” (18 chiêu thức tuyệt kỹ) đều được Tô Văn đón nhận, say mê luyện tập. Khi đã lĩnh hội được hầu hết những tinh hoa của Thiếu lâm, kết hợp với 1 số người, Tô Văn vận dụng “Thất thập nhị Huyền Công”, 18 thế quyền La Hán kết hợp với quyền của bên Bắc phái sáng chế ra 18 bài quyền, (Bài thấp nhất có 21 thức chính, bài dài nhất có 73 thức chính). Trong 18 bài quyền này ông lấy “Thất Thập Nhị Huyền Công” làm căn bản, lấy “Thập Bát Chưởng Công”, “Lục Bộ Thần Công” để ghép đan xen vào thành 18 bài quyền theo thức tự từ thấp lên cao, riêng bộ La Hán Thần Công ông để vào chương trình Thượng Đẳng và đặt tên cho môn võ này là môn “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền”. Ngày 03/11/2008 (tức ngày 06/10 năm Mậu Tý), lão Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh tạ thế, hưởng dương 109 tuổi. Ông mất đi để lại cho các thế hệ sau một kho tàng tài liệu về võ thuật; từ các bí kíp võ thuật của Bắc phái như “Côn Lôn”, “Cửu Ngũ Tam Vương”, “Xà Quyền“… cho đến tài liệu về võ học của phái “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền” và cả những kinh nghiệm mà ông đã đúc rút ra trong suốt cuộc đời phiêu bạt giang hồ của mình.
Văn Hoá Việt Tộc (GS. Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền):
Văn hóa theo cái nhìn của GS. Nguyễn Thanh Liêm thì tổng quát có thể hiểu văn hóa là lối sống (life style) của một nhóm người ở trong một khu vực địa lý nào đó hay rộng hơn là của cả một dân tộc trong một quốc gia. Có xã hội loài người là có văn hóa vì có những sinh hoạt có ý thức của con người. Ngôn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng, các hoạt động kinh tế, các kỹ thuật, các sinh hoạt nghệ thuật, cách xử sự ở đời, cách ăn mặc, các thứ lễ nghi…tất cả mọi hoạt động của con người trên cõi đời này đều thuộc về văn hóa. Khi mở mắt chào đời ta đã được đặt trong một cộng đồng, một xã hội, một nền văn hóa rồi. Còn Văn hóa cổ truyền Việt Nam là khi nói đến văn hóa Việt Nam chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa của người dân Việt từ thuở xa xưa nào đến giờ và từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, với một số những đặc tính nào đó gắn liền với con người và xã hội văn hóa Việt, làm cho nó khác biệt với những nền văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới. Nó bao gồm tiếng Việt, tư tưởng Việt, tôn giáo tín ngưỡng Việt, lễ nghi Việt, quần áo thức ăn Việt, vv.. Vì mang những đặc tính rất đặc biệt của dân tộc Việt Nam từ nhiều năm qua nên văn hóa dân tộc thường được đồng hóa với văn hóa cổ truyền hay truyền thống văn hóa Việt. Đó là nền văn hóa mà hầu hết người Việt Nam chúng ta đều nghĩ rằng nó là của chung của chúng ta do tổ tiên ta dựng nên từ hơn bốn ngàn năm qua. Văn hóa biến đổi.
Những người thiết tha với văn hóa Việt Nam, muốn làm cái gì tốt đẹp cho văn hóa nước nhà thường có thể nghĩ đến một mặt bảo tồn nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và mặt khác phát huy hay tân tiến hóa nền văn hóa đó để xây dựng nên một nền văn hóa mới. Và khi nói đến bảo tồn hay phát huy hay tân tiến hóa là phải nói đến sự biến đổi của văn hóa. Không có một nền văn hóa nào đứng yên một chỗ, không có một nền văn hóa nào có thể giữ nguyên trạng thái của nó từ buổi ban đầu cho đến bây giờ dù người ta có cố bảo tồn duy trì nó mãi. Kết quả của những công trình nghiên cứu về văn hóa của các nhà văn hoá nhân loại học (cultural anthropology) cho thấy không có một nền văn hóa nào hoàn toàn giữ được nguyên vẹn những đặc tính của nó qua thời gian. Bất cứ nền văn hóa nào, dù ở trong những xã hội đóng kín không có những tiếp xúc với bên ngoài đi nữa, vẫn ít nhiều thay đổi theo thời gian. Nhịp điệu biến đổi có thể từ rất nhanh, đến nhanh, hay chậm và rất chậm, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp. Phần nhiều các nền văn hóa đều thay đổi rất chậm nếu không có những va chạm/xung đột lớn lao như sự va chạm/xung đột giữa văn hóa Á Đông và văn minh Âu Tây hồi thế kỷ XIX-XX. Nhưng dầu chậm nó vẫn phải thay đổi mặc dầu trong đà biến đổi tự nhiên của văn hóa bao giờ cũng có khuynh hướng chóng chọi lại không nhiều thì ít.
Suy nghĩ riêng của VHLA:
Nguồn gốc Tộc Việt và 4000 năm văn hiến: Chung quy khi ta nhận định một cách khách quan những sử liệu cổ, nhất là hai cuốn sách Lĩnh Nam Chính Quái và Đại Việt Sử Kỷ Toàn Thư, 4000 năm văn hiến của đất nước thật khó thuyết phục, nếu không muốn nói là hoang đường. Hơn trăm năm qua, người dân Việt Nam, già trẻ luôn luôn tự hào về đất nước với 4000 năm văn hiến, khi chính những vị quan viết sử, cũng như vua Tự Đức đều ghi nhận “căn cứ vào cái không và làm ra có”. Thật vậy, 4000 năm văn hiến chỉ thuộc về phần huyền sử của đất nước, dựa trên những sự kiện chưa được xác nhận, kiểm chứng bởi các sử gia, những nhà khảo cổ của đất nước và của những nhà nghiên cứu lịch sử trên thế giới. Nếu căn cứ vào sách Việt Sử Lược, triều đại Hùng Vương bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 trước TL cho đến ngày nay, chúng ta chỉ có hơn 2500 năm văn hiến. Còn nếu loại bỏ 1000 năm bị đô hộ, thì số năm văn hiến nước ta chưa tới 1500 năm. Nhưng ta cứ nói 4000 năm thì giá trị lịch sử bị mất đi. Đây là điều trái ngược với nguyên tắc viết sử của một dân tộc.
Thiền Tông Võ Đạo.
Cả 2 tác phẩm Thiền Tông Võ Đạo và Văn Hoá Việt Tộc của GS. Vũ Đức Âu Vĩnh Hiền là những tài liệu sưu khảo quý giá. Tôi nhớ khi xem quyển Tài liệu lưu trữ về Charlie Chaplin, dầy bằng sách Thiền Tông Võ Đạo, 2 tác phẩm chuyên môn một nói về lịch sử một con người điện ảnh tiền phong Tây phương, một về một võ phái lâu đời như Đạt Ma Sư Tổ với Phật giáo Thiền Tông Thiếu Lâm Trung Hoa.
Xem thêm: Cuốn sách “Charlie Chaplin’Archives” (Tài liệu lưu trữ về Charlie Chaplin) là tác phẩm với sự góp sức của rất nhiều tác giả, trong đó có nhà sử học nổi tiếng nước Anh là Paul Duncan. Đây là cuốn sách nặng hơn 6kg, dày hơn 560 trang, Theo nhật báo Libération (18/12/2015), cuốn sách không tiết lộ những chi tiết mới, song trình bày công phu hơn và phong phú hơn về cuộc đời còn nhiều bí ẩn của danh hài Charlie Chaplin; bắt đầu từ tuổi thơ bần hàn lên tới tột đỉnh vinh quang và đến tác phẩm cuối cùng A Countess from Hong Kong (Nữ bá tước từ Hồng Kông, 1967) trước khi ông lui về ở ẩn tại Thụy Sĩ. Cuốn sách khai thác triệt để kho lưu trữ gồm tài liệu làm việc của Charlie Chaplin, những bài báo và posters quảng cáo thời kỳ đó cùng với hồi tưởng của những người từng cộng tác với diễn viên hài này.
Và sách kia là cuốn Shōgun của nhà văn James Clavell, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ series có tên The Asian Saga và theo Amazon, nó có tổng cộng 1.008 trang. Đây là một tiểu thuyết lịch sử về sự trỗi dậy của Toranaga thành Mạc phủ ở Nhật Bản vào thế kỷ 17, qua con mắt của vị thuyền trưởng người Anh, John Blackthorne. Shōgun bắt đầu khi Blackthorne bị đắm tàu và bị bắt giữ bởi những samurai địa phương, cùng với thủy thủ đoàn của anh ta trên tàu Erasmus. Thuyền trưởng và người của anh ta sau đó bị đưa ra xét xử như những tên cướp biển, họ thua cuộc. Cuộc sống của họ chỉ được cứu bởi mong muốn của những người dân địa phương Nhật Bản này là giữ họ như một cách để tìm hiểu thêm về người châu Âu. Để giữ cho phi hành đoàn của mình sống sót, Blackthorne phải sống yên bình trong một gia đình, trong khi những người đàn ông còn lại vẫn bị giam cầm./
Tóm lại, với quyển trường thiên ngàn trang Văn Hoá Việt Tộc tôi so sánh với cuốn Shōgun của nhà văn James Clavell, và Shogun kể về câu chuyện độc đáo về con người, văn hóa và phong tục Nhật Bản. Một bộ truyện dài và dày nhưng cuốn hút người đọc từ đầu đến cuối. Truyện lấy bối cảnh vào năm 1600, một dấu mốc then chốt trong thời Chiến quốc tại Nhật bản khi mà các thế lực kình chống nhau đang vào lúc căng thẳng nhất, cuộc chiến phân tranh thiên hạ Shekigahara nổi tiếng sắp sửa nổ ra giữa hai phe Toranaga (trên thực tế là Tokugawa) và phe Ishido (trên thực tế Isida bảo vệ người thừa kế của nhà Toyotomi). Các nhân vật và sự kiện đều dựa trên sự thực lịch sử Nhật Bản. Trong khi Văn Hoá Việt Tộc của tác giả Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền cho ta cái nhìn tỉ mỉ và toàn diện nền văn hóa gốc của dân tộc Việt Nam.
Việt Hải, Los Angeles, 28/01/2023.
-
Vũng Tàu còn nhớ hay quên ?
Vũng Tàu hay Cap-Saint-Jacques là một thành phố biển đẹp theo nhiều ý niệm, nhiều ý nghĩa như đẹp bởi thiên nhiên của nó, đẹp như phim ảnh hay hình ảnh trưng bày nét mỹ miều, đẹp do sách vở, báo chí ca tụng, hay do nguyên nhân chủ quan bởi vì tôi vốn yêu nó từ thuở nhỏ, nhỏ lắm. Vì dấy là quê ngoại của tôi, tôi về đấy thăm ngoại, vui thú biển cả nhiều lần, tắm biển, đùa giỡn với sóng biển bao nhiêu lần, không đếm hết nổi. Hãy cho tôi nhập đề như vậy.
Hãy nói thêm thi ca ngày cũ, một bài thơ cũ tôi làm khi nhớ Vũng Tàu, Những hình ảnh có Vũng Tàu biển xanh cát trắng …
Nhớ em một thuở Vũng Tàu
Hẹn nhau Bãi Trước, Bãi Sau sóng tràn
Nắng nghiêng hong tóc thời gian
Xa xa sóng vỗ an nhàn biển xưa
Hàng dừa gió thoảng đong đưa
Hải âu tung cánh trời trưa Vũng Tàu
Em à lỡ bước yêu nhau
Tình như cơn gió kiếp sau trùng phùng,Biển đẹp Vũng Tàu – nét thơ mộng của Cap-Saint-Jacques. Vũng Tàu còn nhớ hay quên ? Vũng Tàu ư ? Nhớ chứ! nhớ Vũng Tàu như nhớ người tình vậy…
Tôi vốn yêu Cap-Saint-Jacques. Xin gởi thêm một bài thơ nữa
Ai ơi có nhớ Vũng Tàu
Trùng dương cát trắng xôn xao sóng đùa
Bạch Dinh cao đỉnh gió lùa
Nghinh Phong Ô Quắn hai mùa quanh năm
Chuông chùa cổ tự xa xăm
Tầm Dương bãi Trước sóng thầm ngàn khơi
Thùy Vân xanh biếc mây trời
Bãi Dâu bãi Dứa người ơi nhớ hoài
Vũng Tàu nhung nhớ thiên thai
Quê xưa chốn cũ hẹn ngày cố hương!VHLA
Ðếm nhiều nỗi nhớ Văn Tui nhớ nhiều, phòng nha khoa của Ngoại 5 kế cạnh Kim Phượng Photo studio của Ngoại 9 nhé… Mà Ngoại 5 và Ngoại 9 trông phương phi như tây Côte d’Azur, hay tây Monaco màu nước da chun chút làn gió biển Cap-Saint-Jacques. Nếu Sài Gòn từng được mệnh danh là “Hòn ngọc viễn đông” và hiện tại cũng là thủ đô xưa lớn nhất cả nước. Vũng Tàu hiện nay nổi tiếng là một thành phố biển xinh đẹp và hiện đại của khu vực phía Nam với bờ biển trải dài ôm theo triền núi.
Qua bao nhiêu năm, Sài Gòn như một Petit Paris, và Vũng Tàu của 2 Ngoại đã khoác lên mình một chiếc áo tươi mát, một “sport-suit” như biển xanh Cap-Saint-Jacques, không thua Côte d’Azur tí nào nhé. Nhưng rồi cuộc đổi đời 1975 bao bằng hữu lên ghe vượt biên… Từ ngày miền Bắc vô đây ta mất nhà lầu. Từ ngày miền Bắc vô đây ta mất villa, ta mất cái Omega, mất dollars ta chuồng…
Thôi bi giờ ta đi vòng quanh nỗi nhớ nheng. Nhà Ngoại trên đường Trưng Trắc, một thuở oai hùng của lịch sử. Vị thế hai đường Trưng Trắc Trưng Nhị cặp đôi song song hai bên toà nhà chợ Vũng Tàu xưa …. Trước nhà ngoại là xe mì Nhựt Ký có chú Tàu hiền hậu, thông thường mỗi tối trước khi dẹp tiệm chú mang bán cho Ngoại một thao xí quách giá bèo discount, ôi những khúc xương heo chất bổ không còn là bao, bà con buổi sáng thưởng ngoạn hưởng cả rồi, 9 giờ khuya trâu chậm xơi món nước đục. Mà nhé buổi chiều tắm biển xong theo Ngoại đi câu cá dứa về bắt gặp thao xí quách, ta bụng đói meo, ta vồ ngay cho đã cơn Pavlov mà chả sợ cholesterol gì cả. Xương ống em heo từng luồng tuỷ béo ngậy bờ môi tuôn vào thực quản, biết đâu xương cốt ta ngày hôm nay như mí cha cinema Chuck Norris hay Sylvester Stallone là cũng nhờ chú mì Nhựt Ký vậy.
Trong nhà lồng chợ Vũng Tàu có quán cơm Việt number one của dân ta như canh chua cá bông lau ,đầu chợ trên là nhà Ngoại, đầu chợ dưới có tiệm gạo của Ngoại Năm Xinh. Ngoại Năm Xinh là nguồn cung cấp gạo Tám Thơm, gạo Nanh Chồn, hay gạo Nàng Hương Chợ Đào, gân cốt ta hôm nay rắn chắc như mí ông cinema cũng nhờ gạo của Ngoại Năm Xinh, cám ơn Ngoại Năm Xinh. Trong lồng chợ miêt dưới có tiệm cơm tây với những món cơm đỏ sốt cà, gà chiên bợ, bifteck, thermidor,…ông bếp có thời nấu cho các quan tây, thuở époque coloniale. Còn góc chợ trên Trưng Nhị gần tiệm giầy Bata có tiệm Au Favori bán thức ăn Pháp rát ngon, nhà hàng ẩm thực Pháp có tiếng là nhà hàng Cyrnos, ở bãi Trước Vũng Tàu, các nơi khác như Grand Hôtel, và Hôtel Pacifique là những kỷ niệm ngày xưa với ông Cò Hiến Binh Trần Công, tức thi sĩ Lão Mã Sơn (Virginia), xin xem thi ca phụ đính cuối bài (*).: Và khi nói về Vùng Tàu, nơi địa danh gắn liền với Bà Rịa, Văn Tui nhớ bài tình ca “Bà Rịa Tình Ta”, thơ Vĩnh Ninh, nhạc Mạc Vũ Nhảy dù Phạm Gia Cổn. Phải nói là Vũng Tàu mãi là một góc trời quê hương thật đẹp trong tôi, như những gì được ghi nhận trước 1975 trong bài này. Sau 1975 Văn Tui không biết về sau, nhưng kỷ niệm thuở VNCH mình nhắc ta nhớ nhiều hơn.
Rồi lại nhớ nơi cửa Tây chợ Vũng Tàu nhìn từ đường Trần Hưng Ðạo bên kia đường có tấm Vách Ðá trước Hội Trường Vũng Tàu. Những con đường như Lý Thường Kiệt, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Trần Hưng Ðạo, Phan Thanh Giản,… hoài niệm còn nhiều. Chợ Vùng Tàu họp chợ ban sáng cho tới trưa, xế trưa là lúc chợ tàn được dọn dẹp, cái sinh hoạt dễ thương năm xưa mí cha nón cối dép râu vô văn hoá cho dẹp đi. Tiếc thật! Những gian hàng chân phương bình dị, những xạp hàng bình dân cá cọp, nằm trên những con đường mà có những bà bán bánh khọt, bún gỏi dà, hàng trái cây những sầu riêng, mít dừa, mít tố nữ, nhãn, bòn bon, vú sữa, mãn cầu xiêm, chôm chôm, na dai,… ngay trước Kim Phượng Photo studio có cậu Hải A37, có cô Kim Phương đẹp như cô đào Thanh Nga một thuở, có cô Hốc Hổ bán bazar, các sản phẩm nhập cảng từ Pháp những dồ hộp, rượu, café xay,…
Hình kỷ niệm chụp do Mike Vogt. Hỡi ai còn nhớ Hội Trường VũngTàu mà ngày xưa thuở VNCH có tấm bảng to tổ bố, ghi “Quốc Tế Viện Trợ”. Năm 1975 Quốc Tế “hit-and-run” tháo chạy, khiến tụi tui sắm ghe vượt biên… Đấy là Phòng Thông Tin có đường Trưng Trắc từ nhà Ngoại nhìn thẳng phía trước là cửa Tây chợ Vũng Tàu, tại ngã tư Trưng Trắc và Trần Hưng Đạo, kỷ niệm thuở tây thuộc địa quan Doumer cho cất toà nhà thân thương Le Marché Cap-Saint-Jacques.
Nói dến quan lớn dân Tây này nên kể về Bạch Dinh. Bạch Dinh theo Tây ngữ là Villa Blanche, dinh thự có kiến trúc châu Âu cuối thế kỷ 19, nằm bên sườn núi Lớn của thành phố Vũng Tàu. Nơi đây từng được dùng làm nơi nghỉ mát cho Toàn quyền Ðông Dương, Hoàng đế Bảo Ðại và các đời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Nơi đây cũng là nơi chính quyền thuộc địa Pháp làm nơi giam lỏng vua Thành Thái từ ngày 12 tháng 9 năm 1907 đến năm 1916. Sau năm 1975 Vi Xi hoá phép làm Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Ôn tí ti vê sử liệu, Sau khi chiếm được quyền cai trị Ðông Dương, chính quyền thực dân Pháp đã cho san phẳng pháo đài để xây dựng một dinh thự dùng làm nơi nghỉ mát cho các Toàn quyền Đông Dương.Nơi này trước đây vua Minh Mạng cho xây dựng Pháo đài Phước Thắng tại nơi đây để kiểm soát cửa biển Cần Giờ. Quan tây ra dự án tức Toàn quyền Paul Doumer phê chuẩn và chính ông cũng là người đặt tên cho dinh thự này là Villa Blanche, theo tên của con gái ông là bà Blanche Richel Doumer. Công trình được khởi công vào năm 1898, mãi đến năm 1902 mới hoàn thành. Do màu sơn bên ngoài cũng như tên gọi Villa Blanche nên người Việt quen gọi dinh thự này là Bạch Dinh. Quan nho Paul Doumer chưa kịp sử dụng dinh thự này thì phải về nước. Người kế nhiệm là Paul Beau có lẽ mới là người đầu tiên sử dụng nó. Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 1907, nơi này được dùng làm nơi giam lỏng cựu hoàng Thành Thái. Ông sống tại đây trong gần 10 năm. Dân địa phương kính trọng ông, nên còn gọi Bạch Dinh là Dinh ông Thượng. Năm 1916, cựu hoàng Thành Thái cùng con trai là cựu hoàng Duy Tân bị đưa đi đày ra đảo Réunion. Bạch Dinh được sử dụng trở lại là nơi nghỉ mát của các Toàn quyền Đông Dương. Năm 1934, Bạch Dinh được nhượng lại để làm nơi nghỉ mát cho Hoàng đế Bảo Ðại và Hoàng hậu Nam Phương. Trong những năm sau đó, dinh luôn được dùng làm nơi nghỉ mát của nguyên thủ hoặc các quan chức cao cấp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, có thời gian dinh không được sử dụng vào mục đích cụ thể nào trước khi chính thức được chuyển thành một địa điểm du lịch. Ngày 4 tháng 8 năm 1992, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. (theo Wikipedia).
Nhớ thêm nhé, gần nhà Ngoại có khu chợ rau cải trên đường Trưng Nhị bên hướng gần cửa Tây chợ Vũng Tàu xưa, bên phải trong lồng chợ, toà nhà xưa là chợ cá, seafood ê hề đủ loại, tôi thích rảo quanh chợ cá ban sáng ngắm cá tươi rói khi thuyền bè vừa dánh mang ra bán, khu chợ có hiệu tiệm Ngọc Sương là khu xạp bán thịt heo bò, không cầy nhé. Khi bạn men theo đường Trưng Nhị qua khỏi bảng hiệu Ngọc Sương một chút quẹo trái có đường vòng qua đường Nguyễn Thái Học là khúc đường này bán gà vịt, nơi chúng tôi mua gà tre về đá, gà ác về tiềm, và gà thiện về xơi rôtie, hay cơm gà Siu Siu,…
Trên đường Trần Hưng Ðạo có pharrmcie của dược sĩ Nguyễn Minh Lý, và trên đường Phan Thanh Giản ngày xưa có những quán bar mình bé quá hông được vô, ngày nay ta đủ tuổi ôi bar xưa hông còn. Uổng nhỉ ? Cũng trên đường này có bến xe ngựa ở góc đường Trần Hưng Ðạo và Phan Thanh Giản. À, từ ngã 4 này ta mon men theo đường Trần Hưng Ðạo hướng về nhà thương Lê Lợi, cuối cùng xa xăm ta nhìn thấy núi Lớn ngang qua cửa Tây chợ Vũng Tàu hướng bên phải và Hội Trường Vũng Tàu, bên trái có văn phòng dental của Ngoại tui, kế Kim Phượng photo và tiệm biệm bazaar, rồi tiệm Tây Hồ photo studio ở góc Trưng Trắc và Trần Hưng Đạo. Ngay góc đường này bên phải khi ta quẹo phải là đường Phan Thanh Giản hướng về rạp cinema Võ Ngọc Chấn, một nơi hẹn hò với cô bé Hân răng khểnh gốc Sài Gòn, sau khi đôi ta xem phim Cleopatra (quay 1963) với những diễn viên gạo cội như Elizabeth Taylor, Richard Burton và Rex Harrison. Riêng bà Liz Taylor trải qua 8 cuộc tình mỗi lần sang ngang là mỗi lần bà tìm được tình yêu đích thực: ” Finally, I find my true love again”, nghe sao ta thèm quá xá…rồi đôi trẻ đi ăn hàng, rời tiệm kem Picnic của anh bạn Lân. Lân và Hoà Bata (Trưng Nhị) nay đâu rồi nhỉ ?
Mặt tiền Chợ Cấp, góc Trưng Trắc và Trần Hưng Đạo Vũng Tàu xưa có cô giáo Hải Minh, một đoá hoa khôi Hà Thành, một ca sĩ với những bài tình ca như Thu Quyến Rũ, Hai Vì Sao Lạc hay Hương Xưa…. khiến thầy Việt văn sáng tác thơ nhiều, và nhiều lắm. Nếu ai còn nhớ air thơ như thi ca Nguyên Sa: Trần Bích Lan, như vầy nhé…
“Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay? …
Có phải rằng tôi chưa được quen
Làm sao buổi sáng đợi chờ em
Hay từng hơi thở là âm nhạc
Ðàn xuống cung trầm, mắt nhớ thương”Rồi thơ thầy Lưu Ngọc Thuỷ được ghi nhận không thua thi ca Lưu Trọng Lư đâu…
“Ai bảo em là giai nhân
Cho hồn anh rơi rụng
Ai bảo em cười như xuân
Cho chết lòng thi nhân
Ai bảo em là giai nhân
Cho rượu hồng chua cay
Cho nụ tình xa bay
Cho lệ buồn đêm nay”Vũng Tàu có trường bán công Trung Học Lý Thường Kiệt ở ngã tư Lý Thường Kiệt và Nguyễn Thái Học. À, à, ai sổ mũi hay cảm mạo thương hàn xin đừng quên văn phòng BS. Lâm, danh trấn một thuở dĩ vãng của ngày xưa… Vâng ở ngã tư Trần Hưng Đạo và Nguyễn Thái Học là bến xe lô (xe đò nhỏ, compact size), cũng là nơi chốn lưu dấu phòng mạch của BS. Lâm.
Trong một bài viết về nhóm Tư Lực Văn Ðoàn, tôi đọc và nhớ đến cô Hải Minh vì Bãi Ô Quắn, Vũng Tàu, cô kể cô nhớ có chiếc tàu buôn màu đen bị sóng đánh tạt vào bờ, tôi vẫn nhớ bãi Nghinh Phong, nhớ như thế. Xin xem bài “Nhà văn Nguyễn Tường Thiết: Một hậu duệ của Nhất Linh”.
Link:
https://nhanvannghethuat.com/nha-van-nguyen-tuong-thiet-mot-hau-due-cua-nhat-linh/Phố biển Vũng Tàu về đêm khi lên đèn “Tác phẩm khác đưa gần gũi với phong văn của Nguyễn Tường Thiết là bài “Bãi Ô Quắn”, Vũng Tàu. Quê ngoại tôi ở thị xã Vũng Tàu. Câu truyện về nguồn gốc của Bãi Ô Quắn hay tên khác của nó là Mũi Nghinh Phong vào thời Pháp được gọi là Pointe au Vent. Người Việt đọc trại ra hai từ “au vent” thành Ô Quắn, sau đó lại dịch Pointe au Vent thành Mũi Nghinh Phong. Bãi tắm Ô Quắn, nay rất ít có du khách hay dân địa phương xuống tắm biển ở nơi đây vì dòng chảy của nước rất nguy hiểm. Về hình thể, địa thế thì Mũi Nghinh Phong là mũi đất vươn dài ra phía Nam bán đảo Vũng Tàu. Nghinh Phong có nghĩa là đón gió. Mũi đất nầy đón gió 2 mùa, khí hậu mát mẽ dễ chịu. Mũi đất này vươn dài ra biển tạo hai Vịnh lớn và hai bãi tắm nổi tiếng, bãi Vọng Nguyệt (hay Ô Quắn) và bãi Hương Phong (hay bãi Dứa). Chữ Ô Quắn hay tên Tây “Au Vent” như vừa đề cập, có nghĩa là gió. Ở đây gió nhiều, nên người ta đặt tên mũi đất này là Nghinh Phong rất đúng nghĩa, và bãi tắm ở đây là Ô Quắn, bãi tắm nhiều gió. Nghinh Phong đón gió thổi suốt năm như vậy, gió biển mát rượi khi ta ghé đây hóng gió biển. Xa xa ngoài khơi là bồng đảo Hòn Bà… Bãi Ô Quắn hay Vọng Nguyệt rất nổi tiếng vì thắng cảnh rất đẹp. Nếu quý vị độc giả thích sóng lớn, thích một bãi tắm riêng rẻ, đây là bãi tắm của quý vị vậy, vui trượt sóng. Ở đây sóng nhiều, nước trong và sạch, hơi sâu hơn ở bãi Trước và bãi Sau. Những lúc hoàng hôn phủ xuống không gian Au Vent khi trăng lên, ngắm nhìn những làn sóng bạc tung tăng nô đùa ở đây lấp lánh, ôi sao đẹp tuyệt vời quá…
Những tiểu thuyết hay phim tình cảm lấy biển làm bối cảnh dựng phim như Titanic, Endless Love, truyện tình yêu tuổi trẻ lãng mạn hay N’oublie Jamais (của Nicholas Sparks, The Notebook), tình cảm trẻ trung giữa cặp đôi Noah và Allie. Truyện Au Vent của nhà văn Nguyễn Tường Thiết cũng mang nét lãng mạn như “P.S.: I love you” (của nhà văn nữ Cecelia Ahern, P.S. – Je t’aime) giữa 2 người trẻ Holly và Gerry. Nguyễn Tường Thiết kể chuyện “Bãi Pointe Au Vent”, môt chuyện tình cảm man mác nhẹ nhàng, đan xen nét lãng mạn của chuyến đi chơi ở Bãi Ô Quắn có hai mẹ con bà Simône và Gabrielle, Paul là bạn của Gabrielle, Họ chia chung kỷ niệm tại biển này. Về sau cha Gabrielle là một sĩ quan Pháp bị tử trận tại Điện Biên Phủ. Hai mẹ con bà Simône về Pháp. Paul giữ kỷ niệm đẹp với 2 người Pháp này. Tác giả lồng vào truyện 2 bài tình ca Pháp xa xưa thật hay, và cốt truyện có Étoile des neiges và Moulin Rouge với kỷ niệm Edith Piaf trong nét bút diễn tả của nhà văn Nguyễn Tường Thiết. Chút lời nhạc … Ta kết hôn vào mùa xuân, sao tuyết lại lau khô đôi mắt xinh đẹp của em? Pour nous marier dès le printemps… Étoile des neiges, sèche tes beaux yeux
(Etoile des neiges do NS. Franz Winkler – 1906-1962)Khoảng năm 1970, khi về Cấp nghỉ hè tôi nhớ tại bãi Ô Quắn có chiếc tàu buôn khá lớn bị sóng đánh trôi dạt vào bãi biển này. Ô Quắn là một trong những bãi biển đẹp của Vũng Tàu. Tôi thích bãi này mỗi khi tìm sự thanh tịnh trong chuyến hè. Au Vent biểu tượng cho hồn mát mẻ cũng như vắng vẻ. Au Vent với tôi như bãi Playa del Carmen (ở bán đảo Yucatan, Mexico), khúc gần điểm nghỉ mát Riviera Maya và Las Brisas. Pointe au Vent cũng cho ta vẻ trầm mặc, tĩnh mịch như bãi Codo Playa thuộc đảo Bermudas, Caribbean. Những nơi lý tưởng để ta trốn tránh cảnh ồn ào, huyên náo của xã hội đô thị lớn. Xin nghe tiếp bài ca thứ 2 do danh ca “Sẻ nhỏ” Édith Piaf (le petit moineau) hát nhé… Édith Piaf chante la grand chanson Moulin Rouge.
Chiếc tàu buôn màu đen ngày xưa tại bãi Ô Quắn, Vũng Tàu. Ra mắt ‘Tự Lực Văn Ðoàn và Các Cây Bút Hậu Duệ,’ một tuyển tập ‘nặng ký’
Nói là “đầy ý nghĩa” vì đây là lần đầu tiên có một tuyển tập “nặng ký” của nhiều nhà văn viết về nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cùng với nhiều sáng tác của các tác giả thế hệ hậu duệ nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Tuyển tập dày gần 500 trang với 35 tác giả và có nhiều hình ảnh quý hiếm, với sự góp mặt của nhà báo Phạm Quốc Bảo, nhà văn Bùi Bích Hà, Giáo Sư Quyên Di, Giáo Sư Trần Huy Bích, Giáo Sư Dương Ngọc Sum, Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm, nhà báo Mặc Lâm, nhà báo Vương Trùng Dương, đại diện nhóm chủ trương là nhà văn Trần Việt Hải.”
GS. Hải Minh và GS. Lưu Ngọc Thủy, các con. Ði tiếp Vũng Tàu không mỏi chân. Có cây xăng Lý Thế Ký góc đường Trần Hưng Ðạo và Trưng Nhị, toạ lạc trên đường Trưng Nhị bên phải là đường Trần Hưng Ðạo cửa Tây chợ hãy nhìn thẳng hướng về nhà thương Lê Lợi. Nhìn về cửa Đông chợ xưa trên đường Lý Thường Kiệt có hai tiệm Mỹ Hương và Lan Phương. Tôi nhớ hai mặt chợ Vũng Tàu giống nhau, nhưng đường Trần Hưng Ðạo xe có thể chạy ngang qua, còn lối bên kia cửa Đông đường Lý Thường Kiệt xe hổng chạy qua được khi nhóm chợ buổi sáng. Chờ tới trưa chiều, sau khi bạn hàng dọn dẹp xong chợ thì xe cộ mới có thể chạy xuyên qua được. Nhớ góc đường Trưng Nhị có tiệm đồng hồ Vinh Phát. Ngã tư Trần Hưng Đạo và Trưng Trắc đi thẳng hướng về công viên Trần Hưng Đạo, kỷ niệm lắm… Ở góc này từ photo Tây Hồ và đi thẳng vô chợ theo đường Trưng Trắc là tiệm cơm Tuấn Ký, và Cư Ký. Có những hôm ông Ngoại đi uống cà phê sáng, hai ông cháu ghé tiệm nước Cư Ký. Tiệm sáng bán điểm tâm cà phê lót dạ. Bán trưa đến chiều tối là nhà hàng bán cơm hải sản đông đúc thực khách, cuối tuần mùa hè, xếp hàng như xem phim Titanic nhé. Tôi mê món cá mú dá hấp gừng (rock cod), món cá hồng lăn bột chiên xù sốt cà (snapper), canh gà rong biển bổ hơn sữa ong chúa, queen bee, hay nhau cá hồi cả vạn lần hơn,… Ngoại tôi ít ăn sáng, môt cup xây chừng cà phê đen, một miếng bánh ngọt nhỏ là xong. Koo tui kêu một jumbo bánh bao, xong chưa đã kẽ răng, Ngoại dặn cháu ăn cho no rồi đi tắm biển koo tui nạp thêm dĩa xíu mại cùng cặp dầu cháo quẩy. Mà thật vậy, khi ta đói bụng yếu sức ra gặp sóng biển nhấp nhô coi chừng hải bá kéo chân cuốn trôi sẽ nguy to, chưa kể yếu sức mà gặp ngữ như mấy con cá mập trắng nhe răng jaw cười duyên ta sẽ tiêu tùng. Coi vậy chớ khi đi bơi 2, 3 tiếng bụng lại đói meo. Hiệu ứng Pavlov khi bao tử biểu tình, đánh bò cạp. Tuổi 13 của Nguyên Sa đấy ! Nam thực hơn hổ… Ngày nay nhớ Ngoại, nhớ ông chủ Cư Ký, muốn ăn mode xưa, bà nhà và cha toubib “primary care doc” cho tu huýt ngay “béo như sumo cần giảm cân!”, thuở xua ở với Ngoại chả bao giờ bắt ta kiêng khem diet cả, 9PM ông cháu hóng gió trên sân thượng với thao xí quách của ông xe mì Nhật Ký, thêm chai la de Con Cọp Lớn, ôi đã làm sao nhỉ ?
Nhớ thêm ngã tự Trần Hưng Đạo và Trưng Trắc có tiệm sách báo Quốc Hiệp, có cô gái phụ mẹ trông hàng sách, cô bán sách xinh xắn, một petite fille như bóng mát của tiệm sách, cô Quốc Hiệp như cô Thuỵ Lan và Khánh Lan, bán sách, đọc sách, chữ nghĩa vô nhiều nay là nhà văn. Tôi ghé qua hàng sách ngày xưa, không biết là để mua sách, hay để ngắm sách hay ngắm cô Hiệp, em ơi….
Hiệp à, những sách ngày xưa em giới thiệu, có thể là tư tưởng tương đồng: “Et un jour, la fille aux livres est devenue la femme qui les écrivait” (And one day, the girl with the books became the woman writing them); hay “Un jour, tu seras l’auteur préféré de quelqu’un” (Someday you’re going to be someone’s favorite author). Cám ơn Hiệp một thuở ngày xưa Vũng Tàu.
Chợ Vũng Tàu với nhà sách Quốc Hiệp gần nhà Ngoại Lời cuối, xin gởi về quê ngoại, trích “Cá: Tâm Tinh và Kỷ Niệm”, Việt Hải Los Angeles:
“Quê ngoại tôi ở Vũng Tàu mà quê nội lại ở tỉnh Tây Ninh, nên ngày xưa khi hè về anh em chúng tôi được luân phiên chia làm 2 tốp, nếu tốp này về thăm nội, tốp kia thăm ngoại, như thế hoán chuyển mỗi mùa hè khi được bãi trường hay nghỉ học. Cả hai địa danh này đều cho tôi nhiều kỷ niệm êm đềm đáng nhớ về sông rạch, về biển cả và cá, đặc biệt cá có râu whiskers. Tôi còn nhớ những ngày hè trước năm 75, khi quân đội đồng minh Mỹ và Úc đến vùng biển Vũng Tàu, thì nơi đây có sinh hoạt kinh tế rất sinh động, phồn thịnh và tấp nập. Ở tuổi trẻ thích vui khi được về Cấp, tôi theo ông ngoại tôi ban đêm ra Cầu Đá trước Ty Bưu Ðiện ở bãi trước Vũng Tàu câu cá đến khuya 1 hay 2 giờ sáng. Miệt biển có loại cá dứa tương tự như cá bông lau sông rất ngon. Thú câu đêm rất vui, hai ông cháu đèo nhau trên xe gắn máy ra biển. Để phòng cái lạnh về khuya tôi nhớ tôi trang bị cho mình chiếc quần blue jean dầy và khoác áo xanh lá cây treillis thật ấm của quân đội Hoa Kỳ những lần câu đêm như vậy. Sau khi thả mồi nhìn biển cả xa xa tâm hồn thư thái, an nhàn vô cùng, gió biển vào hè mát lạnh khi trời càng về khuya, thỉnh thoảng tôi ngó phao xem có cá cắn câu chưa. Ðèn pha của ngọn hải đăng từ trên núi thỉnh thoảng quạt một vệt sáng trên trời, không trung có hàng triệu vì sao lấp lánh, những tinh tú ẩn hiện tận chân trời xa xăm cho thấy vũ trụ thật bao la. Giựt mình trong phút giây mộng mị vì cá lớn đã cắn câu và run mạnh cần, tôi vội xoay nhanh ghì cần kéo cá lên. Ồ, một chú cá dứa thật to. Có hôm ông cháu chúng tôi câu đựơc bốn, năm con cá dứa và nhiều cá mú đá màu xám hay mú lửa màu đỏ, rồi có hôm có cá ngộ halibut rất ngon. Bà ngoại tôi nấu ăn rất khéo. Bà nấu canh súng cá dứa, cá dứa chưng tương hoặc cá dứa kho me. Tôi không biết món canh súng tiên khởi phát xuất từ tỉnh nào, nhưng chỉ biết nhà ngoại tôi thường ăn món này. Trong nước lèo nêm canh súng có tương đen (hoisin sauce), đậu phọng rang giã nhỏ, xã băm, hành hương, tỏi phi và nêm thêm gia vị căn bản nước mắm, đường. Các loại rau độn có bạc hà, ngó sen chẻ cọng, giá và rau ngò om. Những khứa cá dứa thật ngon và béo ngậy. Tôi cũng được nghe về loại cá ngát, một giống whiskers nhưng lại sống ở vùng nước lợ ranh giới của nước sông và nước biển như Bà Rịa hay Cát Lở. Tựu trung thì Vũng Tàu vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm, nhưng thú câu cá về đêm vẫn hấp dẫn tôi nhiều hơn cả…”
Xin cám ơn Vũng Tàu quê ngoại, kỷ niệm quê hương, địa danh có cô giáo Hải Minh, Kim Phượng Studio và Quốc Hiệp bookstore, many many more. All and all make a beautiful memory in mine…
Nhà Ngoại ngay cây xanh đầu tiên, kế Kim Phượng Photo Nhà Ngoại ngay cây xanh đầu tiên, kế Kim Phượng Photo.
(*): Phụ đính:
Người viết rất vui dã nhận được bài thơ của Đại Lão thi nhân Mã Lão Sơn, 97 tuổi vẫn làm thơ, nhảy rumba, bolero nhịp nhàng, và tango chách chùm mỗi cuối tuần. Ông vốn người Gò Công, nhưng bỏ vài con tim nơi đất Vũng Tàu.
Notes: Bạn Trần Việt Hải đã hỏi “Ai ơi có nhớ Vũng Tàu”?. Tôi xin trả lời
NHỚ VŨNG TÀU
Một góc quê hương thân thương đã mất
Làm sao tôi quên được Vũng Tàu xưa:
Bãi Trước, bãi Sau, bãi Dâu, bãi Dứa
Nhớ mũi Nghinh Phong, nhớ ánh Hải đăng
Núi lớn, núi Nhỏ , nhớ những quán ăn
Bãi Trước,quán Tầm Dương ai cũng biết
Ở bãi Sau có quán bà Hồng Phượng.
Trên bốn mươi năm rời bỏ quê hương
Tôi còn nhớ mắm ruốt bà Giáo Thảo
Thời thế đổi thay, thế thời điên đảo
Bạn Vũng Tàu xưa kẻ mất, người còn
Kỷ sư Châu Minh Ba và bà Cirnos(1)
Kẻ ở Florida, người ở Cali
Ðại Tá Kinh đã vĩnh viễn ra đi (2)
Ðai Tá Tạo đã ra người thiên cổ (3)
Tôi xa Vũng Tàu bao mùa lá đổ
Hôm nay bổng nghe nhắc đến Vũng Tàu
Lòng bâng khuâng buồn, thương nhớ biết bao!Hoa Ðô 15-11-2020, Washington, DC.
Trần Công/Lão Mã Sơn- Bà Trần Thị Kim Anh, Chủ nhà Hàng Cyrnos, và là Nghị viên Thị xã Vũng Tàu.
(2)- Ðại Tá Nguyễn Văn Kinh, Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Cảng Vũng Tàu, và Chỉ Huy Trưởng ngành Quân Cảnh Quân lực VNCH cho đến ngày mất nước.
(3) Ðại Tá Nguyễn Văn Tạo, Chỉ Huy Trưởng Trường Truyền Tin, và Thị Trưởng Vũng Tàu .
Việt Hải
- Bà Trần Thị Kim Anh, Chủ nhà Hàng Cyrnos, và là Nghị viên Thị xã Vũng Tàu.
-
MẠN BÀN VIỆC PHỔ NHẠC CHO BÀI THƠ
Chủ dề “Phổ nhạc tù thơ“, theo Wkimedia blog thì Phổ nhạc là nghệ thuật dựa theo lời và ý của bài thơ mà viết thành bài nhạc. Trên thế giới, từ thời âm nhạc phục hưng, Rondeau cùng với ballade và virelai là ba hình thức thơ Pháp phổ nhạc vào cuối thế kỷ 13 cho đến thế kỷ 15. Về nhạc tính trong văn chương truyền thống Việt Nam, phải nói là trong ngôn ngữ Việt vốn giàu âm nhạc tính với âm vang trầm bổng chen lẫn trong thơ là nhạc. Các loại văn vần trong văn chương Việt Nam như lục bát, song thất lục bát, hát nói đều đi đôi với ngâm vịnh, xướng hát. Những điệu dân ca như hát ru, hò cũng hay mượn ca dao làm lời.
Giữa thơ ca và tân nhạc Việt Nam, nghệ thuật đem ý lời thơ lồng vào nốt nhạc để hát lên là phổ nhạc. Việc chuyển từ thơ thành nhạc có thể chỉ dùng ý để gợi lên những hình ảnh trong ca khúc, nhưng cũng có khi theo sát lấy câu thơ làm ca từ. Trong một bài thơ có khi bài nhạc chỉ rút một đoạn mà không đụng đến những đoạn kia, hay hoán chuyển tự sự nên việc phổ nhạc có thể chỉ là phỏng theo. Có người nhận xét thì thơ phổ nhạc là sự đồng cảm, đồng điệu giữa nhà thơ và nhạc sĩ. Phong cách này phổ biến trong dòng nhạc tiền chiến và sau đó được nhiều nhạc sĩ Việt Nam áp dụng suốt thế kỷ 20. Bài thơ được chọn phổ nhạc thường có nội dung phi thời gian.
Theo bài của tác giả Đõ Bình ghi nhận về phạm vi Thơ Phổ Nhạc như sau: “Hành trình vào cõi thơ là làm một cuộc phiêu lưu vô tận. Thơ bắt nguồn từ cảm xúc tâm hồn, nơi ẩn chúa những mối tình thiêng liêng sâu kín nhất. Phải chăng làm thơ là đi giữa cõi mộng và thực để đời trổ nhánh đâm hoa và đưa thực vào mộng cho hồn vơi đi những nỗi đau trần thế. Thi nhân nặng nợ với tình thơ nào khác chi kiếp tằm nhả tơ? Người nghệ sĩ ước mơ lớn nhất của họ là để lại cho đời dăm ba tác phẩm, hay ít bài thơ đắc ý. Dù mai sau tác giả có đi vào quên lãng thì những vần thơ trác tuyệt đó cũng dệt cho đời những đóa hoa muôn sắc. Hồn thơ tựa làn khói, mùi hương; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ cảm nhận chứ không thấy được hình tướng. Nhưng ngay cả lúc hữu hình, hồn thơ hóa thể thành sợi khói, vầng mây… chúng ta đều nhìn thấy nhưng nào ai nắm bắt được? Phải đợi đến lúc con tim rung cảm thúc đẩy, hồn thơ nhập vào thi nhân thơ mới bật. Thơ vốn sẵn trong thiên nhiên, hàm chứa nhiều tính chất trong trời đất. Ngôn ngữ của thơ đôi khi ẩn trong văn, nhạc và hội họa, nhưng hình ảnh và nhạc điệu của ngôn ngữ thơ lại rất khác với văn xuôi mà chỉ có những tâm hồn thơ mới cảm nhận được. Nhà thơ không làm công việc của nhà lý luận, nhà khoa học, nhà thần học hay triết gia… để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện hữu, cái huyền bí của vũ trụ..vv.. nhưng thi nhân có thể sống với với tôn giáo, luân lý qua tâm linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời, và sống triết qua thơ? Thi sĩ Bùi Giáng đã thở bằng thơ trong bài đi vào cõi thơ, thi sĩ minh họa: «… Cõi thơ là cõi bồng phiêu».
Nhập vào thơ là sống trong cõi phiêu bồng. Cây khô cành chết làm sao có thể nở hoa, thơ cũng thế chỉ nở rộ ở những tâm hồn nghe được tiếng thở của con tim. Nhưng nghe được mới chỉ là cảm nhận giữa người và thơ cùng có chung một tần số. Muốn diễn tả những rung cảm đó qua thơ cần phải có thi hứng, mà thi hứng là do thiên phú, nhưng từ thi hứng đến nghệ thuật là bước khá dài, đòi hỏi nhiều nghiên cứu học hỏi. Thơ có thể là vần hay không vần, nhưng đó chỉ là một trong những chất liệu dự phần của cấu trúc trong quá trình hoàn thành thơ. Một chuỗi câu, nhóm từ, cắt ráp kiểu tiền chế được kết lại, nếu chỉ dựa vào vần dễ biến thành bài vè. Và một số câu, nhóm từ không vần nếu không có các yếu tố khác phụ thêm để hoàn chỉnh thơ, cũng biến thành đoạn văn xuôi thiếu mạch lạc và trong sáng.
Thơ và nhạc là hai nghệ thuật riêng biệt nhưng rất khắng khít nhau làm say đắm lòng người. Thơ là nghệ thuật của «lờì», nhạc là nghệ thuật của «âm thanh». Trong thơ có chứa: Tư tưởng, triết lý, tôn giáo, hội họa, âm nhạc… ngoài những chất liệu như ngôn từ, hình tượng, vần điệu, niêm luật, ẩn dụ, hoán dụ… trong cấu trúc để hình thành nên thơ, riêng thơ Việt Nam và thơ Trung Hoa còn có thêm chất họa vào nhạc. Âm nhạc là một môn nghệ thuật dùng âm thanh làm ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng và tình cảm con người. Ngày nay người ta còn dùng âm nhạc trị bệnh tâm thần (musicothérapie).
Âm nhạc gồm những đặc tính: cao dộ, trường độ, cường độ, và âm sắc, được ký hiệu bởi những hình nốt. Nghe những giai điệu dìu dặt khoan thai người thưởng lãm có cảm giác lạc vào cõi thiên thai, thơ mộng. Riêng thơ chưa có một định nghĩa nào là mẫu mực, “người ta chỉ cảm thơ là một môn nghệ thuật của nghệ thuật, phát xuất từ cảm xúc tâm hồn.”
Nói đến ca khúc, người ta thường có thói quen nghe nhạc qua cảm âm dựa trên lời ca mà ít chú ý đến thẩm âm, phần cấu trúc gồm giai điệu, tiết tấu, hay cách phối khí hòa âm vv… .Thơ phổ nhạc là nghệ thuật đem thêm âm hòa với âm thanh sẵn có trong thơ, hoặc thay đổi âm thanh của thơ chuyển thể thành những nốt nhạc để hát. Nhưng đọc thơ, hát thơ hay còn gọi là ngâm thơ hoàn toàn khác với nhạc thơ. Ðọc và hát thơ không cần áp dụng những quy tắc kỹ thuật cũng như mỹ thuật quá phức tạp của âm nhạc, vì nhạc trong thơ là những âm phát từ thanh bằng trắc của câu thơ; trong khi thơ trong nhạc hay còn gọi là tính nhạc gồm những hình tượng, ngôn ngữ được ngắt nhịp theo tiết tấu riêng để diễn tả giai điệu toàn bài chuyên chở tứ thơ.”. (Vài Nét Thơ Phổ Nhạc – Đỗ Bình)
Phổ nhạc là một kỹ năng cơ bản của một người nhạc sĩ…Nhiều người dù một nốt bẻ đôi không biết vẫn có thể cho ra đời những bài hát thật thuận tai hợp nhĩ, nhưng khả năng thiên phú đó không phải ai cũng có được. Nếu bạn không thuộc nhóm người may mắn ấy thì cũng đừng lo, cứ theo quy trình bài bản sau đây.
1. Tạo sườn bài nhạc cho ca khúc:
Muốn phổ nhạc, trước hết bạn cần phải xác định cấu trúc của bài hát. Viết ra giấy sườn bài mà bạn muốn khai triển theo, sắp xếp lại từng phần với lời nhạc cụ thể. Tạo những giai đoạn như sau.
Intro: Một đoạn nhạc dạo đầu ngắn để dẫn dắt người nghe đi vào bài hát. Nhạc cụ thường đóng vai trò chính trong phần này.
Nghĩ xem bạn sẽ chọn nhạc cụ nào để phù hợp với thể loại, phong cách, cảm xúc của bài hát. Có thể phối hợp nhiều loại nhạc cụ với nhau, nhưng nhớ rằng luôn phải có một nhạc cụ đóng vai trò chính. Thường nhạc cụ chính sẽ chơi lại giai điệu của phần Verse hoặc Chorus.
Verse: Đây là phần bạn sẽ kể câu chuyện của mình, nên cần chú trọng lời bài hát. Chú ý không để nhạc át mất phần lời hay làm người nghe mất tập trung, bỏ sót đi ý nghĩa của bài hát.
Chorus: Điệp khúc là phần quan trọng nhất, vì trong phần này bạn sẽ khoe giai điệu bắt tai của bài hát. Giai điệu đó nên lặp đi lặp lại để người nghe thêm dễ nhớ. Cả phần điệp khúc cũng sẽ xuất hiện nhiều lần, thường là sau mỗi đoạn verse. Tuy nhiên điệp khúc cuối cùng trước khi kết thúc bài hát thường có chút thay đổi để tạo bất ngờ.
Bridge: Đây là đoạn cao trào, không bắt buộc phải có trong tất cả các ca khúc nhưng là yếu tố cần thiết để đột phá khỏi cấu trúc nhàm chán thông thường. Phần này thường sẽ xuất hiện khi bài hát đã đi được 2/3 chặng đường. Phần lời cũng như nhạc cần có nhiều khác biệt để tạo bất ngờ cho người nghe. Nó đóng vai trò như một cú plot twist xoay chuyển hoàn toàn nội dung bài hát, hoặc là nơi mà bạn hé lộ bí mật ẩn giấu trong nội dung từ đầu bài hát.
Đừng quên nghĩ ra cách cái tên cho bài hát trước khi bắt tay vào phổ nhạc, thường chỉ cần vài từ ngắn gọn để gây chú ý cho người nghe.
2. Bắt liền tai những ý tưởng xuất hiện trong đầu:
Sự sáng tạo rất khó để nắm bắt vì nó thường đến vào những lúc bạn không có bất kỳ sự chuẩn bị nào hay những lúc bạn chẳng bao giờ ngờ tới. Một vài ý tưởng sáng tạo nhất sẽ lóe lên trong đầu khi mà trong tay bạn chẳng có nhạc cụ hay giấy bút để ghi lại.
Rất may là trong thời đại này, một cái smartphone Samsung Galaxy sẽ là giải pháp cho bạn. Ghi chú lại những ý tưởng trong đầu bạn vào phần note, hoặc nếu có thể, ngâm nga, humming song finding giai điệu bạn vừa nghĩ ra, gõ nhịp theo bằng tay và dùng smartphone để ghi âm lại. Đó sẽ là data dữ kiện.
3. Nghịch ngợm với nhạc cụ:
Dù biết chơi nhạc cụ là một lợi thế. Để khám phá ra những giai điệu thú vị, bạn chỉ cần ngồi nghịch ngợm trên phím đàn piano, hay búng string guitar khi tùy hứng đánh một vài nốt nhạc, hay vừa gẩy đàn mandolin, vừa ngâm nga một giai điệu bạn vừa bất chợt nghĩ đến trong đầu. Bạn sẽ khám phá ra một vài nốt nhạc hay giai điệu ngẫu nhiên được sắp xếp cùng nhau lại bay đến hay hay bất ngờ. Ngay cả khi bạn không chủ động, những ý tưởng và nguồn cảm hứng vẫn sẽ tự tìm đến khi bạn thả mình trong âm nhạc.
4. Sử dụng phần Siberius ghi ký âm:
Đặc biệt, khi bạn không biết chơi nhạc cụ, bạn vẫn có thể nhgịch Siberius software nhờ mánh ni sự trợ giúp soạn nhạ, thả các nốt nhạc trôi trên phíqm nhạc Siberius sơftware,.
5. Thêm phần hòa âm vào cấu trúc có sẵn qua Siberius software.
Siberius software cũng giúp bạn hòa âm là kỹ thuật sử dụng các nốt nhạc trong cùng một thang âm chồng lên nhau. Nói nôm na là làm cho bài hát hay hơn bằng cách thêm các giai điệu phụ song song để nâng cao nét nhạc phòng tắm lên giai điệu chính. Cách thông thường là sử dụng một giọng ca bè, hát lại phần lời ở một độ cao khác song song với giọng ca chính.
Các giai điệu chính phụ trong bài hát muốn tạo được sự hòa hợp cần phối hợp theo luật của đoạn nhạ mẫuc. Điểm mấu chốt là bạn phải xác định thang âm và nhịp của đoạn nhạc đó là gì để thêm các nốt nhạc phù hợp và sắp xếp nhịp cho đồng điệu. Điều này luôn được áp dụng khi hòa âm, phối khí nhạc cụ hay hay cho hát bè.
Để hòa âm chuẩn, bạn cần phải có kiến thức cơ bản về nhạc lý và nỗ lực tập luyện.
Tập hòa âm theo các bài hát có sẵn cũng là một cách để bạn cải thiện khả năng hòa âm của mình. Và đôi khi trong quá trình đó, bạn lại có thể sáng tạo nên những giai điệu mới dành riêng cho các ca khúc của mình. Nhớ là khi hòa âm là sử dụng nốt nhạc trong cùng một thang âm chồng lên nhau.
6. Chỉnh sửa lại nhiều lần:
Để cải thiện, trau chuốt, và cho ra đời một sản phẩm hoàn hảo nhất, hãy dợt đi dợt lại thật nhiều lần.
Một bài nhạc được soạn xong, dể nhạc bản được,bay bổng, vươn cao hơn, chúng ta cần kỹ thuật hòa phối khí góp phần vào. Hòa âm có thể hiểu nôm na là sự pha trộn nhịp làn điệu trong một ca khúc nào đó giúp ca khúc trở nên hay hơn và bắt tay người nghe nhất, tôn lên vẻ đẹp của tác phẩm. Thông thường một bản nhạc do nhạc sĩ viết nên chỉ có giai điệu đơn thuần dành cho ca sĩ hát. Muốn bản nhạc có “hồn” hơn hoặc tạo nên một bản HIT thì cần phải hòa âm vào từ đó mới có thể có được một ca khúc hay. Còn Phối khí trong một bài hát thường là sự pha trộn giữa các loại nhạc cụ với nhau. Sự kết hợp các nhạc cụ như: guitar, violon, trống, piano… kèm theo đó là một bản nhạc đã hòa âm trước đó sẽ tạo ra sự khác biệt cho bài hát. Khi có các nhạc cụ phối khí bài hát sẽ trở nên khác biệt hơn khi húng ta nghe nó và có thể mình cảm nhận nét mới lạ thú vị hơn.
Tài Liệu dùng phần mềm để viết nhạc và hoà âm trên máy điện toán (vi tính) dùng kỹ thuật Sibelius, xin tham khảo link sau:
https://cuongde.org/doco/62-music/4200-viet-nhac-tren-may-vi-tinh-bang-phan-mem-sibelius
(Việt Hải ghi nhận theo theo datanet và khoá Silicon Music Composers workshop.với NS. Minh Trí)
Việt Hải
-
Chuyện trò cùng bác sĩ Nguyễn Cao Cường
Bác sĩ Nguyễn Cao Cường
GS. Y Khoa, Mayo Clinic College of Medicine and Science. Associate Dean, Global Professional Education, School of Continuous
Scottsdale, Arizona, USA.MỘT NGƯỜI BẠN MỚI:
Tôi, Việt Hải xin giới thiệu đến Quý Giáo Sư, Quý Văn Thi Sĩ và các anh chị em, một người bạn đồng môn với tôi thời trung học. BS. Nguyễn Cao Cường là cựu học sinh trường trung học Petrus Ký, Sài Gòn. Anh theo ngành nghiên cứu và giảng dạy y khoa tại Mayo Clinic College of Medicine and Science campus in Phoenix/Scottsdale, Arizona. Nhưng BS. Cường lại có đam mê văn chương, thi ca. Nên tôi đã mời BS Cường cùng sinh hoạt với Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian khi anh có dịp ghé Orange County. Anh hiện đang sinh sống và làm việc tại tiểu bang Arizona.
BS Cường Nguyễn, nguyên là chuyên gia tư vấn tại Khoa Tiêu hóa – Gan mật, Nội Khoa. Ông là giám đốc y tế của chương trình Mayo CARES. Ông cũng là giám đốc y tế về Quản trị chuỗi cung ứng và là Phó khoa trưởng về Giáo dục chuyên nghiệp toàn cầu. Các mối quan tâm nghiên cứu của ông bao gồm: ứng dụng và cải tiến ngành y khoa nội soi, điều trị và phòng ngừa bệnh viêm đại tràng C. diff, và tối ưu hóa sự chênh lệch về chăm sóc sức khỏe hiện nay.
Sau đây là bài phỏng vấn của của Mayo Clinic College of Medicine and Science Campus in Phoenix, Scottsdale, Arizonne về phạm vi làm việc của anh, mời quý vị theo dõi.
Mayo Clinic College: Tại sao bạn chọn trở thành một thầy thuốc?
BS Cường: Tôi bắt đầu học đại học với tư cách là một chuyên ngành kỹ thuật nhưng chuyển sang ngành y khi tôi tham gia một khóa học về sinh lý học con người. Tôi hoàn toàn khi bị cuốn hút bởi sự phức tạp của tất cả các cơ chế điều khiển và quá trình thích ứng được thể hiện trong cơ thể con người.
Mayo Clinic College: Thách thức lớn nhất mà bạn phải đối mặt với tư cách là một bác sĩ là gì?
BS Cường: Không thể làm được nhiều việc hơn cho bệnh nhân so với khả năng của khoa học.
Mayo Clinic College: Bạn có lời nhắn nào dành cho các bác sĩ / nhà khoa học trong tương lai không?
BS Cường: Đó là một khoảng thời gian rất thú vị để theo học ngành y. Nền tảng này có khả năng tiếp cận khá xa và cơ hội để tạo ra sự khác biệt là vô tận. Chắc chắn sẽ có những thử thách, giống như những thăng trầm của cuộc sống. Luôn hướng tới mục tiêu làm những điều đúng đắn vì những điều đúng đắn là điều tốt nhất cho bệnh nhân dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Mayo Clinic College: Bạn đã đến với Phòng khám Mayo được bao lâu?
BS Cường: Ồ, tôi đã mất số lượng. Có thể là 24 năm nữa.
Mayo Clinic College: Phần bổ ích nhất khi làm việc với các học viên và thực tập sinh của Mayo Clinic là gì?
BS Cường: Vài năm trước, tôi đi ăn trưa với một vài sinh viên tốt nghiệp, và một người trong số họ nói tại bàn rằng khi cô ấy gặp phải một thủ tục khó khăn, cô ấy sẽ thử nghĩ xem tôi sẽ làm gì trong tình huống đó. Nghe thấy đó là phần thưởng cuối cùng đối với tôi. Thực sự là một đặc ân khi được sát cánh cùng những người học Mayo trong hành trình giáo dục của họ.
Mayo Clinic College: Một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của bạn trong sự nghiệp chuyên môn của bạn là gì?
BS Cường: Là một bác sĩ, tôi rất cảm động và tự hào về việc một trong những bệnh nhân của tôi và con gái của anh ấy đã đặt tên cháu gái theo tên tôi.
Mayo Clinic College: Bạn có thể cho chúng tôi biết một hoặc hai điều thú vị mà không nhiều người biết về bạn không?
BS Cường: Tôi từng làm việc trong bộ phận vận chuyển của một cửa hàng sách và tôi khá giỏi trong việc đóng gói. Amazon nên thuê tôi làm nhà tư vấn để cứu môi trường của chúng ta
Link: https://college.mayo.edu/
Nhân cơ hội này, Khánh Lan cũng xin gởi lời cám ơn chân tình đến BS Cường, đã nhận lời viết bài giới thiệu cho quyển sách mới nhất của Khánh Lan, PHÂN TÂM HỌC VÀ ĐỜI SỐNG. Đây là một tài liệu biên khảo về sự ảnh hưởng của Phân Tâm học trong đời sống của chúng ta qua nhiều lãnh vực: Y khoa; tư pháp; tâm linh; văn chương, nghệ thuật và điện ảnh. Tác phẩm sẽ ra mắt quý đồng hương vào mùa Xuân 2023.
Việt Hải & Khánh Lan
-
Ru Em Tình Nồng | Em Bắc Kỳ Yêu
-
TOÀN PHONG NGUYỄN XUÂN VINH TRONG GÓC NHÌN VĂN HỌC
GS. NGUYỄN XUÂN VINH
(1930-2022)Chủ nghĩa văn học lãng mạn lôi cuốn không biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, trong đó những sáng tác văn chương, thi ca đều tán dương ái tình, hay tình yêu. Xin hãy xem những ví dụ như:
- Nhà văn kiêm triết gia Albert Camus nhận xét “Không được yêu là một bất hạnh đơn giản; bất hạnh thực sự là không yêu”.
- Thi hào lãng mạn Charles Baudelaire thì quan niệm “Tình yêu là khao khát được thoát ra khỏi chính mình”.
- Triết gia Jean Jacques Rousseau cho là “Những bức thư tình bắt đầu mà không biết điều gì sẽ nói và kết thúc mà không biết điều gì đã được nói”.
- về quan điểm tình yêu Voltaire nhà văn và triết gia Pháp đã viết “Bạn phải biết rằng không có đất nước nào trên trái đất mà tình yêu không biến những người yêu nhau thành thi sĩ”.
- Stendhal một nhà văn Pháp thế kỷ 19 lập luận “Tình yêu là một bông hoa tuyệt vời, nhưng cần phải có dũng khí để tìm kiếm nó trên bờ vực của vách núi kinh hoàng”.
- Sau cùng nhà văn phi công Antoine de Saint-Exupéry ghi nhận “Yêu xa là không nhìn mặt nhau; là cùng nhau nhìn về cùng một hướng”.
Nhìn từ luận điểm phân tích văn học, chủ nghĩa văn học lãng mạn (romanticism) đề cao cá nhân, tự do sáng tạo, chủ trương phóng túng, không để tâm hồn bị ràng buộc trong khuôn khổ cũ. Trong tiến trình sáng tác thơ văn, sự tưởng tượng và tri giác được đề cao và ngự trị bởi cá thể. Tác gia văn học trở thành trung tâm điểm trong việc sáng tác. Các nguyên tắc về khuôn mẫu và kiến trúc đã có từ trước của thi ca bị vất bỏ để thỏa mãn nhu cầu cần thiết của bản năng tự nhiên. Ngôn ngữ thơ được viết tự do và tự nhiên không còn bị gò bó trong thể luật. Chủ nghĩa duy lý (rationalism) bị chán ghét, trong khi ngữ căn và khát vọng tiềm thức được thăng tiến trong văn chương lãng mạn. Tác phẩm là tiếng lòng được thể hiện toàn vẹn, triệt để và vô hạn bằng sự tưởng tượng và xúc động không che dấu, không bị trói buộc bởi những ước lệ luân lý của xã hội.
Thực vậy, đặc tính chung đa số những nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn, tâm hồn của họ thiên tạo vốn gần gũi vối bản sắc ái tình. Xét ra thi nhân Toàn Phong không ngoại lệ. Nhà văn kiêm nhà thơ Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh của những Đời Phi Công, Mắt Biếc Hồ Thu, Tìm Nhau Từ Thuở, Tình Hư Ảo, Tâm Điểm, Ly Biệt, Bâng Khuâng,…
Em yêu anh, nên anh là tâm điểm
Giữa vòng tròn hạnh phúc của đời em.
Dẫu thời gian, không gian hoài biến chuyển,
Qũy tích này vẫn mãi chỉ chờ anh.
(Tâm Điểm, Nguyễn Xuân Vinh)
hay
Trời về khuya, bóng hình ai thương nhớ,
Muốn quên đi, vì giấc mộng không thành.
Vẽ cho cùng, không trọn trái tim anh,
Em đành đem chuyện chúng mình cất lại.
(Bâng Khuâng, Nguyễn Xuân Vinh).
Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật – Tiếng Thời Gian đang ấn hành, hay tái bản cho ông sách Theo Ánh Tinh Cầu. GS. Vinh vốn quý Theo Ánh Tinh Cầu, và Mộng Viễn Phương. Loại sách như L’Aviateur (Người phi công), danh tác của Saint-Exupéry, Courrier Sud (Chuyến thư miền Nam), Vol de Nuit (Bay đêm), Terre des Hommes, (Cõi người ta ), Pilote de Guerre (Phi công thời chiến) hay Le Petit Prince (Hoàng tử bé), những tác phẩm về phi công hay nghiệp bay, điểm chung của hai nhà văn phi công Antoine de Saint-Exupéry và của nhà văn phi công Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh.
GS. Nguyễn Xuân Vinh đã viết: “Trong nền văn học thế giới, kể cả Việt Nam, có những tác phẩm mà người đọc, sau khi bỏ sách xuống đã bâng khuâng tự hỏi phải chăng đây là việc thật xảy ra với những người thật”. Đọc Les Miserables của Victor Hugo người ta như sống với những nhân vật trong truyện. Trong những tác phẩm thật chọn lọc của Tự Lực Văn Đoàn, khi đọc Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng ta cũng có thể nghĩ chú tiểu Lan là mẫu người có thực. “Theo tôi nghĩ thì nhà văn khi tạo dựng một tác phẩm, nếu tả đúng tâm lý của những nhân vật trong truyện và trong một khung cảnh hiện thực thì đó là bí quyết để thành công khi viết sách để cho người đọc như đang theo dõi một câu chuyện đời có thực. Trường hợp tôi viết “Đời phi công” cũng như vậy, tôi cố tạo ra những hình ảnh đẹp là mẫu mực của thanh niên ở thế hệ tôi. Nhiều thanh niên học sinh đọc sách đã thầm ước mình là người trong truyện.”
Mạn đàm về văn học
Trong buổi mạn đàm về văn học cùng nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh và phóng viên Nhã Lan, GS. Nguyễn Xuân Vinh kể về sự hình thành 2 cuốn tiểu thuyết Đời Phi Công và Tìm Nhau Từ Thuở như sau:
“Khi viết xong cuốn truyện này, vào thời khoảng 1960, gồm có nhiều bức thư kể đời sống của một chiến sĩ Không Quân, từ lúc bắt đầu là một sinh viên sĩ quan cho đến lúc thi hành nhửng phi vụ hành quân ở đơn vị, thì tôi đã là người chịu trách nhiệm tổ chức và bành trướng Không Quân Việt Nam, và nghĩ rằng mình đã theo binh nghiệp thì sẽ đi suốt chặng đường…. Về văn học, thời niên thiếu tôi học theo chương trình Pháp. Vốn liếng nho học, tôi chịu ảnh hưởng của ông ngoại, và ngoài ra tôi chịu khó đọc sách tiếng Việt và tìm hiểu về lịch sử nước nhà nên dĩ nhiên là được thấm nhuần cả hai nền văn hóa Đông và Tây. Tôi đã đọc hầu hết những tác phẩm nổi tiếng viết bằng tiếng Việt. Về sách tiếng Pháp tôi thường tìm đọc những tác phẩm của Alphonse Daudet, Emile Zola và Victor Hugo. Tuy vậy tôi không nghĩ rằng văn phong của tôi chịu ảnh hưởng của một tác giả nào vì tôi chỉ viết khi có hứng khởi theo ý nghĩ của riêng mình. Có người đã phê bình rằng cuốn Đời Phi Công tôi viết chịu ảnh hưởng của nhà văn Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Điều này đã được nhà văn Việt Hải phản bác lại là cuốn sách của tôi không có gì giống với những tác phẩm của nhà văn người Pháp ngoài chuyện là hai người cùng nặng nghiệp bay.
Nhà văn Việt Hải còn nói rằng là ông Saint-Exupéry viết chuyện người phi công phải vật lộn với mưa gió bão bùng trên trời và tôi nói chuyện về tình người ở trên quê hương Việt Nam, thì như vậy có gì liên hệ tới nhau. Vả chăng có sự việc không mấy người biết là tuy sách tôi viết bằng tiếng Việt nhưng vào năm 1961 đã được giới thiệu trên nhật báo Pháp văn “Le Journal d’Extrême-Orient”. Tôi cũng đã dịch một chương của cuốn truyện sang Anh ngữ và đăng trên Empire Magazine là tuần báo ra ngày chủ nhật của Denver Post là tờ báo lớn nhất ở miền Trung Hoa Kỳ. Bài dịch này, đề là “The Eagle’s Wings” đã được họa sĩ Patrick Oliphant, vẽ hình trình bầy. Ông là người nổi tiếng thường có hình biếm họa đăng trên The Washington Post và sau đó được giải Pullitzer vào năm 1967.
Năm 1984 tôi đã là người gốc Á châu đầu tiên được bầu vào Académie Nationale de l’Air et de l’Espace của Pháp. Hàn Lâm Viện này không phải chỉ gồm toàn những kỹ sư và khoa học gia về hàng không và không gian mà còn có nhửng danh nhân về văn học như Pierre Closterman, phi công anh hùng Đệ Nhị Thế Chiến và là tác giả những cuốn sách nổi tiếng như Le Grand Cirque, Flames in The Sky, …, hay ông Michel Debré, giáo sư Luật khoa, nhà văn và cũng là cựu thủ tướng Pháp, …. Những người này khi bỏ phiếu bầu cho tôi tất nhiên đã đọc những tài liệu tôi viết bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp mà ủy ban tuyển chọn đã thâu thập được và họ là những người xứng đáng nhất để có thẩm quyền nhận xét về giá trị văn học và khoa học và hiểu biết kỹ thuật về hàng không của tôi. Tất nhiên những người này không ai nghĩ là tôi đã dựa vào một tác phẩm nào để viết cuốn sách đầu tay của mình….
Tác giả Nguyễn Xuân Vinh viết về tác phẩm Tìm Nhau Từ Thuở:
“Cuốn sách này tôi viết ba năm mới xong gồm 14 chương. Tuy diễn tiến của cuộc tình theo với thời gian đã được giàn trải trước nhưng có khi vài tuần lễ tôi mới viết được một đoạn như là một câu truyện ngắn nói về liên hệ giữa hai người. Chẳng hạn trong một chương sách có tiêu đề là Thiên Nga tôi chỉ kể câu chuyện nhân dịp lễ Valentine anh chàng Phong tìm mua được một con thiên nga bằng pha lê để gửi kịp ngày 14 tháng 2 cho cô bé mang ra trường khoe với lũ bạn luôn luôn tọc mạch. Bài viết cũng khá dài gồm nhiều chi tiết làm người đọc thấy thích thú. Mỗi chương sách tôi thường viết một mạch không cần sửa chữa hay thêm bớt. Trong khoảng thời gian đó tôi tưởng tượng mình như có liên hệ với những người trong truyện nên có độc giả đã nghĩ rằng tôi kể chuyện đời mình.”
Về Tìm Nhau Từ Thuở, GS Vinh kể tiếp:
“Trong những năm sống ở nước ngoài, và được đi nhiều nơi, tôi đã viết một loạt bài, thường là những ký sự hay tùy bút bộc lộ tâm sự của mình, hướng về đất nước và mong ước cho giới trẻ đạt được những thành tích làm vẻ vang cho quê hương. Những bài này được lựa chọn và in thành một tuyển tập đề là Theo Ánh Tinh Cầu do nhà xuất bản Đại Nam in ra năm 1990. Sách in ra được bán hết ngay trong năm nhưng không in lại vì tôi dự định viết tiếp một số bài nữa. Sau đó, tôi viết một vài truyện ngắn tả mối tình thật lý tưởng giữa một chàng trai thời loạn và cô em gái một người bạn. Những chuyện này được đăng liên tiếp mấy năm trên những số báo Xuân Thời Luận và được độc giả ưa chuộng. Ông chủ bút Thời Luận là nhà văn Đỗ Tiến Đức vẫn thường nhắc nhở tôi viết những chuyện văn chương và tình cảm tuy rằng ông vẫn nhận đăng những bài nói về hoạt động giáo dục và khoa học của tôi. Vì thế tôi đã viết tiếp để tạo dựng thành một cuốn truyện đi cho tới đoạn kết….
Cũng như khi viết cuốn Đời Phi Công, tôi muốn giới hạn thời gian của câu chuyện để giữ niềm trẻ trung cho những nhân vật trong truyện. Cũng vì vậy mà tôi đặt khoảng thời gian vào những năm kế cận trước và sau năm 1975. Câu chuyện cũng được diễn tả một cách trung thực hơn vì tôi biết rõ sự biến chuyển trên đất nước trong khoảng thời gian này. Nhiều người đã đọc cuốn sách, cả hai phái nam và nữ, là những chuyên gia có trình độ, cũng có nhận xét như Nhã Lan là tôi đã diễn tả lại một khung cảnh của đất nước trong giai đoạn này.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ và nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là bậc đàn anh khả kính mà tôi được biết khi cùng dậy ở trường trung học Chu Văn An ở Sàigòn. Nhưng theo tôi nghĩ thì sự chọn lựa của giới trẻ Việt Nam hiện nay không hẳn chỉ giữa hai nền văn hóa Đông và Tây, thật cách biệt nhau. Trong giữa hai đối nghịch cũng có những khoảng dung hòa có thể chấp nhận được. Lý tưởng ra thì tôi hằng mong ước các bạn trẻ sống ở hải ngoại phải cố gắng tranh đua sao cho bằng người mà vẫn giữ được bàn sắc đạo đức của giống nòi Hồng Lạc.
Nhân vật Phong là nhân vật nam ở trong Tìm Nhau Từ Thuở. Còn Phương Vân là cô bé trong cuốn truyện, em của một người bạn học. Tình cảnh này thường xẩy ra giữa các liên hệ bạn bè. Tuy tôi tả Phương Vân như một nữ sinh hiền thục ở tuổi trăng tròn, nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động cho Phong, tôi đã đặt anh vào vị trí của một chuyên gia tốt nghiệp từ một trường cao đẳng có uy tín ở Pháp, và đã theo tiếng gọi của nghĩa vụ mà về nước phục vụ một khoảng thời gian. Cũng vì vậy mà nhiều người đọc sách đã nghĩ rằng tôi kể chuyện đời mình.
Ðời Phi Công là những bức thư của một chàng thanh niên vừa xếp bút nghiên theo việc đao cung gửi cho người bạn gái đã mang tính chất thời đại của một mẫu người tuổi trẻ thật nhiều lý tưởng. Cuốn sách đã tạo nhiều ảnh hưởng, được tái bản nhiều lần và hàng ngàn người trai trẻ nô nức gia nhập Không Lực để thực hiện lý tưởng và hoài bão của mình trong thời chiến tranh khốc liệt về sau. Cùng một lúc với sự phát triển của không quân Việt Nam bào những năm 1960, rất nhiều thanh niên đã theo tiếng gọi của Tổ Quốc Không Gian gia nhập quân chủng. Nhiều sĩ quan tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt cũng xin chuyển về phục vụ Không quân.”
Bàn luận về tác phẩm Đời Phi Công là những lá thư gửi Phượng và tác phẩm Tìm Nhau Từ Thuở cũng có những bức thư nói liền những không gian xa cách. tác giả tâm tình:
“Cuốn Đời Phi Công là một tập sách gồm toàn những lá thư viết cho một cô bạn gái ở xa, để kể chuyện đời của những người nặng nghiệp bay. Còn Tìm Nhau Từ Thuở là một tập truyện tả một một mối tình cao thượng, nẩy nở theo ngày tháng giữa một chàng trai thời đại và một nữ sinh, em một người bạn. Sau này vì hai người ở xa nhau, nên đôi khi có những cánh thư trao đổi nhưng số trang viết qua thư từ chỉ là một phần nhỏ trong cuốn sách. Vì vậy thể văn không phải hoàn toàn là thể viết thư.
Mục tiêu của tác phẩm “Vui Đời Toán Học” là:
“Ngay ở lời mở đầu cuốn sách, tôi đã viết là từ khi vào trung học tôi đã thấy yêu thích môn toán học và ao ước được đọc những cuốn sách viết về cuộc đời học toán của những người đi trước. Dĩ nhiên là khoảng thời gian khi tôi mới lớn lên, sách vở thiếu thốn nên không được đọc những tài liệu đó. Giờ đây tôi viết cuốn sách này kể lại những cố gắng của mình trong cuộc đời tầm học và mong rằng những chuyên gia khác ở mọi ngành cũng làm tương tự để lảm giầu thêm cho tủ sách kiến thức chuyên môn viết bằng tiếng Việt. Tuyệt đối là không. Thật ra khi chọn tên cho cuốn sách tôi cũng sợ có chuyện ngộ nhận đây là sách nói về Toán học. Thật ra lúc mới đầu chỉ là một tập sách gồm có nhiều câu chuyện vui về toán viết một cách nhẹ nhàng giản dị cho mọi người có thể đọc được. Những chuyện này khi viết ra đã được đăng trên nhiều nguyệt san và được người đọc ưa thích. Những nguyệt san đã đăng bài thường chỉ lưu hành ở địa phương nên nhiều người đã muốn tôi gom những bài này lại để in thành sách để phổ biến cho nhiều người đọc. Có nhiều bài chỉ gổm toàn là những bài thơ tình. Chẳng hạn tôi lấy bài “Mười hai bến nước” thì bài này là gồm một số bài thơ tình cảm dùng những danh từ toán học. Tôi chọn một bài làm thí dụ
Tâm Điểm
Tình là vậy, từ chân không chợt đến,
Một vòng tròn quay hai nửa tim hồng.
Để mỗi ngày đôi chân bước song song
Mong đi tới tận cùng là giao điểm
Em yêu anh, nên anh là tâm điểm
Giữa vòng tròn hạnh phúc của đời em.
Dẫu thời gian, không gian hoài biến chuyển,
Quỹ tích này vẫn mãi chỉ chờ anh.
Nếu không loáng thoáng có những danh từ toán học chen vào thì người đọc có thể nghĩ đó là một bài thơ tình. Trong câu chuyện này cũng có những câu thơ thật tha thiết như
Anh hiểu chưa, cõi lòng em như thế,
Em muôn đời không đổi trục, anh ơi.
Nhớ thương anh, tuy chẳng nói nên lời,
Em mơ ước theo cung đường tối lợi.
Tìm giao điểm cho lòng ai mở hội,
Xác định rồi vẽ đồ thị triển khai,
Rồi chứng minh tỷ lệ suốt đêm dài,
Lên đáp số đóng khung đời hình học.
Bài toán tình luôn làm người mê hoặc,
Bởi muôn đời nó vô định, người ơi!!
Trong một bài khác tôi viết có tựa đề là “Thảo bài thơ liên hoàn” nói về một buổi trại hè các trại sinh chia nhau thành năm nhóm ngồi ở bốn phương Đông Tây Nam và Bắc và một nhóm ngồi ở phương vị Trung ương, mỗi nhóm chọn một hình vuông, tròn, lục lăng, ngũ giác và tam giác để trình bầy về vẻ đẹp của hình nhóm mình đã chọn. Khi đến hồi kết luận thì một em trại sinh đóng vai một thi nhân đi thăm các nhóm, và ở nơi nào cũng thảo ra một bài thơ tứ tuyệt để ghi làm kỷ niệm. Ý kiến của tôi khi đưa ra một bài thơ liên hoàn là để gây tình liên kết, khuyên người đọc mà tôi hy vọng là ở trong giới trẻ hiếu học là biết nối vòng tay lớn để cùng nhau xây dựng quê hương. Trong bài viết này tuy có phác qua những vẻ đẹp của các hình kỷ hà học, nhưng sự thực là một sáng tác thơ văn.
Hai bài viết mà tôi đưa ra làm thí dụ về khía cạnh thơ văn của cuốn sách tôi đã đăng trên nguyệt san Tân Thế Kỷ ở Dallas trước đây và sau này được truyền đi nhiều lần trên mạng vi tính nên có nhiều người đã đọc. Có một lần tôi tìm được trên mạng bài thơ tình toán học của tôi có người phổ nhạc và hát nữa nghĩ thật là vui. Khi tôi cho vào trong cuốn sách và viết thêm những kỷ niệm học toán và giảng dậy ở các đại học cùng làm nghiên cứu khoa học thì mới lấy tên mới này là “Vui Đời Toán Học” và vì số lượng trang sách tổng cộng lên quá lớn gần tới 900 trang nên tôi phải bỏ bớt đi và giữ lại còn gần 500 trang mà thôi. Những bài tôi vừa lấy làm thí dụ vì đã được chuyển đi nhiều lần trên mạng nên trong cuốn sách này tôi phãi bỏ đi. Ngược lại tôi viết thêm nhiều bài nói về cuộc đời làm toán qũy đạo không gian và dậy học của tôi.
Thật ra có nhiều chuyện người đồng hương không biết nếu không đọc cuốn sách. Chẳng hạn tôi có nhiều học trò đã thành danh, và một ngừơi nay là đại giáo sư ở một đại học lớn và tên của ông ta được đặt cho một tiểu hành tình mới tìm thấy cách đã hơn mười năm. Tuy đã nổi tiếng như vậy mà trong tiểu sử của ông được in trên trang Đại Học ông vẫn ghi tên tôi là giáo sư cố vấn cho luận án tiến sĩ của mình. Tôi dùng lối hành văn giản dị, không cầu kỳ lại nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng tôi chen vào vài kỷ niệm riêng, thường là những kỷ niệm vui, hay gặp những duyên kỳ ngộ, được thầy hay, bạn tốt. Trong cuốn sách này tuy như tôi đã nói trước đây là có nhiều bài chỉ gồm toàn những bài thơ tình, nhưng nay tôi thu xếp lại để viết thêm về cuộc đời học toán, dậy học và khảo cứu của mình nên đả dùng thể văn tự truyện nhưng có chen vào những tình cảm riêng tư của mình đối với đất nước và thế hệ trẻ Việt Nam. Nói chung, sáng tạo thơ văn thì không có gì giới hạn, nói theo tiền nhân khi xưa thì:
Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,
Trong thú yên hà cuộc tỉnh say
Muốn viết sao cũng được miễn sao bộc lộ được ý tưởng của mình muốn truyền cho người đọc. Nhưng sáng tạo toán học phải dùng hoàn toàn luận lý thật chặt chẽ, tuy đôi khi phãi pha một chút tưởng tượng không bình thường. Tôi lấy một thí dụ, tuy không thực tế cho lắm, là một phi thuyền đang bay trên một qũy đạo vòng tròn quanh trái đất, mà giờ ta muốn quay ngược chiều nghĩa là đổi hướng bay 180 độ. Như thế, theo ý nghĩ thông thường thì phải hãm vận tốc lại thành số không rồi lại tăng tốc độ thành như cũ nhưng đổi ngược chiều, thật vừa tốn kém nhiên liệu lại vừa gây ra một độ gia tốc quá đáng có ảnh hưởng tai hại đến phi thuyền và phi hành đoàn nếu có. Lời giải đáp thật đúng là làm sao vận hành cho đỡ tốn nhiên liệu là phải tăng tốc độ cùng chiều, nghĩa là thay vì quay ngược ngay lập tức, lại phải tiến tới. Vận động này, chỉ tốn một ít nhiên liệu nhưng sẽ làm cho phi thuyền vượt khỏi trọng trường của trái đất và bay đi thật xa.
Ở khoảng cách xa, lấy thí dụ là khoảng cách chừng mười lần bán kính qũy đạo, vận tốc của phi thuyền sẽ rất nhỏ, giống như khi ta tung một quả bóng lên cao, lên tận cùng rồi muốn rơi trở lại. Lúc đó chỉ càn tạo ra một lực nhỏ để cho phi thuyền bay trở lại nhưng lần này ngược với hướng bay trước. Khi tới vị trí cũ thì tốc độ trở lại bằng lúc mới bắt đầu khởi hành nhưng lần này phi thuyền đi ngược chiều và chỉ cần hãm tốc độ lại vừa đủ đi vào qũy đạo tròn là thực hiện được phép đổi hướng 180 độ. Chi phí về nhiên liệu, một lần tăng lên và một lần giảm đi, cả hai lần đều bằng nhau theo tính chất đối xứng của qũy đạo và tương đối nhỏ. Đấy là ý kiến đưa ra nhưng sau đó phải dùng phép tính thật chính xác để xem tất cả những điều lợi, như tiết kiệm nhiên liệu, bớt độ gia tốc, và những điều hại như kéo dài thời gian vận chuyển vân vân…”
Về quan điểm toán học, ông đề cập:
“Toán học là một môn của Triết học. Tôi củng như nhiều người có suy tư và quan niệm về cuộc sống, thường quanh những đạo đức cổ truyền mà tôi được thấm nhuần từ hồi trẻ, thường là bất di dịch, như là chịu ơn ai thì nghĩ đến báo đền. Lấy một thí dụ là trong cuốn sách tôi có một bài viết là “Thầy còn nhớ tôi không?” nói đến tình thầy trò. Nhưng khi làm khoa học, đi vào luận lý thì những suy nghĩ này phải gạt sang một bên. Nói một cách khác khi thấy ông thầy của mình tính không đúng thì cũng phải nhắc khéo là ông đã hơi sai.”
Nhân dịp các thành viên Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật – Tiếng Thời Gian đi thăm GS. Nguyễn Xuân Vinh để bàn thảo in sách Thiên Chức của Nhà Giáo tại tư gia Huntington Beach của ông, trong phái đoàn có thi sĩ Hà Nguyên Du. Hà Nguyên Du đặt một số câu hỏi về phạm vi không gian học (aeronautics) và vũ trụ học (astronautics). GS. Nguyễn Xuân Vinh viết nhiều tài liệu khảo luận (term papers) về khía cạnh không gian chuyên môn của ông, ông đã đóng góp hàng trăm bằi tiểu luận về toán, động học không gian (astrodynamics) và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization) … GS, Nguyễn Xuân Vinh khi về hưu ông mang tước hiệu Professor Emeritus of Aerospace Engineering của Đại học Michigan, giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian. Theo quy chế giáo dục Hoa Kỳ khi trường ban cho “Giáo sư Emeritus” (Professor Emeritus) là một giáo sư dạy thực thụ, thông thường đã làm việc toàn thời gian, nhưng nay đã nghỉ hưu, ông hay bà vẫn có thể được mời định kỳ để thuyết trình, giảng dạy, tham khảo ý kiến hay được trao một giải thưởng nào đó. Professor Emeritus là một phong vị danh dự cao quý.
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh: Toán Thơ và Thơ Toán
Như trên, văn học và toán học có điểm gần nhau. Nhà văn kiêm nhà giáo môn toán Nguyễn Xuân Vinh yêu thích thi ca, Vui Đời Toán Học ghi nhận trong nhiều trang sách. Trong tương quan đó nữ toán học gia gốc Nga Sophia Kovalevskaya của thế kỷ 19 cho là: “Bạn không thể là một nhà toán học mà không có tâm hồn của một nhà thơ” (Il est impossible d’être un mathématicien sans avoir poète dans l’âme). Còn nhà toán học người Đức nổi danh trong môn toán Calculus, Karl Weierstrass ối thế kỷ 19) cho nhận định: “Một nhà toán học không mang một nét gì đó của một nhà thơ thì chả bao giờ là một nhà toán học trọn vẹn được” (Un mathématicien qui n’est pas aussi quelque peu poète ne sera jamais un mathématicien complet). Tôi thầm nghĩ chả nhẽ hai cụ Sophia Kovalevskaya và Karl Weierstrass đã cho hai câu nói đúng y bon để giới thiệu về nhà văn kiêm giáo sư có hai đam mê trong tâm hồn, toán học và văn học, Thi sĩ GS. Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh.
“Xưa nay chúng ta thường nghĩ những sáng tác văn học vốn là những xúc cảm riêng của nhà văn, nhà thơ, nên có khi không mang một quy luật gì cả, nhất là việc muốn đo bằng số (định lượng) những kết quả hay các quy luật của văn thơ thì dường như là điều không thể làm được. Các bài viết dưới đây sẽ làm cho chúng ta thay đổi lại cách nhìn, chúng ta sẽ thấy, hóa ra tính ìhài hòa” của của văn chương vẫn có thể được đo bằng sự ìcứng nhắc” của đại số. Điều này nó mang lại thắng lợi không phải cho riêng toán học, mà còn làm cho cách tiếp cận văn học trở nên đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên, việc ứng dụng các phương pháp toán học trong việc nghiên cứu các tác phẩm nghệ thuật vẫn là một lĩnh vực mới mẻ và cần được nghiên cứu thêm. Bài viết dưới đây chủ yếu áp dụng một lý thuyết có tên là ìLý thuyết tai biến” (cùng với Điều khiển học và Lý thuyết trò chơi), một lý thuyết mà tôi tin là ở đây không có nhiều người thạo (tôi cũng mù tịt). Tôi hy vọng sẽ có người post bài giới thiệu chi tiết về lý thuyết này để cả nhà cùng hiểu rõ. “, GS. Nguyễn Xuân Vinh.
Cựu Tư Lệnh Không Quân VNCH, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh. Một dẫn chứng khác là Thi sĩ kiêm giáo sư toán JoAnne Growney viết: Toán học và thi ca đều là “định dạng có thể truyền tải nhiều ý nghĩa”. Trong môn toán học, một đối tượng hoặc một ý tưởng có thể có các dạng khác nhau. Ví dụ, một phương trình bậc hai có thể được hiểu theo biểu thức đại số của nó, có thể là y = x2 + 3x-7, hoặc theo dạng đồ thị của nó, một parabole. Henri Poincaré, một nhà khoa học người Pháp, người đặt nền móng cho hai lĩnh vực toán học khác nhau vào đầu những năm 1900, đã mô tả toán học là “nghệ thuật đặt cùng một tên cho những thứ khác nhau”. Tương tự như vậy, các nhà thơ tạo ra các lớp nghĩa bằng cách sử dụng các từ ngữ và hình ảnh có nhiều cách diễn giải và liên tưởng. Cả nhà toán học và nhà thơ đều nỗ lực vì tính kinh tế và độ chính xác, lựa chọn chính xác những từ họ cần để truyền đạt ý nghĩa của chúng.
GS. Growney được biết qua danh tác, tuyển tập thơ “My Dance is Mathematics”, bà còn là nhà toán học, nhà thơ, nhà văn JoAnne Growney, giáo sư toán tại Đại học Bloomsburg University of Pennsylvania (Collection of poems “My Dance is Mathematics”, by JoAnne Growney. She is a mathematician, poet, writer JoAnne Growney, a math teacher at Bloomsburg University of Pennsylvania).
Người viết bài xin kết luận, ta có thể kể tiếp vô vàn những ví dụ về cách các nhà toán học và nhà thơ móc nối những con số và những con chữ để thỏa mãn ý thích của họ. Một hỗn hợp của những điều trực tiếp nói ra và những gì ngụ ý sâu kín đằng sau, hay một hỗn hợp của nhạc điệu và âm điệu. Thay vì cố phân tích rõ ràng, rành mạch, mà như vậy ta có thể còn làm mất phẩm chất hay của thơ bị toán hóa, thôi thì tôi xin chấm dứt bài viết này bằng trích dẫn những câu thơ tinh của thi sĩ, nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh:
(Yêu) anh từ thuở xanh mơ,
Giận anh cho đến bây giờ chưa nguôi.
Sao anh chưa nói nên lời,
Sao anh chưa nói trọn đời (yêu) em.
Bây giờ gặp buổi chiều êm,
Anh về mới nói (yêu) em trọn đời.
(Tình thơ Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh.)
Giáo Sư, Khoa Học Gia, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Vinh, từ trần ngày 7/23/2022 lúc 2.49 PM tại Orange County, California, hưởng Thượng Thọ 92 tuổi.
En souhaitant que le professeur Nguyen Xuan Vinh soit dans un voyage paisible vers une nouvelle vie à venir, “vous êtes mon idole en mathématiques et un modèle souhaitable en mathématiques et en aérospatiale” que Dieu vous bénisse. Nous nous souvenons toujours de vous!
VHLA
(Trần Việt Hải Los Angeles).
Giáo Sư, Khoa Học Gia, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Vinh, từ trần ngày 23 tháng 7, 2022 lúc 2.49 PM, hưởng Thượng Thọ 92 tuổi. GS Nguyễn Xuân Vinh qua đời, đất nước mất đi một người con thân yêu, một khoa học gia, một văn thi sĩ, một người Thầy trân quý. Kính xin Thiên Chúa toàn năng nhận đón hương hồn GS về hưởng phúc bên thánh nhan Người.
LIÊN NHÓM NHÂN VĂN NGHỆ THUẬT & TIẾNG THỜI GIAN -
Viết về một người sắp ra đi, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
GS. Nguyễn Xuân Vinh Theo tin từ BS Nguyễn Thượng Vũ ngày 11 tháng 07, 2022 cho biết là sức khỏe của GS Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh đã suy sụp rất nhiều. Bệnh viện đồng ý là với tình trạng sức khỏe của GS Vinh, ở tuổi 92 của GS Vinh thì không thể nào có hy vọng hồi phục được. Bác sĩ điều trị sẽ áp dụng Hospice Care cho anh GS Vinh. (Hospice Care có nghĩa là bác sĩ điều trị sẽ dùng mọi phương tiện để GS Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh sẽ thoải mái, không bị đau đớn trong thời gian sắp tới).
Sáng nay khi tôi (Việt Hải) đuợc tin về GS. Nguyễn Xuân Vinh đã vào tình trạng hospice care unit, tôi buồn lắm. Tôi còn nhớ khi ông dọn từ San Jose về Huntington Beach (Orange County), 12 anh chị em nhóm chúng tôi đến thăm thầy, lý do riêng GS. Phạm Hồng Thái bàn về sách Thiên Chức Của Nhà Giáo với GS. Vinh sẽ khởi sự: Nguyen X Vinh (Vietnamese Edition) Paperback – June 20, 2018, do NXB Amazon. Vietnamese Edition by Nhân Văn Nghệ Thuật (Author), GS Đào Đức Nhuận (Editor), GS Phạm Hồng Thái (Editor, Designer).
Những năm khi NASA thám hiểm cung trăng, Apollo 11 là chuyến bay không gian đã hạ cánh cùng người đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng, hai phi hành gia Hoa Kỳ là Neil Armstrong và Buzz Aldrin, vào ngày 20 tháng 7, năm 1969, lúc 20:18 UTC. Armstrong trở thành người đầu tiên bước chân lên bề mặt của Mặt Trăng sáu giờ sau vào ngày 21 tháng 7, lúc 02:56 UTC. Armstrong dành hai tiếng rưỡi bên ngoài con tàu không gian, trong khi Aldrin có ít thời gian hơn một chút và cùng nhau, họ thu thập 47.5 pounds (21.5 kg) Đá Mặt Trăng cho chuyến trở về Trái Đất. Thành viên thứ ba của Phi hành đoàn, Michael Collins, lái Module (space lab unit) Điều Khiển một mình quanh quỹ đạo của Mặt Trăng cho đến khi Armstrong và Aldrin quay về Module Điều Khiển chỉ một ngày trước khi họ phải bắt đầu hành trình quay về Trái Đất. Vê sau KHG David Scott chỉ huy tàu Apollo 15 đáp xuống Mặt trăng vào tháng 7, 1971. Trong chuyến thám hiểm này, ông cùng cộng sự đã điều khiển 3 chiếc xe điện chuyên dụng để thu thập các mẫu đất đá và mang về nghiên cứu. James Irwin bên cạnh lá quốc kỳ Mỹ trong chuyến thám hiểm Mặt trăng.
Những năm này thế giới khoa học gia không gian chú ý đến GS. Nguyễn Xuân Vinh, người đã lead team dùng toán học tính quỹ đạo bay ra ngoài không gian và về trái đất (During this expedition, he and his colleagues drove 3 specialized electric vehicles to collect soil and rock samples and bring them back for research. James Irwin next to the American flag during his exploration of the Moon. In these years, the world of space scientists paid attention to Prof. Nguyen Xuan Vinh, who led the team to apply math to calculate the orbiter flight path by space vehicles, fly to space and back to earth).
Tôi viết về thầy Vinh: “Tưởng cũng nên ghi nhận tác giả là một vị giáo sư toán giảng dạy bậc cấp cao (advanced mathematics), và cũng là một khoa học gia ngành không gian, mà đề tủ của ông là Optimal Trajectories, ông viết sách về Quỹ Đạo Tối Ưu, sách toán hay không gian học của Mỹ, Pháp, Nga, Nhật,… đều có đăng những bài do ông viết. Do vậy tác giả Nguyễn Xuân Vinh là người của thế giới, họ biết ông qua những kiến thức chuyên môn của ông, mà toán học và không gian học là hai yếu tố then chốt tạo nên tên tuổi của tác giả. Nói như vậy không có nghĩa là Vui Đời Toán Học được ươm mầm bởi những lý thuyết toán học cao siêu của những Joseph Lagrange, Laplace, Euler, Fourier, Boole, Cauchy, Leibniz, Isaac Newton, Jacob Bernoulli, Johann Bernoulli, Bourbaki, Neumann, Niels Abel, Plato, Blaise Pascal, Pythagore, René Descartes,… “.
GS. Vinh đi bên toán học, không gian học và văn học thì đã có nhiều nhiều campus fans vốn hâm mộ. Khi làm về ngành R&D, Weapon Innovation Development, tính đường bay của phi đạn, tôi quý môn toán học (missile systems flight path). GS. Vinh là một sharp scientist như những Johannes Kepler hay Katherine Johnson, Dr. Katherine Johnson đã góp công lớn cho những thành tựu về toán học, nhà toán học Mỹ, tính toán và phân tích đường bay của nhiều con tàu vũ trụ.
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Một Tấm Gương Kiên Nhẫn Cho Giới Trẻ, bài viết của ông Nguyễn Tường Tâm, 4/10/2005
Cựu Tư Lệnh Không Quân VNCH, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh Trong môt bài viết bằng tiếng Anh để gửi tới giới trẻ trong buổi hoàng hôn của cuộc đời mình, nhà văn, nhà khoa học và cũng là một vị cựu Tư Lệnh Không Quân VNCH, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh đã tâm sự:
Our journey across life can be compared to the flight of an aircraft across a vast ocean. Sometimes we are favored by a tail wind which gives us a faster ground speed. But sometimes on other occasions, we may face a head wind with adverse effects. As the first generation of immigrants, we are the pioneers, and we may run into obstacles. Just as the aircraft has to get to the other side of the ocean because it has passed the point of no return, when facing the head wind in our life, such as in the case of social injustice, we should keep our heads high, our chins up, and then with physical endurance, technical expertise, and with spiritual strength, by dedication and dignity, we shall join force together to overcome adversity and fulfill our dream of equal opportunity, equal rights and equal responsibility, and in so doing, make it a reality.
Đoạn văn có ý khuyên người đọc rằng trong cuộc đời nếu muốn thực hiện một điều gì cho riêng mình hay cùng nhau chiến đấu cho một lý tưởng quốc gia mà gặp khó khăn trở ngại thì cứ nên giữ vững lòng tin vào chính nghĩa, để với quyết tâm và tự trọng và cùng nhau liên kết thì cũng như một chiếc phi cơ phải bay qua đại dương, sẽ có lúc sang được phía bờ bên kia. Câu viết này có thể dùng cho những đoạn đời đã qua của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Con người ông đã là một kết hợp của một loạt những ước mơ thường là tương phản nhau mà ông đã hoá giải được để cùng thực hiện. Ông mơ những giấc mơ mâu thuẫn nhau và ông thường làm ngược với những người cùng hoàn cảnh. Nhưng cuối cùng ông đã thực hiện được tất cả những ước mơ tưởng chừng như không thể nào kết hợp được trong cùng một con người và trong thời gian hạn hẹp của đời người .
Trước tiên, thấm nhuần nho học gia đình nhưng chàng tuổi trẻ Nguyễn Xuân Vinh lại ham mê tây học và khoa học và có ước mơ canh tân đất nước. Trong một xã hội Việt nam thời đó, khi mà người ta thường nói “phi cao đẳng bất thành phu phụ!” nghĩa là nếu không có bằng Bác sĩ , Luật sư thì không được người đời qúy trọng, tuy ông có khả năng để đạt được những mảnh bằng đó một cách dễ dàng, mà ông lại không theo con đường chung của mọi người. Ông chọn môn Toán học mà ông mê thích và đi theo con đường này thì vừa khó khăn gấp bội mà lại chẳng có danh, cũng không có lợi. Người sinh viên theo ngành này, nếu không phát minh được một lý thuyết nào và đạt được trình độ tiến sĩ thì sẽ chỉ trở thành một ông giáo bình thường mà thôi . Ông mê học toán tới độ khi kháng chiến bùng nổ, ông theo gia đình tản cư nhưng vẫn tiếp tục học để lấy chứng chỉ Toán đại cương trong hoàn cảnh thiếu thầy, thiếu lớp và thiếu cả sách vở. Giữa năm 1950, vừa theo gia đình hồi cư về Hà Nội, ông tiếp tục ghi tên theo học ngay hai trường đại học dược khoa và đại học khoa học để học lại lần thứ nhì lớp Toán đại cương mà ông chưa hoàn tất ở khu kháng chiến. Tại đại học Hà Nội, ngoài giờ trong lớp ông còn làm phụ tá cho giáo sư để lấy tiền theo đuổi việc học. Và ông đã đỗ đầu kỳ thi chứng chỉ Toán đại cương vào đầu hè năm 1951 và được tuyển làm giáo sư trường Trung học Nguyễn Trãi Hà Nội .
Năm 1951, bất ngờ ông nhận được giấy gọi nhập ngũ theo học khoá I Sĩ quan Trừ bị Nam Định và được chuyển theo học chuyên môn về công binh ở Thủ Đức. Ông là một trong số chỉ chừng vài chục người có thể tự nhận rằng đã được theo học tại cả hai quân trường Võ khoa Nam Định và Võ khoa Thủ Đức. Ra trường ông là một sĩ quan công binh và nơi đồn trú đầu tiên của ông là tỉnh Thái Bình .
Khoảng thời gian này, một lần nữa ông lại phải lấy một trong hai chọn lưạ mâu thuẫn nhau. Là một người ham học, đáng lẽ ông có thể vừa ở nhiệm sở vừa ghi tên theo học toán tại Đại học Hà Nội, nhưng vì ôm mộng hải hồ nên trước khi đi nhận nhiệm sở sĩ quan công binh, ông đã nạp đơn dự thi vào trường Không Quân Pháp. Vào thời điểm đó, Không Quân Việt Nam chưa được thành lập. Một đại uý không quân được cử từ Pháp sang Saigon để phát bài thi cho thí sinh đồng thời ông ta cũng sẽ là giám khảo phần thi vấn đáp. Có chừng 20 người dự thi . Nhưng có lẽ bài thi viết cuả ông quá xuất sắc nên vị sĩ quan giám khảo thay vì khảo hạch ông trước bảng đen cuả lớp học thì lại mời ông ra đứng ở lan can phòng thi kể cho ông nghe viễn tượng đang chờ đợi ông ở quân trường không quân ở miền Nam nước Pháp . Nghe thấy vậy ông đã tin gần chắc là ông sẽ đỗ. Quả nhiên mấy ngày sau, trong số 5 thí sinh trúng tuyển, ông đã được chọn đỗ đầu, trong khi lúc chính thức vào phòng vấn đáp ông không phải nói một câu nào ngoài câu chào lúc bắt đầu và câu cám ơn lúc kết thúc .
Sau mấy tháng làm sĩ quan công binh tại Thái Bình ông nhận được giấy vào Saigon đi học trường không quân Ecole de l’Air cuả Pháp nằm ở tỉnh Salon de Provence. Trước đó điều kiện để được nhập học trường này rất khó, vì phải vừa là dân Tây vừa phải theo học một lớp toán học cao cấp sau tú tài 2. Cho nên trước đó mới chỉ có 2 người Việt quốc tịch Pháp được theo học, trong đó có trung tướng Nguyễn văn Hinh. Trước ông 2 năm cũng có một sĩ quan người Việt là ông Lê Trung Trực, sau này là chuẩn tướng không quân, được nhận như là một sinh viên ngoại quốc. Như vậy ông Nguyễn Xuân Vinh là một trong 5 khóa sinh Việt nam đầu tiên học trường này qua một kỳ thi tuyển lựa như thí sinh Pháp và cũng là một trong 3 người Việt nam đầu tiên được trúng tuyển theo học ngành phi hành với 2 người nữa theo học ngành kỹ thuật.
Sang Pháp , trước tiên ông được gửi tới trường phi hành (École de pilotage) ở Marrakech. Sau chín tháng được huấn luyện bay ông nhận được giấy tới Salon de Provence để nhập học Khoá sĩ quan không quân 1953. Tại thời điểm này, Nguyễn Xuân Vinh lại kết hợp 2 con người mâu thuẫn trong ông, một con người quân sự, vẫy vùng, ngang tàng, và con người sinh viên chăm chỉ nơi giảng đường đại học. Trước ngày khai trường, được nghỉ hai tháng hè, lợi dụng thời gian này ông tới Nice để học thi chứng chỉ Toán Vi Phân và Tích Phân mà ông đã ghi tên học từ đầu năm ở Đại Học Marseille. Ông đã từng viết lên tâm sự rằng, trong khoảng thời gian những năm cuối cùng sống trên đất Pháp, ông cố thu thập những lý thuyết quân sự, tổ chức hành chánh, kỹ thuật và hành quân trong Không Quân, và đồng thời cũng nhân dịp còn ở nước người, học thêm về toán học, về những môn chưa được giảng dậy tại quê nhà để sau này có dịp đưa kiến thức và sở học ra phục vụ quê hương một cách đắc lực hơn. Với suy nghĩ như vậy cho nên , sau đó, cùng với việc tốt nghiệp một trường sĩ quan phi công nổi tiếng cuả Pháp, ông cũng đã lấy được bằng cao học Toán tại đại học Marseille. Trong một lần tâm sự, tôi có hỏi ông rằng, trong thời gian học phi công quân sự tại Pháp, nhất là tại kinh thành Ánh Sáng, cuối tuần các sinh viên sĩ quan thường đưa đào đi chơi, uống rượu, nhẩy đầm, thì làm sao GS lấy được bằng cử nhân rồi cao học toán . Ông nhìn tôi bằng đôi mắt to và lúc nào trông cũng có vẻ hiền lành, thản nhiên cho biết: “cuối tuần, trong lúc các sinh viên sĩ quan khác đi chơi thì tôi đi học .” Thật không thể tưởng tượng được ! Ông đã kết hợp được trong ông, hai con người có hai thái cực khác nhau.
Sự thể là sau ba năm du học, vào năm 1955 từ Pháp trở về, ngoài bằng phi công quân sự, thiếu uý phi công NXV còn mang theo về nước một bằng kỹ sư hàng không và một bằng cử nhân cộng thêm cao học toán .
Khi mới về nước, đồn trú tại căn cứ không quân Nha Trang, nơi có biển đẹp và những người con gái có làn da ngăm ngăm, săn chắc, xinh đẹp, và quyến rũ, thay vì theo đuổi một bóng hồng nơi miền thuỳ dương cát trắng để có những buổi chiều mơ mộng sau giờ bay đưa người đẹp đi uống nước bên bãi biển như những chàng phi công khác, ngoài giờ công tác và đi bay, theo lời yêu cầu của bộ Quốc Gia Giáo Dục, và với giấy phép đặc biệt của bộ Quốc Phòng, chàng sĩ quan không quân trẻ Nguyễn Xuân Vinh, cũng để mỗi tuần vài giờ tới trường trung học Võ Tánh ở Nha Trang, để truyền đạt kiến thức toán học của ông cho thế hệ sau.
Ông gắn bó với nghề giáo từ đây. Lại một lần nữa ông kết hợp trong ông hai con ngươì hoàn toàn mâu thuẫn nhau: một con người không quân trẻ tuổi, hào hùng và hào hoa, và một con người nhà giáo, mô phạm, nghiêm túc . Với khả năng văn võ của ông, ông đươcï cả Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia lẫn Bộ Quốc Phòng xử dụng trong nhiều chức vụ mà một sĩ quan cấp úy trung bình không thể đảm đương nổi. Trong vòng 2 năm từ một trung úy phi công ở Phi Đoàn Liên Lạc và Tác chiến ở Nha Trang, ông được chuyển về Phòng Tổng Nghiên cứu và Kế hoạch ở Bộ Tổng Tham Mưu, rồi được Bộ Tham Mưu Không Quân xin về để giữ chức vụ Trưởng Phòng Tư, sau đó lại được Bộ Quốc Phòng cử sang Sứ Quán Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn như là một vị đại úy Phụ Tá Tùy Viên Quân Lực. Chưa đầy một năm sau, vì nhu cầu quân vụ khẩn thiết nhà văn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh được Bộ Quốc Phòng gọi về để giữ chức vụ Trưởng Phòng Báo Chí Nha Chiến Tranh Tâm Lý. Thật ra trong chúng ta ít ngưòi biết là trong chức vụ này đã có môt thời ông là chủ bút của hai tờ báo Quân Đội và Phụng Sự của Quân Đội Quốc Gia với một ban biên tập có những nhà văn nhà thơ và nhà báo nổi danh đương thời như Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Huy Sơn, Huy Quang, Tường Linh, Nguyễn Ang Ca, …. Nhưng nghiệp bay vẫn trở lại với ông và cuối năm 1957 Thiếu tá Nguyễn Xuân Vinh được bổ nhiệm vào chức vụ Tham Mưu Trưởng Không Quân Việt Nam và năm tiếp theo, khi mới 28 tuổi, Trung tá phi công Nguyễn xuân Vinh, qua những nhiệm vụ liên tiếp, đã chứng tỏ được khả năng tham mưu và chỉ huy để được Tổng Thống VNCH giao cho đảm nhận chức vụ Phụ tá Không quân cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Viêït Nam. Trong cương vị này, với tổ chức buổi đầu của Không quân Việt Nam vẫn còn sơ sài, ông Nguyễn Xuân Vinh là người đầu tiên chịu trách nhiệm hoạch định tất cả các chương trình phát triển để Không Quân thành một quân chủng riêng biệt, có một Bộ Tư Lệnh Không Quân, có khả năng kỹ thuật và hành quân, tạo được sự kính nể của các Không Quân bạn trong vùng Thái Bình Dương.Nguyễn Xuân Vinh tiếp đón Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson năm 1961
với cương vị Tư Lệnh KQVNCHTrong thời điểm này, một bí mật quân sự quốc gia được thực hiện, và nay đã giải mật, đó là chương trình thả “Biệt kích nhẩy Bắc.” Lại chính con người có bề ngoài hiền lành này, với tư cách là tư lệnh quân chủng không quân, là một trong những người đầu tiên tham gia cùng với các vị tư lệnh quân binh chủng và đại đơn vị khác hoạch định kế hoạch. Trong những phi vụ thả “Biệt kích Nhẩy Bắc” đầu tiên, Tư lệnh không quân Nguyễn Xuân Vinh, không những là người tham gia hoạch định kế hoạch mà còn là người tiễn chân các “Kinh Kha” tại ngay phi đạo .
Tiếp kiến Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan (1961) Nhưng tư lệnh không quân Nguyễn Xuân Vinh không từ bỏ được nghề giáo, môi trường duy nhất lúc đó có thể giúp ông sống với toán học. Với giấy phép của Bộ Quốc Phòng vẫn còn hiệu lực, ông xắp xếp công việc để có thể dậy thêm ít giờ tại hai trường trung học Chu Văn An và Petrus Ký về hai môn Hình học Không gian và Thiên Văn học. Trong khoảng thời gian này, con người mê thơ văn từ thuả thiếu thời trong ông lại trỗi dậy. Ông đã từng nhắc lại một câu của toán học gia lừng danh Đức quốc là ông Karl Weierstrass (1815-1897) rằng, “một toán gia, nếu không là một thi sĩ thì không thể nào là một toán gia toàn vẹn được!”. Cho nên, vừa chỉ huy đại đơn vị, vừa nghiên cứu toán học, vừa dậy học, ông vừa làm thơ. Và có lẽ chính ông đã mở đường cho một trào lưu thơ, mà nhiều người đã gọi một cách vui là “Thơ Tình Toán Học .” Tôi xin nhắc lại vài câu mở đầu trong bài “Tình Hư Ảo” cuả Toàn Phong sau đây:
Tình Hư Ảo
Anh tìm em trên vòng tròn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao ước mơ , phải chi là nghịch đảo,Bóng thời gian, qui chiếu xuống giản đồ .
Nghiệm số tìm, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.Cũng chính trong thời gian này, cuốn “Đời phi công” ra đời làm nô nức mọi thanh niên thiếu nữ, đang mơ mộng hải hồ hay mơ có ngừơi yêu là một chàng không quân hào hoa cưỡi gió, đè mây. Cuốn tiểu thuyết này đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc năm 1961. Định mệnh đã làm cho hoạt động của người không quân Nguyễn Xuân Vinh vượt khỏi tầm vóc quốc gia để sau này tên ông được thế giới biết đến. Cho nên , sau khi đã tạo ra được cái khung để lực lượng không quân non trẻ của VNCH dưạ theo đó mà phát triển, tư lệnh Nguyễ Xuân Vinh, có lẽ một phần cũng do bản chất lớn lên trong một gia đình thấm nhuần nho giáo, nên ông đã xuất xử theo phong cách cuả kẻ sĩ đông phương, là “gác kiếm từ quan!” Ông đệ đơn xin từ chức tư lệnh không quân để đi du học. Năm 1962, ông lên đường đi du học nhưng vẫn còn là một quân nhân. Có lần tôi hỏi ông thế không phải ông bị tổng thống Diệm cho bãi chức tư lệnh và đẩy ông đi du học vì vụ hai phi công Quốc và Cử ném bom dinh Độc Lập à? Ông ngạc nhiên, không biết rằng bên ngoài dân chúng người ta tưởng và tin như thế. Như thường lệ, ông nhỏ nhẹ cho biết việc ông nghỉ chức tư lệnh không quân không liên quan gì tới vụ ném bom của hai phi công Quốc, và Cử. Ông đã làm tư lệnh không quân gần 5 năm trong khi ở các nước tân tiến nhiệm kỳ của các tư lệnh quân chủng thường chỉ là 4 năm mà thôi. Ông cho biết tiếp lúc vụ ném bom xảy ra ông đang ở nước ngoài. Và sau khi xẩy ra biến cố này phải 6 tháng sau ông mới lên đường du học. Ông có vẻ tin ở số mạng. Ông cho biết thêm trong đời ông có nhiều may mắn, và thường trong công việc bao giờ cũng được trên thuận dưới hoà. Ông tâm tình cho biết, các cấp chỉ huy trong Không Quân Hoa Kỳ rất nể trọng ông và họ đã đặc biệt dành trong ngân sách viện trợ một học bổng cho ông được đưa theo cả gia đình theo học chương trình tiến sĩ khoa học hàng không và không gian tại University of Colorado . Ở nơi đó họ cũng mời ông tới thuyết giảng hai lần ở trường Võ Bị Không Quân ở Colorado Springs.
Chỉ ba năm sau, vào năm 1965, vị cựu tư lệnh Không Quân VNCH đã được ghi tên vào lịch sử của tiểu bang Colorado như là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ (Ph.D) về ngành Aerospace Engineering Sciences tại trường Đại học Colorado. Ông được mời ở lại dậy học và xin được bộ Quốc Phòng Việt Nam cho từ dịch và được cấp thẻ thường trú của Hoa Kỳ để nhận chức giảng sư của Đại học Colorado . Năm 1968, Ông được mời tới dậy ở Đại học Michigan và năm 1972 ông được thăng chức giáo sư thực thụ (tenured full professor). Tới khi về hưu năm 1998, ông được phong chức “Giáo sư vĩnh viễn” (Professor emeritus) tại trường đại học này.
Cũng năm 1972 ông dành được thêm bằng tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Paris . Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã là thày dậy cho vào khoảng gần hai ngàn kỹ sư hàng không và không gian cho nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới. Học trò của ông nhiều người đã trở thành giáo sư đại học và nhà nghiên cứu xuất sắc. Ông đã xuất bản 3 cuốn sách và gần 100 bài khảo luận về toán học, về chuyển động của các thiên thể và phi thuyền không gian và về quĩ đạo tối ưu. Nhiều bài viết của ông đã được chuyển dịch sang Pháp, Nga và Hoa ngữ. Nhiều công thức ông tìm ra đã được dùng trong những sách giáo khoa ở các nước Pháp, Nga và Nhật Bản mà những tác giả đã căn cứ lên những tài liệu và sách ông viết ở Hoa Kỳ.
Thành quả về nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học không gian tại các trường đại học trên thế giới cuả ông được liệt kê khá nhiều trong những tài liệu để ở những thư viện chuyên khoa. Ông cũng nhận được nhiều giải thưởng trên nhiều lãnh vực, chưa kể trong lãnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học không gian là lãnh vực chuyên môn của ông. Tôi thấy thật là khó viết cho đầy đủ hay nói cho trọn vẹn trong một khuôn khổ hạn hẹp những thành quả của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Tôi nhớ là nhà thơ và triết gia Võ Thạnh Văn đã có lần nói ông muốn có dịp để nói trong ba giờ liền sự nghiệp của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Suốt năm qua, có dịp cùng với bác sĩ Phạm Đức Vượng làm việc chung với ông, tôi được biết thêm nhiều điều mà người ngoài không biết.Giáo sư Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh không chỉ là một khoa học gia không gian “đầu tiên” và “hàng đầu” của Việt Nam , mà ông còn có vị trí rất lớn trong ngành không gian thế giới. Điều này ngày xưa ở Việt nam tôi chỉ nghe nói nhưng cũng không hiểu thấu đáo nhất là Việt nam ta hay “nói quá” về những thành tích cuả người mình. Nhưng có lần cùng bác sĩ Vượng đứng với ông trong căn phòng làm việc nhỏ bé tràn đầy sách vở dưới sàn, bít cả lối đi, tôi giật mình rung động trước những tấm plaques và bằng khen ngợi của các cơ quan quốc tế và Hoa Kỳ dành cho những đóng góp cuả ông cho khoa học không gian thế giới. Đặc biệt tôi chú ý tới cái bằng và huy chương của American Institute of Aeronautics and Astronautics (viết tắt là AIAA) là Hiệp Hội của tất cả các kỹ sư và khoa học gia Hoa Kỳ trong ngành Hàng không và Không gian mới khen ngợi các đóng góp cuả ông trong cả 2 lãnh vực vừa trong bầu khí quyển (atmosphere) vừa trong không gian ngoại từng khí quyển (space). Huy chương này, mỗi năm AIAA chỉ tặng cho một khoa học gia không gian duy nhất. Gần ông và được thấy những chồng sách trong phòng làm việc của ông tôi mới được biết ông là người Á châu đầu tiên và là người Việt nam độc nhất được bầu vào Hàn Lâm Viện Hàng không và Không gian Pháp quốc, một Hàn Lâm Viện mà số hội viên hạn chế, đã có những danh nhân như nhà kiến trúc hàng không Marcel Dassault, như cựu thủ tướng Michel Debré, một trong 40 ông viện sĩ bất tử trong Hàn Lâm Viện Pháp . Sau GS Vinh, người Á châu thứ nhì được bầu vào Hàn Lâm Viện này là kỹ sư hàng không Bacharuddin Habibie, cựu tổng thống của Nam Dương. Trong những bảng lưu niệm tặng cho những thuyết trình viên danh dự ở các hội nghị, tôi thấy ông được mời tới nói chuyện ở Hội Nghị Thường Niên của Ủy Ban Điều Hợp Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ ở Maryland và ở Hội Nghị Lưỡng Niên Toàn Cầu của Công ty Hoá chất Dupont ở Delaware. Tôi không ngờ là ông cũng nổi tiếng trong hai lãnh vực Nguyên Tử Lực và Hoá Học nên hỏi ông về điều này. Ông lắc đầu trả lời: “Kiến thức về Vật Lý và Hoá Học của tôi chỉ ở mức trung bình như một người thường. Họ không mời tôi đến nói về những môn khoa học chuyên môn mà về một đề tài tôi tự lựa chọn. Như ở Hội Nghị Nguyên Tử Lực tôi nói về đề tài “Exploration of Inner Space” có ý nghĩa là con người đã có những thám hiểm ở ngoài không gian (outer space) thì cũng nên có lúc tìm hiểu về nội tâm (inner space) của chính mình.”
Câu nói trên của ông có thể dùng để biểu hiện con người và thành tích của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Ông là một kết hợp của những mâu thuẫn; nhưng đó là một sự kết hợp hài hoà khiến ông trở thành một con người tài hoa, đa dạng. Vừa là một quân nhân, vừa là một phi công, vừa là một tư lệnh, vừa là một nhà giáo, vừa là một nhà văn, vừa là một nhà thơ, vừa là một nhà hoạt động quần chúng, nhưng thành quả to lớn nhất trong cuộc đời ông theo tôi nghĩ đã vượt biên giới quốc gia, và vượt thời gian là những đóng góp cuả ông trong ngành hàng không không gian thế giới . Với công trình to lớn đó, mà tôi nghĩ là ông đã thành tựu với ý nguyện góp phần của một người Việt vào sự tiến hoá của nhân loại, ông thực đã mang lại sự hãnh diện chung cho dân tộc.
Nguyễn Tường Tâm, 4/10/2005
GS NGUYỄN XUÂN VINH Tác phẩm Vui đời toán học ra mắt cộng đồng người Việt tai Orange County lúc 11:00 SÁNG, NGÀY CHỦ NHẬT, NGÀY 13 THÁNG 1 NĂM 2013, tại HỘI TRƯỜNG VĂN LANG, 14861 Moran Street, Westminster, CA 92683.
Trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, rất nhiều vật dụng, đồ đạc, phương tiện chúng ta cần dùng, ít nhiều liên quan đến toán, ví dụ như hệ thống định vị toàn cầu (GPS, Global Positioning Systems) dùng trong các xe ô tô, máy computer, Ipod, cell phone,… to lớn hơn có phi cơ, tàu thùy, freeways, cầu cống,… Các thứ này do con người thiết kế dùng toán học tính ra. Do vậy toán học thực sự quan trọng đối với con người. Và con người đam mê, gần gủi với toán học, và gần gủi trong đề tài này, tôi nghĩ đến tác giả sách Vui Đời Toán Học, của GS Nguyễn Xuân Vinh. Tựa đề như vậy nghe có vẻ như tác phẩm này quá chuyên về toán chăng? Thưa rằng theo tôi đúng và không đúng. Đúng đối với những độc giả ít va chạm đến môn toán, ví dụ các trang như trang 53 đến 85 phần Đường trời muôn vạn nẻo, tính Đạn đạo tầm xa của phi đạn khai hỏa đến bài theo ánh tinh cầu, tác giả ôn qua đề tủ Lý Thuyết Phương Sách Tối Ưu (Theory of Optimal Process). Những trang từ 95 đến 118, phần Địa cầu trong không gian có những công thức cơ bản tính toán trong môn Thiên văn học. Có những chương tác giả chỉ đi phớt qua ý niệm toán ứng dụng nhập môn, không đào sâu vào tận gốc rễ của vấn đề như sách giáo khoa hay những bài tham luận chuyên ngành (technical term papers). Phần tác phẩm không đúng là sách toán vì có những trang lại thuần văn chương thi ca, một khía cạnh mà tác giả mê say.
Nhân Văn Nghệ Thuật phát hành năm 2018, ảnh từ GS Trần Huy Bích Tưởng cũng nên ghi nhận tác giả là một vị giáo sư toán giảng dạy bậc cấp cao (advanced mathematics), và cũng là một khoa học gia ngành không gian, mà đề tủ của ông là Optimal Trajectories, ông viết sách về Quỹ Đạo Tối Ưu, sách toán hay không gian học của Mỹ, Pháp, Nga, Nhật,… đều có đăng những bài do ông viết. Do vậy tác giả Nguyễn Xuân Vinh là người của thế giới, họ biết ông qua những kiến thức chuyên môn của ông, mà toán học và không gian học là hai yếu tố then chốt tạo nên tên tuổi của tác giả. Nói như vậy không có nghĩa là Vui Đời Toán Học được ươm mầm bởi những lý thuyết toán học cao siêu của những Joseph Lagrange, Laplace, Euler, Fourier, Boole, Cauchy, Leibniz, Isaac Newton, Jacob Bernoulli, Johann Bernoulli, Bourbaki, Neumann, Niels Abel, Plato, Blaise Pascal, Pythagore, René Descartes,… Nhưng theo ý tôi như trên đã đề cập tác giả chỉ dùng những khía cạnh toán học để chia sẻ sang những đề mục khác như: cuộc sống, văn chương, xã hội, kỷ niệm khi dạy học,… ví dụ như chương về Đường Trời Muôn Vạn Nẻo (trang 29 qua các bài viết như Tâm sự qua một bài thơ, Mấy nhịp cầu treo, Lời tiên tri của Voltaire, Theo ánh tinh cầu,…), Nguyễn Du với dòng thời gian (trang 285 trích thơ Nguyễn Du đầy ắp, đây là chương hoàn toàn mang nét Toàn Phong, bút hiệu viết văn, chương này tác giả bình luận về thơ của thi hào Nguyễn Du qua cái nhìn của mình trong cuộc sống, rồi sau cụ Nguyễn Du lại đến Nhớ về Thăng Long (trang 313 tác giả dùng thơ của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan làm đề tài diễn giải), Cây Tháp ở Hà Nội, Nhớ về Hà Nội,…, phần kế là Tình toán học (chương sách kể sự liên hệ giữa tác giả và sự đam mê toán học, trang 365 như Thuở ban đầu, Chuyên khoa toán học, Chương trình tiến sĩ,…), Trở về trường xưa (trang 405),…
GS NGUYỄN XUÂN VINH nhà khoa học cự phách của cơ quan Quản Trị
Hàng Không-Không Gian Quốc Gia Hoa Kỳ (NASA)Tham khảo:
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=279&ia=5992Các chủ đề hay các bài viết của Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh mà tôi vốn thích là Theo Ánh Tinh Cầu, Mộng Viễn Phương, và Tình Toán Học. Toàn Phong viết về quê hương trong hoài niệm thuở nhỏ như trong bài “Một Thuở Học Trò” đề cập về buổi khai trường lần đi học đầu tiên, nghe như thư tác của nhà văn Edmondo de Amicis, hoặc là của Thanh Tịnh của “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường….“
Tôi mê thuở đi học từ Việt Nam sang Huê Kỳ, những buổi học xưa sẽ lý tưởng khi mà rảo bước trong campus mùa thu lá maple vàng úa rụng nhiều, chạnh lòng đến văn chương của Thanh Tịnh, của Amicis hay của Toàn Phong. Theo Ánh Tinh Cầu cho tôi nghĩ ngợi lan man về văn học mà khoa học viễn tưởng của những chuyến du hành vào vũ trụ tiên khởi của Jules Verne, hay Hoàng Tử Bé (danh tác của Pháp là Le Petit Prince) của nhà văn kiêm phi công gốc Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Với Mộng Viễn Phương, nhà văn Toàn Phong hoài niệm về giấc mộng tung hoành xé không trung qua tổ quốc không gian hay tác phẩm bestseller Đời Phi Công, mà tôi đọc nhiều lần nó có những địa danh như Marrakech, hoặc école de pilotage à Aix-en-Provence,…
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh : Từ Chiến Sĩ Đến Khoa Học Gia do Văn Đàn Đồng Tâm ấn hành năm 2008, ành từ GS Trần Huy Bích Nhà văn kiêm nhà giáo môn toán Nguyễn Xuân Vinh yêu thích thi ca, Vui Đời Toán Học ghi nhận trong nhiều trang sách. Trong tương quan đó nữ toán học gia gốc Nga Sophia Kovalevskaya của thế kỷ 19 cho là: Bạn không thể là một nhà toán học mà không có tâm hồn của một nhà thơ (Il est impossible d’être un mathématicien sans avoir poète dans l’âme). Còn nhà toán học người Đức nổi danh trong môn toán Calculus, Karl Weierstrass (cuối thế kỷ 19) cho nhận định: Một nhà toán học không mang một nét gì đó của một nhà thơ thì chả bao giờ là một nhà toán học trọn vẹn được (Un mathématicien qui n’est pas aussi quelque peu poète ne sera jamais un mathématicien complet). Tôi thầm nghĩ chả nhẽ hai cụ Sophia Kovalevskaya và Karl Weierstrass đã cho hai câu nói đúng y bong để giới thiệu về nhà văn kiêm giáo sư có hai đam mê trong tâm hồn, toán học và văn học, GS. Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh.
Như phần mở đầu đề cập mối liên hệ giữa toán học và cuộc sống, tôi xin đúc kết bài giới thiệu qua ý tưởng của toán học gia John von Neumann (Mỹ gốc Hung, thế kỷ 20), nôm na cho ý là: Nếu mọi người không tin rằng toán học là đơn giản, cũng bởi vì họ không nhận chân ra là cuộc sống phức tạp như thế nào (Si les gens ne croient pas que les mathématiques sont simples, c’est uniquement parce qu’ils ne réalisent pas combien la vie est compliquée.)
Thật vậy nhờ môn học toán được phổ thông hóa giảng dạy ở trường học ở các cấp, và rồi nó được đem vào ứng dụng trong đời sống, các phát minh khoa học kỹ thuật tân tiến, cuộc sống con người tiện nghi hơn, thoải mái hơn, GS. Nguyễn Xuân Vinh cho nhiều cảm nghĩ trong tác phẩm mới của ông, tôi đơn cử một bài viết khác như dưới đây.
Theo website Nguồn Cội đăng bài giới thiệu về sách Vui Đời Toán Học, qua bài viết Vẻ Tuyệt Mỹ của Hình Tròn của GS. Nguyễn Xuân Vinh. Xin mời đọc.
NHỮNG TÁC PHẨM CỦA GS NGUYỄN XUÂN VINH VUI ĐỜI TOÁN HỌC của Giáo Sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh, dựa theo như lời của GS Vinh thì tập truyền này dài khoảng 350 trang, bao gồm nhiều chương xoay quanh TOÁN HỌC, cũng như Văn Hóa, Tình Yêu, kỷ Niệm trong Toán Học như: Địa Cầu Trong Không Gian; Galois, Thiên Tài và Bất Hạnh; Nguyễn Du Với Dòng Thời Gian; Nhớ Về Thăng Long; Con Ong Giỏi Toán; Một Bài Toán Thần Sầu; Một Thuở Học Trò; Tình Toán Học; Mười Hai Bến Nước; Trải Hương Theo Gió; Trở Về Trường Xưa; The 3 D’s of Nguyen Xuan Vinh …vân vân…và trong mỗi chương lại có thêm nhiều tiểu đề nhỏ nữa .
Trích theo lời giới thiệu của Nguồn Cội, đăng tiểu đề Vẻ Tuyệt Mỹ của Hình Tròn, tiểu đề này gồm có 5 tiểu đề nhỏ như sau:
1) Những tiên đề của Euclid và hình tam giác của phương Đông
2) Hình lục lăng của phương Tây và những cây cầu của thành phố Konigsberg
3) Hình ngũ giác của phương Nam và điện Parthenon của Hy Lạp
4) Hình vuông của phương Bắc và định lý của Pythagoras
5) Hình tròn và tính chất siêu việt của số PiGiáo Sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh Trong câu chuyện này, tôi sẽ nói về những vẻ đẹp tuyệt vời của hình tròn. Từ khi loài người biết suy nghĩ, ban đêm nhìn thấy sao hiện ra rồi lấp ló có ánh trăng. Chờ đợi từng ngày, cho đến ngày rằm, lúc trăng tròn, hiện ra suốt đêm từ hoàng hôn cho đến rạng đông, hình thể mặt trăng lúc đó được coi là tuyệt mỹ. Ðứng bên một mặt hồ phẳng lặng, ta có thể bỗng nhiên nghe tiếng cá đớp và nhìn ra sẽ thấy những ngấn nước loang dần dần theo những vòng tròn đồng tâm. Hay có thể một buổi sáng, sau cơn mưa nhìn về phía Tây, con người nhìn thấy một cầu vồng mầu sắc vẽ một vành cung lớn trên nền trời. Ðó là những hình tròn thiên nhiên con người nhìn thấy từ thời thạch động. Khi con người nghĩ ra được bánh xe tròn là lúc đó phương tiện chuyển vận đã được một bước nhẩy vọt không khác gì khi chế ra được chiếc thuyền để đi trên mặt nước hay khi dùng được máy hơi nước để chuyển vận những toa tầu trên đường sắt. Thi nhân đã không tiếc lời ca tụng mặt trăng, cho đến nỗi khi tả sắc đẹp của mỹ nhân cũng nghĩ rằng mặt người nếu tròn như mặt trăng đêm rằm là mặt đẹp như đoạn Nguyễn Du tả Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”Nhưng bạn đọc có thể hỏi tại sao lại chọn hình tròn và cho hình này là hình đặc sắc nhất. Trước đây ta đã có dịp gặp những hình Cycloid, đã được gọi là nàng tiên đẹp Helen của thành Troy, ta đã thấy hình Catenary tức là hình nếp áo treo của tiên nữ, ngoài ra còn biết bao nhiêu hình khác các nhà toán học đã tìm ra trải qua ba nghìn năm nghiên cứu. Vì vậy để hiểu được vị trí của hình tròn trong toán học, chúng ta trước hết hãy duyệt qua một số hình đặc sắc khác trước khi đi đến kết luận hình nào là hình đẹp tuyệt vời.
Chúng ta chắc nhiều người đã đọc những chuyện võ hiệp và đã được biết có một thời trong võ lâm có năm bậc tài năng tới mức thượng thừa. Năm vị lãnh tụ võ lâm ấy là Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Ðoàn Nam Ðế, Hồng Thất Công và Vương Trùng Dương mỗi vị trấn một phương, uy thế ngất trời. Một lần họ họp với nhau suốt bẩy ngày và bẩy đêm trên đỉnh núi Hoa Sơn để bàn luận võ công, tuy không thực sự quần thảo nhưng dùng lý thuyết và biểu diễn tranh tài cao thấp. Chung cuộc họ đi đến kết luận là người nào cũng đã đến tuyệt đỉnh môn phái võ của mình. Âu Dương Phong có môn Hàm Mô Công thật là ác độc, Hoàng Dược Sư là một nhà thông thái võ công huyền ảo, kỳ bí, có phần chính, có phần tà, vị Ðế Vương miền Vân Nam họ Ðoàn được thừa hưởng môn võ Nhất Dương Chỉ truyền đời, chỉ dùng ngón tay mà tạo ra những đường kiếm linh hoạt, ảo diệu. Ngoài ra Hồng Thất Công là vị bang chủ Cái bang, tính tình hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, môn Giáng Long có mười tám thế đánh bằng tay sức mạnh ví như có thể di sơn, đảo hải, lại thêm môn võ đánh gậy trúc gọi nôm na là Ðả Cẩu Bổng Pháp tuy nhẹ nhàng nhưng lại huyền diệu lợi hại khôn lường. Tuy không tôn một ai làm minh chủ của võ lâm nhưng các vị lãnh tụ đều phải nhận là giáo chủ Vương Trùng Dương, xưa nay vẫn ẩn cư ở núi Chung Nam, võ nghệ, kiến thức tuyệt luân, tính tình lại từ hòa nhân ái đáng giữ ngôi vị ở trung ương. Từ đó truyền bá ra Võ Lâm theo phương vị là Ðông Tà, Tây Ðộc, Nam Ðế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, ý nói là Hoàng Dược Sư giữ ngôi vị chúa đảo ngoài Ðông Hải, trong khi đó Âu Dương Phong hùng cứ miền Tây Nguyên, Ðoàn Vương Gia là thủ lãnh suốt miền Nam và Hồng bang chủ trấn ngự toàn phía Bắc. Ở trung ương thì ngôi vị phải nhường cho con người võ nghệ siêu phàm là Vương Trùng Dương chân nhân.
Tôi nghĩ rằng trong hình học, lựa chọn ra một hình có tính chất tuyệt luân huyền diệu cũng khó như cuộc luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn. Vì vậy tôi tưởng tượng ra đây một trại Hè tôi và một số bạn trẻ đã qua mấy ngày đêm thảo luận về những nét hay đẹp của một số hình trong toán học và giờ đây duyệt lại xem hình nào đáng giữ ngôi vị trung ương. Ðể buổi hội thảo có trật tự, ta tạm chia nhiệm vụ là đã có bốn nhóm trại sinh, mỗi nhóm đã nghiên cứu và chọn ra được một hình như là cao thủ võ lâm để dự cuộc tuyển chọn và hiện nay 4 nhóm này đã ngồi chung quanh theo bốn phương vị Ðông, Tây, Nam và Bắc. Số người còn lại, hoặc chưa có ý kiến, hoặc chưa đưa ra hình dự cuộc vì còn muốn giữ bí mật nay ngồi ở phần giữa của hội trường.MỘT VÀI TÁC PHẨM VIẾT BẰNG TIẾNG ANH, HÌNH ẢNH DO GS TRẦN HUY BÍCH CUNG CẤP
Những Tiên Ðề của Euclid và Hình
Tam Giác của Phương ÐôngNgồi ở Ðông vị là một nhóm trông có vẻ hăng hái hơn cả vì muốn được xuất quân trước nhất. Một bạn đại diện đứng lên và đưa đề nghị thật giản dị:
“Hình đẹp nhất phải là hình tam giác được tạo ra bởi ba điểm A, B và C không thẳng hàng nối với nhau bằng những đoạn thẳng và trong tất cả các hình tam giác vẽ được trong thế gian, hình tuyệt mỹ là hình tam giác có ba cạnh đều nhau.”
đó có nhiều bạn trong nhóm Ðông mỗi người đứng lên nói một câu biện minh cho sự chọn lựa của nhóm này. Tôi ghi lại đây những ý chính:
Nếu chỉ có hai điểm thì không vẽ ra được một hình. Phải có ít nhất là ba điểm. Vậy tam giác là hình giản dị nhất, thiên nhiên nhất và dĩ nhiên là đẹp nhất.
Làm một cái bàn chỉ có hai chân thì không thành cái bàn. Phải cần có ba chân, thành ra ba điểm đặt, và ba điểm là vững vàng nhất. Dùng bốn điểm có thể thành khập khễnh.
Tam giác ba cạnh đều là tam giác cân xứng nhất vì có ba cạnh bằng nhau và ba góc đỉnh cũng bằng nhau. Ngoài ra, trên một mặt phẳng, muốn ghép những hình đều cạnh mà không để chừa ra khoảng trống, như lát sàn bằng gạch hoa, thì chỉ có thể dùng hình tam giác đều, hình vuông và hình lục lăng đều như Hình 1. Trong ba kiểu hình này thì tam giác đều có ít cạnh nhất, như vậy giản tiện mà lại thỏa mãn điều kiện lát gạch.HÌNH 1 Ðến đây với tính cách là người điều khiển buổi hội thảo đầy hứng thú này, tôi muốn có ít lời nhận xét vì lời đề nghị của nhóm Ðông có liên quan đến những tiên đề của hình học.
Trước hết tiên đề là gì? Ở thế kỷ này và trong tương lai, ở những thế kỷ tiếp nối, hay cả ở những hành tinh khác trong vũ trụ, nếu có những người thông minh xây dựng được môn toán học riêng của họ, thì môn nào cũng phải dựa vào luận lý. Lấy thí dụ trong hình học là môn toán học ta tìm ra được những tính chất gọi là a, b và c mà những tính chất này được suy đoán một cách minh bạch, không ai chỉ trích nổi, từ những tính chất mà ta gọi là d, e và f thì những tính chất sau này được coi là những tính chất khởi thủy để dùng luận lý mà xây dựng ra môn hình học. Nay ta lại xét đến những tính chất d, e và f khi những tính chất này không phải dùng những lý luận loanh quanh mà suy ra lẫn nhau mà lại được suy ra một cách rất rõ ràng từ những tính chất khác mà ta gọi là g và h, thì những tính chất sau này mới gọi là tính chất khởi thủy vì tự nhóm này mà ta đã dùng luận lý để suy ra những tính chất d, e và f, và tiếp theo đó suy ra những tính chất a, b và c. Mỗi lần suy luận một cách minh bạch, dựa vào những gì đã được công nhận để tìm ra những tính chất tiếp theo ta nói là đã chứng minh được một định lý. Nếu ta đi ngược lại về nguồn thì sẽ tới được những tính chất nguyên thủy không có thể dựa lên những tính chất nào khác nữa để chứng minh những tính chất nguyên thủy này mà ta gọi là tiên đề.
Vậy tiên đề là những khái niệm gì ta phải công nhận, không cách gì chứng minh được, và căn cứ vào đó ta xây dựng nên cả môn toán học.Người đầu tiên đã đặt thành hệ thống môn hình học dựa vào những tiên đề là nhà giáo Euclid, viết sách và mở trường dậy vào khoảng những năm 330-275 trước Công nguyên ở Alexandria bên Ai Cập, tuy ông lại là người Hy Lạp. Ông đúng là nhà soạn sách thành công nhất tự cổ xưa tới nay vì hơn hai ngàn năm qua, môn hình học đã được khai triển dựa vào những tiên đề và những căn bản viết trong bộ sách 13 cuốn của ông được đặt tên là “Các Cơ Sở”
Ðúng ra thì Euclid viết 10 tiên đề, áp dụng chung cho toán học, nhưng riêng cho môn hình học, sau nhiều thế kỷ tranh luận, sửa đổi, người ta lấy 5 tiên đề, mà 4 tiên đề đầu được lập theo từ chương mới trong những sách giáo khoa hình học như sau:
1. Qua hai điểm có thể xác định được một đường thẳng và chỉ một mà thôi.
2. Qua ba điểm không thẳng hàng có thể xác định được một mặt phẳng và chỉ một mà thôi.
3. Nếu đường thẳng có hai điểm nằm trong mặt phẳng thì đường thẳng đó hoàn toàn nằm trong mặt phẳng này.
4. Nếu hai mặt phẳng có một điểm chung thì chúng sẽ có thêm một điểm chung thứ hai nữa.
5. Tiên đề thứ năm là tiên đề được tranh luận nhiều nhất, tôi sẽ nói ở phần cuối của mục này. Tới đây ta cần nhận định rằng, theo định nghĩa thì tiên đề là những mệnh đề toán học phải công nhận vì không còn mệnh đề nào khác để chứng minh được. Vì vậy ta phí mất công sức để chẳng hạn dùng tiên đề 1, 2 và 3 để chứng minh tiên đề 4 vì nếu chứng minh được thì mệnh đề 4 không còn được gọi là tiên đề nữa. Phần khác ta sẽ thấy là không thể nào thêm được một tiên đề nào khác nữa Chẳng hạn, ta tự nghĩ rằng mình là một thiên tài toán học mà đặt thêm tiên đề thứ sáu.
6. Hai mặt phẳng cắt nhau theo một đường thẳng.
Ðọc lên nghe có vẻ ngon lành như khi vào một tiệm ăn cầm thực đơn mở đôi ra thì sẽ như hiển hiện ra tiên đề thư sáu. Vả chăng, nếu ta đọc lại những tiên đề 1, 2 và 3 thì thấy cũng như là thể hiện những gì hữu hình thường nhật, chẳng hạn một sợi chỉ căng giữa hai điểm (tiên đề 1), một tấm bìa cứng đặt trên ba mũi nhọn (tiên đề 2) và đặt cái thước trên một mặt bàn (tiên đề 3). Vậy tại sao mệnh đề 6 không được gọi là tiên đề nhỉ ?
Ta phải lý luận như sau. Nếu hai mặt phẳng cắt nhau thì chúng phải có một điểm chung và theo tiên đề 4 chúng sẽ có thêm một điểm chung thứ hai nữa. Theo tiên đề 1, ta thấy chỉ có một đường thẳng qua hai điểm này và, theo tiên đề 3 đường thẳng nằm trong mỗi mặt phẳng. Vậy là ta đã dùng tiên đề 1, 3 và 4 để chứng minh mệnh đề 6, và mệnh đề này là một định lý chứ không được gọi là một tiên đề.
Một nhận xét khác nữa là ta đã hình dung ra những điểm, đường thẳng hay mặt phẳng theo định nghĩa hình thể được lý tưởng hóa. Chính vị tổ sư Euclid cũng nhầm lẫn về vấn đề này. Ông tưởng tượng điểm là cái gì không thể thu nhỏ được nữa cũng như một đường là chỉ có chiều dài chứ không có chiều rộng, một mặt thì chỉ có chiều dài, chiều rộng chứ không có bề dầy. Hay đôi khi dùng những cuốn sách nhập môn về Hình Học, để khỏi lúng túng, khi đọc tiên đề 1, học sinh hỏi vặn lại là đường thẳng là gì, hay khi đọc tiên đề 2 có người thắc mắc muốn được biết định nghĩa về mặt phẳng, một nhà giáo khi chỉ có trình độ trung cấp về toán học có thể trả lời là nhìn một sợi chỉ căng là có ý niệm về đường thẳng, hay nhìn một mặt hồ không gợn sóng là có thể hình dung ra được một mặt phẳng. Sự thực ra thì ta có thể công nhận các tiên đề như đã nêu ở trên và không cần phải có định nghĩa về điểm, đường thẳng và mặt phẳng. Thật vậy, nếu bạn đọc có cách nào để quên được những ý niệm hình thể về đường thẳng và mặt phẳng hay tạm cho là đường thẳng có hình hơi cong cong, và mặt phẳng hơi vềnh vồng thì những tiên đề kể trên vẫn đúng như thường vì ta đã mặc nhiên công nhận những tiên đề này. Nếu vì lấy đường thẳng cong cong mà không thích hợp với tiên đề 1 chẳng hạn thì tức là ta đã dùng ý niệm “đường thẳng là cái gì rất thẳng” để chứng minh tiên đề 1 là đúng. Như thế mệnh đề 1 đâu đáng được gọi là tiên đề. Phần khác bạn đọc có thể coi lại đoạn chứng minh mệnh đề 6 khi dùng những tiên đề 1, 3 và 4 sẽ thấy là trong lý luận này chúng ta có dùng ý niệm “đường thẳng là cái gì rất thẳng” và “mặt phẳng là cái gì rất phẳng” để làm hậu thuẫn đâu!
Nay trở lại phát biểu của nhóm Ðông thì ta thấy hình tam giác nằm trong một mặt phẳng và ba cạnh của hình hoàn toàn nằm trong mặt phẳng này. Nhóm Ðông được dành nửa giờ để trình bầy những tính chất đặc biệt của hình tam giác. Dĩ nhiên là có nói nửa ngày trời cũng không hết. Vì vậy các bạn đã nhấn mạnh tính chất hội tụ như sau.HÌNH 2 Dựa theo Hình 2: Ba đường trung tuyến vẽ từ 3 đỉnh A, B và C như là đường AM, vẽ từ đỉnh A đến trung điểm M của cạnh đối diện BC, ba đường này gặp nhau ở điểm G là trọng tâm của tam giác và ở 2/3 các trung tuyến kể từ đỉnh.
– Ba đường trung trực tức là những đường thẳng góc với các cạnh như BC vẽ từ trung điểm M, ba đường này cũng gặp nhau ở điểm O là một điểm cách đều ba đỉnh A, B và C. Như vậy, O là tâm điểm cuả vòng tròn ngoại tiếp với tam giác ABC.
– Ba đường cao là là những đường như AH vẽ từ đỉnh A thẳng góc với cạnh đối diện BC, ba đường này cũng gặp nhau ở một điểm I gọi là trực tâm của tam giác.
– Ðặc biệt ba điểm O, G và I lại thẳng hàng với nhau và điểm G ở 2/3 đoạn IO kể từ điểm I. Ðường thẳng này gọi là đường thẳng của Euler.
Nhóm Ðông có vẻ thích thú về những tính chất hội tụ của những đường đặc biệt vẽ trên hình tam giác và các bạn trẻ cho rằng những tính chất này không có ở các hình khác. Một thành viên của nhóm Ðông còn thêm tính chất rằng:
– Nếu vẽ những đường phân giác nghĩa là những đường chia những góc A, B và C, mỗi góc làm hai phần đều nhau thì ba đường này cũng gặp nhau tại một điểm J và điểm này lại đặc biệt ở một vị trí cách đều ba cạnh BC, CA và AB. Như vậy J là tâm điểm của vòng tròn nội tiếp với tam giác ABC.
Sau phần trình bầy của nhóm Ðông tới phần đặt câu hỏi. Câu khó trả lời nhất là:
“Tại sao lại chọn hình tam giác có ba cạnh đều? Ngoài tính chất cốt dùng để lót gạch hoa không có khoảng trống như trên Hình 1, hình tam giác có ba cạnh đều còn có gì đặc biệt? Vả chăng muốn lát kín thì cần gì phải chọn hình có cạnh đều. Chẳng hạn trên Hình 1, thay vì chọn hình vuông, dùng hình chữ nhật có sao đâu ? Những viên gạch xây tường có hình chữ nhật cũng vẫn xếp kín được như thường. Vậy ta cũng vẫn có thể thay hình tam giác ba cạnh đều bằng những hình tam giác cân, chỉ có hai cạnh bằng nhau vẫn xếp kín được như thường chứ ?”
Nghe câu hỏi hóc búa này, thay vì lúng túng, tất cả các bạn trong nhóm Ðông lại vỗ tay reo mừng. Lúc đó họ mới đưa ra môn võ bí hiểm bằng cách trưng ra những Hình 3 và Hình 4. Theo nhóm này thì Hình 3 biểu diễn một định lý tìm ra bởi Hoàng Ðế Napoléon Bonaparte (1769-1821).HÌNH 3 Theo Hình 3: lấy một hình tam giác ABC bất kỳ nào và sau đó, trên những cạnh, kiến trúc ba hình tam giác đều. Trên mỗi tam giác đều, vẽ những điểm gặp nhau của những đường trung trực như điểm O đã cắt nghĩa trên hình 2. Ba tâm điểm này là ba đỉnh của một tam giác ba cạnh đều. Tính chất đặc biệt của định lý này là bất kỳ hình tam giác ABC nào cũng tạo được ra một hình tam giác ba cạnh đều. Ðịnh lý này đã làm cho nhóm ngồi phía Tây là nhóm sắp sửa ra thuyết trình có vẻ nao núng. Tuy vậy, họ cũng có lời phê bình là: “Ðịnh lý của Napoléon phải dùng đến ba hình tam giác đều để kiến trúc ra hình tam giác đều thứ tư. Vậy có gì là bất kỳ đâu ?” Câu hỏi này đi vào bẫy sập của nhóm Ðông vì họ trả lời rằng: “Hãy thử coi Hình 4 sẽ thấy hình tam giác nào cũng đưa đến hình tam giác đều, hay nói văn vẻ hơn, đường nào cũng dẫn đến kinh thành La Mã.
HÌNH 4 vậy theo Hình 4: bạn thử vẽ một tam giác bất kỳ nghĩa là không có cạnh nào bằng cạnh nào, và như thế cũng có nghĩa là không có góc nào bằng góc nào. Sau đó ở mỗi góc vẽ hai nửa đường thẳng để chia góc làm ba phần đều nhau. Những đường thẳng này cắt nhau tại những điểm là đỉnh của những hình tam giác có ba cạnh đều. Hình vẽ nét đậm trên Hình 4 là một trong những hình tam giác đều được tạo ra.
Sau phần trình bày rất ngoạn mục này, nhóm Ðông đã nhận được một tràng pháo tay cổ võ rất nồng nhiệt. Trước khi giới thiệu phần trình bày của nhóm Tây, chắc cũng không kém phần hào hứng, tôi có chút nhận xét sau đây:
Trở lại lời phát biểu là dùng một cái bàn ba chân là vững vàng nhất, ta thấy là nhóm Ðông đã đi vào phạm vi Cơ học, hay đúng hơn là phần Tĩnh học của Toán áp dụng này. Một cái bàn hay một cái ghế đẩu có ba chân chỉ có thể đứng vững ở vị thế tĩnh khi trọng lực của cố thể này đi qua tam giác hợp thành bởi những điểm đặt. Bạn đọc thử hình dung một mặt bàn đá, nghĩa là khá nặng, có ba chân song song và khá dài. Sau đó, cắt ngắn một chân bàn chút ít sẽ nhận thấy ngay rằng tuy vẫn có ba điểm đặt vững chãi nhưng đường trọng lực, phát xuất tự trọng tâm ở khá cao sẽ đi ra ngoài tam giác đế của chân bàn và chiếc bàn chắc chắn sẽ bị lật nghiêng.
Tiên đề thứ năm của Euclid là: Từ một điểm A ở ngoài đường thẳng b bao giờ ta cũng kéo được một và chỉ một đường thẳng a song song với b. Như đã nói ở trên, trong tập “Các Cơ Sở”, Euclid mở đầu bằng cách phát biểu 10 tiên đề mà trong môn Hình Học dùng 5 tiên đề viết lại theo lối mới như trên. Trải qua hơn hai ngàn năm, nhiều nhà toán học, có những vị là những thiên tài, cho rằng tiên đề 5 chỉ là một định lý hình học có thể suy ra được bằng cách dựa trên các tiên đề khác.
Sau nhiều lần thất bại, phải tới thế kỷ thứ 19, ba nhà toán học lỗi lạc là Carl Friedrich Gauss (1777-1855) người Ðức, Nicolai Ivanovitsch Lobatschewsky (1793-1856) người Nga và Johann Bolyai (1802-1860) người Hung, mới sáng suốt nhận chân rằng tiên đề thứ năm này quả thật là một tiên đề, không chứng minh được vì không suy ra được từ những tiên đề khác. Vị thủy tổ Euclid giữ toàn vẹn chiếc ngai Hình Học, được gọi là Hình Học Euclid. Nhưng mặt khác, các nhà toán học nói trên nghĩ rằng nếu thay thế tiên đề 5 bằng một tiên đề thật trái ngược mà dùng suy luận để đi đến một nghịch lý thì tức là đã chứng minh được tiên đề này, đó là điều đã không ai làm được. Vậy thì có thể dùng một tiên đề khác thay thế cho tiên đề 5 để xây dựng nên một môn hình học mới tức là Hình Học Phi Euclid. Lobatschewsky và Bolyai dựng nên môn hình học mới bằng cách thay tiên đề 5 bằng tiên đề
LB. Từ một điểm A, ở ngoài đường thẳng b, có thể kéo nhiều đường song song với b.
Dùng tiên đề này có thể làm thành một môn hình học trong đó không có gì nghịch lý cả và môn này được gọi là Hình Học Hy-pe-bol. Một môn hình học thứ ba nữa có thể được dựng ra bằng cách dùng một tiên đề trái ngược với tiên đề 5, do nhà toán học Bernhard Riemann (1826-1866) phát biểu là:
R. Từ một điểm A ngoài đường thẳng b không thể kéo đường thẳng nào song song với b.
Môn hình học phi Euclid này được gọi là Hình Học Ellip.
Một nhận xét sau cùng nữa là nhóm Ðông không thể nào chỉ dùng thước kẻ thẳng và com-pa để vẽ nên Hình 4 được. Ðó là vì trong Hình Học có ba bài toán đố không thể nào dùng thước kẻ thẳng và com-pa để tìm lời giải được là các bài sau đây:
1. Chia một góc phẳng bất kỳ làm ba góc bằng nhau.
2. Kiến tạo một hình lập phương có thể tích gấp hai lần thể tích một hình lập phương cho sẵn.
3. Vẽ một hình vuông có diện tích bằng một hình tròn cho sẵn.
Đó là những lời trích từ Vui Đời Toán Học của GS Nguyễn Xuân Vinh.Việt Hải sưu tầm và nghiên cứu
California 2013 -
Dư âm dịp ra mắt sách Mùa hè 2022.
Mùa hè vẫn còn, trời Nam Cali lan tỏa những tia nắng ấm hình như thiên nhiên báo hiệu những buổi hội ngộ gặp gỡ bạn bè. Để chúng tôi, những văn nghệ sĩ đến với nhau trong dịp ra mắt sách, mà kết quả được xem nhiều thành công “Viên mãn thành công“. Trong khung cảnh văn học đậm chất tao nhã văn chương thi vị, nêu cao tinh thần yêu thi ca qua hai tác phẩm thơ, Màu Thời Gian và Lật Trang Sách Cũ. Buổi họp mặt thi ca được diễn ra trong không khí thân mật nhưng không kém phần long trọng. Ba diễn giả của Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian gồm nhà văn Quyên Di, Khánh Lan và Mộng Thủy. Chương trình văn nghệ do Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật – Tiếng Thời Gian tổ chức, buổi lễ cùng với phần văn nghệ đặc sắc qua những nhạc phẩm nổi tiếng của các nhạc sĩ: Dương Thiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn, vì 2 nhạc sĩ này có liện hệ gia đình với 2 thi sĩ ra mắt sách, Dương Hồng Anh và Lê Nguyễn Nga.
Thành phần khách tham dự buổi ra mắt hai tập thơ đa số là khách văn học nên khi các diễn giả thuyết trình căn phòng hội chìm trong yên lặng, khiến không khí trở nên trang trọng và sự kính nể đối với hai vị Nữ sĩ. Mặc dù ngày 26 tháng 06 có đến 4 buổi hội họp văn học ở 4 nơi khách nhau, nhưng số khách tham dự buổi ra mắt 2 tập thơ đã vượt qua con số 80 người và số sách đã được sự ủng hộ nhiệt tình của các độc giả yêu thơ và bán gần hết. Thật là “Giới hàn lâm tao nhân mặc khách chiếu cố…”
Hôm sau trong dư âm vui vẻ nữ sĩ Dương Hồng Anhcho ra ngay bài thơ mói toanh như sau riêng thân quý mến tặng Nhà Văn Trần Việt Hải cùng toàn thể quý hội viên trong Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian..
Thêm Một Nụ Hồng
Nhân Văn Nghệ Thuật – Tiếng Thời Gian
Là những vần thơ, những phím đàn
Cho tôi thấy hương đời nồng ấm
Tình văn chương tha thiết muôn vàn
Nôn nao chờ đón ngày ra sách
“Mầu Thời Gian” xanh mát trên tay
Nắng Ca li chiều nay vàng thắm
Nhìn hội trường rạng rỡ trời mây
Bạn bè tôi vui tươi đàn hát
Ánh đèn mầu lấp lánh đỏ xanh
Tình cảm thân thương cùng chia sẻ
Vườn hoa văn nghệ đẹp như tranh
Chim đầu đàn anh Trần Việt Hải
Cùng bạn bè thân mến chung quanh
Đem tim óc cùng nhau tô điểm
Văn hóa muôn đời rạng sử xanh
Đường dài văn nghệ còn đây đó
Mong gửi vào thơ một tấc lòng
Xin cảm ơn bạn bè trân quý
Đã cho tôi thêm một nụ hồng
Nụ hồng còn đó, thơ còn đó
Nghĩa tình bè bạn thước nào đo
Chúc mừng Hội Nhân Văn Nghệ Thuật
Vun trồng văn hóa đẹp như mơ…
Dương Hồng Anh, ngày 29 tháng 6, 2022
Thi sĩ Lê Nguyễn Nga cũng đã kể cái duyên gặp gỡ giữa hai bà như sau.
Cái Duyên với Con Cháu Của Cụ Nghè Dương Khuê.
Nhà thơ Lê Nguyễn Nga và nữ sĩ Dương Hồng Ánh
“Vào dịp Tết Nhâm Dần, tháng hai năm 2022, Nhà Văn Việt Hải báo tin là cuốn sách “Lật Trang Sách Cũ” của tôi sẽ được ra mắt vào tháng 6 năm 2022, cùng với nữ sĩ Dương Hồng Ánh (DHA). Tôi thấy áy náy, có lẽ mình tự thấy hơi khác nhau, bởi vì về tuổi đời thôi, nữ sĩ DHA đã trên tôi 15 năm, còn về năm tháng sáng tác thơ văn, nữ sĩ đi trước tôi quá xa.
Vào tháng 3 năm 2022, chị vui vẻ hỏi tôi là Nhà Văn Việt Hải nói rằng sẽ ra mắt sách chung cho hai người, “Nga đã biết ngày nào chưa?” Tôi trả lời là tôi chỉ biết vào tháng 6 thôi, chưa biết ngày chính xác. Anh Việt Hải tiếp thêm là ngày ra mắt sách sẽ hát nhạc của Dương Thiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn. Trong vài buổi họp, tôi lại được nghe về nữ sĩ DHA là cháu nội của cụ nghè Dương Khuê.
Cả một bầu trời dĩ vãng lại quay về…
Sau năm 75. Hôm đó là một ngày đẹp trời. Tôi đi làm về thấy có một người đến thăm vợ chồng tôi. Anh Lê Trọng Nguyễn giới thiệu đây là một người bạn cũ đã tham dự đám cưới chúng tôi vào năm 1970. Tôi nhớ lại là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Cả hai vợ chồng, Ca sĩ Minh Trang và nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, đều là bạn thân của NS LTN từ đài phát thanh Huế vào Sài Gòn vào những năm 1960. Trong bữa cơm thân tình tôi được biết thêm NS DTT là cháu nội cụ Dương Khuê.
Qua Mỹ, chúng tôi gặp lại Ca Sĩ Quỳnh Giao, ái nữ của bà Minh Trang. Qua vài lần trao đổi, tôi biết thêm Quỳnh Giao và tôi có một thời học chung trường, lấy chung vài cua Pháp Văn ở trường Trường Sơn. Trong vài lần tâm tình, cô Quỳnh Giao nói về cuộc đời âm nhạc, bắt đầu học nhạc lý từ kế phụ Dương Thiệu Tước, Cuộc sống trên vùng đất mới luôn quay cuồng. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp lại vợ chồng Quỳnh Giao-Nguyễn Xuân Nghĩa. Có một hôm anh chị báo tin NS Dương Thiệu Tước đã qua đời từ năm (1995). Một vài lần chúng tôi gặp lại các bạn ca sĩ Mai Hương, Kim Tước, Quỳnh Giao.
Cái thân tình đó tôi nhớ mãi như món quà của cuộc đời. Cái DUYÊN được quen biết với NS Dương Thiệu Tước-Minh Trang rồi quen luôn đến thế hệ thứ hai là CS Quỳnh Giao và CS Dương Vân Quỳnh… Đã bao mùa lá rụng. Đã bao mùa tuyết rơi. Đã bao lần vật đổi sao dời. Cái buồn chợt đến khi tôi nghe tin người ca sĩ trẻ Quỳnh Giao qua đời sau một cơn bịnh nặng ngắn ngủi. Tôi ngậm ngùi nhớ về những người thân thương đã bỏ ra đi: NS Dương Thiệu Tước, NS Lê Trọng Nguyễn, ông Hà Thức Cần, CS Minh Trang, CS Quỳnh Giao.
Tôi xin mượn vài câu trong bài thơ “Khóc Bạn Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến để kết thúc bài viết này:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
……………………
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
…………………………………
Cầu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa …
Tôi mong muốn vào dịp ra mắt sách kỳ này lại có dịp gặp lại bạn bè xưa để ôn chuyện vui buồn cuộc đời. Và Lê Nguyễn Nga đã mãn nguyện.
Bài thuyết trình của diễn giả Quyên Di được cử toạ vỗ tay nồng hậu.
VÀI NHẬN XÉT VỀ THI TẬP “MẦU THỜI GIAN” CỦA NỮ SĨ DƯƠNG HỒNG ANH VÀ HAI DÒNG NHẠC “DƯƠNG THIỆU TƯỚC,” LÊ TRỌNG NGUYỄN
( do GS. QUYÊN DI)
Ông kể chuyên văn thơ hóm hĩnh, pha bao dí dõm ý nhị…
Nghe ba tiếng “MẦU THỜI GIAN,” thường chúng ta sẽ có cảm giác buồn bã, hay ít ra thì cũng bùi ngùi, luyến tiếc. Màu thời gian thường là màu vàng đậm của chiếc lá cuối thu, héo úa và tàn tạ. Nhưng nhìn vào màu bìa của thi tập, chúng ta đều thấy đó màu màu xanh của lá cây non, rất tươi mát và tràn đầy sức sống. Trong khi đó, nếu xét về niên tuế thì nữ sĩ Dương Hồng Anh năm nay đã hơn chín mươi. Điều này nói lên rằng, với nữ sĩ, thời gian không có ảnh hưởng gì. Lúc nào nữ sĩ cũng tươi trẻ. Đúng là:
“Chín mươi đâu phải là già,
Tám mươi thì mới chỉ là thanh xuân.”
Thi tập gồm 102 bài thơ. Hãy nói trước về bài thơ MẦU THỜI GIAN, tên được chọn làm tựa đề của thi tập.
Bài thơ gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Khổ đầu, tác giả gieo vần theo lối gián cách, câu 1 vần với câu 3, câu 2 vần với câu 4. Này nhé:
Thời gian lờ lững trôi vô tận
Vui buồn thế sự nắng mưa rơi
Còn đây một mảnh tình non nước
Xin gửi vào thơ giấc mộng đời.
Nhưng ba khổ sau, tác giả lại gieo vần theo lối ba vần bằng, lối gieo vần tựa như trong thể thơ Đường luật cổ kính:
Thơ theo ngày tháng vẫn Đi – Về
Những chiều những sớm những đêm khuya
Bao nhiêu thi tứ theo nhau bước
Phòng vắng canh dài viết mải mê.
Tôi vẫn làm thơ dưới nắng chiều
Mây ngàn gió núi dệt thương yêu
Câu thơ nho nhỏ say hồn mộng
Ký ức vàng son gợi nhớ nhiều.
Mái tóc sương pha đã mấy mùa
Ngày dư còn lại chút hương xưa
Mầu thời gian trải dài tâm sự
Vạt nắng hoàng hôn, gió nhẹ đưa.
Sao lại như thế? Tôi có cảm tưởng rằng ban đầu tác giả nhìn dòng thời gian dù có liên tục trôi, nhưng thật ra có nhiều đoạn đời có thể tách rời ra được. Nhưng một khi đã đạt được cái lẽ đời, tác giả nối tất cả các đoạn đời ấy lại thành một dòng trôi liên tục: dòng đời.
Tôi tạm kết thúc phần giới thiệu thi phẩm MẦU THỜI GIAN của nữ sĩ Dương Hồng Anh để chuyển qua phần giới thiệu một vài nhạc phẩm của hai nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn. Tại sao lại có phần giới thiệu này. Thưa, vì hôm nay chúng ta giới thiệu hai tập sách, MẦU THỜI GIAN của nữ sĩ Dương Hồng Anh và LẬT TRANG SÁCH CŨ của nhà thơ Lê Nguyễn Nga. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là anh họ của nữ sĩ Dương Hồng Anh và nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là phu quân thi sĩ Lê Nguyễn Nga. Hôm nay chúng ta trình bày và thưởng thức những ca khúc của hai nhạc sĩ này, tưởng cũng nên biết một chút về hai vị như một cách tri ân.
Nếu đã táo bạo giới thiệu thi tập MẦU THỜI GIAN thì khi nhận lời nhận định về vài nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn, phải nói là tôi liều lĩnh. Chung quy vì vì lời xúi dại của nhà văn Việt Hải, ổng xúi tôi nói. Tôi nhận lời vì cả nể. Nhận lời rồi mới biết là mình quá liều lĩnh. Cái tính cả nể này nguy hại vô cùng. May, mẹ tôi sinh tôi ra, tôi là con trai, chứ nếu là con gái thì đời tôi không biết đã “hoảng chưa” bao nhiêu lần rồi! Nhưng đã nhận lời thì phải nói thôi, biết làm sao bây giờ. Thật, không cái dại nào bằng cái dại này.
Tôi nói gì về nhạc phẩm “Chiều,” thơ Hồ Dzếnh, nhạc Dương Thiệu Tước nhỉ? Bài thơ gồm những câu ngắn, mỗi câu 5 chữ:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chết trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Mây chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây.
Nhưng đây là thơ năm chữ! Thế mà Dương Thiệu Tước phổ thành một bản nhạc rất du dương. Ông viết bản nhạc theo điệu tango với cung “rê trưởng.” Thường cung “rê trưởng” hợp với những bài hát vui tươi, nhịp nhàng. Viết “rê trưởng” cho điệu tango quả là thíich hợp. Nhưng cái khéo của Dương Thiệu Tước là khi ta hát hay ta nghe bài “Chiều,” vẫn thấy có cái gì bâng khuâng, bùi ngùi trong cung điệu nhịp nhàng ấy. Mình cứ hát đi, hát với giọng vịt đực của tôi cũng được, sẽ cảm nhận được điều ấy.
Riêng về nhạc Lê Trọng Nguyễn, tôi chỉ xin đưa ra một vài hình ảnh trong nhạc phẩm Nắng Chiều, một nhạc phẩm không những nổi tiếng ở Việt Nam mà còn rất được yêu thích ờ nhiều nước khác, như Nhật Bản, Đài Loan, Hong Kong. Tôi có dịp đọc lời Nhật, lời Hoa của nhạc khúc này, không thấy hình ảnh trong đó đẹp bằng những hình ảnh trong nguyên bản tiếng Việt.
Vì là “Nắng Chiều,” xin nói về nắng. Có 5 thứ nắng được diễn tả trong bài hát: nắng lưa thưa, nắng vương thềm, sân nắng, nắng vương đồi, nắng ngừng trôi. Ồ, nắng mà “lưa thưa.” Tại sao nắng “lưa thưa” được? Vì có “lá hoa về chiều” lưa thưa nên nắng mới thưa thưa theo được. (Cũng như phụ nữ đẹp vì có nam giới chúng tôi khiến cho phụ nữ thích làm đẹp.)
Lại còn “nắng vương.” Vương là bám nhẹ, loang nhẹ, rơi nhẹ vào. Hình ảnh “nắng vương thềm” đẹp và thơ mộng quá. Thềm ở bên ngoài, nhưng là nơi sát với nhà, chỉ một bước nữa thôi là bước vào trong nhà. Tâm hồn cô thiếu nữ là ngôi nhà kín đáo và thân mật. Chàng trai yêu cô gái, nhưng còn đứng đợi bên thềm chờ cô mở cửa cho vào nhà. Thềm nhà xuất hiện trong nhiều bài thơ hay nhạc phẩm. Chúng ta vẫn thường hát: “Hôm qua đến tìm em, anh thấy hoa xuân rơi đầy trước thềm.” (Đẹp Giấc Mơ Hoa, Hoàng Trọng)… Cho đến “nắng vương đồi” thì là một hình ảnh quá đẹp, và thật gợi cảm đối với những ai hơi giàu tưởng tượng và có óc liên tưởng.
“Nắng ngừng trôi”! Cái này mới thật là lạ. Nắng trôi được vì có sự chuyển động trong không gian lúc chiều về. Đó như là một định luật; mặt trời mọc, mặt trời lặn nên có bình minh và hoàng hôn. Thế mà bây giờ “nắng ngừng trôi,” nắng dừng lại, không trôi nữa vì nắng “nhớ em dịu hiền.” Đã đẹp chưa, đã thơ chưa nào? Chịu! Tả nắng như thế thì khó có nhà thơ, nhà văn nào tả khéo hơn!
Thôi, tôi xin phép chấm dứt bài nói chuyện thô thiển ở đây, vì sợ làm rác tai người nghe vì những suy nghĩ lẩm cẩm. Xin vui lòng bỏ qua những gì tôi nói “lảm nhảm” về những tuyệt phẩm nghệ thuật. Nói nữa, e rằng tôi phạm tội làm kém đi, xấu đi những gì quá hay, quá đẹp.
GS. Quyên Di là một trong các cố vấn văn chương của Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật – Tiếng Thời Gian.
——————————–
ĐÔI NÉT VỀ NỮ SĨ DƯƠNG HỒNG ANH
June 28, 2022
NỮ SĨ DƯƠNG HỒNG ANH
Vốn thừa kế truyền thống văn học của dòng họ Dương. Ngôn ngữ trong thi ca của Nữ Sĩ Dương Hồng Anh, phản ảnh sự phong phú của ngôn ngữ, bà đã khéo léo chắt lọc tinh túy những ngôn từ, khám phá những nét bóng bẩy của thi ca, nhưng không kém phần vui tươi, nhẹ nhàng, êm ái của những áng thơ viết cho bạn bè và thân hữu. Thật thế, Nữ Sĩ Dương Hồng Anh đã góp phần làm giầu ngôn ngữ, trong văn học và đời sống của chúng ta.
Là một nhà thơ với bản tính hiền hòa, nhận hậu, khiêm nhường và vị tha. Bà đặt gia đình, bạn bè, thân hữu lên trên quyền lợi của chính mình. Đối với Liên Nhóm NVNT & TTG, Nữ Sĩ đã ưu ái dành cho mọi người “muôn ngàn thân ái”. Đây là ngôn ngữ mà Nữ Sĩ thường dùng để biểu lộ cảm tình của bà đối với bạn hữu. Bà đã sáng tác nhiều bài thơ dành riêng cho hội trong đó có bài “Bạn Bè Của Tôi”
“Bạn bè tôi, những nghệ sĩ yêu đời
Gặp gỡ nhau chuyện trò thân mật quá…
… Bạn bè của tôi chung lời hẹn ước
Đem tâm tình chia sẻ tiếng thời gian….
Bài thơ này đã được Nhạc sĩ Lâm Dung phổ nhạc và đã trở thành NVNT & TTG hành khúc cũng như được trình diễn trong hầu hết các buổi sinh hoạt của nhóm.
Cũng trong bài viết của Khánh Lan
DƯƠNG HỒNG ANH NỮ SĨ
Khánh Lan Biên soạn.
Tôi còn nhớ như in trong tâm trí, tháng 01 ngày 28, 2020, tôi đã được nữ sĩ DHA tặng cho tập thơ số 10 của bà, xuất bản tại California, năm 2019 với tựa đề “NGUỒN CỘI” trong dịp họp mặt đầu xuân Canh Tý. Tôi vốn mê đọc thơ từ thuở nhỏ, nên khi nhận được tập thơ từ bà, tôi mừng lắm và say mê đọc những bài thơ bà sáng tác, với những vần thơ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, đong đầy trìu mến, khiến người được đọc thơ có cảm giác như đang cùng bà sánh bước hoặc cùng bà chia sẻ niềm tâm sự.
“Bốn bốn mùa xuân trên đất Mỹ,
Bao nhiêu kỷ niệm trở về đây,
Đất lành chim đậu – Ca-li ấm
Sợi nắng vàng say mộng ước đầy”.
(Xuân Trên Đất Mỹ-2019)
… quả thật, thi sĩ DHA đúng là một người tài hoa với một bộ óc tràn ngập những lời hay ý đẹp của một nhà thơ. Phải, thi sĩ DHA với những áng thơ dịu dàng lưu loát, hồn thơ say đắm làm mê hoặc lòng người, ý thơ trẻ trung nhẹ nhàng, mềm mại, e ấp và đáng yêu như con người của bà, nhưng lại không kém phần ưu tư, thương nhớ, khắc khoải khi nhắc đến quê hương sau bao năm lưu lạc. Những cảm xúc sâu đậm ấy đã bộc lộ qua lời thơ của thi sĩ DHA và điều này đã được thể hiện rõ rệt qua bốn câu thơ sau đây:
“Chiều về nhớ phố Bolsa,
Đi tìm chút nắng quê nhà năm xưa”.
Hoặc:
“Xin gửi quê hương một tấm lòng,
Ca li nhớ mãi nắng Sài Gòn”.
Thật đúng như nhà thơ Alfred De Musset đã cho rằng, thơ là nỗi cảm xúc của lòng mình, là nhịp đập của trái tim, là hơi thở của trí tuệ và…”Hãy đập vào trái tim, thiên tài là ở đó“. Hay nhà văn Việt Hải đã viết trong lời mở đầu cho thi tập Nguồn Cội: “Trong ngôn ngữ của đời sống, thơ là những dòng chữ đi từ con tim tìm đến khối óc. Nếu con tim rung động thì trí óc sắp xếp sự sáng tạo chữ nghĩa, đó là ý tưởng của nhà thơ”. Trong thi tập Chiều Bến Đợi, thi sĩ DHA đã nhận định: “Tôi đã dành từ bao giờ một góc trái tim cho Thơ”.
“Mỗi bước chân đi nghĩ ngợi gì
Thềm hoa rực rỡ đọng trên mi
Nắng vàng phơ phất lùa khung cửa
Chở những vần thơ lãng đãng về”….
(“Nắng Ca Li Nhớ Nắng Sài Gòn)
Khi được hỏi, cơ duyên nào đã là nguồn cảm hứng giúp thi sĩ DHA trở lại sinh hoạt trong thế giới thi ca? Thi sĩ DHA trả lời: “Sau khi nhà tôi qua đời, thì những dòng thơ tuyệt diệu ngày xưa đã sống lại trong tôi và tôi bắt đầu làm thơ…..phải tôi… trở về với thế giới thơ văn mà tôi hằng yêu quý“. Như để giúp tôi hiểu rõ hơn, thi sĩ DHA tiếp tục, “Sau lần tôi về thăm Hà Nội, tôi sáng tác bài Thu Cảm, bài thơ hay lắm cô KL ạ, bài này nhà văn Nhật Thịnh đăng trong tờ báo Đất Đứng năm 2012 và ông nói là thơ của bà “Có hồn“.
“Thu đến từ đâu thu hỡi thu,
Cùng thơ đang trở gót sông hồ”…..
(Chiều Bến Đợi)
Năm nay, thi sĩ DHA vừa tròn 90 và với hơn 70 năm sinh hoạt trong thế giới thi ca (1947-2020), tuy tuổi đã cao, nhưng bà rất minh mẫn và sáng suốt, bà vẫn làm thơ và hầu như bà đã thuộc lòng từng bài thơ trong 10 thi tập mà bà đã sáng tác và xuất bản. Không những thế bà còn có tài xuất khẩu thành thơ, thể hiện trong ngày 23 tháng 2, 2020, nữ sĩ DHA đã làm sáu câu thơ ngay tại buổi tiệc vinh danh & chúc thọ 90 kỷ niên của bà.
“Chín mươi tuổi trên tay còn ngọn bút,
Nhìn đất trời cao rộng giữa bao la,
Cho tôi viết những gì tôi muốn viết,
Thổi hồn thơ lãng đãng nhớ quê nhà,
Cho tôi thấy mùa xuân đầy nắng ấm
Nắng hồng tươi, tình gửi nước non xa”.
(Trên Tay Ngọn Bút, 2/23/2020)
Bài tạp ghi tường thuật buổi lễ trình làng thi tập của 2 thi sĩ Dương Hồng Ah và Lê Nguyễn Nga, do Kiều My ghi nhận, xin trich đoạnh như sau”
Vị thi sĩ mà chúng tôi muốn nói đến là Lê Trọng Nguyễn Nga, là tác giả của tập thơ LẬT TRANG SÁCH CŨ mà cũng là phu nhân của cố nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và là mẹ của bốn người con. MC Mộng Thủy cho biết thêm: bà là cựu học sinh trường Trưng Vương. Sau đó, bà làm việc cho Hàng Không Việt Nam rồi lập gia đình với nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn. Khi sang Hoa Kỳ, bà học trường Cal State Los Angeles và tốt nghiệp về kế toán. Sau cùng trước khi về hưu, bà là cán sự xả hội tại thành phố Los Angeles trong một thời gian dài.
Sau giờ văn học, mọi người có vẻ lao xao và vui hẵn lên với hoa hồng tươi và bánh sinh nhật được bày trên chiếc bàn giữa hội trường. Nhân dịp này mọi người tề tựu chúc mừng sinh nhật thứ 92 của nữ sĩ Dương Hồng Anh chung quanh chiếc bánh giữa những hoa hồng vàng, hồng đỏ tươi thắm tròn lẵn như những thiếu nữ tuổi xuân thì. Các bậc trưởng thượng như G.S. Dương Ngọc Sum, NV Nguyễn Quang, NV Việt Hải lần lượt gửi đến nữ sĩ những lời chúc đầy ý nghĩa. Một cách đặc biệt và bất ngờ, GS. Quyên Di đã đọc bài thơ của NV Kiều My, như những lời ca tụng và cầu chúc tốt đẹp nhất mà KM dành cho nữ sĩ Dương Hồng Anh và Lê Trọng Nguyễn Nga trong một ngày đáng ghi nhớ.
TUỔI VÀNG
Dâng đời bao ý thơ huyền dịu
Theo gió thoảng…ru hồn thi nhân
Thời gian sương rơi trên mái tóc
Tuổi vàng tô thắm mấy cung tơ
Ngây ngất hồn thơ vương nắng úa
Chiều về hoa khép nhẹ bờ mi
Lặng nghe giòng đời hồn thổn thức
Mênh mang nét đẹp… tuổi hoàng hôn
*****
Hồn lạc về đâu? Thi nhân hỡi!
Vần thơ mềm như khúc nhạc êm
Nhạc và thơ như mây với gió
Gió cuốn mây trôi trong nắng vàng
Nắng có phai màu hồn thi sĩ?
hay…
Nắng vẫn lung linh cùng gió mây…
Việt Hải, California June 2022
-
ĐÔI DÒNG TƯỜNG THUẬT VỀ BUỔI RMS CỦA NS DƯƠNG HỒNG ANH & TS LÊ NGUYỄN NGA
Nhà thơ Lê Nguyễn Nga & Nữ Sĩ Dương Hồng Anh Giáo Sư Quyên Di và Nhóm Văn Thi Đàn Thời Đại Từ trái sang phải: Hàng ngồi: NV Nguyễn Thị Mắt Nâu, NT Lê Nguyễn Nga, NS Dương Hồng Anh, Bà Thành Nguyễn (Con dâu của NS Hồng Anh)
Hàng đứng: Mạnh Bổng, Mộng Thủy, Lâm Dung, Lệ Hoa, Khánh Lan, Minh Thư (Con gái của NS Lê Trọng Nguyễn & NT Lê Nguyễn Nga)Buổi ra mắt sách đã viên mãn thành công trong khung cảnh nêu cao tinh thần yêu thi ca qua hai tác phẩm thơ, Màu Thời Gian và Lật Trang Sách Cũ. Buổi họp mặt thi ca được diễn ra trong không khí thân mật nhưng không kém phần long trọng. Ba diễn giả của Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian gồm ba nhà văn Quyên Di, Khánh Lan và Mộng Thủy. Chương trình văn nghệ do Liên Nhóm NVNT & TTG đảm nhiệm với những nhạc phẩm nổi tiếng của các nhạc sĩ: Dương Thiệu Tước, Lê Trọng Nguyễn và Lê Nguyễn Nga.
Ban văn nghệ Tiếng Thời Gian Từ trái sang phải: Khánh Lan, NT Lam Triều,
Bà Jacqueline Nguyễn Văn Bông, NT Nguyễn Thị Việt NamTừ trái sang phải: Vương Đức Hậu, Khánh Lan, Ngọc Quỳnh, Trần Thạch,
Lâm Dung, Ái Liên, Kiều My, Thụy Lan, Mộng Thủy, NAG Lê HùngThành phần khách tham dự buổi ra mắt hai tập thơ đa số là khách văn học nên khi các diễn giả thuyết trình căn phòng hội chìm trong yên lặng, khiến không khí trở nên trang trọng và sự kín nể đối với hai vị Nữ sĩ. Mặc dù ngày 26 tháng 06 có đến 4 buổi hội họp văn học ở 4 nơi khách nhau, nhưng số khách tham dự buổi ra mắt 2 tập thơ đã vượt qua con số 80 người và số sách đã được sự ủng hộ nhiệt tình của các độc giả yêu thơ và bán gần hết. Thật là “Giới hàn lâm tao nhân mặc khách chiếu cố…”
Hai nhà thơ cắt bánh mừng ngày Ra Mắt hai tập thơ
Mầu Thời Gian & Lật Trang Sách CũLiên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian xin cám ơn quý vị văn nghệ sĩ, quý nhiếp ảnh gia, quý phóng viên ký giả, quý đồng hương thân thương, Bác Sĩ Vương Đức Hậu, Nhà văn Nguyễn Thị Mắt Nâu, đăc biệt quý thân hữu thuộc các nhóm Hoàng Hạc Phạm Gia Cổn, Nhóm Văn Nghệ Dân Tộc Lạc Hồng, Nhóm Văn Thi Đàn Thời Đại, và Văn Bút Tây Nam Hoa Kỳ đã đến chung vui cùng chúng tôi. Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian gởi lời cám ơn chân tình đến Nhiếp Ảnh Gia: Lê Hùng, ông là người đã chụp cho Liên Nhóm những tấm ảnh đẹp và có giá trị trong ngày RMS.
Liên Nhóm NVNT & TTG
California June 26, 2022MỜI VÀO XEM HÌNH ẢNH CỦA BUỔI RMS:
VÀI NHẬN XÉT VỀ THI TẬP “MẦU THỜI GIAN” CỦA NỮ SĨ DƯƠNG HỒNG ANH
VÀ HAI DÒNG NHẠC “DƯƠNG THIỆU TƯỚC,” LÊ TRỌNG NGUYỄN TỪ GIÁO SƯ QUYÊN DIHôm nay là một ngày vui và đẹp, gian phòng chúng ta đang ngồi lại ấm cúng. Từ đâu mà có cái vui, đẹp, ấm cúng này? Theo tôi là do lòng yêu của chúng ta đối với văn chương nghệ thuật và tình cảm của chúng ta đối với anh chị em văn thi hữu. Ai trong chúng ta cũng vui, cũng đẹp trong bầu không khí ấm cúng này.
Ban Tổ Chức giao cho tôi nhiệm vụ giới thiệu thi tập thứ 11 của nữ sĩ Dương Hồng Anh, tựa đề là MẦU THỜI GIAN. Tôi cám ơn nhà văn Khánh Lan, khi nói về tiểu sử nữ sĩ Dương Hồng Anh, đã phần nào điểm qua những thi phẩm trong thi tập này. Những gì nhà văn Khánh Lan trình bày đã làm nhẹ trách nhiệm của tôi rất nhiều.
Nghe ba tiếng “MẦU THỜI GIAN,” thường chúng ta sẽ có cảm giác buồn bã, hay ít ra thì cũng bùi ngùi, luyến tiếc. Màu thời gian thường là màu vàng đậm của chiếc lá cuối thu, héo úa và tàn tạ. Nhưng nhìn vào màu bìa của thi tập, chúng ta đều thấy đó màu màu xanh của lá cây non, rất tươi mát và tràn đầy sức sống. Trong khi đó, nếu xét về niên tuế thì nữ sĩ Dương Hồng Anh năm nay đã hơn chín mươi. Điều này nói lên rằng, với nữ sĩ, thời gian không có ảnh hưởng gì. Lúc nào nữ sĩ cũng tươi trẻ. Đúng là:
“Chín mươi đâu phải là già,
Tám mươi thì mới chỉ là thanh xuân.”Theo tiêu chuẩn ấy thì tôi mới chỉ là một chú “nhi đồng đá dế.” Nhi đồng mà dám nói những gì về một thiếu nữ tuổi thanh xuân thì quả là táo bạo. Nhưng vì nhiệm vụ, tôi cứ nói. Mong “thiếu nữ thanh xuân” tha thứ cho tôi.
Cũng trên bìa thi tập, chúng ta thấy ba chữ “MẦU THỜI GIAN” chứ không phải là “MÀU THỜI GIAN.” Điều này cho tôi biết đích xác tác giả là người miền Bắc chứ không phải miền Nam. Trong cách phát âm, người miền Nam ưa âm A mà người miền Bắc chuộng âm Ớ (viết là Â.) Người Nam phát âm là MÀU còn người Bắc phát âm là MẦU. Đây không phải là trường hợp đơn lẻ. Người Nam phát âm là màu sắc, trình bày, số bảy mà người Bắc phát âm là mầu sắc, trình bầy, số bẩy… Như thế, người Bắc đội nón cho chữ, còn người Nam lột nón của chữ đi. Ấy thế mà là có trường hợp ngược lại: người Bắc lột nón ông giáo, gọi là ÔNG THÀY và người Nam lại trịnh trọng đội nón cho ông giáo, gọi là ÔNG THẦY. Giáo sư Dương Ngọc Sum người miền Nam, chúng ta gọi là THẦY Dương Ngọc Sum. Chớ phải người Bắc gọi ông, sẽ gọi là THÀY Dương Ngọc Sum.
Quả nhiên, nữ sĩ Dương Hồng Anh được sinh ra tại Hà Nội, là cháu nội trực hệ của cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, tỉnh Hà Đông; thân phụ là cụ Dương Tự Tám, hiệu trưởng trường tiểu học Nhật Tiến, Hà Nội, trước năm 1945. Tôi nhắc đến điều này vì trong thi tập MẦU THỜI GIAN, nữ sĩ có những bài thơ nặng tình với Hà Nội mà lát nữa chúng ta có dịp bàn đến.
Thi tập gồm 102 bài thơ. Hãy nói trước về bài thơ MẦU THỜI GIAN, tên được chọn làm tựa đề của thi tập. Bài thơ gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Khổ đầu, tác giả gieo vần theo lối gián cách, câu 1 vần với câu 3, câu 2 vần với câu 4. Này nhé:
Thời gian lờ lững trôi vô tận
Vui buồn thế sự nắng mưa rơi
Còn đây một mảnh tình non nước
Xin gửi vào thơ giấc mộng đời.Nhưng ba khổ sau, tác giả lại gieo vần theo lối ba vần bằng, lối gieo vần tựa như trong thể thơ Đường luật cổ kính:
Thơ theo ngày tháng vẫn Đi – Về
Những chiều những sớm những đêm khuya
Bao nhiêu thi tứ theo nhau bước
Phòng vắng canh dài viết mải mê.Tôi vẫn làm thơ dưới nắng chiều
Mây ngàn gió núi dệt thương yêu
Câu thơ nho nhỏ say hồn mộng
Ký ức vàng son gợi nhớ nhiều.Mái tóc sương pha đã mấy mùa
Ngày dư còn lại chút hương xưa
Mầu thời gian trải dài tâm sự
Vạt nắng hoàng hôn, gió nhẹ đưa.Sao lại như thế? Tôi có cảm tưởng rằng ban đầu tác giả nhìn dòng thời gian dù có liên tục trôi, nhưng thật ra có nhiều đoạn đời có thể tách rời ra được. Nhưng một khi đã đạt được cái lẽ đời, tác giả nối tất cả các đoạn đời ấy lại thành một dòng trôi liên tục: dòng đời.
Thật khéo!
Tác giả cũng làm thơ lục bát, lối thơ đậm hồn tính Việt Nam. Ai cũng có thể làm đôi dòng lục bát, vì dễ. Nhưng cái gì càng dễ mà đạt đến cái vi diệu của nó lại càng khó. Lục bát mà làm không khéo sẽ thành bài vè. Hãy thưởng thức lục bát của nữ sĩ Dương Hồng Anh qua bài thơ NẮNG TÀ:
Nắng tà đổ bóng xiêu xiêu
Nắng tà vẫn sáng đường chiều gió bay
Tóc sương nhuộm trắng trời mây
Đếm thời gian trải bao ngày nắng mưa
Nhìn về nẻo cũ thềm xưa
Sợi dây dĩ vãng níu bờ vai thon
Chiều nao nhón gót chân son
Sóng lòng hay sóng biển đông dạt dào
Vườn đời đẹp mãi muôn sao
Ngàn phương gió lộng dâng cao suối hồn
Nắng còn vui đón hoàng hôn
Con tầm nhả kén vẫn còn se tơ
Nắng ơi! dù đã xế tà
Bốn phương mây nước bao la ngập trời
Thơ ai dệt nắng thêm tươi
Tâm tư lắng đọng nụ cười thời gian
Ước mơ trải dưới nắng vàng
Có người thơ vẫn lang thang Đi – Về.Bài thơ viết về nắng. Nhưng nắng gợi cho tác giả nghĩ đến những nhịp tương phản hay tương giao của dòng đời: nắng-mưa, sóng lòng-sóng biển, mây-nước, Đi-Về. Đặc biệt là cặp tương phản Đi-Về được tác giả nhắc đến trong nhiều bài thơ. Trên đường đời, ta Đi đâu, ta Về đâu? Đó là một câu hỏi lớn của kiếp nhân sinh.
Tôi thích nhất đoạn thơ này:
Sợi dây dĩ vãng níu bờ vai thon
Chiều nao nhón gót chân son
Sóng lòng hay sóng biển đông dạt dào
Vườn đời đẹp mãi muôn sao
Ngàn phương gió lộng dâng cao suối hồn.Đoạn thơ tả vẻ đẹp ngoại diện của tuổi thanh xuân: bờ vai thon, gót chân son mà lại nói lên được cả nội tâm dạt dào của nhà thơ: sóng lòng, suối hồn.
Hãy thử điểm qua các động từ trong bài thơ: đổ (bóng,) nhuộm, trải, nhìn, níu, nhón (gót,) lộng. Những động từ này có gợi gì trong tâm hồn ta trong môt buổi chiều nắng tà không?
Ơi, sao mà đẹp và sâu lắng!
Tôi, một người Hà Nội, xin được phép nhắc đến một bài thơ nữa trong thi tập MẦU THỜI GIAN của nữ sĩ Dương Hồng Anh: bài thơ NHỚ VỀ HÀ NỘI, tác giả viết để thương tặng cô em gái là nữ sĩ Dương Tuyết Lan, ở Hà Nội. Tấm lòng thi nhân rất dạt dào tình cảm, trong đó có tình anh chị em trong cùng một gia đình. Tình cảm này cũng nồng nàn, sâu đậm chẳng kém gì tình yêu nam nữ, lứa đôi, bằng hữu hay tình yêu đối với đất nước, quê hương, dân tộc.
Hai chị em, chị ở đất Cam-ly (California) Mỹ quốc; em ở Hà Nội, miền đất nghìn năm văn vật. Một ngày kia chị nhận được thư em từ Hà Nội gửi sang. Đọc thư mà lòng chị bồi hồi, nước mắt chị rưng rưng. Thế rồi chị viết cho em những câu thơ chứa chan tình cảm:
Bên hiên ngồi đọc thơ Hà Nội
Kỷ niệm năm xưa bỗng sáng ngời
Nhớ mãi bao nhiêu hình ảnh đẹp
Một thời xuân thắm tuổi hai mươi.Tay run run mở lòng xao xuyến
Đọc từng nét chữ của em tôi
Ấp ủ những vần thơ gợi nhớ
Chập chờn mây nước mộng ngàn khơi.Dâu bể thời gian đã đổi rời
Qua bao năm tháng nắng mưa rơi
Những vần tâm sự lăn trên giấy
Vẫn khắc trong tim một góc trời.Ta đã xa nhau từ độ ấy
Kinh thành Hà Nội một chiều thu
Chiều thu nhạt nắng hoen mầu áo
Tay nắm tay nhau phút giã từ.Em ơi! ngày tháng trôi mau quá
Đếm bước thời gian tóc điểm sương
Vẫn hẹn ngày về vui tổ ấm
Đường chiều êm ả dệt yêu thương.Mơ về dĩ vãng, mơ sông núi
Tìm dấu chân xưa luống ngậm ngùi
Em nhỉ! Bao giờ ta gặp lại
Câu thơ xướng họa những vần vui.Sông núi đôi bờ xa cách quá
Buồn len song cửa nhuốm cô liêu
Lắng nghe hơi thở ngàn hoa lá
Dào dạt hương xưa gợi nhớ nhiều.Nhìn thu lãng đãng trên đường vắng
Nhắc lại bao nhiêu chuyện chúng mình
Áo lụa Hà Đông đi dạo phố
Chiều thu dệt mộng nắng vàng xinh.Hàng liễu rung rinh chiều lá đổ
Bên hồ Hoàn Kiếm đẹp như thơ
Khăn voan hồng thả trên vai áo
Êm ả hoàng hôn thỏa ước mơ.Dâu bể thời gian đã đổi rời
Qua bao năm tháng nắng mưa rơi
Những vần tâm sự lăn trên giấy
Vẫn khắc trong tim một góc trời.Tác giả gieo vần theo lối gián cách, nhưng thỉnh thoảng chẹn vào một khổ gieo ba vần bằng, thí dụ:
Dâu bể thời gian đã đổi rời
Qua bao năm tháng nắng mưa rơi
Những vần tâm sự lăn trên giấy
Vẫn khắc trong tim một góc trời.Và nhất là khổ thơ cuối:
Dâu bể thời gian đã đổi rời
Qua bao năm tháng nắng mưa rơi
Những vần tâm sự lăn trên giấy
Vẫn khắc trong tim một góc trời.Không biết vô tình hay cố ý (mà tôi tin là cố ý,) tác giả đã diễn tả tình trạng thực tế là sự ngăn cách về không gian của hai chị em, nhưng về tình cảm thì hai tâm hồn ấy không bao giờ ngăn cách.
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp của đất và người Hà Nội, dù đó là hình ảnh vui hay buồn: kinh thành Hà Nội một chiều thu, chiều thu nhạt nắng, áo lụa Hà Đông đi dạo phố, Hàng liễu rung rinh chiều lá đổ bên hồ Hoàn Kiếm, khăn voan hồng thả trên vai áo… Hỡi những người Hà Nội xa xứ, như nhà thơ Hà Phương đang có mặt ở đây, một ngày sương mù khói toả, một chiều nắng ối xây thành, hồn viễn du có thấy nhớ thương da diết miền cố lý khi đọc những câu thơ này? Người Hà Nội “chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” dù lưu lạc đến tận chân trời góc biển vẫn giữ ở một chỗ trang trọng nhất, thâm sâu nhất trong trái tim mình nỗi niềm thương nhớ đất Thăng Long.
Trong bài thơ có nhiều chữ rất đắt, nghĩa là hay quá, khó có chữ nào khác thay thế được, như hai động từ “lăn” và “khắc”:
Những vần tâm sự lăn trên giấy
Vẫn khắc trong tim một góc trời.Đã “lăn” tức là chuyển động trên một đường dài hay một mặt rộng thì không thể “khắc” tức là đục sâu xuống những đường nét ở một chỗ. Ấy thế mà dòng tâm sự là những vần thơ lăn trên giấy nhưng lại khắc sâu vào tâm hồn mình. Khắc gì? Khắc một góc trời Hà Nội.
Ôi, tuyệt!
Tôi táo bạo đưa ra mấy nhận xét thô thiển. Xin “bà chị” đừng chê, trách “em.” Tôi gọi nữ sĩ Dương Hồng Anh là “bà chị” vì bà thông gia với ông anh kết nghĩa của tôi là nhà thơ Huy Trâm. Học Đức, con gái ông Huy Trâm, là con dâu nữ sĩ Dương Anh Anh, cùng với cô em gái Học Đường đang có mặt ở đây trong thành phần tiếp tân. Mấy cô này gọi tôi bằng chú. Vậy, nữ sĩ Dương Hồng Anh là bà chị dâu của tôi vậy.
Tôi tạm kết thúc phần giới thiệu thi phẩm MẦU THỜI GIAN của nữ sĩ Dương Hồng Anh để chuyển qua phần giới thiệu một vài nhạc phẩm của hai nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn. Tại sao lại có phần giới thiệu này. Thưa, vì hôm nay chúng ta giới thiệu hai tập sách, MẦU THỜI GIAN của nữ sĩ Dương Hồng Anh và LẬT TRANG SÁCH CŨ của nhà thơ Lê Nguyễn Nga. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là anh họ của nữ sĩ Dương Hồng Anh và nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là phu quân thi sĩ Lê Nguyễn Nga. Hôm nay chúng ta trình bày và thưởng thức những ca khúc của hai nhạc sĩ này, tưởng cũng nên biết một chút về hai vị như một cách tri ân.
Nếu đã táo bạo giới thiệu thi tập MẦU THỜI GIAN thì khi nhận lời nhận định về vài nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn, phải nói là tôi liều lĩnh. Chung quy vì vì lời xúi dại của nhà văn Việt Hải, ổng xúi tôi nói. Tôi nhận lời vì cả nể. Nhận lời rồi mới biết là mình quá liều lĩnh. Cái tính cả nể này nguy hại vô cùng. May, mẹ tôi sinh tôi ra, tôi là con trai, chứ nếu là con gái thì đời tôi không biết đã “hoảng chưa” bao nhiêu lần rồi! Nhưng đã nhận lời thì phải nói thôi, biết làm sao bây giờ. Thật, không cái dại nào bằng cái dại này.
Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước Tôi nói gì về nhạc phẩm “Chiều,” thơ Hồ Dzếnh, nhạc Dương Thiệu Tước nhỉ? Bài thơ gồm những câu ngắn, mỗi câu 5 chữ:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chết trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Mây chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây.
Tôi “mù” nhạc, nhưng có cảm tưởng rằng những câu ngắn này khó phổ thành nhạc, không như những câu lục bát, chẳng hạn lục bát trong bài “Vần Thơ Sầu Rụng” của Lưu Trọng Lư:
Vừng trăng từ độ lên ngôi,
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ…
Năm năm tiếng lụa xe đều…
Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây.
Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay,
Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông.
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng,
Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh.
Phạm Duy phổ nhạc bài thơ này rất khéo, rất tự nhiên, nhất là những chỗ láy của “độ,” “ngồi,” “nhẹ,” “đầy,” “dòng” … nghe mà mường tượng nhìn thấy khung dệt quay đều, quay đều.
Nhưng đây là thơ năm chữ! Thế mà Dương Thiệu Tước phổ thành một bản nhạc rất du dương. Ông viết bản nhạc theo điệu tango với cung “rê trưởng.” Thường cung “rê trưởng” hợp với những bài hát vui tươi, nhịp nhàng. Viết “rê trưởng” cho điệu tango quả là thích hợp. Nhưng cái khéo của Dương Thiệu Tước là khi ta hát hay ta nghe bài “Chiều,” vẫn thấy có cái gì bâng khuâng, bùi ngùi trong cung điệu nhịp nhàng ấy. Mình cứ hát đi, hát với giọng vịt đực của tôi cũng được, sẽ cảm nhận được điều ấy.
Cho đến nhạc phẩm “Đêm Tàn Bến Ngự” thì phải gọi là “tuyệt phẩm.” Nên nhớ, Dương Thiệu Tước là “người Hà Nội chúng tôi” nhé. Thế mà công tử Hà Thành viết về đêm trên bên Ngự, đố nghệ sĩ đất thần kinh nào xô lệch được nó.
Chung quy chỉ vì thứ nhất, công tử Hà Thành mê người đẹp đất thần kinh Minh Trang. Minh Trang là nữ danh ca một thời của miền Nam Việt Nam. Thời chúng tôi, thập niên 60, có một câu hát được loan truyền, nhại theo cung điệu bài hát Gạo Trắng Trăng Thanh của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, trong đó nêu đủ nghệ danh của những nhạc sĩ, ca sĩ thời danh thuở ấy:
Ông Canh Thân, ông Phạm Duy, cô Thuý Nga với ông Hoàng Thi Thơ,
Cô MINH TRANG, bạn Mạnh Phát với cô Minh Diệu… Mê người đẹp xứ Huế nên Dương Thiệu Tước viết “Đêm Tàn Bến Ngự” với nỗi niềm say mê không kém.Thứ hai, Dương Thiệu Tước nắm vững hổn nhạc Việt. Ông đã từng phát biểu: “Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền.”
Nhạc Việt là nhạc ngũ cung, tương đương với nhạc bình ca (Gregorian) La-tinh, âm vực trung bình. Tuy nhiên, xét về độ luyến láy thì nhạc ngũ cung giàu hơn. Lại nữa, Đêm Tàn Bến Ngự mang chút âm hưởng điệu Nam Bình, một thể loại của nhạc xứ Huế, buồn man mác và sâu lắng.
Tôi không dám nói thêm, sợ các nhạc sĩ, nhất là các nhạc sĩ có mặt hôm nay cười và mắng cho.
Nhạc Sĩ Lê Trọng Nguyễn Riêng về nhạc Lê Trọng Nguyễn, tôi chỉ xin đưa ra một vài hình ảnh trong nhạc phẩm Nắng Chiều, một nhạc phẩm không những nổi tiếng ở Việt Nam mà còn rất được yêu thích ờ nhiều nước khác, như Nhật Bản, Đài Loan, Hong Kong. Tôi có dịp đọc lời Nhật, lời Hoa của nhạc khúc này, không thấy hình ảnh trong đó đẹp bằng những hình ảnh trong nguyên bản tiếng Việt. Vì là “Nắng Chiều,” xin nói về nắng. Có 5 thứ nắng được diễn tả trong bài hát: nắng lưa thưa, nắng vương thềm, sân nắng, nắng vương đồi, nắng ngừng trôi. Ồ, nắng mà “lưa thưa.” Tại sao nắng “lưa thưa” được? Vì có “lá hoa về chiều” lưa thưa nên nắng mới thưa thưa theo được. (Cũng như phụ nữ đẹp vì có nam giới chúng tôi khiến cho phụ nữ thích làm đẹp.)
Lại còn “nắng vương.” Vương là bám nhẹ, loang nhẹ, rơi nhẹ vào. Hình ảnh “nắng vương thềm” đẹp và thơ mộng quá. Thềm ở bên ngoài, nhưng là nơi sát với nhà, chỉ một bước nữa thôi là bước vào trong nhà. Tâm hồn cô thiếu nữ là ngôi nhà kín đáo và thân mật. Chàng trai yêu cô gái, nhưng còn đứng đợi bên thềm chờ cô mở cửa cho vào nhà. Thềm nhà xuất hiện trong nhiều bài thơ hay nhạc phẩm. Chúng ta vẫn thường hát: “Hôm qua đến tìm em, anh thấy hoa xuân rơi đầy trước thềm.” (Đẹp Giấc Mơ Hoa, Hoàng Trọng) … Cho đến “nắng vương đồi” thì là một hình ảnh quá đẹp, và thật gợi cảm đối với những ai hơi giàu tưởng tượng và có óc liên tưởng.
“Nắng ngừng trôi”! Cái này mới thật là lạ. Nắng trôi được vì có sự chuyển động trong không gian lúc chiều về. Đó như là một định luật; mặt trời mọc, mặt trời lặn nên có bình minh và hoàng hôn. Thế mà bây giờ “nắng ngừng trôi,” nắng dừng lại, không trôi nữa vì nắng “nhớ em dịu hiền.” Đã đẹp chưa, đã thơ chưa nào? Chịu! Tả nắng như thế thì khó có nhà thơ, nhà văn nào tả khéo hơn!
Thôi, tôi xin phép chấm dứt bài nói chuyện thô thiển ở đây, vì sợ làm rác tai người nghe vì những suy nghĩ lẩm cẩm. Xin vui lòng bỏ qua những gì tôi nói “lảm nhảm” về những tuyệt phẩm nghệ thuật. Nói nữa, e rằng tôi phạm tội làm kém đi, xấu đi những gì quá hay, quá đẹp.
QUYÊN DI
California, July 2022
GIÁO SƯ QUYÊN DI BUỔI RA MẮT HAI TẬP THƠ MÀU THỜI GIAN của nữ sĩ DƯƠNG HỒNG ANH và LẬT TRANG SÁCH CŨ của nhà thơ LÊ TRỌNG NGUYỄN NGA
TẠP GHI CỦA NHÀ VĂN KIỀU MY
Dưới nắng vàng rực rỡ của ngày Chủ nhật trong thành phố Westminster thuộc quận Orange, California, Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian đã tổ chức một buổi ra mắt hai tập thơ của nhị vị thi sĩ DƯƠNG HỒNG ANH và LÊ TRỌNG NGUYỄN NGA, có thể nói đã đạt được thành công tốt đẹp.
Những cành lá màu xanh của mạ non đong đưa được phô trương ngoài trang bìa tập thơ MÀU THỜI GIAN của nữ sĩ Dương Hồng Anh, gợi lên trong ta nhiều cảm nghĩ. Tuy bà đã 92 tuổi đời…nhưng cũng tạo cho ta cảm tưởng bà vẫn luôn mang một tâm hồn thi sĩ, trẻ trung yêu đời và tinh tinh thần lạc quan hiếm có của một người từng trải qua nhiều cảnh đời. Trong những áng thơ của nữ sĩ chan chứa đầy tình người, tình gia đình và chắc hẳnn không thiếu tình bạn hữu mà bà đã thể hiện qua bài thơ “ Bạn Bè Của Tôi”. Bài thơ này đã được ca nhạc sĩ khả ái Lâm Dung phổ nhạc và trở thành NVNT&TTG hành khúc…đã nói lên tấm lòng nhân hậu của nữ sĩ Dương Hồng Anh đáng kính này.
Nhìn qua bàn bên cạnh, khung cảnh một rừng thu mang đầy những chiếc lá đủ màu sắc trên trang bìa tập thơ LẬT TRANG SÁCH CŨ của thi sĩ LÊ TRỌNG NGUYỄN NGA…Mùa thu rất đẹp nhưng mang những nét buồn lãng mạn với những chiếc lá úa màu, như mảnh đời của kiếp người trãi qua cuộc sống thăng trầm, có lẽ cũng là chính cuộc đời của thi sĩ. Trong thơ mang đậm tình quê hương, lòng yêu nước đậm đà và đặc biệt là tình yêu chung thủy dành cho người chồng quá cố qua bài thơ “Nhớ Anh Mùa Phượng Tím” khiến chúng ta phải kính phục…Bài thơ này cũng được giọng ngâm phong phú của Ngọc Quỳnh diễn đạt xuất sắc…ngân nga theo cùng với những kỷ niệm buồn vui, những thương tiếc nhớ nhung người bạn đời mà luôn in sâu trong ký ức của thi sĩ.
Quan khách lần lượt đến khá đông, mọi người thật vui vẻ và nhâm nhi thức ăn nhẹ được ân cần khoản đãi. Có người phát biểu rằng: “ Không khí ở đây thật ấm cúng và thân thiện!” Thật không sai! Vì nhà văn Trần Việt Hải, là trưởng nhóm của NVNT & TTG, với chủ trương mọi thành viên thương yêu nhau, giúp đỡ nhau trong tình văn học như một gia đình. Mọi người trong nhóm luôn ý thức và tuân giữ những điều tốt đẹp hầu duy trì NVNT & TTG được lâu bền để bảo tồn văn hóa Việt Nam nơi hải ngoại.
Giờ khai mạc chương trình bắt đầu! Cô MC Mộng Thủy bước lên sân khấu chào mừng quý quan khách hiện diện trong buổi ra mắt hai tập thơ hôm nay gồm có: quý giáo sư: Dương Ngọc Sum, Trần Huy Bích, Quyên Di…Các nhà văn: Nguyễn Quang, Việt Hải, Khánh Lan, Kiều My v.v…Những nhà thơ: Lê thị Việt Nam, Hà Phương, Mắt Nâu v.v… và rất nhiều thân hữu đã đến như một sự khích lệ cho những nhà văn, nhà thơ hoạt động trong lãnh vực văn học, hầu bảo tồn và lưu truyền nền văn hóa Việt cho những thế hệ mai sau.
Từ trái sang phải: Ngọc Quỳnh, Thụy Lan, Lệ Hoa, Ái Liên, Lâm Dung, Khánh Lan, Minh Thư, Mộng Thủy. Nhạc quốc ca Việt Nam Cộng Hòa trổi lên rất hùng hồn, mọi người đứng thật trang nghiêm, kính cẩn chào quốc kỳ. Các ca sĩ của TTG trong trang phục áo dài truyền thống cùng hát vang bài quốc ca của hồn dân tộc. Trong khoảnh khắc, người dân Việt dù ở nơi nào trên địa cầu này vẫn luôn tưởng nhớ về quê hương thân yêu đã xa cách ngàn trùng mà không khỏi ngậm ngùi. Bài quốc ca Hoa Kỳ được cất lên sau đó qua tiếng hát của ca sĩ Minh Thư… Hoa Kỳ là quê hương thứ hai mà đã cưu mang người dân tị nạn Cộng sản của chúng ta. Vì thế mọi người hết sức kính cẩn và tri ân lá quốc kỳ với bàn tay phải úp lên ngực thật chân thành. Tiếp đến là phút mặc niệm…Để tưởng nhớ đến những anh hùng Việt Nam cũng như Hoa Kỳ đã hy sinh mạng sống mình cho TỰ DO…vô cùng cảm động! Trong giây phút linh thiêng, tất cả mọi người trong khán phòng im lặng cúi đầu với những lời nguyện cầu trong tâm tư.
Không khí trở nên sinh động vui tươi khi màn trình diễn của sáu ca sĩ: Thụy Lan, Lệ Hoa, Lâm Dung, Ái Liên, Ngọc Quỳnh và Minh Thư họp ca bản Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn thật đặc sắc. Có thể nói ca khúc Nắng Chiều là đứa con tinh thần mà nhạc sĩ đắc ý nhất đã tạo nên tên tuổi của tác giả và được hầu hết giới yêu nhạc yêu thích và đón nhận nồng nhiệt.
Phần 1/ Giờ văn học:
Giờ văn học được bắt đầu với nhà văn Khánh Lan nói về tiểu sử của nữ sĩ Dương Hồng Anh. Hôm nay là ngày song hỷ của nữ sĩ, vừa ra mắt tập thơ MÀU THỜI GIAN đồng thời mừng sinh nhật thứ 92 của bà. Bà vốn sinh trưởng trong dòng tộc quan Thượng Thư – Thi sĩ Dương Khuê, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, và đương thời là khoa học gia Dương Nguyệt Ánh…Chịu ảnh hưởng gia tộc thơ văn, vì thế chúng ta không làm lạ khi đến tuổi này bà vẫn còn hăng say sáng tác thành những vần thơ thật đẹp xuất phát từ chiều sâu trong tâm hồn, với mong mỏi được cống hiến cho những ai yêu thơ văn được thưởng lãm. Được biết, bà làm thơ từ khi 16 tuổi trước khi lập gia đình. Sau khi thành hôn với thẩm phán Nguyễn Sĩ Hiệp, bà tạm ngưng làm thơ để dồn mọi nổ lực chăm sóc cho phu quân và các con. Sau khi người bạn đời quy tiên, bà rất buồn và trở về con đường thơ văn cho đến hôm nay như gửi gấm nỗi niềm qua văn chương thi phú.
Giáo sư Quyên Di vốn là G.S trường trung học Nguyễn Bá Tòng nổi tiếng trước 1975 ở Sài gòn, ông luôn thể hiện là một người thầy lịch lãm trong văn chương và phong cách. Từ những kiến thức sâu rộng, ông cho chúng ta biết thêm về hai cố nhạc sĩ nổi tiếng của nền âm nhạc Việt Nam là Dương Thiệu Tước (DTT) và Lê Trọng Nguyễn (LTN). Cả hai nhạc sĩ trên đều có liên hệ gia đình với hai thi sĩ, là hai ngôi sao sáng hôm nay. Nói về sự nghiệp âm nhạc, hai nhạc sĩ DTT và LTN đã cống hiến cho chúng ta những ca khúc thật trữ tình, thật tuyệt vời…mà đã đi sâu vào lòng người và sẽ còn sống mãi với thời gian. Những ca khúc đã tạo nên tên tuổi cho nhạc sĩ Dương Thiệu Tước như: Ngọc Lan, Bóng Chiều Xưa, Đêm Tàn Bến Ngự, Chiều v.v…Bên cạnh đó, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn là tác giả của những bản nhạc nổi tiếng như: Nắng Chiều, Lá Rơi Bên Thềm, Cát Biển, Chiều Bên Giáo Đường v.v… Với những dòng nhạc tuyệt vời này sẽ lần lượt được các ca sĩ của TTG trình diễn trong chương trình văn nghệ sau giờ văn học; như những lời tri ân dành cho nhị vị nhạc sĩ tài ba đã đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam thêm phong phú.
Vị thi sĩ mà chúng tôi muốn nói đến là Lê Trọng Nguyễn Nga, là tác giả của tập thơ LẬT TRANG SÁCH CŨ mà cũng là phu nhân của cố nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và là mẹ của bốn người con. MC Mộng Thủy cho biết thêm: bà là cựu học sinh trường Trưng Vương. Sau đó, bà làm việc cho Hàng Không Việt Nam rồi lập gia đình với nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn. Khi sang Hoa Kỳ, bà học trường Cal State Los Angeles và tốt nghiệp về kế toán. Sau cùng trước khi về hưu, bà là cán sự xả hội tại thành phố Los Angeles trong một thời gian dài.
Sau giờ văn học, mọi người có vẻ lao xao và vui hẵn lên với hoa hồng tươi và bánh sinh nhật được bày trên chiếc bàn giữa hội trường. Nhân dịp này mọi người tề tựu chúc mừng sinh nhật thứ 92 của nữ sĩ Dương Hồng Anh chung quanh chiếc bánh giữa những hoa hồng vàng, hồng đỏ tươi thắm tròn lẵn như những thiếu nữ tuổi xuân thì. Các bậc trưởng thượng như G.S. Dương Ngọc Sum, NV Nguyễn Quang, NV Việt Hải lần lượt gửi đến nữ sĩ những lời chúc đầy ý nghĩa. Một cách đặc biệt và bất ngờ, GS. Quyên Di đã đọc bài thơ của NV Kiều My (KM), như những lời ca tụng và cầu chúc tốt đẹp nhất mà KM dành cho nữ sĩ Dương Hồng Anh và Lê Trọng Nguyễn Nga trong một ngày đáng ghi nhớ.
TUỔI VÀNG
Dâng đời bao ý thơ huyền dịu
Theo gió thoảng…ru hồn thi nhân
Thời gian sương rơi trên mái tóc
Tuổi vàng tô thắm mấy cung tơ
Ngây ngất hồn thơ vương nắng úa
Chiều về hoa khép nhẹ bờ mi
Lặng nghe giòng đời hồn thổn thức
Mênh mang nét đẹp… tuổi hoàng hôn
*****
Hồn lạc về đâu? Thi nhân hỡi!
Vần thơ mềm như khúc nhạc êm
Nhạc và thơ như mây với gió
Gió cuốn mây trôi trong nắng vàng
Nắng có phai màu hồn thi sĩ?
Hay…
Nắng vẫn lung linh cùng gió mây…
Qua bài thơ trên, NV Kiều My đã ca tụng tuổi hoàng hôn của hai vị thi sĩ như thời gian của “tuổi vàng”; một lứa tuổi hạnh phúc bên con cháu đầy đàn, tận hưởng cuộc sống an nhàn thảnh thơi, không còn vật vả với mưu sinh nữa. Hơn thế nữa, hai vị còn hăng say sáng tác những vần thơ đầy tình người hầu làm đẹp cho đời, và cũng để đóng góp những bông hoa cho vườn văn chương nghệ thuật thêm phong phú. Tuổi vàng của hai vị…thật đẹp! Thật cao quý!
Phần 2/ Văn nghệ:
TAM CA TIẾNG THỜI GIAN: Lâm Dung, Ngọc Quỳnh, Ái Liên Chủ đề trong chương trình văn nghệ hôm nay, các ca sĩ trình diễn những nhạc phẩm của Dương hiệu Tước và Lê Trọng Nguyễn như:
Dương Thiệu Tước: Đêm Tàn Bến Ngự – Trần Thạch
Ngọc Lan – Thụy Lan
Chiều – Lưu Mạnh Bổng
Bóng Chiều Xưa – Kiều My
Thuyền Mơ – Lâm Dung & Ái Liên
Lê Trọng Nguyễn: Nắng Chiều – Ban họp ca
Cát Biển – Ban tam ca: Thụy Lan, Lệ Hoa, Minh Thư
Lá Rơi Bên Thềm – Kiều My
Bến Giang Đầu – Lâm Dung
Lệ Hoa, Minh Thư, Thụy Lan Kết thúc chương trình với bản nhạc NVNT & TTG hành khúc “Bạn Bè Của Tôi” trong điệu luân vũ nhẹ nhàng vui tươi, thơ của nữ sĩ Dương Hồng Anh do ca nhạc sĩ Lâm Dung phổ nhạc, đã là ấm áp lòng người trước khi ra về.
Mọi người lưu luyến chia tay nhau trong tình thân ái và hẹn gặp lại một buổi ra mắt sách kế tiếp.
KIỀU MY
California July 4, 2022
NHÀ VÃN KIỀU MY Buổi RMS của 2 TS : Lê Trọng Nguyễn Nga& Dương Hồng Anh , do Nhóm “ NVNT…60 new items · Album by Hung Le
-
Đọc sách mới của nhà văn Lưu Nguyễn Từ Thức.
Tuyển Tập Khảo Luận Văn Học
Nhìn tác phẩm của tác giả Nguyễn Minh Triết, hay nhà văn Lưu Nguyễn Từ Thức mang tựa đề Tuyển Tập Khảo Luận Văn Học, chúng tôi bị lôi cuốn bởi tên quyển sách. Tuyển Tập là một tập hợp các tác phẩm văn học được lựa chọn bởi tác giả biên soạn. Còn 4 chữ Khảo Luận Văn Học hàm nghĩa tác phẩm về việc nghiên cứu văn học, mà nội dung những bài viết xoay quanh phạm vi văn học biên khảo hay tham luận văn học. Khảo Luận Văn Học vốn là nền tảng của thể văn chất chứa cái nhìn mang tính duy bản luận (foundationalism), dựa trên hai tiền đề chính: Thứ nhất, văn học là cái gì đã có sẵn, xuất hiện trước rồi cho ta tham khảo, nên sách dẫn chúng ta thấu hiểu để nhận diện bản chất và những đặc trưng đề tài được trình bày. Ví dụ chương đầu tiên đề cập về “NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HOÁ VIỆT “.
Lưu Nguyễn Từ Thức. diễn giải: “Văn hoá là sự kết tinh của tư tưỏng bằng kinh nghiệm sống thực của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam trải qua hơn 4000 năm mở nước và dựng nước đã có một nền văn hoá thâm sâu với một cơ sở tư tưởng triết học vững chắc nhờ đó mà dân tộc Việt đã vượt qua được mọi cuộc thử thách của lịch sử để trường tồn cho đến ngày nay. Nền văn hoá đó đã được hình thành qua những bước tiến của lịch sử dân tộc cũng như đã được kết tụ và lưu truyền qua huyền sử. Trong giai đoạn khởi nguyên của lịch sử, con người còn chưa có chữ viết nên huyền sử đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ghi lại và lưu truyền sử liệu từ quá khứ xa thẳm cho đến khi có chữ viết. Lịch sử của các dân tộc“… qua 1000 năm đô hộ bởi giặc Tàu, 100 đô hộ bởi giặc Tây, 20 năm nội chiến từng ngày và gần 45 năm ly hương.
Đọc Tuyển Tập Khảo Luận Văn Học, tác giả bàn về những yếu tố của văn học và nghệ thuật như Văn bản và Mỹ học.
Văn bản trong việc khảo luận những đề tài văn học là sản phẩm của những sinh hoạt trong ngôn ngữ dùng để giao tiếp, được diễn đạt bằng hình thức chữ viết. Các đặc điểm của văn bản là có sự thống nhất về chủ đề, các câu văn kết cấu mạch lạc, có trình tự, và văn bản nhằm một mục đích giao tiếp nhất định. Văn bản được sáng tạo bởi một hay nhiều người được gọi là tác giả và người đọc là người tiếp nhận văn bản. Tác giả và người đọc có mối tương tác với nhau. Không có người đọc, văn bản chỉ tồn tại như một vật thể mà thôi…
Tác giả Lưu Nguyễn Từ Thức đề cập về quan niệm Mỹ Học cổ bên Ðông phương, trường hợp của Việt Nam, như về việc đọc để hiểu tác phẩm văn học cũng là việc tìm sự cảm thông giữa những tâm hồn đồng điệu, là việc tìm giao cảm giữa những tâm hồn tri kỷ, tri âm. Ví dụ trong niềm ưu tư đó mà Nguyễn Du khi kết thúc Truyện Kiều đã tự hỏi:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Không biết ba trăm năm sau có ai trong thiên hạ thấu hiểu được tâm sự và cái chí của Nguyễn Du khi đọc Truyện Kiều. Cho nên muốn đọc hiểu văn bản văn học một cách đứng đắn thì phải hiểu rằng mọi yếu tố của văn bản đều có nghĩa, các yếu tố đó
lạikết thành hệ thống, và cái nghĩa có sức thuyết phục nhất là phải phù hợp, không mâu thuẫn với bất cứ yếu tố biểu hiện nào. Mỹ học là bộ môn khoa học có tính lý thuyết về sự nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và trong xã hội. Thuật ngữ này là một phát kiến của triết gia người Đức Alexander Baumgarten, dùng để đặt tên cho tác phẩm Aestheticä (Mỹ học) của ông (1750-1758). Trong quá trình sử dụng và nghiên cứu, định nghĩa từ “mỹ học“, người ta ví mỹ học như cái cây có nhiều cành và luôn luôn phát triển vì mỹ học luôn tồn tại trong xã hội, trong thiên nhiên và nghệ thuật. Người ta đã tranh luận nhiều về phạm vi và sự hữu ích của từ này. Trong thế kỷ 20, từ ngữ này có nghĩa rộng hơn lý thuyết mỹ thuật bởi nó bao hàm cả lý thuyết về cái đẹp cụ thể trong tự nhiên và cái đẹp trừu tượng, ví dụ vẻ đẹp tinh thần hay trí tuệ – tuy nhiên cái đẹp đó phải là đối tượng cho sự nghiên cứu triết học hay khoa học. Những người đi đầu trong ngành Mỹ học: phương Tây có Aristotle, Platon, Hegel, Kant, Mỹ học dân chủ Nga,… Phương Đông có Lão Tử, Khổng Tử,…Sách nói về chủ đề HỌC THUYẾT VĂN CHƯƠNG NỮ QUYỀN. Vì phong trào đòi quyền bình đẳng cho nữ giới hay phong trào nữ quyền là những vận động đòi hỏi bình đẳng cho phụ nữ trong các lãnh vực chánh trị, xã hội, giáo dục, và văn học. Sở dĩ có phong trào nữ quyền là vì từ lâu người phụ nữ trong xã hội thường hay bị xem khinh về phương diện thể lực cũng như tinh thần. Do đó, tại Mỹ sau nhiều năm vận động, một đại hội phụ nữ đã được tổ chức tại Seneca Falls thuộc bang New York vào năm 1848 và một Tuyên ngôn độc lập cho phụ nữ đã ra đời. Phong trào này sau đó đã lan ra mau chóng cùng khắp nước Mỹ rồi vượt đại dương tràn sang Âu châu. Tựu trung thì theo tác giả,
thìphong trào nữ quyền sẽ còn tiếp diễn cho đến bao giờ có một nửa nhân số của nhân loại này thỏa mãn mới thôi, mà ngày đó chắc là còn xa lắm. Như vậy thì các học thuyết văn chương nữ quyền cũng sẽ không thôi phát triển và chắc chắn là mỗi ngày mỗi phong phú và uyên bác hơn.Một chương khác khá độc đáo nói về vai trò của người nữ quyền trong văn học như ĐỌC LẠI THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VỚI CÁI NHÌN NỮ QUYỀN LUẬN.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, (1772–1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu thấm hậu thi ca của nữ sĩ. Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nôm nổi tiếng của văn học Việt Nam thời trung đại, bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ nôm”. Theo sách “Giai nhân dị mặc” của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến 1916, thì bà là một gương độc đáo của nền văn học Việt Nam. Bao nhiêu giấy mực đã nói về bà. Hồ Xuân Hương một nhà thơ dâm tục thấp hèn, một xúc phạm đến phẩm giá người phụ nữ, một thất vọng cho văn chương Việt Nam. Hồ Xuân Hương một nữ sĩ tài ba đã tiên phong và táo bạo làm những bài thơ vừa thanh vừa tục, những bài thơ dám đề cập đến một vấn đề cấm kỵ là tình yêu nhục thể. Bà đi trước nhiều thế hệ về nữ quyền. Theo Lưu Nguyễn Từ Thức, đọc thơ của Hồ Xuân Hương xin hãy đọc như những văn bản thuần túy. Và trong lãnh vực văn bản thuần túy không có vấn đề luân lý.
Theo quan điểm của các học thuyết phê bình hậu cấu trúc mà đặc biệt là thuyết hủy tạo (deconstruction) của Derrida thì trong ngôn ngữ không có sự phân biệt giữa nghĩa đen và nghĩa bóng hay nghĩa thanh và nghĩa tục. Derrida nhìn thế giới chỉ gồm toàn văn bản được cấu tạo bởi những cặp biểu hiệu hệ cấp đối kháng như văn hóa và thiên nhiên, hành động và thụ động, mặt trời và mặt trăng, ngày và đêm, nói và viết, cha và mẹ… Tại phương tây mãi đến giữa thế kỷ 20, Virginia Woolf một nhà tranh đấu nữ quyền Mỹ mới bắt đầu cổ võ phụ nữ hãy nói lên tiếng nói chống lại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Và tại Pháp, một tác giả nữ quyền khác là Helene Cixous cũng cổ võ phụ nữ hãy viết văn, không những chỉ viết mà còn phải viết thật nhiều về phụ nữ, viết để đưa người phụ nữ bị xa cách, bị quên lãng, bị đứng ngoài rìa văn học trở lại với văn chương. Trong tiểu luận “Le Rire de la Meduse” Cixous đã nồng nàn tha thiết mời gọi phụ nữ “phải viết để đặt người nữ vào văn bản, đồng thời cũng đề đặt người nữ vào thế giới và lịch sử”. Nói tóm lại, Hồ Xuân Hương là một nữ lưu tiền phong, là một thiên tài có cá tánh độc đáo có một không hai trong nền văn học Việt Nam.
Sách bàn về MỸ HỌC VÀ PHÊ BÌNH NGHỆ THUẬT. Các nhà tư tưởng thường cho lý tưởng cuộc sống mà con người muốn đạt tới là Chân, Thiện, Mỹ. Ba lý tưởng này là đối tượng cho ba môn học khác nhau. Luận lý học hướng về đối tượng là cái Chân. Thật vậy, luận lý học được định nghĩa là “khoa học có mục đích xác định trong những động tác trí tuệ hướng đến sự nhận thức chân lý, động tác nào là đúng, động tác nào là không đúng”. Dù các triết gia hay trường phái có quan niệm khác nhau về chi tiết của đối tượng, bất cứ phân ngành nào của Luận lý học, đều trực tiếp hay gián tiếp hướng đến mục tiêu chính yếu là phải đạt được chân lý, tức phạm vi khảo cứu của Luận lý học là những động tác trí tuệ hướng đến sự nhận thức chân lý. Theo Platon, nhà triết học và mỹ học duy tâm nổi tiếng của Hy lạp cổ đại thì thực tại gồm có hai thế giới: thế giới ý niệm là cái ta có thể biết nên gọi là thế giới khả niệm; và thế giới vật thể là cái ta có thể thấy nên gọi là thế giới khả thị. Trong đó, theo ông, chỉ có thế giới ý niệm mới “tồn tại chân thực, nó có trước và sản sinh ra các vật thể cảm tính”. Từ quan niệm triết học đó, khi đi vào mỹ học, ông cho rằng mặc dù có cái đẹp vật chất và cái đẹp tinh thần, nhưng chỉ có cái đẹp tinh thần, cái đẹp của ý niệm mới là cái đẹp vĩnh hằng, tuyệt đối. Khi đề cập đến cái đẹp của nghệ thuật, ông chủ trương thuyết “bắt chước”. Âm nhạc là sự “bắt chước” âm thanh tự nhiên của chim chóc, sông suối… Hội họa thì là sự “bắt chước” sắc màu và đường nét của cây cối, động vật…Nói chung theo ông, nghệ thuật là sự bắt chước, mô phỏng, trước hết mô phỏng tự nhiên, sau đó mô phỏng các tác phẩm nghệ thuật mẫu mực. Aristote là học trò xuất sắc của Platon, nhưng về mặt tư tưởng, cơ bản ông đi ngược lại quan niệm của thầy mình. Các công trình của ông bao trùm lên nhiều lãnh vực khác nhau, và ở lãnh vực nào ông cũng vươn tới những đỉnh cao mà thời đại cho phép. Chung quy điều chúng ta có thể coi như toàn bộ đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mỹ học. Toàn bộ thế giới cùng toàn bộ quá trình diễn ra trong thế giới, con người cùng tất cả nền văn hóa của con người, ở một phương diện và trong một mức độ nào đó đều là môi trường của các nhu cầu thẩm mỹ, là đối tượng nghiên cứu của mỹ học.
Xét sang chương MỸ HỌC VÀ SỰ THẨM THỨC NGHỆ PHẨM ta nghe câu thơ quen thuộc mà tác giả ghi nhận:
“Lời quê góp nhặt dông dài
mua vui cũng được một vài trống canh”.
Đó là câu kết của văn hào Nguyễn Du khi chấm dứt truyện thơ nổi tiếng là Đoạn Trường Tân Thanh. Những câu thơ trác tuyệt mà Nguyễn Du gọi là “lời quê” thực ra không “quê” chút nào như mọi người đã biết. Nhưng điểm mà người viết muốn nêu ra ở đây là truyện Kiều nói riêng và một tác phẩm nghệ thuật nói chung có phải chỉ đáng để “mua vui”, chỉ đáng được coi như một thứ giải trí cho mọi người hay phải coi tác phẩm nghệ thuật có một giá trị cao hơn và có một chỗ đứng xứng đáng trong cuộc sống của con người? Ai cũng cho truyện Kiều là hay nhưng hỏi hay thế nào thì được bao nhiêu người có thể trả lời rành rọt, hoặc nếu trả lời được thì mỗi người trả lời mỗi cách khác nhau. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì quan niệm về cái hay, về cái đẹp là một quan niệm có tánh cách tương đối và chủ quan. Tuy nhiên, một cách tổng quát khi nói về cái “Đẹp” cũng có một số chuẩn mực được mỗi xã hội chấp nhận như là một hệ quy chiếu cho cái “Đẹp”, và cho Chân – Thiện – Mỹ.
Để thưởng thức cái đẹp, văn hóa phương Tây lại chú trọng nghiên cứu các chuẩn mực của cái đẹp rồi căn cứ vào đó thẩm định giá trị của một tác phẩm nghệ thuật. Ngành học nghiên cứu về các chuẩn mực của cái đẹp này được gọi là môn Mỹ học (aesthetics). Theo giáo sư triết học Ed Miller của đại học Colorado Boulder, ông cho là triết học gồm sáu bộ môn như: Siêu hình học (metaphysics), kiến thức học (epistemology), luân lý học (ethics), thẩm mỹ học (aesthetics), luận lý học (logic), và lý thuyết về giá trị (value theory). Hai giáo sư triết học Mỹ khác là Brooke Moore và Kenneth Bruder cũng xác nhận triết học có bảy bộ môn trong đó năm bộ môn giống như sự phân chia của giáo sư Ed Miller, ngoại trừ bộ môn lý thuyết về giá trị và thay vào đó bằng môn triết học xã hội (social philosophy) và triết học chánh trị (political philosophy). Nhìn chung thì Mỹ học (aesthetics) ngày nay đã được giới hàn lâm thừa nhận là một bộ môn của triết học, và môn học này chú trọng đến vấn đề tìm hiểu cái đẹp và cái xấu, và nghiên cứu xem những đặc tính về cái đẹp cái xấu đó có thực sự hiện hữu trong tác phẩm nghệ thuật hay chỉ có trong suy tưởng của cá nhân người thưởng ngoạn.
Mỹ học cũng có nhiệm vụ nghiên cứu các triết thuyết liên quan đến nghệ thuật, các phê bình có tính cách triết lý của các nghệ phẩm, và thẩm định đặc tính triết học của các hành động nghệ thuật. Các phản ứng tình cảm và tâm lý của con người đối với các yếu tố của nghệ thuật như màu sắc, âm thanh, đường nét, hình tượng, và ngôn ngữ.
Về phương diện lịch sử, quan niệm về nghệ thuật và mỹ học đã được các triết gia như Plato và Aristotle đề cập đến từ lâu. Hai triết gia này cho nghệ thuật như là sự bắt chước (imitation) sự vật và hình tượng trong thiên nhiên. Riêng Aristotle còn đi xa hơn khi cho rằng nghệ thuật có ảnh hưởng đến cá tánh của con người, do đó có ảnh hưởng đến trật tự của xã hội. Và vì cho rằng mục tiêu của cuộc đời là đạt đến hạnh phúc nên Aristotle cho chức năng chính của nghệ thuật là đem lại cho con người sự thỏa mãn. Muốn nắm bắt được giá trị mỹ học của một nghệ phẩm, người thưởng ngoạn cũng cần có một số điều kiện. Sự thưởng ngoạn có tính cách mỹ học là kết quả của một sự kết hợp nhuần nhuyễn và phức tạp giữa những thái độ chủ quan và khả năng thẩm thức nghệ thuật của người thưởng ngoạn. Sự phản ứng đối với nghệ phẩm này của người thưởng ngoạn được gọi là kinh nghiệm mỹ học (the aesthetic experience). Tác giả sách Tuyển Tập Khảo Luận Văn Học đề nghị nền văn học Việt Nam hãy sớm nhận thức để vượt ra khỏi các lũy tre để nhìn xem thế giới bên ngoài đang tiến bước hướng về phía trước và bỏ xa chúng ta, hãy khai phá các khu rừng thâm u kỳ bí của nền văn học thế giới. Nếu không mau thức tỉnh hầu sánh vai cùng người để cải tiến và nâng cao các chuẩn mực cho giá trị của mỹ học thì văn học Việt Nam sẽ khó thoát ra khỏi các vòng rào nhỏ hẹp của các thôn làng hoặc các bức tường rào của các ghetto văn học.
QUAN NIỆM MỸ HỌC CỔ ĐẠI TRUNG HOA VÀ QUAN NIỆM MỸ HỌC VIỆT NAM.
Con người là một sản phẩm tinh túy nhất của tạo hóa nên con người luôn mong muốn hoàn thiện bản thân mình để đạt tới Chân – Thiện – Mỹ. Cái chân, cái thiện, cái mỹ là tổ hợp giá trị cao quý mà loài người thời đại nào cũng mơ ước. Và mỹ học là khoa học mở rộng tầm hiểu biết về phương diện thẩm mỹ của con người và giúp mỗi người tự hoàn thiện nhân cách của mình. Cho nên không lạ gì từ xa xưa các triết gia phương Tây cũng như phương Đông đều đã đề cập đến những kinh nghiệm về cái Đẹp và cái Xấu. Các học thuyết về mỹ học đã nảy sinh rất sớm ở phương Tây cũng như phương Đông. Tuy nhiên, mỹ học với tư cách là một ngành khoa học độc lập lại phải chờ tới thời cận đại. Một trong những yếu tố quan trọng giúp mỹ học tách dần ra khỏi triết học là việc xác lập được đối tượng đặc thù của ngành khoa học này. Lúc này, nó được coi như là một bộ phận của triết học – môn khoa học tìm hiểu những quy luật chung
nhứtcủa tự nhiên, xã hội và tư duy.Tái giả Lưu Nguyễn Từ Thức trình bày khá rõ về ngành mỹ học trong văn học và nghệ thuật, từ Tây phương sang Đông phương. Ngoài ra sách còn bàn về những chủ đề như: DERRIDA VÀ HỌC THUYẾT HỦY TẠO, NHỮNG BỆNH TRẠNG CỦA HỒN – TRƯỜNG HỢP HÀN MẶC TỬ VÀ BÙI GIÁNG, ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI TRONG VĂN CHƯƠNG PHÁP, Ý NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN CHƯƠNG LƯU VONG, …
Với chương TÌM HIỂU DIỄN NGÔN VĂN CHƯƠNG HẬU THUỘC ĐỊA, một đề tài mà chúng tôi nghĩ văn chương Âu châu vốn đã có thuộc địa, nên nhiều tác phẩm văn chương phản ảnh thuở thuộc địa như những danh tác: L’Amant (Nguời Tình) của nhà văn Marguerite Duras, The Quiet American của Graham Greene, La Voie Royale của André Malraux (Về vương triều Cao Miên), Between Tears and Laughter của Lin Yutang (Lâm Ngữ Đường), The Good Earth (Đất lành) của Pearl S. Buck, The Jungle Book của Rudyard Kipling…
Lưu Nguyễn Từ Thức ghi nhận là chủ nghĩa thực dân là một hình thức khai thác thuộc địa được phát triển theo với sự bành trướng của châu Âu trong thời gian 400 năm qua. Từ xa xưa nhiều nền văn minh Âu châu đã có thuộc địa và từ lâu chánh quyền đế quốc trung ương luôn luôn có uy quyền tuyệt đối trên các tỉnh thành ngoại biên và các nền văn hoá sơ khai. Sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân tại Âu châu đồng nghĩa với sự phát triển của hệ thống kinh tế tư bản trong đó các vùng đất thuộc địa được thiết lập để cung cấp nguyên liệu cho sự phát triển và củng cố các nền kinh tế tại chánh quốc. Sự liên hệ giữa quốc gia đô hộ và các nước thuộc địa hoàn toàn bất bình đẳng trên mọi phương diện kinh tế, chánh trị, văn hoá cũng như xã hội. Các sắc dân tại các quốc gia thuộc địa thường là những chủng tộc khác với sắc dân chánh quốc và bị xem thuộc loại chủng tộc thấp kém.
Chế độ thực dân đã mang theo nó ngôn ngữ của kẻ thống trị đến với các vùng đất thuộc địa và tạo nên một va chạm mạnh giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, đặc biệt là tại vùng đất thuộc địa ở Phi châu, đa số không có chữ viết hoặc nếu có cũng không là một hệ thống chữ viết rõ ràng và phổ quát. Văn hoá và ngôn ngữ viết của kẻ thống trị đã được áp đặt lên dân thuộc địa và đã tạo được những ảnh hưởng đồng nhứt hoá lên dân thuộc địa. Các thổ âm biến mất dần, các giọng nói giữa các địa phương dần dần không còn quá khác biệt, và chữ viết cũng được cô động thành tiêu chuẩn. Những biến chuyển về ngôn ngữ đó giúp cho dân chúng có cùng một di sản văn hoá cố kết với nhau hơn, và giúp phân biệt một nhóm chủng tộc này với một nhóm chủng tộc khác. Vì vậy có thể nói ngôn ngữ viết đã giúp hình thành tinh thần dân tộc cho các dân thuộc địa. Tuy nhiên, ngôn ngữ viết đã gặp một số trở ngại tại châu Phi vì truyền thống của ngôn ngữ nói của châu Phi là đối thoại trong khi ngôn ngữ viết là độc thoại. Do đó, cộng thêm với sự thù ghét kẻ xâm lăng, một số người dân thuộc địa đã thu mình vào trong lối sống cổ truyền và sống tách biệt hẳn với mọi thứ do phương tây mang đến trong đó có ngôn ngữ viết. Nhìn lại lịch sử Việt Nam trải dài hơn hai ngàn năm trong đó có hơn một ngàn năm bị lệ thuộc Trung Hoa, và hơn một trăm năm là đất thuộc địa của Pháp, nhiều người sẽ tự hỏi văn học Việt Nam đã phản ứng thế nào đối với những giai đoạn bị làm thuộc địa đó. Một cách chung có thể nói là nền văn học Việt Nam còn nặng tinh thần thuộc địa đối với văn hoá Trung hoa cũng như văn hoá Pháp dù đã được độc lập với Tàu hơn một ngàn năm và độc lập với Pháp hơn bảy mươi năm.
Về phương diện văn chương phản ảnh thuở thuộc địa, và trong bài viết nhận đinh của 3 chúng tôi, Khánh Lan, Thuỵ Lan, Việt Hải về nhà văn giải Nobel văn chương 2021 Abdulrazak Gurnah, một tiểu thuyết gia sinh ra ở Tanzania và đã có một sự nghiệp 35 năm, được giới phê bình đánh giá cao bắt nguồn từ chủ nghĩa thực dân và nhập cư sau khi đến Anh tị nạn. Ông sinh ra trên hòn đảo Zanzibar của Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển phía đông châu Phi, vào năm 1948, và bắt đầu viết văn sau khi di chuyển đến Anh lưu vong, nơi ông hiện đang sống ở thành phố Canterbury, Vương quốc Anh. Theo chủ đề tác giả Lưu Nguyễn Từ Thức về Ý NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN CHƯƠNG LƯU VONG.
Văn chương của Abdulrazak Gurnah là theo thể tác văn học ly hương hay lưu vong. Rất nhiều cây bút lưu vong đã tạo nên tên tuổi cho mình, văn chương lưu vong là một ý niệm trong tổng thể về sự lưu động của con người xuyên qua các không gian địa lý và không gian chính trị. Điều này hàm chứa ý nghĩa là tình trạng lưu vong phải bao gồm bị cưỡng bách chuyển chỗ (displacement) vì lý do chánh trị hay tôn giáo chớ không phải vì lý do kinh tế. Trong những thế kỷ gần đây, tình trạng lưu vong thường xảy ra trên bình diện cá nhân hơn là tập thể. Tuy nhiên, có ba cuộc chuyển chỗ tập thể quan trọng được ghi nhận là sự đào thoát ra khỏi quê hương của hơn ba ngàn trí thức Đức trong thời gian từ 1933 đến 1938 khi Đức quốc xã lên cầm quyền ở Đức, các trí thức và cuộc đi tìm tự do của gần nửa triệu thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975 khi Cộng sản xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Yếu tố chuyển chỗ cũng làm cho những văn nghê sĩ lưu vong thay đổi chính mình như thay đổi bản ngã, thay đổi các thói quen tập quán trong lâu năm, sống hội nhập vào trong khung cảnh xã hội mới, khám phá ra những cách diễn đạt phong văn mới…
Nói chung, tuy có vài điều cần khắc phục, nền văn chương lưu vong Việt Nam ở hải ngoại đã hình thành và lớn mạnh, đóng trọn vẹn vai trò bảo vệ và phát triển văn hoá dân tộc ở hải ngoại cũng như nối tiếp dòng văn học miền Nam Tự Do như trước năm 1975. Từ văn chương lưu vong tổng thể trên thế giới ngày nay, hay nhìn theo văn chương lưu vong cá thể lưu vong Việt Nam. Xét cho cùng cũng là điều khích lệ theo phần trình bày trong sách. Chia chung hoàn cảnh
chunglưu vong vì tị nạn chính trị như nhà văn thành đạt Abdulrazak Gurnah, mong sao những người Việt của chúng ta cũng sẽ sánh vai như trong chương này của sách. Hãy mang niềm tin, nếu có sau này thì sẽ là tin vui, là sự tự hào cho việc phát huy văn chương đa dạng cho vườn hóa văn học thế giới.Sau cùng, ba chúng tôi, Khánh Lan, Thụy Lan và Việt Hải rất vui được đọc tác phẩm mới với những sưu khảo công phu của Tiến sĩ Nguyễn Minh Triết và được góp mặt qua những trang bạt tóm lược cùng tác giả, Lưu Nguyễn Từ Thức.
Xin chúc mừng tác giả.
Việt Hải & Song Lan. 19/02/2022.
-
ÔN CỐ TRI TÂN,DƯỚI GÓC NHÌN CỦA NV VIỆT HẢI
Bốn chữ “Ôn Cố Tri Tân” là tựa sách mới của nhà văn Nguyễn Quang, sau bao năm sống ở 3 nước Pháp, Anh và Mỹ và hơn 70 năm xa xứ. Năm 19 tuổi ông rời quê hương Sóc Trăng trù phú xuất dương sang Paris du học. Ngành học hay chuyên môn của ông về toán học, kinh tế, chính trị, chút tài chánh; nhưng có lẽ nỗi nhớ quê hương vẫn nau náu trong tâm khảm của ông. Những tác phẩm như Ốc Mượn Hồn, Một Giấc Mơ, Ông Giáo Làng, Nhập Gia Tuỳ Tùng, Ôn Cố Tri Tân, Phận Đàn Bà… đều phảng phất nét nhớ nhung thuần Việt tính trong nỗi chơi vơi với khung cảnh hay tư duy âu mỹ, những kỷ niệm giữa tư tưởng văn hoá Việt bôn ba, rong ruổi theo cuộc sống ly hương. Tôi đọc “Ông Giáo Làng” để cảm nhận kỷ niệm quê nhà trước những năm 1940 với nhớ thương hương mạ lùa non, với những mộc mạc của lủy tre bụi trúc, kỷ niệm đồng quê ta khi đi bắt cua, nôm cá, tát đìa… hay đọc “Ốc Mượn Hồn” để mường tượng ra Luân đôn, Paris của giới triết gia cấp tiến, phóng khoáng ở âu châu hậu TC II (postmodernisme, existentialisme). Nam nữ vui buông thả. Nguyễn Quang và “Ốc Mượn Hồn“, những huyện thời sinh viên tại Paris hay Cambridge.
Với tác phẩm “Ôn Cố Tri Tân” qua câu chuyện người thầy kể chuyện đời, lấy văn ngôn làm ngôn ngữ viết.dựa trên kinh nghiệm sống, dựa vào kiến thức của người đi trước, truyện của ông cũng không như lối văn bạch thoại, tôi nhớ truyện Demian, một câu chuyện tuổi trẻ của Emil Sinclair, mà Hermann Hesse viết. Hoặc giả như quyển “Thầy Lazaro Phiền” (nhà văn Nguyễn Trọng Quản viết vào năm 1887), hay “Hát đông thư dị” (1886, của Nguyễn Thượng Hiền), hoặc “Vân nang tiểu sử” (1886, của Phạm Đình Dục) …
“Ôn Cố Tri Tân” của Nguyễn Quang ôn lại lịch sử nước Việt, từ thời Hồng Bàng với các vị vua Hùng Vương, rồi qua các triều đại Lý Lê Trần Nguyễn… 1000 Bắc thuộc, gần 100 năm Pháp thuộc, chiến tranh Quốc Cộng, thời CSVN cai trị nước nhà, và chúng ta ly hương. Những bài học “Ôn Cố Tri Tân” có rất nhiều và quá nhiều.
Sáng nay anh Vương Trùng Dương cho bài viết nhận định “Ôn Cố Tri Tân“, đọc xong hihi… moa đã quá, thôi thì vung bút đáp trả đàn anh, như lời của hai nhà văn Ấn quốc Taj Mahal thân thương ngôn về quan điểm “Ôn Cố Tri Tân“:
“Hiện tại đang thay đổi quá khứ. Hãy nhìn lại những gì bạn đã bỏ quên trong dĩ vãng”, (trích dẫn lời của nhà văn Kiran Desai.)
“Hãy học hỏi từ bài học quá khứ những điều gì ta chưa rõ,
để sẽ có ngày thành đạt vinh quang chiến thắng“
(trích dẫn lời của nhà văn Amit Kalantri.)
Đọc kết luận của Vương Trùng Dương buông bút như sau:
“Đời nay, tình bạn nhiều người không hiểu nhau bằng tâm hồn mà hiểu nhau qua chén rượu, qua những lời nịnh dọc. Họ khen chê nhau cũng chỉ vì quyền lợi của họ đối với cá nhân ấy, hoặc để đề cao lấy địa vị của mình mà thôi, đâu có nghĩa gì gọi là hiểu mình hiểu người”.
Cụ Nguyễn Văn Ngọc (1890 – 1942) tự Ôn Như là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Hán, tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ. Quyển Cổ Học Tinh Hoa (cùng Trần Lê Nhân) ấn hành năm 1928 đến nay gần một thế kỷ vẫn được ấn hành và lưu truyền. Hai vị biên soạn đã dày công nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu những tinh hoa của nền cổ học phương Đông. Với 250 mẩu chuyện liên quan trong cuộc sông, con người, cách xử sự sao cho phù hợp với từng nơi từng lúc. Có thể nói đó là cuốn sách “dạy làm người” để biết nhìn nhận “cái xưa” để xử thế “cái nay” mà qua từng mẩu chuyện với lời bàn rất hữu ích.
NV VIỆT HÀI Ôn Cố Tri Tân
Thành ngữ “ôn cố tri tân” có nguồn gốc từ Luận Ngữ của Khổng Tử. Đó là một câu trong Thiên Vi Chính: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ“, nghĩa là ôn cái cũ mà biết cái mới thì có thể làm thầy được rồi. Tạm dịch qua tiếng Anh: “One should be able to derive new understanding while revising what he has learned“.
Từ thành nghĩa nầy, các bậc tiền nhân của ta đã dựa vào đó để lưu lại hậu thế trong cuộc sống học hỏi “ôn cố” hầu hiểu biết “tri” trong hiện tại. Nhà văn, dịch giả Mộng Bình Sơn (1923–2011) đã viết nhiều tác phẩm, trong đó có quyển Ôn Cố Tri Tân gồm 3 tập, ấn hành năm 1967, Sống Mới xuất bản tại Sài Gòn.
Trong Lời Mở Đầu, tác giả viết: “Vì vậy mà lời người xưa, việc làm người xưa, ý nghĩa người xưa, cuộc sống người xưa rất có liên quan đến hiện tại, đến thế hệ mai sau. “Ôn cố tri tân” chính là làm cái việc xét thời xưa luận thời nay. Việc ấy không phải là không bổ ích… Nó là một tấm gương phản chiếu trước sự hiện tại đem lại chúng ta rất nhiều thích thú.
Trong bộ sách nầy, tác giả Mộng Bình Sơn dựa vào những mẩu chuyện trong thời Đông Châu Liệt Quốc để dẫn chứng những hình ảnh tiêu biểu với các nhân vật tốt/xấu và quan trọng với phần nhận xét để nhận cố suy kim. Điển hình như trong Những Kẻ Thấy Xa với nhận xét: Thời nay, thiếu gì người chỉ biết có cái địa vị trước mắt mà không thấy cái nguy hại về sau. Mỗi khi vớ được một địa vị gì tưởng đó là cái ngôi vĩnh viễn, họ có biết đâu cái địa vị ấy nền xây trên cát bụi thì nó sẽ xụp đổ không lâu.Gặp thời nào xuôi theo thời nấy. Gió chiều nào cờ phất theo chiều ấy, đó chỉ là những kẻ nịnh bợ, xu thời, kiếm ăn, đâu phải là những nhà chính trị, những kẻ yêu nước thương dân. Người ta nói những tâm hồn lớn thường gặp nhau, đó là những tâm hồn khoáng đạt, siêu thoát ngoài vòng danh lợi, tư tưởng họ không để danh lợi ràng buộc vậy.
Dẫn chứng hai quyển sách của người xưa của nước ta về “Ôn Cố Tri Tân” vẫn còn giá trị trong cuộc sống. Sau nầy nửa thế kỷ ở hải ngoại, tác giả Nguyễn Quang nay ở tuổi chín mươi vẫn mang hoài bão của bậc cao tuổi qua tác phẩm…Khi bạn bút ta lên tiếng, ta không thể im tiếng. Đó là mối chân tình văn học “Bánh Ít trao đi, Bánh Quy trao lại”.
Sau nửa thế kỷ ở hải ngoại, tác giả Nguyễn Quang nay ở tuổi chín mươi vẫn mang hoài bão của bậc cao tuổi qua tác phẩm…
Việt Hải Los Angeles.
-
TÁC GỈA SÀI GÒN NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ NAY VẮNG BÓNG
Nhà văn Văn Quang
(1933-2022)Khi nhà thơ (NT) Hà Nguyên Du thông báo tin “Nỗi buồn tháng ba” về sự ra đi của nhà văn Văn Quang. Tôi tình cờ xem lại email của nhà văn (NV) Dương Hoàng Mai chuyện trò cùng NV Trần Phong Vũ, cả hai NV đều sinh hoạt trong nhóm TS Tiếng Quê Hương. NV Dương Hoàng Mai bên Munich ghi nhận là Văn Quang là tác giả của khoảng 50 tiểu thuyết và ký sự nổi tiếng trong đó một số tác phẩm của ông đã được quay thành phim. NV Văn Quang đã mệnh chung vì tuổi già sức yếu, vào sáng Thứ Ba, ngày 15 Tháng Ba năm 2022 tại nhà riêng ở khu Chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Quận 3, Sài Gòn. Hưởng thọ 90 tuổi và ông đã để lại những tác phẩm sau:
- Chân trời tím (1964); thâu thành phim 1970; đoạt giải vàng Văn học Nghệ thuật.
- Đời chưa trang điểm
- Đường vào bến mê (1966)
- Lẩm cẩm Sài Gòn Thiên hạ Sự
- Lên đời – tiểu thuyết phóng sự
- Nét môi cuồng vọng (1964)
- Ngã tư hoàng hôn
- Ngàn năm mây bay (1963); thâu thành phim 1963
- Nguyệṭ áo đỏ (1963)
- Người lính hào hoa
- Người yêu của lính (1965)
- “Những ngày hoa mộng” – phóng sự trên báo Truyện phim
- Những tâm hồn nổi loạn
- “Sài Gòn tốc” – phóng sự trên nhật báo Chính luận
- Tiếng gọi của đêm tối
- Tiếng hát học trò (1969); thâu thành phim 1970
- Từ biệt bóng đêm
- Thùy Dương Trang (1957)
- Trong cơn mê này (1970)
- Vì sao cô độc
- Xuôi Dòng
Nhà văn Van Quang và tác phẩm Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1933 tại Thái Bình. Năm 1953, ông bị động viên và gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954. Từ năm 1957 trở về sau, NV Văn Quang chuyển sang ngành Tâm Lý Chiến với nhiệm vụ Trưởng Phòng Báo Chí Quân Đội thuộc Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH và là Trưởng Ban Biên Tập của các tờ báo Quân Đội VNCH thời đó.
Từ năm 1969 cho đến tháng 04, ngày 30 năm 1975, Văn Quang là Quản Đốc đài Phát Thanh Quân Đội, cấp bậc Trung Tá. Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là Tiếng Tơ Lòng được đăng trên nhật báo Than Dân, Hà Nội cuối năm 1953 và tác phẩm thứ nhì là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957. Đến năm tháng tư 1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn như Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Tiếng Vang, Kịch Ảnh, Truyện Phim, Điện Ảnh, Văn Nghệ Tiền Phong, Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Tuần San, v.v…
Trong khoảng thời gian này, Văn Quang đã hoàn thành hơn 50 tác phẩm, được in trên các báo và đã có 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số đó có những tác phẩm từng gây sôi nổi một thời trong giới độc giả trẻ như Nét Môi Cuồng Vọng, Nguyệt Áo Đỏ, Người yêu Của Lính… Đặc biệt có 4 tác phẩm được chuyển thành phim từ 1962 đến 1972 là Ngàn Năm Mây Bay, Chân Trời Tím, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Hát Học Trò.
- Phim Chân trời tím được Quốc Phong chủ hãng Liên Ảnh chọn quay. Hùng Cường và Kim Vui thủ diễn vai chính trong phim với bài hát được chọn cho phim là “Nửa hồn thương đau” của Phạm Đình Chương do nữ danh ca Thái Thanh trình bày. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cũng đã lấy nguồn cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết này để sáng tác nhạc phẩm “Chân trời tím” cùng tên.
- Phim “Ngàn năm mây bay” thì do Thái Lai phim thực hiện với Hoàng Anh Tuấn làm đạo diễn và sĩ quan quân đội Phạm Huấn thủ diễn.
- Kế đến là phim “Đời chưa trang điểm” của hãng phim Giao Chỉ do ông Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn.
- Và cuối cùng là phim “Tiếng hát học trò” do Thái Thúc Nha của hãng Alpha thực hiện, Thanh Lan diễn vai chính.
Các tác phẩm của Văn Quang có thể phân thành 4 nhóm có đề tài khác nhau: Nhóm thứ nhất mô tả cuộc sống tuổi trẻ; nhóm thứ hai kể lại đời sống quân ngũ; nhóm thứ ba phản ảnh thực đời sống thời chiến và nhóm thứ tư là những châm biếm về lề lối lố lăng thời thượng cổ thuộc nhiều lãnh vực sinh hoạt, đặc biệt là các giới làm nghệ thuật.
Việt Nam, ngày tháng cũ Sau ngà 30 tháng 4, 1975, Văn Quang cũng như các sĩ quan quân lực VNCH khác bị đưa qua nhiều trại tù cải tạo từ miền Nam Việt Nam tới miền Bắc Việt Nam trong thời gian dài hơn 12 năm. Tháng 09 năm 1987, Văn Quang được thả ra khỏi trại tù, ông trở về Sài Gòn và từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam.
Năm 1990, Văn Quang bắt đầu trở lại với việc sáng tác văn nghệ và Ngã Tư Hoàng Hôn là tác phẩm đầu tiên được hoàn thành sau nhiều năm bị “treo bút”. Tác phẩm này, đã được một số thân hữu của nhà Văn Quang tổ chức ra mắt tại Thung Lũng Hoa Vàng vào ngày 21 tháng 10, 2001. (Trích phần giới thiệu về tác giả trong Ngã Tư Hoàng Hôn). Tác phẩm cuối của ông đã được Tủ Sách TQH in vào năm 2021, Sài Gòn người muôn năm cũ, (Theo Dương Hoàng Mai).
Sau đây Khánh Lan và tôi đã đọc bài viết của Nhà văn Vương Trùng Dương. Chúng tôi xin trích đoạn những ý tưởng trong bài viết “Tưởng Nhớ Nhà Văn Văn Quang” của Vương Trùng Dương, ông nhận định như sau:
“Loạt bài feuilleton (bài báo dăng nhiều kỳ) Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự, ra hàng tuần với chủ đề nầy, NV Văn Quang chia sẻ: “Lẩm cẩm” là một lối viết có tính thời sự. Bởi tính cách “đặc thù” của thời hiện tại nơi tôi đang sống, nên buộc phải viết theo một cách nào đó để không bị gây phiền lụy. Tôi “xông” vào những đề tài xã hội “nóng” nhất, có tính điển hình nhất mà người dân đang chú ý. Một nhu cầu khác nữa là hướng đến độc giả hải ngoại, đang quan tâm tới điều gì? Nói cho rõ hơn, Việt kiều của chúng ta đang muốn biết điều gì đang xảy ra tại quê hương mình. Chắc ai cũng muốn có những thông tin chính xác, không bị vo tròn bóp méo bởi bất cứ lý do nào, đôi khi chỉ là sự “tam sao thất bản” nên thông tin thiếu độ trung thực. Tôi chọn lọc những sự kiện ấy, tìm kiếm thông tin chi tiết và làm thế nào càng chính xác được càng tốt. Nó không phải là một bản tin thuần túy mà đưa vào những nhận định, quan điểm của riêng mình như một lời bàn bạc, nói chuyện với độc giả một cách bình thường chứ không là lý luận. Từ đó bạn đọc có thể hiểu rõ vấn đề hơn và có thể suy luận, nhận định riêng. Do đó, người ở xa quê hương, vẫn có thể biết rõ những sự việc xảy ra tại quê nhà.
Tuy nhiên “Lẩm Cẩm Sài Gòn” không chỉ là những chuyện lẩm cẩm. Nó có cả những mặt trái, mặt phải của xã hội, chuyện khôi hài và chuyện đau thương, những bản tường trình thẳng thắn vượt qua mọi áp lực. Miễn là chuyện xảy ra có thật. Cái nhìn xoáy về phía sau những sự việc đã và đang xảy ra chứ không phải chỉ có “bề mặt” sự việc, tôi nghĩ đó mới thực sự cần thiết cho bạn đọc ở nước ngoài vốn không có nhiều thì giờ theo dõi.”
Tóm lại, bài tiếp: “Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự”, nếu tổng kết lại, nó sẽ là một bức tranh toàn cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Nó phản ảnh được trung thực mọi vấn đề ở bề mặt đời sống của người dân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ một anh nông dân “lừa được cả nước” đến một đại gia lương thiện và bất lương, từ lớp thanh niên đến các quan chức, từ cô gái tỉnh lẻ đến các cô gái chân dài thành thị. Từ nỗi đau thương cơ cực của “những người bị bỏ quên” như anh em Thương Phế Binh VNCH đến những cảnh trác táng cùng cực, hoang phí vô cùng của lớp người ăn trên ngồi trước… Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, những điều phi lý bất công, những điều cần nói mà người dân không nói được… Tất nhiên, trong hoàn cảnh của tôi, có những hạn chế mà ai cũng hiểu được. Cho nên viết và “lách” vẫn là điều phải nghĩ tới. Tôi làm cái gì mà luật không cho phép cũng không cấm. Chúng tôi làm với lương tâm của một người cầm bút… Chúng tôi chỉ biết cầm bút, độc lập và hành xử theo tiếng gọi của lương tri…
Sài Gòn Người Muôn Năm Cũ, tác phẩm viết theo dạng bút ký này được Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ấn hành. Sài Gòn Người Muôn Năm Cũ, là một Tâm Bút của nhà văn Văn Quang vào cuối năm 2020. Tác phẩm Sài Gòn Người Muôn Năm Cũ tập hợp một số bài chọn lọc trong hơn 500 bài mà tác giả đặt tựa chung là Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự viết từ năm 2000 đến năm 2016. Các bài này đều được báo chí Việt ngữ hải ngoại từ Canada, Úc, Hoa Kỳ đăng tải…
Sài Gòn Người Muôn Năm Cũ dày 576 trang, hầu hết các bài về văn nghệ sĩ ở Sài Gòn đã từng quen biết nhau như Phi Thoàn, Nhật Bằng, Tạ Tỵ, Trần Thiện Thanh, Phạm Huấn, Huy Quang, Thái Tuấn, Hoàng Anh Tuấn, Thanh Nam, Thái Tủy, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Xuân Hoàng, Phan Lạc Phúc…Khi nhận được tác phẩm nầy vào tháng 01,2021, chúng tôi định viết về NV Văn Quang như đã viết trong loạt bài Người Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ nhưng lúc đó tình thế chính trị ở Mỹ gây xôn xao và dịch Covid-19 ám ảnh nỗi đau của mọi người nên tôi nghĩ viết về văn nghệ ví như “đàn lạc dây”!”
Vương Trùng Dương kể tiếp: “Tháng 03 năm 2022, tình hình chiến trận sôi động ở Ukraine khi Putin xua quân Nga xâm lăng là tin tức hàng đầu trên thế giới. Và, cũng vào thời điểm nầy 47 năm trước với sự xâm lược của Cộng quân ở miền Nam Việt Nam đã gây tang thương, chết chóc, kinh hoàng và phẫn uất với quân, dân miền Nam Việt Nam. Chiến tranh xảy ra ở Ukraine được các quốc gia trên thế giới nhiệt tình hỗ trợ trước bạo lực của Nga, còn miền Nam Việt Nam khi bị “đồng minh tháo chạy” thì hoàn toàn đơn độc để đối đầu với quân xâm lược! Khi đất nước rơi vào tay kẻ thù thì thì trại tù mọc lên khắp nơi từ Nam ra Bắc như “Quần Đảo Ngục Tù, Quẩn Đảo Gulag – The Gulag Archipelago” của NV Nga Alexander Solzhenitsyn. Đại Úy Solzhenitsyn bị bắt giam qua các trại tù khổ sai, và từ đó ông đã viết lên những tác phẩm phơi bày sự dã man, tàn bạo các trại tù của CS Liên Xô… Tác phầm đã đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1970.
Vài hình ảnh trong trại tù do Văn Quang viết như Cái Muỗng, Tết Trong Trại Tù… Khi ra tù, anh viết nhiều với hình ảnh “Bức tranh vân cẩu, vẽ người tang thương” (Nguyễn Gia Thiều) trong xã hội quê nhà với bạn đọc nơi hải ngoại. Sài Gòn ngày 21 tháng 6, 2017, NV Văn Quang viết Thư Từ Giã Bạn Đọc.
“Đây là bài sau cùng tôi viết hàng tuần cho các báo ở nước ngoài. Tôi sẽ ngưng viết loạt bài này vì lý do sức khỏe, không vì bất cứ lý do nào khác.
Hơn 60 năm cầm bút, tôi không có gì đáng tự hào bởi chỉ như người lính trên đường trường hành quân không biết mình đã bắn được bao nhiêu viên đạn. Tất cả chỉ vì ba lời thề “Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm” mà tôi đã thề trước khi trở thành người lính của Quân Đội VNCH. Tôi còn thua cả những đồng đội của tôi đã vĩnh viễn ra đi hoặc bỏ lại một phần thân thể mình trên chiến trường, trở về với cuộc sống vất vưởng nơi quê nhà.
Trong lá thư ngắn hôm nay, trước khi ngừng viết, tôi xin gửi lời cảm tạ đến tất cả bạn bè, các bạn đọc của các báo và các khán thính giả và các cơ quan truyền thông, các đài phát thanh truyền hình đã từng có thời gian dành cho tôi những tình cảm đặc biệt. Bây giờ đầu óc tôi không còn được minh mẫn nữa, khi nhớ khi quên… đã đến lúc phải biết mình nên dừng lại ở đâu. Tôi chắc chắn trong những bài viết của tôi có nhiều khiếm khuyết, mong được sự bao dung thông cảm của các bạn”.
Trước sự mất mát của nhà văn hơn hai mươi năm trong đời binh nghiệp của QLVNCH và hơn mười hai năm trong lao tù CS, tôi viết những dòng nầy để tưởng nhớ và cầu mong anh gặp lại thân hữu năm xưa nơi cõi vĩnh hằng.”
Vương Trùng Dương, Little Saigon, March 17, 2022
Thủ Đô Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông Khi Khánh Lan và tôi đọc bài viết của Văn Quang “60 Năm Sài Gòn Trong Tôi” trong nhung nhớ thủ đô Sài Gòn xưa mà ngậm ngùi thương tiếc cho một Hòn Ngọc Viễn Đông hoa lệ đã đổi thay, hiếp đáp trong buồn bã. Văn Quang thăm khu phố xá Lê Lợi – Nguyễn Huệ ngày cũ đã có bức Tượng đài Thủy Quân Lục Chiến giữa công viên Sài Gòn trước năm 1975 nay đã không còn. Văn Quang viết: “Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào, và nhớ tới những đồng đội TQLC đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa…”
Nỗi xót xa chung theo chúng ta là sau ngày 30 tháng 04, 1975, sự thay tên đổi họ những con đường nghe như có điều gì mâu thuẫn và của nước mắt rơi, thương tiếc cho thời gian đã mất. Sự mới mẻ và sự thay đổi của đất nước như là những biểu tượng của sự nghịch lý:
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa, tiêu Công Lý
Đồng Khởi lên rồi, mất Tự Do”.
NV Văn Quang tâm tình: “Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ.’
“Hai tuần nay người Sài Gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn. Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội. Và cũng có nhiều người đến để nhìn lại chút kỷ niệm xưa với một công trình kiến trúc được xây dựng từ xa xưa, khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đã có từng hơn nửa thế kỷ với Sài Gòn bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà còn gắn liền với cả gia đình mình. Hầu như gia đình nào cũng đã từng đưa nhau vào đây mua sắm vài thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một ly cà phê. Nỗi buồn vẩn vơ có thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một phần đời mình. Bởi cái mất đi đã từng có những kỷ niệm với người thân quen không bao giờ tìm lại được nữa. Người mất kẻ còn, người ra đi, kẻ ở lại đã từng cùng nhau đến đấy.”
Ông nhớ Sài Gòn tỉ mỉ trong ký ức: “Đường Lê Lợi phía Thương Xá TAX chỉ còn một lối đi nhỏ…. Và còn một số công trình gắn liền với Sài Gòn chẳng phải chỉ là biểu tượng mà còn là da thịt của một thành phố từng được vinh danh là “hòn ngọc viễn đông” này cũng sắp mãi mãi biến mất để nhường chỗ cho công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên. Dẫu biết vạn vật đổi dời không có gì là vĩnh cửu cả nhưng cái gì quá thân quen mất đi cũng thấy lòng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng như quán cơm bình dân Bà Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích vĩnh viễn, thay vào đó là những tòa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn cũng thấy nó lạnh lùng xa lạ. Người còn ở trong nước xót xa, người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawaii đã mượn hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi nhớ về những cái sắp mất đi của Sài Gòn: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.”.
Với một người còn ở lại như tôi, đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với hòn ngọc viễn đông này, hai tuần nay càng thấy lòng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm. Chẳng trách khi xã hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ tìm lại được.
Tác giả Văn Quang kể Sài Gòn từ hoài niệm như một “người xưa” đếm bước trên vỉa hè bên hông Thương xá Tax…
“Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nhìn lên khung trời cao, hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài Gòn. Ở đây không chỉ có cảnh quan mà còn có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đã từng gặp, từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ? Có biết Sài Gòn của chúng ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn ta” không?
Thành Phố Sài Gòn trước năm 1975 Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn
“Thế mà 60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau hai tháng học ở Trường Sĩ Quan Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này”.
Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ?
“Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ, ba bốn thằng thuê chung một phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có. Chúng tôi cũng biết cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là một cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn. Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn.”
Tác giả Văn Quang sau ngày đổi đời 30 tháng 4, năm 1975, ông bị đi tù CSVN, khi ra tù “người xưa” tái ngộ chốn cũ…
Lần thứ hai trở lại Sài Gòn
“Tôi lại nhớ ngày trở về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 09 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam Chí Hòa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về, khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ.
Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này. Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này.
Ở tiệm phở bước ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là con đường Đại Học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.” Đến ngã tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình.”
Phải chăng “Hoài niệm” là một cảm xúc liên quan đến sự khao khát những gì thuộc về quá khứ và dĩ vãng thường là lý tưởng hóa những điều đó. Nostalgia là sự luyến tiếc quá khứ, lòng nhớ nơi chốn cũ, quê hương trong tâm tưởng, nỗi nhớ nhà khi ta không còn ở đó nữa. Như châm ngôn là “Cho dù bạn đã trải qua bao nhiêu đau khổ, bạn không bao giờ muốn bỏ đi những ký ức đó“, hay.” “Dĩ vãng từ hoài niệm đập trong ta như một trái tim thứ hai.“, và “Con người không phải địa điểm, tạo ra ký ức.” … “Quá khứ trở về trong tôi như một trái tim thứ hai.”, theo như ý tưởng nhà văn Ái Nhỉ Lan John Banville, viết trong quyển The Sea (tiểu thuyết Biển cả).
Nỗi nhớ (Nostalgia) được xem như một dấu hiệu bệnh lý được nhắc đến lần đầu năm 1688 bởi một sinh viên y khoa người Thụy Sĩ tên là Johannes Hofer (1669-1752). Tên căn bệnh này xuất phát từ tiếng Hy Lạp, nostos có nghĩa là trở về quê hương, còn algos có nghĩa là nỗi đau, niềm khao khát. Sự kiện xảy ra từ giữa thế kỷ 17 và 19, Cũng theo tư tưởng của văn hào Pháp Marcel Proust, tác giả của bộ tiểu thuyết “Đi Tìm Thời Gian Đã Mất” (À La Recherche du Temps Perdu, hay In Search of Lost Time). Marcel Proust, trong “Đi tìm thời gian đã mất” cho là …”hoài niệm ... ký ức về một hình ảnh cụ thể là những tiếc nuối cho một khoảnh khắc thời gian đã qua ..”
Trở lại với ý tưởng của Văn Quang về nhung nhớ hình xưa cảnh cũ của một Sài Gòn trong lưu niệm, ông viết tiếp…
“Tôi tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước. Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi”.
Photo Credit: Internet Đi tìm hoài niệm
“Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng Tám năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay. Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, môt tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở VN ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa”.
“Sau đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương Xá Tax. Vừa đến đầu hai con đường gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến Thương Xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang….Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại. Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng”.
“Rồi tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá. Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công trường trống rỗng. Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào và nhớ tới những đồng đội TQLC đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa.
“Chắc hẳn bạn còn nhớ ngay cạnh đó là góc bùng binh Nguyễn Huệ – Lê Lợi còn là nơi tổ chức đường hoa vào dịp Tết. Gia đình nào chẳng một lần kéo nhau đi giữa đường hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất hẳn, chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa. Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên TP Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau Nhà Hát Thành Phố, bây giờ là trụ sở của Tổng Công Ty Cấp Nước của TP. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?”
“Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Văn Quang, Ngày 29 tháng Tám, 2014″.
Những Ngày cuối đời
Photo Credit: InternetBài viết cô đọng này mượn ý tưởng của những NV Dương Hoàng Mai, Vương Trùng Dương, Văn Quang, John Banville và Marcel Proust để nhớ đến tác giả của những Ngã Tư Hoàng Hôn, Ngàn Năm Mây Bay, Người Lính Hào Hoa, Người Yêu Của Lính, Sài Gòn Tốc…. 60 năm Sài Gòn Trong Tôi, Sài Gòn Người Muôn Năm Cũ, Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự, như một nén hương lòng tiễn đưa người về cõi trên.
Việt Hải & Khánh Lan, Mùa Tháng Tư đen 2022.
-
Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm Tiễn Mẹ
Tin Cáo Phó: Cụ Bà Ana Nguyễn Thị Tịnh.
Thân mẫu của NV Nguyễn Văn Liêm. Hưởng thọ 107 tuổi
Dựa theo bài tường trình của Khánh Lan về ngày lễ cầu nguyện cho Cụ Bà Ana Nguyễn Thị Tịnh, đăng ngày 27 tháng 03, 2022 trên Website của Nhân Văn Nghệ Thuật.com “Buổi lễ cầu nguyện và tiễn đưa cụ bà Ana Nguyễn Thị Tịnh, thân mẫu của NV Nguyễn Văn Liêm về nơi an nghỉ cuối cùng diễn ra long trọng và cảm động lúc 10:45 sáng tại Trung Tâm Công Giáo thuộc thành phố Santa Ana. Khoảng 10:45 sáng, những bài thánh ca nhẹ nhàng, êm ái vang lên từ góc bên phải của nhà thờ, bởi ca đoàn của Trung Tâm Công Giáo, mở đầu cho buổi lễ hát tiễn đưa bước chân người con Chúa trở về cùng Ngài, cũng như để an ủi và xoa dịu nỗi đau mất Mẹ của những đứa con của Mẹ còn ở lại trần gian.”
Cụ Bà Ana Nguyễn Thị Tịnh
(Photo Credit: Khánh Lan)Lại cũng trong bài tường trình buổi lễ cầu nguyện hôm Thứ Bảy ngày 26, Khánh Lan viết: “Trong bài giảng Cha chủ sự nói: Chúa đã đón Cụ Bà Ana Nguyễn Thị Tịnh trở về Trời và ở bên cạnh Ngài. Cụ bà là một cây tốt mà Chúa đã tạo dựng ra, một cây có giống tốt nên đã cho ra những trái tốt đẹp như là anh Nguyễn Văn Liêm, một người đạo đức, khiêm nhường, một con chiên trung thành và tôn kính Thiên Chúa, một giáo dân đã làm nhiều việc công sức cho xứ đạo…”
Lắng nghe bài giảng của Cha chủ sự trong Thánh Lễ, tôi thầm nghĩ, trong cuộc sống, con người đầu tư vào những hành vi bác ái, hy sinh vì tha nhân, gìn giữ nhân tính đạo đức. Vốn là người công giáo luôn vâng lời Chúa,và với đức tin tôn giáo vững mạnh, đã giúp đứa con chiên của Chúa sẵn sàng phục vụ những công tác tốt lành thánh thiện. Những tấm gương sáng, đức tính tốt ấy khiến người con Thiên Chúa dấn thân phụng sự xã hội và hun đúc tâm hồn, chuẩn bị con em mình thành người hữu ích. Vì thế chúng ta thường nghe câu nói: “Cây tốt sinh trái ngọt“. Cho nên tất cả mọi việc làm thánh thiện đều quy về đời sống gia đình, qui vào đời sống của ông bà, cha mẹ, anh chị em và của mọi người chúng ta trong cuộc sống.
Nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm cám ơn quan khách tham dự Thánh Lễ, ông nói: “19 năm trước, cha tôi đã mất cũng trong khoảng tuổi này, ông đã sống qua ba thế kỷ: Cuối thế kỷ 19, trọn thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 và nay Mẹ tôi ra đi ở tuổi 107, thì tôi còn đòi hỏi gì ở Thiên Chúa nữa. Nhưng có còn gì đau đớn cho bằng khi Mẹ tôi qua đời, mà tôi chẳng được ở gần người, để nghe những lời trăn trối của người lần cuối.” (Dựa theo bài tường trình của Khánh Lan).
Tôi nhớ trong sách kinh có
Bài đọc 1: Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan (Kn 4:7-15) (7) Người công chính dù có chết non, cũng vẫn được an nghỉ. (8) Vì tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi. (9) Ðối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ. (10) Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương.
Và tiếp, Bài đọc 2: Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan (Kn 5:15-16) (15) Người công chính sẽ sống muôn đời. Họ sẽ được Ðức Chúa ân thưởng và được Ðấng Tối Cao hằng quan tâm săn sóc. Tôi cũng nhờ bài thánh ca Mẹ Về Trời, của LM. Phanxicô Nguyễn Sang.
“ĐK: Muôn Thiên Thần cánh trắng, hôm nay đưa Mẹ về trời. Sao sáng ngời trên đầu, Mẹ bay lên, Mẹ bay lên. Áo Mẹ rực rỡ ánh mặt trời sáng tươi.
- Trong ngàn muôn đóa hoa, xinh tươi trong vườn Thiên Cung. Mẹ sáng lấp lánh là nụ hoa Trinh Vương. Ngát hương ngây ngất thiên đường. Mẹ sáng lấp lánh là nụ hoa yêu thương, ngát hương cho người muôn phương.
- Con nhìn theo đám mây,mây đưa Mẹ về Thiên Cung. Lòng muốn chấp cánh cùng Mẹ bay lên cao Ước ao trông thấy Quê Trời. Lòng muốn chấp cánh cùng Mẹ bay lên mây. Sống vui bên Mẹ từ đây.
- Như mặt trời sáng tươi, trên cao trông nhìn muôn nơi. Mẹ hãy chiếu sáng để đời con yên vui. Bước qua gian khó cuộc đời. Mẹ hãy chiếu sáng để lòng con thanh cao, bước lên Thiên Đàng mai sau. Và bài thánh ca khác “Mẹ Là Mùa Xuân, tác giả nhạc sĩ Vũ Đình Ân:
“ĐK. Mẹ là mùa xuân bất tận, Mẹ là mùa xuân yêu kiều. Mẹ là mùa xuân yêu thương, Mẹ là mùa xuân an bình.
- Cúi xin Mẹ cho đoàn con luôn tin yêu. Mẹ là mùa xuân trên toàn thế giới ban đầy hồng ân, cho muôn nơi luôn tin yêu danh Mẹ là mùa xuân.
- Khấn xin Mẹ đưa đoàn con qua cơn mê và dìu đoàn con đi về bên Chúa mang đầy niềm tin, tôn vinh Cha qua muôn nơi ca tụng trọn đời con.”
xXx
Trong đoạn nhớ về người Mẹ khuất bóng, Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm trích câu thơ kể chuyện “Đổi Cả Thiên Thu Lấy Tiếng Mẹ Cười” của thi sĩ Trần Trung Đạo, xin trích đoạn như sau:
“Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.”
Thật vậy, Trần Trung Đạo cho là hình ảnh người mẹ là một kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất. Tình thương của người mẹ bao la như biển Thái Bình và vô biên như không gian vũ trụ dành cho con cái. Ngôn ngữ của mẹ là tiếng nói từ trái tim, yêu thương và dịu dàng dành cho con cái.
Những người bạn khác của Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm và của tôi như hai nhà văn Ngọc Cường và Quyên Di. Trong tác phẩm Ba Chị Em, NV Ngọc Cường mất mẹ khi anh vừa tròn 4 tháng tuổi nên anh đã gởi gấm hình ảnh bao la của người Mẹ qua người chị ruột. Phần Quyên Di, anh đã khóc mẹ qua những vần thơ, ví dụ như trong bài bài “Giỗ Mẹ“.
“Sáu năm trời qua rất chóng
Mẹ đã từ giã thế gian
Tưởng chừng như là giấc mộng
Nghĩ lại còn thấy bàng hoàng.
Nhớ những ngày xưa thơ ấu
Thủ thỉ có mẹ và con
Một thời tuổi xanh yêu dấu…”
“Hai mươi năm trời bên Mẹ
Lại là đứa bé dại khờ
Rồi Mẹ ra đi rất nhẹ
Êm đềm như một vần thơ.
Hôm nay ngồi bên ảnh Mẹ
Rưng rưng khoé mắt rưng rưng
Con vẫn là thằng con bé….”
Quyên Di (2017)
Ngày Vi Khiêm mất mẹ tôi chạnh nhớ ngày mẹ tôi ra đi, Quyên Di đến chia buồn qua những câu thơ (*) sau đây.
“Mẹ đã cưỡi hạc quy tiên, đến nơi xa miên viễn
Như ráng chiều tan nhẹ buổi hoàng hôn
Trời sụp tối mau, ngày sẽ vào đêm
Con thương Mẹ, khóc thầm trong bóng tối”…
(* Ngày thân mẫu Anh Việt Hải Quy Tiên)
(*) Anh Việt Hải,
Tôi vừa viết thay Anh
Những lời Anh muốn thưa cùng Mẹ.
Nhưng vì quá đau lòng, Anh nghẹn ngào không thể
Thốt nên lời khi xúc động dâng trào
Cầu xin Bà, giờ ở chốn rất cao
Phù hộ cho anh “cả một đời làm ích.”
Xin Thành Kính Phân Ưu.
Tôi viết cho Vi Khiêm thay cho những bạn bè: Trần Trung Đạo, Ngọc Cường, Quyên Di, Thuỵ Lan, Khánh Lan, Phạm Hồng Thái, Mộng Thuỷ, Kiều My, Nguyễn Quang… chia sẻ những tâm tình, những tâm tư về mẹ, cảm thông nhau qua những niềm tin tôn giáo.
Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian
(Photo Credit: Khánh Lan)Xin gửi nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm những âm vang tiễn mẹ: “Muôn Thiên Thần cánh trắng, hôm nay đưa Mẹ về trời” ,và “Mẹ là mùa xuân bất tận, Mẹ là mùa xuân yêu kiều. Mẹ là mùa xuân yêu thương, Mẹ là mùa xuân an bình”.
Trần Việt Hải, Los Angeles.
xXx
Phụ đính:
Tôi xin ghi nhận thêm trong buổi lễ, có sự góp mặt của emcee BS. Trần Việt Cường và phu nhân mezzo soprano Quỳnh Hương Đỗ Trần, cùng BS. Nguyễn Trọng Việt (Người xưa gặp lại).
——————————————————————————–
Phần ca tiễn đưa lưu niệm, ca sĩ Quỳnh Hương Đỗ Trần.
Bài ca Ý ngữ: Ave Maria
(Tác giả: Franz Schubert).
Ave Maria
Piena di grazia,
Maria, piena di grazia,
Maria, piena di grazia,
Saluti, saluti
Il Signore è con te
Benedetta sei tu fra le donne
E benedetto
E benedetto è il frutto del tuo seno
Del tuo corpo, Gesù.
Ave Maria
(Ave Maria, Ave Maria, ah – ah)
Adesso e nell’ora della nostra morte
La nostra morte
Ave Maria
(Ah ah ah ah …)
Ghi chú: Tác phẩm “Ave Maria” có tên gốc là “Ellens dritter Gesang” (Ellens Gesang III, D 839, Op 52 no 6, 1825), nghĩa là “Bài Ca Thứ Ba Của Nàng Ellens”, phần lời dựa trên trích đoạn “The Lady of the Lake” của Sir Walter Scott. Tuy có nhiều tranh cãi và hiểu lầm về nguồn gốc của tác phẩm, nhưng thực sự “Ave Maria” là một kiệt tác của tác giả Franz Schubert, và đó là một trong các tác phẩm đã làm cho tên tuổi ông trở thành một trong những nhà soạn nhạc hàng đầu trên thế giới.
Việt Hải
California, March 30, 2022
THƯ CẢM TẠ
Kính thưa quý vị,
Thay mặt cho tang quyến, chúng tôi chân thành cảm tạ quý vị và quý anh chị trong Liên Nhom Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian đã tham dự Thánh Lễ và cầu nguyện cho thân mẫu chúng tôi là cụ bà Anna Nguyễn Thị Tịnh trong cuối tháng vừa qua. Sự hiện diện cùng với lời cầu nguyện của quý vị đã làm cho chúng tôi vơi đi nỗi đau buồn trong biến cố mà thường trong một đời người có một lần phải đón nhận.
Tang quyến đồng cảm tạ.
Thay mặt tang quyến
Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm
-
TÁC PHẨM CỦA KHÁNH LAN: Ngõ Vào Văn Học và Triết Học
Nhà văn Khánh Lan, người thứ 2 từ bên phải, lễ tốt nghiệp Cao học tâm lý xã hội
(socio-psychology), California State University, Fullerton, CA, 2002.Phân tâm học được định nghĩa là một ngành gồm các học thuyết và kỹ thuật trị liệu tâm lý có nguồn gốc từ những công trình nghiên cứu theo học thuyết của Sigmund Freud. Vì vậy Phân tâm học cũng là một học thuyết nghiên cứu về thế giới nội tâm của con người, nhằm tìm ra lời giải thích cho những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan xuyên qua hành vi của con người, trên căn bản đó, ta có thể tìm ra những giải pháp để điều chỉnh những hành vi của con người mà biểu hiện của hành vi đó là những hoạt động gây ảnh hưởng đến những giá trị của hành vi đạo đức trong xã hội. Phân tâm học ra đời từ giai đoạn cuối của thế kỷ XX cho đến nay đã được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho cuộc sống xã hội. Cho nên cần phải tiếp tục nghiên cứu để phát triển học thuyết này để ứng dụng nó trong cuộc sống giúp giải quyết những vấn đề của cuộc sống. Tác phẩm này của ngòi bút Khánh Lan ghi tựa “Phân Tâm học và Đời sống“. Như đã nói học thuyết này nghiên cứu về thế giới nội tâm của con người, cho nên tác giả trình bày những tác động của nó liên đới trong các phạm vi như y hoc, tư pháp, cũng như lãnh vực văn học, nghệ thuật và điện ảnh.
Mô thức phân tích tâm lý của tác giả Khánh Lan rất chuyên môn, tinh tế qua các phạm vi trên đa phần do kiến thức văn hoá và kinh nghiệm nghề nghiệp của tác giả. Vấn đề nêu ra trong tác phẩm ở đây là bối cảnh phân tích trước một sự kiện ví dụ như y học, hoặc văn học hay nghệ thuật, qua bối cảnh phân tích tâm lý bệnh nhân hay tâm lý nhân vật phải chỉnh chu, hợp lý lẽ, ngay cả khi ví dụ hiện tượng dồi dào của văn học nghệ thuật phân tích dành cho nghiên cứu các văn nghệ sĩ đến một lúc nào đó có thể sẽ đem lại sự thay đổi cho kết quả đúng đắn.
Tác giả sáng tác văn phẩm biên khảo giữa hai phạm vi rộng, như tác phẩm của Khánh Lan kể chuyện về Văn học sở thích yêu văn và Triết học sở trường nghề cũ. Câu hỏi được nêu ra là văn học và triết học có liên quan mật thiết hoặc có sự liên hệ hỗ tương? Nếu chúng ta giải thích theo nền tảng văn hóa học thuật thì triết học thường được tách ra khỏi văn học khi ta so sánh. Tôi nghĩ rằng giới triết gia coi văn học như một dạng nghệ thuật văn chương chứ không như chiều sâu lý luận của bên tríết học. Theo tôi, giới văn học và triết học có sự kình chống, kỳ thị nhau, điển hình như trường hợp của Nietzsche, ông luôn luôn bị hoài nghi bởi các triết gia cổ điển, họ cho rằng Nietzsche không phải là một triết gia “hợp thời” hay ngồi “chung chiếu” bởi Nietzsche đã không sử dụng phương pháp lý luận theo khuynh hướng phổ thông truyền thống của triết học. Các triết gia cổ điển phê phán lối hành văn của Nietzsche là hệ phái trọng ngôn ngữ của văn chương, không phải của bên triết học.
Ngược lại, giới văn chương cũng không chấp nhận những tác phẩm của Nietzsche mang giá trị về văn chương bởi ông thiên nặng về lý luận triết lý. Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu văn học càng về sau, văn triết thường hòa hợp nhau, ví dụ như tiểu thuyết Middlemarch của George Eliot, Moby-Dick. của Herman Melville, Death in Venice của Thomas Mann, The Black Prince của Iris Murdoch, Infinite Jest của David Foster Wallace, Les Jeux Sont Faits của Jean-Paul Sartre, Le Deuxième Sexe của Simone de Beauvoir… những văn bản văn học hay tác phẩm văn chương vốn là phương tiện quảng bá quan trọng. Xét văn bản về bối cảnh lịch sử, xã hội, nguồn gốc xuất thân của tác giả, v.v… Văn học cho phép nhiều phương thức diễn đạt độc đáo, những thứ như người kể chuyện thiên vị, ví dụ chẳng hạn như tác phẩm Lolita của văn hào Nga Vladimir Nabokov, người dùng ngòi viết hiện thực. tâm lý học, tức xen lẫn với nét triết tính, tươmg tự như những danh tác của anh em Karamazov, tiểu thuyết nổi danh Anna Karenina, v.v… Sự trưởng thành trong phản ứng với xung đột như trong tác phẩm của Hermann Hesse như Demian thì có người cho đây là sách triết tính, kẻ xếp nó là dạng tiểu thuyết văn học.
Tôi suy nghĩ về người bạn văn này chọn đi giữa 2 lằn đạn như Nietzsche, Khánh Lan viết xong 4 quyển văn học. Nay cô đã hoàn tất tác phẩm thứ 5 là “Phân tâm học và đời sống“. Phạm vi psychoanalysis vốn là một phần trong đề mục bậc cao học bên ngành Socio-Psychology của cô. Khánh Lan cho biết sau khi xong tác phẩm thứ 5 này về champ freudien, Khánh Lan có thể nghiên cứu về những lãnh vực khác như Tam giáo đồng nguyên mà cô rất mong muốn tìm hiểu và học hỏi, hay sẽ hoàn tất sách kế về Siêu hình học và Triết hiện sinh. Đây là những chủ đề triết học rất hay khi thi sĩ Cung Trầm Tưởng khích lệ cô viết, nét tinh hoa giữa hai lãnh vực triết phổ thông liên quan đến tư duy văn học nghệ thuật trong nếp sống xã hội nhân sinh.
Chúc mừng Khánh Lan.
Việt Hải.
California, March 2021 -
Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch: Ứng dụng trong đời sống.
Ba yếu tố trong đời sống tâm linh hay thực tiễn dù ích lợi cho việc kinh doanh thì it nhiều liên quan dến chúng ta. Hãy xét về Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch: Những ứng dụng của mỗi lý thuyết ra sao trong đời sống. Trước hết hãy xét về lý thuyết Phong Thủy.
- Phong Thủy là gì?
Phong Thủy định nghĩa theo cách thức phổ thông là một bộ môn khoa học hay văn hóa thuộc bên Đông phương. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng Phong Thủy bắt nguồn từ người Việt cổ đã tạo ra. Còn người Hoa bảo rằng của họ. Nhưng bài viết này sẽ không lạm bàn về sự chính xác nguồn gốc Phong Thủy xuất phát từ đâu mà có. Sự ứng dụng của Phong Thủy trong đời sống thì thuật ngữ Phong Thủy đã ngày càng phổ biến trong đời sống và Phong Thủy (chữ Hán:風水) là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống họa phúc của con người. Theo đó, Phong có nghĩa là “gió”, là hiện tượng không khí chuyển động và Thủy có nghĩa là “nước”, là dòng nước, tượng trưng cho địa thế.
Do vậy “Phong Thủy” là sự kết hợp của nhiều yếu tố bao gồm vị trí nhà ở, thôn xóm, phường xã, quận huyện, thành phố và quốc gia hoặc mồ mã, hướng gió, dòng nước, hướng nắng (vị trí địa lý), nền văn hóa, địa hình, tư duy cùng với sự phát triển của giao thông, con người và thị hiếu…rất nhiều yếu tố để cấu thành Phong Thủy. Tùy nhu cầu xử dụng mà bạn có thể kết hợp nhiều yếu tố cần thiết để tạo ra địa thế Phong Thủy tốt nhất có thể có được.
Về vai trò của PhongThủy thì nó được xem như là yếu tố đóng vai trò quan trọng tới sự phồn vinh, hưng thịnh, hạnh phúc, tiền tài trong đời sống, mà cả trong chuyện tình cảm và làm ăn thương mại nữa. Thế nên Phong Thủy đóng vai trò quan trọng nhưng nó chỉ có tác dụng hỗ trợ để cải biến chứ không thể nào làm thay đổi hẳn hoàn toàn vận mạng của con người. Nó là một trong những yếu tố quan trọng quyết định mà thôi. Nếu Phong Thủy tốt sẽ giúp chúng ta gia tăng sự thành công và may mắn khi vào vận hạn tốt và giảm thiểu được tai hoạ khi vào vận hạn xấu. Hãy ghi nhận là điều thành công của mỗi người là do sự kết hợp của 3 yếu tố chủ chốt: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Trong đó, bản thân mỗi người có thể thay đổi được do 2 sự kiện là: địa lợi và nhân hòa. Địa lợi chính là căn bản của Phong Thủy và nhân hòa chính là bản thân chúng ta. Như vậy thì sự may mắn tạo ra chung cuộc thành công cho bản thân mà không chỉ là “định mệnh” do trời cao sắp đặt sẵn.
Ứng dụng của Phong Thủy vào đất đai hay nhà đất, ví dụ như Phong Thủy nhà ở được chia thành nhiều phần gồm Phong Thủy phòng ngủ, phong thủy phòng khách, phong thủy phòng thờ, phong thủy phòng bếp, v.v…. Phong Thủy được ứng dụng rất nhiều trong lãnh vực xây cất, nhất là trong việc xây dựng nhà cửa. Việc xem chọn hướng, ngày khởi công, vị trí cửa, vị trí nhà bếp, nhà vệ sinh, số bậc cầu thang… sao cho hợp với vận mạng gia chủ là việc hệ trọng và cần thiết. Một ngôi nhà hợp Phong Thuỷ với tuổi tác sẽ giúp gia chủ và những thành viên trong gia đình được sống hạnh phúc và khỏe mạnh cũng như có nhiều công danh và tài lộc đến với gia chủ.
Phong Thủy sắp xếp nội thất trong nhà, hay Phong Thủy văn phòng cũng quan trọng không kém. Nó cho gia chủ gia đình hay chủ nhân cơ sở thàng công, hưng thịnh, hay hạnh phúc, yên bình.
- Ngũ Hành và Phong Thuỷ
- Ngũ hành là gì?
Là sự vận động không ngừng của thiên nhiên vũ trụ ảnh hưởng con người đến những nhận thức sơ khai trong việc diễn giải quá trình phát sinh của vũ trụ và đã cấu tạo ra lý thuyết âm dương ngũ hành. Dựa theo sự vận hành của vũ trụ thế gian, nguyên lý Ngũ Hành đã đưa ra một giải pháp có hệ thống, mang tính dự báo về cách thức khí vận động thông qua những thay đổi mang tính chu trình của âm và dương. Như Vậy Ngũ Hành được hiểu như sau:
Theo nghĩa đen: “Ngũ Hành” là 5 hành tố gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đây là những nguyên tố chính tồn tại trong vạn vật. Còn xét theo triết học của các sách Trung Hoa cổ đại, ngũ hành là lý thuyết triết vật thể lâu năm của nhân loại, nó đã tồn tại độc lập với ý thức của con người. Vì vậy cho nên lý thuyết Ngũ Hành theo thuyết duy vật cổ đại có 5 vật chất tạo nên thế giới, có sự tương sinh, tương khắc với nhau bao gồm:
Nước (hành Thủy), Đất (hành Thổ), Lửa (hành Hỏa), Cây cối (hành Mộc), Kim loại (hành Kim).
- Âm dương Ngũ Hành Tương sinh và Tương khắc.
Ngũ hành sinh khắc là thuyết Ngũ Hành bao gồm 2 phương diện: hỗ tương nhau là tương sinh và chống lại nhau là tương khắc. Trên căn bản sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hóa, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hóa, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hóa phức tạp của sự vật.
- Ngũ Hành tương sinh như Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ. Luật tuần hoàn tiếp tục tiếp diễn nối tiếp, 5 nhân tố trên luôn thúc đẩy nhau phát triển không ngừng, nên khi xét về tương quan về tương sinh, cái sinh ra nó và cái được sinh ra là mối liên hệ mẫu từ. Ví dụ như kim sinh thủy ắt kim là mẹ của thủy, thủy sinh mộc tức mộc là con của thủy.
- Ngũ Hành tương khắc là mối liên hệ nay chúng lại mang ý nghĩa biểu hiện chống chọi, áp chế nhau. Về luật tương khắc: mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thủy lại khắc hoả, hoả lại khắc kim và kim khắc mộc. Cứ như trên 5 thành tố này lại tiếp diễn áp chế nhau. Theo nhận xét thì tương khắc có vai trò duy trì sự cân bằng những cái gì thái quá cũng không tốt, nếu tương khắc thái quá xung khắc nhau.
Phong Thủy được áp dụng nhằm mang lại sự thuận lợi cho các dòng dưỡng khí. Thế nhưng trong cuộc sống hiện đại bây giờ, ứng dụng của Phong Thủy sẽ khác hơn ngày xưa một chút. Bởi nhà cửa, cảnh quan và kiến trúc đều đã có sẵn, chúng ta chỉ cần cải tạo, thay đổi môi trường sống, cũng như môi trường làm việc mà thôi.
Khi hai nơi quan trọng nhất là nhà ở và nơi làm việc đã được sắp xếp hài hòa thì gia chủ sẽ hạnh phúc, khỏe mạnh, thịnh vượng, thuận lợi hơn. Phong Thủy khắc họa rõ nét điều này thông qua khái niệm khí: Tất cả mọi vật thể xung quanh ta đều có sức ảnh hưởng đến sự luân chuyển và mức độ khí trong không gian. Phong Thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Không phải là yếu tố đơn lẻ mà là tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Cát ắt là Phong Thủy hợp, hung ắt là Phong Thủy không hợp.Thuật Phong Thủy không những giúp cho ta cách bài trí, chọn màu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống.
Tổng quát như trên đây là những chia sẻ về Phong Thủy là gì, cũng như các khái niệm liên quan đến phong thủy và ứng dụng của Phong Thủy trong đời sống. Nên Phong Thủy tốt và cần thiết vì có sự hài hòa âm dương, ngũ hành. Ngoài ra, thuyết âm dương, Ngũ Hành còn được ứng dụng trong Đông y. Đông y quan niệm rằng, khi con người được sự cân bằng âm dương, Ngũ Hành điều hòa sẽ giúp cho sức khỏe dồi dào, tâm sinh lý ổn định. Phong Thủy tương đồng với khoa học hiện đại Tây phương và chúng ta hãy nhìn nhận nó dưới góc độ khoa học. Ví dụ: Trong phạm vi Phong Thủy thường đặt thủy trước công trình (Minh Đường tụ thuỷ) thì với kiến trúc hiện đại việc đặt hồ nước xen lẫn công trình cũng là điều được khuyến khích, bởi ngoài việc tạo điểm nhấn sinh động, giúp tăng không gian, tăng độ bề thế cho công trình nước còn cung cấp thêm các ion âm có lợi cho sức khoẻ, đồng thời những khu vực nào có hồ nước sẽ giúp điều tiết được khí hậu.
Mọi vật trên trái đất đều bắt nguồn khí âm dương ngay cả trong con người và vũ trụ. Và sự tác động đến vũ trụ sẽ ảnh hưởng đến con người. Nên khi nắm rõ được quy luật vận hành, rồi làm các động tác để tác động đến nguồn khí âm dương của vũ trụ kích thích lên con người thì sẽ mang lại những điều cát lợi. Nên ý nghĩa của Phong Thủy trong đời sống rất là đa dạng phong phú. Có thể cải tiến hay phát triển đô thị, xây cất phố xá.
- Phong Thuỷ và Kinh Dịch:
Xét về lý thuyết Kinh Dịch, nguồn gốc của Phong Thủy.
- Kinh Dịch là gì? Cùng sự kiện ứng dụng của Kinh Dịch trong Phong Thủy. Khi nhắc đến Kinh Dịch có rất nhiều định nghĩa, có người bỏ ra cả đời nghiên cứu vẫn chưa xác định khái niệm cụ thể hay ý nghĩa thâm sâu của nó. Nói về nguồn gốc theo truyền thuyết kinh dịch bắt đầu ra đời từ vua Phục Hy (ông là một trong ba Tam Hoàng thời thượng cổ Trung Hoa). Khi xa xưa ấy sông Hoàng Hà có một con long mã hiện hình, trên lưng nó in hình những đám xoáy mây đen trắng và có số lượng từ một đến chín. Quan sát những đám xoáy đó, vua Phục Hy chợt hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ và đem lẽ đó vạch ra thành nét vẻ cho Kinh Dịch.
Ý nghĩa của Kinh Dịch tựa giống như một thuyết giúp diễn giải và khai mở mật mã vũ trụ, liên quan đến Ngũ Hành, Phong Thủy, đến đời sống hạnh phúc và nhân sinh. Bên cạnh đó, ý nghĩa của nó không ngoài các điều chính yếu có tương quan liên hệ sự thể là dù mọi sự vật trên thế giới có phức tạp, huyền bí thế nào đi nữa, một khi trí tuệ nhân loại đạt đến được, thì có thể chuyển đổi chúng thành vấn đề mà mọi người dễ cho lý do giải thích và có thể giải quyết được. Đó là yếu tố Biên dịch trong thuyết Kinh Dịch.
Còn yếu tố Biến dịch là chỉ ra rằng mọi sự vật trên thế giới mỗi phút mỗi giờ đều đang biến hóa, phát triển, không có vật gì là bất biến. Nếu rời xa sự biến hóa này, vũ trụ vạn vật khó mà hình thành được. Và yếu tố Bất dịch là cho thấy rằng dưới tiền đề vạn vật trong vũ trụ đều biến đổi, vẫn còn có thứ duy nhất bất biến tồn tại, mà không thay đổi theo không gian và thời gian. Do đó chính là quy luật. Ngoài ra, mọi người có thể hiểu đơn giản là vì biến dịch cho nên có sự sống; Vì bất dịch cho nên có trật tự cuộc sống; Vì giản dịch cho nên con người có thể quy tụ mọi biến động sai biệt thành quy luật để hình thành tổ chức đời sống xã hội.
Các thành phần chính trong Kinh Dịch gồm Lưỡng Nghi: chính là Âm Dương, đây là khởi nguồn tạo nên Kinh dịch. Trong đó, Dương được tượng trưng bằng vạch một nét liền (tức là vạch lẻ, kí hiệu ‘─’). Âm thì được tượng trưng bằng một nét đứt (tức là vạch chẵn, ký hiệu ‘- -’). Nó còn có Tứ tượng là Tượng là dùng hai Nghi chồng lên nhau và đảo chỗ, vì thế được Tứ Tượng. Tứ tượng bao gồm thái dương, thiếu dương, thái âm và thiếu âm. Và có Bát quái (hay còn gọi là quẻ đơn) là 8 hình thái khác nhau, được hình thành từ việc chồng thêm một vạch lên mỗi Tứ tượng, tạo ra 8 cái ba vạch lần lượt là Càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn. Cùng Quẻ kép (còn gọi là Trùng quái) là đem những quẻ đơn chồng lên nhau, tạo ra 64 hình thái khác nhau, đó là 64 quẻ.
- Vai trò của Kinh Dịch
Giúp luận đoán nhân sinh, Kinh Dịch dựa vào nghiên cứu quy luật giữa thiên địa nhân giúp ta luận đoán hiện tại, dự đoán tương lai con người, đồng thời giúp ta tìm ra phương pháp kết hợp hài hòa giữa con người cùng thiên nhiên. Ngoài ra, với hệ thống tri thức vĩ đại, Kinh Dịch hỗ trợ rất lớn trong việc giải thích các lãnh vực như văn hóa đạo giáo, nho giáo, đông y, văn tự, số thuật, quân sự, triết học…
1. Giúp luận đoán thời vận hung cát, dựa vào quy luật của trời đất, dịch lý và 64 quẻ kép giúp ta dự đoán thời vận hung hay cát, từ đó dựa vào kết quả để hành sự.
2. Giúp cho những ứng dụng của Kinh Dịch trong phong thủy số, bởi vì phong thủy số là những con số được kết hợp với những thuật toán (thần số học, kinh dịch, du niên, ngũ hành, âm dương) sao cho luận lý mạch lạc, logic hẳn nhiên, hài hòa theo quy luật của trời đất , từ đó tạo nên một ý nghĩa hợp lý lẽ.
Vì Kinh Dịch là phạm trù rộng lớn và thông dụng như vậy, nên con người dùng nó dưới các dạng thức hoạt động và sự sống của vũ trụ, thời gian và không gian để nghiên cứu và tính toán sự giãn nở của hệ ngân hà trong vũ tru bao la. Để có thể mô phỏng thì nó phải có lý thuyết tính toán, vì thế trong Kinh Dịch có một phần coi như “toán học”, hay chính xác hơn đó là “toán học vũ trụ” (cosmic mathematics), một phương thức tính toán hoàn hảo có thể tính hết mọi thứ từ quá khứ đến tương lai. Về phương diện nhỏ thì có thể tính được số mệnh một người, lớn thì có thể thấy được vận mệnh của một quốc gia từ vài chục cho đến hàng ngàn năm sau. Biểu hiện đơn giản nhất của nó chỉ có 64 quẻ, nhưng lại bao hàm từ sinh mạng của con người, vạn vật cho đến cả thiên thể vũ trụ. Xét cho cùng Kinh Dịch chính là bộ môn văn hoá nhân văn, và Kinh Dịch là tinh hoa của nhân loại.
Nói chung, những ứng dụng trong đời sống của 3 lý thuyết Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch là những môn học hay những tinh hoa của nhân loại, những khía cạnh dẫn dắt, giúp ích xã hội con người, dù nhân sinh hay dân sinh hầu mở mang đô thị, kiến thiết quốc gia, cho đến nếp sống cá nhân con người như nhà cửa, kinh doanh, tình yêu, và ý muốn riêng tư. Những lý thuyết Phong Thuỷ, Ngũ Hành và Kinh Dịch là những phạm trù văn hóa vốn cần thiết cho cuộc sống con người. Thực vậy.
Việt Hải & Khánh Lan
California, March 2022.